Sunday, February 23, 2025

TUYỂN TẬP SỐ 1 VỀ ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

 

50 NĂM THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973 -2023

chào bạn đọc

27-1-1973 ---27/1/2023 đúng nửa thế kỷ ngày ký kết thỏa ước Ba Lê một thỏa ước về nội dung đã đưa VNCH vào vòng 'tử ảnh' của thua thiệt và bị lũng đoạn từ diện địa cho đến nội tình chính trị. 

Hoa Kỳ đã có bảo đảm an ninh từ miền bắc để rút hết quân đội về nước. Nhưng cái hậu quả cuối cùng rằng người đồng minh nhỏ bé VNCH phải chịu thua thiệt về nhiều mặt và cái giá cuối cùng là sự sụp đổ của Sài Gòn 

Nhân kỷ niệm nửa thế kỷ ngày ký Thỏa ươc Paris người viết muốn trích lại bài viết của cố Đại Tướng Cao Văn Viên cựu TTMT QLVNCH nói về thỏa ước này

ĐHL 

*** 


Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại  trường  Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.

- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque ( Vũng Tàu ) năm 1949

- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH

- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK

- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ



ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN NÓI GÌ VỀ THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973

 

THẤT THẾ CỦA VNCH KHI KÝ THỎA THUẬN BA LÊ 27/1/1973 

 

Kissinger và Lê đức Thọ sau khi ký Thỏa Ước Ba Lê


Henry KISSINGER VÀ LÊ ĐỨC THỌ SAU KHI KÝ HIỆP ĐỊNH 27 THÁNG 1, 1973 TẠI BA LÊ


Với tư cách là Tổng Tham Mưu Trưởng tôi phát biểu ý kiến trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Ý kiến của tôi là rất khó kiểm soát vấn đề ngưng bắn; ngưng bắn tại chỗ kiểu “da beo” có nhiều nguy hiểm.  Lối ngưng bắn này không có nơi tụ quân riêng và không có giới tuyến phân biệt đôi bên. Trong tình trạng này, lực lượng địch được quyền đóng quân nơi họ đang có mặt, nhưng dĩ nhiên cộng sản sẽ không đứng yên một nơi. Với bản tính xâm lăng tự tại đã có từ lâu, họ sẽ phân tán ra từng đơn vị nhỏ, xâm nhập vào làng xã và cứ điểm đồn trú của quân ta, và họ sẽ đánh dấu sự hiện diện của họ bằng cách treo cờ cộng sản. Như vậy, Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế không có ý nghĩa vì chúng ta đã có đủ chứng cớ để thấy đây là một tổ chức nằm dưới  ảnh hưởng của cộng sản từ lâu Trong chiến tranh bất quy ước, sự kiểm soát dân và đất rất khó khăn vì không có ranh giới rõ giữa ta và địch—trường hợp ngưng bắn đang đề nghị lại càng khó khăn hơn gấp bội. Lối ngưng bắn kiểu như vậy được dân miền Nam diễu với nhau qua câu: “Trước đây chúng ta vào rừng săn thú dữ. Bây giờ chúng ta phải đem con thú dữ đó về ở chung nhà.” Đó chỉ là một cách nói đùa, nhưng câu nói cho thấy tâm lý của người dân khi phải đối diện với cộng sản.

VNCH biết chắc chắn cộng sản sẽ không thi hành cuộc ngưng bắn tại chỗ. Kinh nghiệm về hành vi của cộng sản sau năm 1954 cho ta biết rõ cộng sản sẽ làm gì trong lần đình chiến này. Thêm vào đó, tài liệu chúng ta tịch thu được từ một chính ủy tỉnh Quảng Tín vào ngày 10 tháng 10, 1972, cho thấy cán bộ các cấp cộng sản đã được chỉ thị học tập văn kiện hiệp định để chuẩn bị hành động. Tài liệu nói trên được tổng thống Thiệu trao cho Kissinger. Đưa cho Kissinger đọc tài liệu, ý tổng thống Thiệu muốn Kissinger thấy khi VNCH nhận được bản sơ thảo của hiệp định vào ngày 18, thì phía cộng sản đã phân phối tài liệu đó xuống đến tất cả cán bộ các cấp để học tập và chuẩn bị phản ứng. Cùng thời gian đó tin tình báo của chúng ta ở Tây Ninh báo cáo cho thẩm quyền quân sự VNCH và Hoa Kỳ biết cộng sản đã có một khóa học tập đặc biệt về bản sơ thảo hiệp định tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam.

            Một vấn đề quân sự quan trọng nhất là sự hiện diện của quân đội cộng sản ở miền Nam. Cán cân quân sự hai bên ngang nhau vào tháng 9 năm 1972. Nhưng khi tất cả quân đội Hoa Kỳ rút đi rồi, nếu cộng sản  vẫn còn quân ở miền Nam, thì cán cân quân sự chắc chắn sẽ nghiêng về phía địch.

            Về phương diện chính trị, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chú ý đến đề nghị thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Lực lượng chính trị thứ ba này đưa đến nhiều tranh luận và nghi vấn. Nếu Hội Đồng này có thể tổ chức một cuộc bầu cử tương lai, thì nền tảng cuả Hội Đồng đó là gì? Nếu Hội Đồng được thành hình, thì chính quyền đang hiện hữu của VNCH sẽ ra sao, và sẽ hoạt động như thế nào? Đó là những điểm cần phải được giải thích—và bằng tiếng Việt. Trong cuộc họp tiếp theo tổng thống Thiệu hỏi Kissinger về những vấn đề đó. Hai mươi bốn giờ sau, Kissinger trao cho VNCH bản hiệp định soạn thảo bằng tiếng Việt.

            Khi phân tích hiệp định sơ thảo bản tiếng Việt, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia biết ra đây là bản văn do cộng sản Bắc Việt soạn chớ không phải bản dịch ra từ bản văn Anh Ngữ. Văn phong  của bản hiệp định chứa đầy ngôn ngữ cộng sản kiểu Bắc Việt. Bản văn có nhiều từ ngữ đặc thù, với ý nghĩa gây nhiều tranh luận. Thí dụ, danh xưng của quân đội Hoa Kỳ dùng đúng, nhưng trong ý nghĩa miệt thị: Quân Mỹ. Phía VNCH nhắc phái đoàn Hoa Kỳ nên yêu cầu sửa lại Quân Đội Hoa Kỳ cho nghe lịch sự hơn. Mọi người dân có trình độ ở miền Nam đồng ý chữ Quân Mỹ không phải là sai trong ngôn từ, nhưng đó là lối gọi bất lịch sự và miệt thị.

            Một vấn đề quan trọng khác, liên hệ đến ý nghĩa của từ ngữ, khi nói đến cơ cấu Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Định nghĩa cơ cấu này, trong bản tiếng Anh viết là “adiministrative structure.” Khi chuyển sang tiếng Việt từ đó trở thành cơ cấu chính quyền—đây là lối chuyển ngữ đầy ẩn ý và nguy hại về sau. Đối với Bắc Việt, mọi cơ cấu chính quyền như Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải có đầy đủ thẩm quyền như một chính phủ. Và với một tập hợp cảu ba lực lượng chính trị, cớ cấu đó không khác gì hơn một chính phủ liên hiệp. Có phải đây là ý định thật sự của hiệp định không? Bản hiệp định bằng tiếng Việt đồng thời nói đến ba quốc gia Việt Nam: Bắc và Nam Việt Nam là hai quốc gia; quốc gia thứ ba ở đâu? Nếu miền Nam có hai quốc gia vậy thì chủ quyền của VNCH phải chia với một lực lượng khác. Đó là những điểm trở ngại quan trọng trong bản sơ thảo hiệp định.

            Sau khi duyệt xét kỹ càng, chính phủ VNCH đưa ra 26 điểm cần được thay đổi trong bản sơ thảo. Trong khi cuộc hội thảo giữa VNCH và Hoa Kỳ đang diễn ra, tòa đại sứ VNCH ở Hoa Thịnh Đốn báo cáo về Sài Gòn là, trong một cuộc phỏng vấn với báo chí ngoại quốc, thủ tướng Phạm văn Đồng tuyên bố hòa đàm ở Ba Lê đang tiến triển với nhiều kết quả tốt đẹp, và chánh phủ lâm thời trong tương lai sẽ là một chánh phủ liên hiệp của ba thành phần. Báo cáo từ Hoa Thịnh Đốn tăng thêm sự hoài nghi về một sự lừa dối: ai đang lừa ai, và ai bị lừa. Đây là một lý do nữa để tổng thống Thiệu chống lại hiệp định mạnh hơn khi VNCH và Hoa Kỳ thảo luận trở lại vào ngày 22 tháng 10. Đêm đó, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một bức thư, trao qua tay Kissinger Lá thư đề cập đến những khiếm khuyết của bản hiệp định, và lý do tại sao VNCH không thể nào chấp nhận bản hiệp định đó.

            Với những phỏng đoán về sự chấp nhận và ký kết bản sơ thảo hiệp định bợ lỡ dở, Kissinger  đánh điện tín cho Lê Đức Thọ, nói là lịch trình ký kết bản hiệp định quá cấp bách để Hoa Kỳ có thể ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 như đã định. Cùng lúc, Kissinger thông báo cho Bắc Việt biết Hoa Kỳ sẽ ngưng mọi oanh tạc từ vĩ tuyến thứ 20 trở lên vào ngày 25 tháng 10.

            Về phần tổng thống Thiệu, ông lên đài truyền thanh và truyền hình thông báo cho toàn quốc biết VNCH không thể chấp nhận một chính phủ liên hiệp. Cùng lúc, Bắc Việt không đứng yên: họ tung quả bom tuyên truyền. Bắc Việt đưa ra công chúng nội dung cả bản hiệp định sơ thảo, lịch trình ký kết hiệp định, và lên án tổng thống Thiệu là người phá hoại hòa bình. Bắc Việt đòi hỏi Hoa Kỳ ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10, 1972 như đã hứa theo lịch trình. Đối diện với những biến chuyển mới, Kissinger mở cuộc họp báo để giải thích nội dung của bản hiệp định. Kissinger tuyên bố “Hòa ình đang ở trong tầm tay,” và chỉ cần họp với Bắc Việt một lần nữa thì hòa đàm Ba Lê sẽ kết thúc.

            Trong tháng 11, nhiều cuộc trao đổi qua lại giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn, nhưng nội dung của bản hiệp định vẫn không thay đổi. Trong tháng 11, qua chương trình quân viện có tên là ENHANCE PLUS, Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH một số lượng quân cụ, chiến cụ quan trọng. Vận tải cơ C-5 Galaxy và vận tải hạm đem đến Việt Nam chiến đấu cơ A-37, F-5, xe tank M-48, vận tải cơ C-130, trực thăng, và đại pháo 175 ly. Cộng thêm số chiến cụ, Hoa Kỳ chuyển lại cho quân đội VNCH tất cả các căn cứ và đồ trang bị ở các nơi đồn trú. Với số quân viện đó, Bộ Tổng Tham Mưu lập thêm các đơn vị pháo binh nặng, phòng không và thiết giáp. Những phi đoàn không quân C-130A và F-5A cũng được thành lập. Tuy nhien một số chiến cụ chưa dùng ngay được. Đây là số chiến cụ dùng để thay thế chiến cụ cũ hay bị hư trong tương lai theo những qui ước trong hiệp định. Chương trình quân viện qui mô và cấp tốc ENHANCE PLUS này có hai mục đích: về quân sự, chương trình gia tăng khả năng và sức mạnh của quân đội ta; về chính trị, Hoa Kỳ muốn chứng tỏ họ là một đồng minh tin tưởng được, để hy vọng chính phủ VNCH dung hòa hơn trong chuyện chấp nhận bản hiệp định.

            Phải đồng ý tổng thống Nixon đã thật sự quan tâm đến những dị biệt trong bản hiệp định do chúng ta đưa ra. Nixon ra lệnh duyệt xét lại các điểm bất đồng ý kiến. Các điểm cần xét lại gồm có:

            Các điểm quan trọng: (a) Vùng Phi Quân Sự phải được coi như biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam, như Hiệp Định Geneva phân định từ trước. (b) Phải có một cuộc rút quân tượng trưng  từ phía Bắc Việt (có thể 25 ngàn quân), và ngược lại VNCH sẽ giảm một số quân tương đương. (c) Cuộc ngưng bắn phải được áp dụng cho toàn thể Đông Dương. (d) Lực lượng quốc tế kiểm soát đình chiến phải mạnh và sẵn sàng làm việc khi hiệp định có hiệu lực.

            Các điểm không quan trọng: (a) Hai bản Anh và Việt ngữ của hiệp định phải được sửa lại để cùng có ý nghĩa như nhau, để ý nghĩa về cơ cấu của Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải QUốc Gia không bị hiểu lầm. (c) Bản hiệp định phải được bốn bên chánh thức ký nhận.



            Ngày 9 tháng 11, 1972, chuẩn tướng Alexander Haig, Jr. đến Sài Gòn. Haig trao cho tổng thống Thiệu một bức thư của tổng thống Nixon, và nhấn mạnh tính chất quan trọng của chương trình quân viện ENHANCE PLUS. Nhưng khi thấy chính phủ VNCH giữ vững lập trường, không chấp nhận hiệp định, tướng Haig cho biết chính phủ Hoa Kỳ có thể ký hiệp định đó đơn độc với Bắc Việt. Vài ngày trước, ngày 5 tháng 11, các quốc gia Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, Nam Dương và Ba Lan đồng ý trên căn bản là họ sẽ dự phần vào Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế.

            Ngày 20 tháng 11, Lê Đức Thọ và Kissinger họp mặt lại. Lê Đức Thọ xuất hiện trước, tuyên bố với báo chí là Bắc Việt nghi ngờ sự thành thật của Hoa Kỳ. Tuy không nói trắng ra, nhưng Lê Đức Thọ muốn nói đến chương trình viện trợ ENHANCE PLUS, và chuyện Hoa Kỳ đã không ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 theo lịch trình đã định. Khi gặp nhau, Kissinger  đưa ra những đòi hỏi của phía VNCH và Hoa Kỳ. Không khí hai ngày thương lượng đầu tiên cởi mở trong sự trao đổi. Nhưng bất ngờ Lê đức Thọ trở nên cứng rắn với những đề nghị từ ngày 23 tháng 11. Lê Đức Thọ gạt hết tất cả đề nghị của Hoa Kỳ và đòi Hoa Kỳ thay chính phủ VNCH. Có lẽ đây là chỉ thị mới từ Hà Nội. Kissinger rất ngạc nhiên về thái độ trở mặt này của Lê Đức Thọ. Kissinger yêu cầu Lê Đức Thọ cho biết lý do, nhưng sự giải thích từ phía bên kia không làm hài lòng lắm. Kissinger nhấn mạnh đến sự thiện chí trong cuộc hòa đàm Hoa Kỳ ngưng oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở lên; nhưng Lê Đức Thọ trả lời là Hòa Kỳ đã đòi hỏi thêm nhiều điều kiện mới. Bị bế tắc, hai bên ngưng nói chuyện với nhau vào ngày 25 tháng 11, nhưng đồng ý gặp lại vào đầu tháng 12. Ngay trong thời điểm này, đặc sứ VNCH Nguyễn Phú Đức đến Hoa Thịnh Đốn  để trao cho tổng thống Nixon một lá thư từ tổng thống Thiệu. Lá thư giải thích vị trí VNCH đối với hiệp định Ba Lê.

            Ngày 4 tháng 12, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại nhau. Lần này thái độ của Thọ giống như lần họp vừa qua; thái độ cởi mở hơn một chút trong những buổi họp sau, nhưng cuộc nói chuyện không có một tiến triển nào. Hai bên bàn cãi trở lại những vấn đề tưởng đã được giải quyết rồi. Ngày 13 tháng 12, Kissinger rời Ba Lê nhưng các phụ tá của ông ở lại để thương lượng những dị biệt với Bắc Việt. Sự bế tắc lần này thật và có điềm không tốt.




            Sau khi họp và duyệt lại những chi tiết của cuộc hòa đàm với Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn, tổng thống Nixon gởi một điện tín cho Hà Nội, thông báo nếu Bắc Việt không trở lai thương nghị một cách nghiêm chỉnh, Hoa Kỳ sẽ dội bom  trở lại trong vòng 72 tiếng. Khi không thấy Bắc Việt trả lời, Hoa Kỳ dội bom trở lại trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Không chịu nổi cuộc dội bom khủng khiếp—Hoa Kỳ dùng cuộc dội bom như muốn nói ý định quyết liệt của mình trong vấn đề thương lượng—Bắc Việt thương lượng trở lại. Theo ý tôi (Cao văn Viên) Bắc Việt đã bị bắt buộc trở lại bàn hội nghị. Hoa Kỳ ngưng cuộc dội bom khủng khiếp đó vào ngày 30 tháng 12 năm 1972.

            Tám ngày sau, ngày 8 tháng 1 năm 1973, Kissinger gặp Lê Đức Thọ. Lần nói chuyện này khả quan hơn. Hai bên duyệt lại bản sơ thảo của hiệp định từng điểm một. Vào ngày 14 tháng 1, Kissinger báo cáo với tổng thống Nixon  về những tiến triển khả quan của cuộc họp. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ ra lệnh tất cả đơn vị Hoa Kỳ ngưng tấn công Bắc Việt.

QUÂN ĐỘI HOA KỲ RỜI VN TẠI SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT CÓ SỰ GIÁM SÁT 4 BÊN


BUỔI LỄ CUỐN CỜ CUỐI CÙNG CỦA QUẨN ĐỘI MỸ THÁNG 3.1973

            Ngày 16 tháng 1, chuẩn tướng Haig đến Sài Gòn. Chính phủ VNCH vẫn còn đòi hỏi sửa đổi một vài quy tắc trong bản hiệp định. Nhưng vào ngày 19 tháng 1, Hoa Kỳ thông báo chính phủ VNCH bản hiệp định định không còn thay đổi được nữa. Bản hiệp định sẽ được thảo duyệt lần cuối vào ngày 23 tháng 1, và bốn bên sẽ chính thức ký vào ngày 27 tháng 1 tại Ba Lê. Hiệp Định sẽ có hiệu lực vào 8 giờ sáng, ngày 28 tháng 1 năm 1973, giờ Sài Gòn. Được biết thêm vào ngày 21 tháng 1, tổng thống Nixon có gởi cho tổng thống Thiệu một lá thư, hăm dọa VNCH là nếu VNCH từ chối hiệp định, Hoa Kỳ sẽ ký một mình, và khi chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ cắt tất cả ngân khoản viện trợ. Nếu VNCH đồng ý ký bản hiệp định thì (1)tổng thống Hoa Kỳ sẽ hết lòng can thiệp với quốc hội Hoa Kỳ để tiếp tục viện trợ cho VNCH và (2) chính phủ Hoa Kỳ hứa sẽ phản ứng quyết liệt trong trường hợp cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định. Sau nhiều  buổi họp với hội đồng an ninh quốc gia và thảo luận  với nhiều nhân vật có tiếng nói ở quốc hội và các cơ quan hành chánh, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một lá thư đồng chấp nhận hiệp định Paris.Trong thư tổng thống Thiệu đề nghị một cuộc họp mặt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau khi hiệp định Paris được ký kết.


 CAO VĂN VIÊN 

NGUỒN 

SÁCH

Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 40-49.



===================================== 

Saturday, February 22, 2025

KHẢO SÁT CON SỐ NHẬP CƯ LẬU VÀO MỸ

 CON SỐ THỰC TẾ VỀ SỐ DI DÂN BẤT HỢP PHÁP TẠI MỸ


Những điều chúng ta biết được về những người nhập cư bất hợp pháp đang sống tại Hoa Kỳ




Theo ước tính mới của Trung tâm nghiên cứu Pew Research dựa trên Khảo sát cộng đồng Hoa Kỳ vào năm 2022, năm gần đây nhất có sẵn, dân số nhập cư lậu vào nước Mỹ đã tăng lên 11,0 triệu. Sự gia tăng này lên cao từ con số 10,5 triệu năm 2021. Thực ra con số cao nhất là 12,2 triệu vào năm 2007.


                     con số nhập cư lậu vào Hoa Kỳ từ 1990 tới 2022


 Làn sóng vượt biên vào Mỹ từng lên cao điểm trong nhiệm kỳ TT Biden trong năm 2022-23 và số lượng người nộp đơn tăng khoảng 1 triệu vào cuối năm 2023. Tháng 12 năm 2023, khoảng 500.000 người nhập cư mới đã được TT Biden ân xá vào nước này thông qua hai chương trình liên bang – chương trình Cuba, Haiti, Nicaragua và Venezuela (CHNV) và chương trình Đoàn kết vì Ukraine (U4U). Hiện TT Trump đã ký sắc lệnh xóa bỏ các ân xá nói trên 

Mặc dù những người mới trong giai đoạn cao điểm 2022  làm tăng dân số nhập cư trái phép của Hoa Kỳ. Phải nhìn nhận cho đúng con số tổng cộng là bao nhiêu chưa chính xác do đều đặn hàng năm từ thời TT Biden vẫn bị trục xuất chứ không đợi đến lúc TT Trump tái nhiệm mới trục xuất. Ngoài ra chúng ta phải tính số người chết và một số đã vào được tình trạng hợp pháp đối với chính phủ Mỹ.


NHỮNG CON SỐ KHẢO SÁT ĐƯỢC

 

Thật ra số người nhập cư lậu từ Mexico đã giảm xuống vào năm 2022 chỉ còn 4,0 triệu  nếu so với mức cao nhất là 6,9 triệu vào năm 2007 tức là thời của TT George W. Bush. Mexico là quốc gia nhập cư lậu vào Mỹ đông nhất, cũng dễ hiểu do nước này tiếp cận với Hoa Kỳ. Tuy nhiên với thủ thuật tranh cử dùng fake news chiếm lợi thế, Donald Trump cùng trang Social Truth kể cả Twitter (X) đã gióng trống khua chiêng ầm ĩ khiến ai cũng lầm rằng nhập cư lậu dưới thời TT Biden là đông nhất. TT Joe Biden đã bất lực và yếu kém kể cả đảng Dân Chủ không chống cự lại sự tuyên truyền xảo trá trên khiến đây là nguyên nhân to lớn đưa Trump vào lại Bạch Ốc.  

Khi vào được Bạch Ốc lại rồi, thì nay "cờ vào tay ai nấy phất" ai ngây ngô bỏ phiếu cho Trump thì 'ráng mà chịu, ngậm bồ hòn làm ngọt vậy.

Kể cả chuyện vật giá leo thang, và sẽ leo thang chắc chắn đi kèm với lạm phát trong thời gian hôm nay và sắp tới. Và là gì? TT Trump an ủi dân Mỹ rằng "hãy chịu khó" điều này sẽ xảy ra thôi? Dù Trump có thất hứa, nhưng vấn đề là...

DÂN MỸ ĐÃ BỎ PHIẾU CHO TRUMP THẮNG RỐI THÌ ĐÀNH CHỊU VẬY

  


Trở lại khảo sát con số nhập cư lậu vào Mỹ...

Con số nhập cư phi pháp nói đúng ra hầu hết mọi nơi đều hòa vào dòng người đi từ hướng nam mỹ đi lên và gia tăng nếu chúng ta tính từ 2019 cho đến 2022. Đó là vùng Caribe, Nam Mỹ, Châu Á, Châu Âu và Châu Phi cận Sahara đều chứng kiến ​​sự gia tăng đi theo dòng người từ hướng nam tiến lên biên giới Mễ. Dòng người đó nhập lậu đông vào sáu tiểu bang đó là Florida, Maryland, Massachusetts, New Jersey, New York và Texas. Có điều khá lạ do tại con số đi vào California trong thời gian trên lại có sự sụt giảm.

Có tới trên dưới 8,3 triệu lao động tại Hoa Kỳ vào năm 2022 là người nhập cư lậu, so với 2019 chỉ có 7,4 triệu lao động nhập cư trái phép. 

Vào năm 2022, người nhập cư lậu chiếm 3,3% tổng dân số Hoa Kỳ 


Nói cho đúng nhập cư hợp pháp tăng đều đặn trong khoảng thời gian 2 thập kỷ hơn từ 24,1 triệu năm 2000 lên con số 36,9 triệu vào năm 2022. Con số cao như thế chính là nhờ vào sự gia tăng nhanh chóng về số lượng công dân được nhập tịch, từ 10,7 triệu lên 23,4 triệu. Số lượng thường trú nhân hợp pháp giảm nhẹ, từ 11,9 triệu xuống 11,5 triệu. Kết quả khảo cứu chính vào năm 2022, 49% tổng số người nhập cư vào nước này đã nhập tịch vào công dân Hoa Kỳ.


NGƯỜI NHẬP CƯ LẬU SỐNG VỚI AI Ở MỸ 



Người nhập cư LẬU sống chung với  6,3 TRIỆU GIA ĐÌNH (households) tại Mỹ tức 22 triệu người. Con số gia đình này chiếm 4,8% trong số 130 triệu hộ gia đình tại Hoa Kỳ.

 

Có thêm  một số thông tin về những hộ gia đình nói trên (2022)

 

- 86% số hộ gia đình nói trên, chủ hộ hoặc vợ/chồng của họ là người nhập cư lậu.


-Trong số 22 triệu người trong các hộ gia đình có người nhập cư lậu có 11 triệu người là người sinh ra tại Hoa Kỳ hoặc người nhập cư hợp pháp. 

Họ bao gồm: 

-1,3 triệu người lớn sinh tại Hoa Kỳ nhưng họ là con của những người nhập cư lậu. 

-1,4 triệu người lớn sinh ra tại Hoa Kỳ khác và 3,0 triệu người lớn nhập cư hợp pháp.

-Trên dưới 4,4 triệu trẻ con sinh tại Hoa Kỳ dưới 18 tuổi sống với cha mẹ là người nhập cư lậu. Con số trẻ em này chiếm khoảng 84% tổng số trẻ vị thành niên sống với cha mẹ là người nhập cư lậu. Tổng cộng lại có khoảng 850.000 trẻ em dưới 18 tuổi là thành phần nhập cư lậu (2022).

 

NHẬP CƯ LẬU ĐẾN TỪ NƯỚC NÀO

 

1-      Mexico

4,0 triệu người nhập cư trái phép từ Mexico đang sống tại Hoa Kỳ vào năm 2022 là con số thấp nhất so với những năm 1990. Và vào năm 2022, Mexico chiếm 37% số người nhập cư bất hợp pháp của cả nước Mỹ, đây là tỷ lệ nhỏ nhất từng được ghi nhận.


Sự sụt giảm người nhập cư lậu từ Mexico phản ánh do một số nguyên nhân:


- Sự sụt giảm lớn hơn trong việc di cư từ Mexico đến Hoa Kỳ;

 -Một số người nhập cư Mexico trở về Mexico; 

-Cơ Hội nhập cư hợp pháp từ Mexico và các quốc gia khác, đặc biệt là đối với những người lao động nông nghiệp tạm thời gia tăng

 

2-      PHẦN CÒN LẠI LÀ CÁC NƯỚC KHÔNG PHẢI  MEXICO

Tng s người nhp cư lậu vào Hoa K t các quc gia khác gia tăng nhanh chóng trong giai đon t năm 2019 đến năm 2022, t 5,8 triu lên 6,9 triu.


Sau Mexico, các quc gia có dân s nhp cư lậu ln nht ti Hoa K vào năm 2022 là:

 El Salvador (750.000)

n Đ (725.000)

Guatemala (675.000)

Honduras (525.000)


Năm 2022, Venezuela là nước có 270.000 người nhập cư lậu vào Hoa Kỳ. Venezuela có sự tăng trưởng rất nhanh, từ 55.000 người vào năm 2007 lên 130.000 người vào năm 2017. Dân số này sẽ tăng đáng kể trong tương lai vì hiện nay người Venezuela đã có thể nhập cảnh vào Hoa Kỳ bằng các phương pháp mới.

 

 Phải kể đến Brazil, Canada, Colombia, Ecuador, Ấn Độ và các nước thuộc Liên Xô cũ đều có sự gia tăng nhập lậu vào Mỹ từ năm 2019 đến năm 2022.

Có 6  tiểu bang có sự gia tăng con số di dân lậu đáng chú ý:

 

Florida (+400.000)

Texas (+85.000)

New York (+70.000)

New Jersey (+55.000)

Massachusetts (+50.000)

Maryland (+40.000)


Có điều lạ lùng ai cũng tưởng lầm California là "thiên đường" cho di dân lậu nhưng kết quả hiện tại  California bị mất đi 120,000 di dân lậu. California là tiểu bang duy nhất có dân số nhập cư trái phép giảm.


THỨ TỰ CÁC TIỂU BANG CÓ SỐ DI DÂN LẬU LỚN NHẤT

Có 6  tiểu bang có dân số nhập cư trái phép lớn nhất tính vào năm 2022 là:


California (1,8 triệu)

Texas (1,6 triệu)

Florida (1,2 triệu)

New York (650.000)

New Jersey (475.000)

Illinois (400.000)


Số lượng người nhập cư lậu đóng tỷ lệ cao trong lực lượng lao động của Hoa Kỳ. Con số tăng từ 7,4 triệu người vào năm 2019 lên 8,3 triệu người vào năm 2022. (4.8% lực lượng lao động Mỹ)

 

KẾT LUẬN 


DÂN MỸ CÓ NÊN TIN VÀO LỜI TRUMP CHĂNG? DÙ BẤT CỨ LỜI HỨA NÀO?


The Reuters news agency later reported that 37,660 migrants had been deported in Trump's first month, putting the new administration behind Biden's monthly average of 57,000.


Theo Reuters một tháng đầu nhậm chức với lệnh bắt hàng loạt của cơ quan THỰC THI DI TRÚ MỸ ICE nhưng Trump mới trục xuất được 37,660 người con số này THẤP HƠN CON SỐ TRỤC XUẤT HÀNG THÁNG CỦA TT BIDEN LÀ 57,000 người?

Trump NÓI NHƯNG LÀM HAY KHÔNG LÀ CHUYỆN KHÁC thế nhưng vẫn có số MAGA cho rằng 

TRUMP NÓI LÀ LÀM???

Trục xuất cả CHỤC TRIỆU DI DÂN LẬU (14 TRIỆU) là điều BẤT KHẢ THI từ hoàn cảnh thực tế là khả năng số lượng nhân viên thi hành, trại tù, các nước tiếp nhận cho tới ngân sách ...

nhưng Donald Trump vẫn hứa liều cũng như các lời hứa khác. Mục đích là chiếm được đa số phiếu để thắng cử mà thôi.

DẠI VÀ TIN THÌ RÁNG CHỊU

Người dân Mỹ đã thật sự "ngậm bồ hòn làm ngọt"

Mới chính thức chấp chánh một tháng, trong "tuần trăng mật" tân nhiệm thế mà con số tín nhiệm Trump sụt giảm nhanh chóng. Hiện nay chỉ 47% tín nhiệm do giá cả và lạm phát gia tăng.

Theo tin hôm nay, TT Trump xác nhận giá cả sẽ tăng trong giai đoạn tới

Chuyện mới hôm qua, Trump vu khống Ukraine 'xâm lăng' Nga? giờ đây khi thấy Ukraine sắp khuất phục Trump trong mặc cả chiếm hữu tài nguyên đất hiếm giá trị 500 tỷ USD tương nhượng cho Mỹ khi Trump đòi nợ Viện Trợ Vũ Khí trong nhiệm kỳ TT Biden...

Và Trump sau 24 giờ lại thay đổi lời nói cho rằng 'NGA XÂM LƯỢC UKRAIN'?

Nước miếng mới nhổ hôm qua, hôm nay Trump  vội liếm lại ngay???

Bản chất láo lường thay đổi xoành xoạch khó lường tưởng chỉ có Donald Trump là quán quân trên đời...Mới đây ông Trump còn đòi làm thêm một nhiệm kỳ TT thứ 3? 

Liệu người Hoa Kỳ đã thực sự tỉnh ngộ?

Cho đến khi toàn bộ hệ thống công quyền của Hoa Kỳ bị xóa gần hết thế vào đó số lượng trung thành MAGA thì người Mỹ sẽ tỉnh giấc mơ màng mà thôi. 

Người Mỹ mơ màng do tin Trump và Musk đang làm cuộc 'cách mạng" nhưng thời gian sẽ trả lời : cứu cánh sự toa rập Trump - Musk chính là xây dựng Đế Chế Trump trong nay mai khi khống chế được bộ máy hành chính Hoa kỳ và tước quyền được Hiến Pháp...

Thiết tưởng câu chuyện này chỉ thoáng qua do không liên quan đến chủ đề bài viết 

Dù sao Cái kết rất đắng cho toàn dân Hoa Kỳ bắt đầu hé lộ trong thời gian rất gần.

 

ĐHL 22/2/2025


nguồn tham khảo


PEW RESEARCH CENTER

50 NĂM THÁNG TƯ ĐEN- BỎ RƠI VIỆT NAM by Mark Moyar

 

Mark Moyar- CAY ĐẮNG CỦA TÁC GIẢ TỪNG VIẾT RA SỰ THẬT CỦA CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG CUỐN CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN

 



CUỘC CHIẾN VN ĐÚNG RA HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH ĐÃ CHIẾN THẮNG  


TT Lyndon B. Johnson và Ngoại Trưởng Dean Rusk 


NHỮNG KHÁM PHÁ BẤT NGỜ


Từ năm 1990 tôi (Mark Moyar) đã quan tâm khảo sát về cuộc Chiến tranh Việt Nam lúc tôi là sinh viên về Khoa Lịch Sử về Chiến Tranh Thế Giới (xung đột thế giới). Có vấn đề thu hút tôi nghiên cứu về với chủ đề này đến từ tâm lý khinh miệt của các đồng nghiệp, giáo sư và kể cả giới trí thức nói chung không chỉ dành cho chiến tranh mà còn dành cho các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Riêng đối với tôi, tôi cho rằng đó quả là một lỗi lầm sâu sắc khi cho rằng những thanh niên Hoa Kỳ từng ra đi và liều mạng ở chiến trường Đông Nam Á lại bị coi khinh là kém xứng đáng hơn những người đã sống ru rú cùng an vui ở nhà.

Vấn đề thứ hai làm tôi phải đào sâu nghiên cứu do thói thường phần đông người ta cứ cho là Cuộc Chiến VN không bao giờ có thể thắng được. Theo biên khảo của nhiều sách vở lịch sử dòng chính, Hoa Kỳ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến do người Cộng sản Việt Nam luôn cống hiến hi sinh và sự hi sinh đó  được cho là vượt trội hơn nhiều so với các đồng minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Cũng vì lý do đó, nên không thể có chiến lược thay thế hay hơn nào có thể đạt được thành công trong cuộc chiến, và do vậy người Mỹ đã phải từ bỏ VNCH sau khi chịu thương vong và tổn thất quá lâu dài.

    Lên Cao Học, khi tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về cả hai điều trính bày trên. Tôi đào sâu vào những kẽ hở sâu xa của cuộc chiến, từ đó tôi đã thu được vô số thông tin chưa được khai thác về một hướng nghiên cứu khác. (Tôi có được nhiều khám phá phong phú hơn đó là nhờ Merle Pribbenow, một nhà ngôn ngữ học nghỉ hưu, ông đã tìm tòi và dịch rất nhiều tài liệu và lịch sử từ phía miền bắc VN.) Những nguồn tư liệu của miền Bắc  đã làm sáng tỏ thêm những tranh luận bao lâu nay. Các tư liệu mới cho thấy miền bắc thật ra đã lãnh đạo các cuộc “kháng chiến” tại miền Nam Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên dù Hà Nội từng  thuyết phục và tuyên truyền cho phương Tây cả tin rằng kháng chiến đó chỉ là ‘phong trào địa phương’ thuần túy. Họ cũng bác bỏ quan điểm mà ai cũng tin là chính phủ VNCH rõ ràng từng quay cuồng về mặt quân sự sau thời điểm Ngô Đình Diệm bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.

    Có những khám phá khác đó là kết quả nghiên cứu thêm các khía cạnh bị bỏ quên cho đến nay của cuộc chiến đó. Chẳng có nhà sử học nào trước đó đã xem xét chi tiết những gì diễn ra trong ván cờ “domino” lân cận khi Lyndon Johnson đưa ra quyết định định mệnh vào năm 1965 là đưa bộ binh Hoa Kỳ vào miền nam VN. Trên thực tế, ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore, các nhà lãnh đạo chống Cộng đã cảnh báo trước rằng sự sụp đổ của VNCH sẽ khiến tất cả các quân domino Đông Nam Á sụp đổ theo. Họ đã đề nghị đưa quân vào cuộc chiến với mục đích chống lại chủ nghĩa CS. Đột nhiên, lý thuyết domino đó xem ra có vẻ hợp lý hơn nhiều.


CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN


Khi tầm rộng của lãnh thổ  trở nên rõ ràng, tôi đã dự kiến và hoàn thành BA TẬP về Chiến Tranh VN. Tập thứ Nhất- kể từ năm 1954 đến năm 1965, tôi đã mất bảy năm để hoàn thành. Tập thứ NHẤT này có tiêu đề “ CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN Triumph Forsaken”, nó nhanh chóng  bị xem là ‘CHỦ NGHĨA XÉT LẠI’. Lý do,  ý nghĩa của tập này căn bản nó thách thức tính chính thống đang ngự trị nước Mỹ. Phải kể ra đây, nó đi cùng với một số ít sách khác trong danh mục đại loại như  “A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H. R. McMaster.

Cuốn Triumph Forsaken cho chúng ta hay rằng Hồ Chí Minh là một người Cộng sản có học thuyết Cộng Sản. Giống như các đồng minh Liên Xô và Trung Cộng,  ông ta là biết tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin  rằng những người Cộng sản nên hợp tác trong việc truyền bá cách mạng thế giới. Vào thời điểm TT Lyndon B. Johnson quyết định đưa bộ binh tham chiến  tại miền nam Việt Nam, Hồ chí Minh và đồng minh CS đã gần đạt được mục tiêu là biến toàn bộ Đông Nam Á thành Cộng sản, và rất có thể họ đã thành công nếu Hoa Kỳ không ra tay kịp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo ra khả năng làm tiên đề cho một cuộc đảo chính chống Cộng sản ở Indonesia và sự tự tàn phá của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, đồng thời giúp các quân cờ domino châu Á khác tăng cường khả năng phòng thủ.


Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge và TT Ngô Đình Diệm tháng 8 năm 1963

SAI LẦM TỪ MỘT TỔNG THỐNG CHO ĐẾN ÔNG ĐẠI SỨ

 Tôi (Mark) cho rằng chiến tranh không chỉ cần thiết mà còn có thể chiến thắng bằng các quyết định chiến lược tốt hơn thế. Sai lầm nghiêm trọng nhất là quyết định của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đó là ông Henry Cabot Lodge người đã xúi giục đảo chính lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm, làm sụp đổ bộ máy an ninh VNCH và  gián tiếp giúp Bắc Việt bắt đầu  tiến hành cuộc xâm lăng to lớn vào miền Nam. Có thêm một sai lầm khác, quyết định của TT Johnson không đưa lực lượng bộ binh Mỹ vào Lào để chặn Đường mòn Hồ Chí Minh, một động thái quá thiếu thông minh do điều đó có thể làm thay đổi cục diện cuộc chiến và giảm nhu cầu về lực lượng Mỹ tại miền nam.

Cuốn sách Triumph Forsaken đã tạo ra nhiều cuộc bàn tán, thảo luận đáng kể trong giới học giả, bao gồm một lượng lớn phản hồi, “ Chiến Thắng Đã Thấy”. Có một số thảo luận mang tính xây dựng, nhưng phần lớn trong số đó tẩy chay, nhỏ nhặt, thậm chí là nói xấu với người khác. Có điều đặc biệt khi chuyện này đến tai các cựu chiến binh thuộc phong trào phản chiến cùng những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít giáo sư hoan nghênh, có không ít thách thức chứng minh rõ ràng đối với tầng lớp hiểu biết nông cạn, thì cuốn sách đó chỉ nhận lại sự thù địch tập thể của số đông và kết quả gây thất bại cho tôi nộp đơn xin vào làm một vị trí giảng viên hàn lâm viện đều bị chống phá gay gắt.

Tôi nói ra sự thật này không phải để được CHO NHẬN  vào tầng lớp nạn nhân ngày càng nhiều của Hoa Kỳ - những bất hạnh của tôi với giới học giả lại dẫn đến may mắn bất ngờ là được vào dạy những sinh viên xuất sắc tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ để tiến hành nghiên cứu về các chủ đề quân sự cần thiết và cấp bách nhất. Thay vào đó, nó chỉ ra những mối nguy hiểm đối với xã hội của một học viện bị chính trị hóa. Khi một nghề chứng minh rằng biết phát triển dựa trên những ý tưởng mới và tranh luận thay vì tẩy chay những người đưa ra những quan điểm chính thống nhất định, thì nó không bao giờ tước đi cơ hội tiếp cận của sinh viên với những suy nghĩ nghiêm túc và sẽ không khuyến khích phần còn lại của xã hội phớt lờ nó. Cách duy nhất để có kết quả tốt đẹp trong nghiên cứu quân sự là chứng tỏ rằng nó cởi mở với những thách thức và  sẽ xem xét nghiêm túc những ý tưởng mới.

Thách thức trong các quan điểm chính thống xung quanh Cuộc Chiến Việt Nam ngày nay cũng có vai trò cần thiết hơn bao giờ hết. Khi tôi làm cố vấn nghiên cứu quân sự tại  Afghanistan, Iraq và các vùng xung đột khác, tôi đã thấy các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và nhà khoa học chính trị tìm cách áp dụng các bài học của Cuộc Chiến Việt Nam. Càng khảo sát, tôi càng tin rằng họ hiểu biết khá hời hợt về lịch sử chiến tranh đó. Thêm vào đó, họ tỏ ra phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết học thuật cũ từng  mang lại cho họ những kinh nghiệm tệ hại sai lầm -  những kinh nghiệm chiến tranh sai lạc càng mang tới nhiều cái chết cho đàn ông và đàn bà, thậm chí có thể thua cuộc trong cuộc chiến tranh mới.

Thực tế trong nghiên cứu gần đây, tôi tập trung vào các sự kiện lịch sử của năm 1967, trong chiến tranh VN và tôi đã đưa ra ánh sáng những điều mới mẻ, quan trọng trong các cuộc hội luận tại Hoa Kỳ các tác động quyết định do chiến tranh mang lại. Trong số những sự kiện lý thú và hấp dẫn nhất của năm 1967 là sự hối tiếc của chính quyền Johnson  khi Johnson quyết định không tạo ra sự tìm cách thảo luận công khai trong nước để tạo ra làn sóng hay phong trào ủng hộ cho cuộc chiến do sự cần thiết của cuộc chiến đáng cần phải có. Các quan chức Hoa kỳ giờ đây mới nhận thức rằng sự thiếu nhiệt tình của công chúng đối với cuộc chiến càng khuyến khích đối phương tin rằng Hoa Kỳ cuối cùng sẽ từ bỏ đồng minh, và do đó Bắc Việt Nam không có lý do gì để bỏ cuộc.


MỘT CUỘC CHIẾN KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG NẾU NGƯỜI DÂN HOA KỲ KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ ĐANG CÓ CHIẾN TRANH


Cố ngoại Trưởng Dean Rusk nhận xét vào tháng 10 năm 1967 rằng, “Chính phủ đã đưa ra một quyết định có chủ ý là không tạo ra tâm lý chiến tranh ở Hoa Kỳ…” bởi vì nó “quá nguy hiểm cho đất nước Hoa Kỳ ” Johnson, Dean Rusk và các quan chức khác đã lo sợ rằng cơn sốt chiến tranh sẽ làm suy yếu các chương trình nội địa như Chương Trình Great Society và làm gia tăng căng thẳng với Liên Xô. Nhưng rồi, Ông Rusk thừa nhận, “có thể đây là một sai lầm; có lẽ sẽ tốt hơn nếu thực hiện các bước để xây dựng ý thức về một quốc gia đang có chiến tranh.”

    Suốt năm 1967, các cố vấn tại Bạch Ốc và các nhà lãnh đạo nước ngoài đã nhiều lần thúc giục TT Johnson thay đổi hướng đi, nói với công chúng Mỹ lý do tại sao Hoa Kỳ có mặt tại miền nam Việt Nam và những gì họ đang cố gắng đạt cho được. Nhưng TT Johnson không thể tự mình làm điều đó, ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những hậu quả tai hại của sự im lặng của ông. “Nếu lịch sử buộc tội chúng ta vì sự kiện Việt Nam,” TT Johnson thừa nhận vào mùa thu 1967, “thì do tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng yêu nước.”

Trong trường hợp thiếu sự cổ vũ khởi xướng của tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa kỳ đối với chiến tranh VN đã giảm sút trong suốt năm 1967. Như các quan chức chính quyền từng lo sợ, sự suy yếu quyết tâm của Mỹ lại củng cố quyết tâm kiên trì của Bắc Việt. Hà Nội rõ ràng đã từ chối mọi lời đề nghị đàm phán hòa bình của Mỹ, CS Hà Nội dự đoán rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn lại của ý chí người dân Hoa Kỳ.

Nói cách khác, việc công chúng quay lưng lại với chiến tranh VN là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích và thuyết phục người dân Mỹ ủng hộ nó.

Nửa thế kỷ sau, hôm nay với việc đất nước Hoa Kỳ đang vướng vào hai cuộc chiến tranh khác biệt, kéo dài và khả năng những cuộc xung đột khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, Chiến Tranh VN  là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của chúng ta nên ghi nhớ.

Mark Moyar

ĐHL Dịch thuật và tựa đề 

Mark Moyar, giám đốc Trung tâm Lịch sử Quân sự và Ngoại giao, là tác giả của cuốn sách “Oppose Any Foe: The Rise of America’s Special Operations Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965.”

 Nguồn

Opinion | Was Vietnam Winnable? - The New York Times (nytimes.com)

MARK MOYAR- BỎ RƠI VIỆT NAM



 Abandoning Vietnam


Moyar sinh năm 1971,  tốt nghiệp cử nhân tối ưu (summa cum laude) về sử học tại Đại Học Harvard và tiến sĩ sử học tại Đại Học Cambridge. Ông thuờng viết cho các tờ báo lớn tại Mỹ như New York Times, The Wall Street Journal và Washington Post

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam 1954-1965.
(Triumph Forsaken: the Vietnam War 1954-1965 Mark Moyar)

======= 

George J. Veith là cựu đại úy trong quân lực Hoa kỳ, tác giả cuốn Code Name Bright Light: the Untold Story of U.S POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998) … the Black April The Fall of South Vietnam

---------------------
..trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính sự viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế giới chuyện đau lòng, cái giá của biết bao sinh mạng khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây...

Dr. Mark Moyar

***


   Từ giây phút chuyến trực thăng cuối cùng bay khỏi tòa đại sứ Mỹ Sài gòn vào tháng Tư 1975, đó là thời sụp đổ của Miền Nam VN cũng là thời điểm đáng nhớ nhất về sự chấm dứt của một cuộc chién mà người Mỹ can dự.

Cánh bồ câu (Democrats/Dân Chủ) thì mãi đổ tội bằng những luận điệu vô lý lên sự thất bại của một đồng minh nước Mỹ. Họ cho rằng bởi đồng minh này quá yếu kém và không đáng giá để hỗ trợ?
 Cánh diều hâu ( Republicans/ Cọng Hòa) thì đổ tội cho quyết định ngu ngốc từ các chính trị gia Mỹ về việc cắt giảm viện trợ đã làm non 60 ngàn sinh mạng thanh niên Mỹ hi sinh oan uổng.

Thế mà khác với các kịch bản trước đây trong cuộc chiến Việt Nam, sự hạ màn đau khổ này chỉ nhận được vài sự an ủi qua loa từ các sử gia. Các tác giả có những bài viết tạm coi là hoàn hảo cũng chỉ lướt nhanh qua giai đoạn từ 1973-1975 thôi - Một giai đoạn không còn sự hiện diện của lực lượng chiến đấu nào của Mỹ cùng sự quan tâm ít ỏi từ giới báo chỉ Hoa kỳ hay ngay cả các giới chức dân sự. Một giai đoạn mà các giới chuyên khảo thiếu nhiều tài liệu Anh ngữ để nghiên cứu.

========

TS George J. Veith là tác giả 4 cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam, trong có các cuốn liên quan đến Chiến Tranh VN như:

-Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998),

-Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 (2012),

Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (2021)

Ông viết nhiều về Chiến tranh Việt Nam, diễn thuyết tại nhiều hội nghị cũng như điều trần về vấn đề POW/MIA trước Quốc hội Hoa Kỳ. Cuốn sách thứ tư của ông là một lịch sử chính trị, xã hội và kinh tế về sự trỗi dậy và sụp đổ của miền Nam Việt Nam.

Ông tốt nghiệp PhD tại Đại Học Monash tại Melbourgh, Victoria  Úc Đại Lợi









George J. Veith

====== 
chiếc trực thăng liều lĩnh đậu cheo leo trên một building để bốc người tại SG những giờ phút cuối cùng


George J. Veith trong cuốn Tháng Tư Đen và sự Sụp Đổ của Miền Nam (2012) đã có công xóa đi khoảng trống lịch sử nói trên. Trong một nhận xét đặc biệt, ông đã khai thác đúng đắn các sự kiện bị lãng tránh. Tác giả từng phỏng vấn các sử gia miền bắc cũng như một số cấp chỉ huy quân sự của miền nam. Bằng nhiều chi tiết cặn kẽ, ông đã trình bày 'từng núi' chi tiết giúp giải tỏa được các câu hỏi chính yếu lịch sử.

Dẫu rằng các lãnh đạo miền nam từng phạm nhiều lỗi lầm quan trọng trong cuộc chiến 1975 chống trả sự tấn công của miền Bắc, nhưng ông Veith cho rằng sự thất bại kia không đến từ sự một chính quyền thiếu khả năng và từ một sự chiến đấu kém cỏi!  Cuộc chiến 1972 và những trận đụng độ của Mùa Hè Đỏ Lửa hay những trận đụng độ lớn trong thời gian 1973-74 nhưng ít ai biết, các cấp chỉ huy quân sự miền nam từng chứng tỏ các khả năng bất ngờ. Trong trận tấn công cuối cùng của Bắc quân, các cấp chỉ huy và các đơn vị miền nam đã chiến đấu dũng mãnh quá bất ngờ. Nếu người Mỹ nhớ lại thì rõ ràng trong chiến thắng Trận Xuân Lộc, một sư đoàn miền nam chống lại được ba sư đoàn Bắc việt. Nhưng ông Veith cũng ghi lại thêm những trận đụng độ khác vào tháng Ba và tháng Tư 1975 bao gồm những cuộc chiến đấu mạnh mẽ của miền nam từ Mõ Tàu đến Núi Bông phía bắc, từ Bến Cầu đến Chơn Thành chặng giữa, cùng tại Cần Thơ và Long An ở miền nam.

Với minh chứng đầy thuyết phục, ông Veith cho rằng chính sự cắt giảm 'ác liệt' quân viện cho miền Nam xuống chỉ còn một nửa do Quốc Hội Mỹ đã dẫn đến sự thất bại cho họ (VNCH) vào đầu tháng Ba, khi miền Bắc bắt đầu mở màn cuộc tấn công quy mô nhất thì không quân miền nam thiếu nhiên liệu cùng phụ tùng thay thế cho các phi tuần chiến đấu làm sự phòng ngự yếu đi đến 900 dặm về mạn tây. Thế là Bắc quân có cơ hội tấn công cùng chiếm lĩnh một số thị trấn và thành phố quan trọng.

Thiếu hụt không vận, quân đội miền Nam thuờng xuyên dựa vào xe hay chủ yếu phải di chuyển bằng chân. Đồng bào của họ lại chạy theo với lính do lo sợ bị Cộng Sản thảm sát do bao ấn tượng thảm sát tại Huế 1968 hay Đại Lộ Kinh Hoàng 1972.  Phụ nữ, trẻ em cùng bao xe dân sự tha hồ tắc nghẽn các tuyến đường và cầu chính làm cuộc rút lui càng chậm chạp thêm... 

Đó là cơ hội cho Bắc quân xé nát đơn vị Nam quân.

Thời gian lực lượng phía Nam tháo lui nhằm xây dựng tuyến phòng ngự cho thành phố cạnh biển là Đà nẵng, có hơn một triệu dân cuống cuồng dồn đến một thành phố có hơn nửa triệu dân đang ở càng làm tăng thêm tình trạng hỗn loạn. Những con đường kẹt cứng xe dân sự, theo ông Veith, càng làm các xe quân sự khó lòng di chuyển nhằm phối trí lực lượng. Một số binh sĩ bận lo cho bà con hay gia đình vượt thoát. Một ví tướng sáng giá vào lúc đó là tướng Ngô quang Trưởng, phải đi đến quyết định di tản bằng đường biển vì không thể nào phối trí lực lượng được nữa. Một số vượt được bằng tàu, nhưng hàng ngàn binh sĩ miền Nam đã bị các đơn vị Bắc quân tràn vào bắt sống.
Mũi tên màu đỏ hướng tiến của bắc quân 

    Trong cuốn Tháng Tư Đen, tác giả cũng cho độc giả thấy rằng sự cắt giảm viện trợ to lớn của Hoa kỳ đồng nghĩa với sự bất lực của miền Nam không thể nào dội bom các lực lượng diện địa của Bắc Quân đang hiện diện rõ ràng. Không quân Miền Nam cũng bất lực không đủ các phi tuần cần thiết cho đến lúc quân CS tràn ngập các sân bay.

 Vào tháng Giêng 1973, chúng ta nhớ TT Nixon có hứa rằng không lực Hoa kỳ sẽ giáng trả đích đáng nếu Bắc Việt vi phạm Thỏa Uóc Hòa Bình ký tại Ba lê. Nhưng sự kiện Watergate xảy đến, cùng lúc Quốc Hội dùng Luật Quyền Giới Hạn Chiến Tranh của Tổng Thống ký vào năm 1973 đã ngăn chận người kế vị là TT Gerald Ford không còn giữ được chữ TÍN cho VNCH.

    Dẫu rằng quân số miền nam có tới 763,000 vào năm 1975, nhưng khả năng cơ động của họ cũng chỉ còn 110,000 vào thời gian cuối cùng. Trong thời gian này, Bắc quân đã dồn được con số 350,000 quân cũng nhờ vào sự tái kiến trúc của Đường Mòn Hồ Chí Minh như một xa lộ thênh thang cùng các ống dẫn dầu chạy song song theo nó. 

Theo TS George Veith, trong tình trạng tuyệt vọng có các đơn vị nam quân đã kháng cự mãnh liệt chống lại sự tấn công ào ạt của bắc quân. Theo ước tính từ Hà Nội , phía Bắc đã mất tới 6000 sinh mạng trong những ngày cuối cuộc chiến. Quân miền Nam đã chiến đấu với một hi vọng mơ hồ có được một ranh giới ngưng bắn khác với quân xâm lăng cho tới giờ phút Sài gòn tuyên bố đầu hàng.

Có hơn 100,000 binh sĩ miền nam đồng minh của Hoa kỳ đã hi sinh trong những trận đánh cuối cùng, bao gồm bị xử tử tại chỗ hay bỏ mình do bị hành hạ trong các trại "cải tạo'.  Hơn nửa triệu người dân miền Nam đã bỏ mình khi cố gắng trốn chạy CS bằng thuyền .

Trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế nhân chuyện đau lòng- cái giá của biết bao sinh mạng - khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây./.

MARK MOYAR

dịch và edit LỜI BẠT by ĐHL  

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam , 1954-1965

SOURCE

RA ĐI by John E. Steinbeck

  Chào bạn đọc Năm nay 2025 đánh dấu 50 năm tha hương viễn xứ hay mất VNCH của người Việt Nam sau cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt Đã nửa thế k...