Saturday, February 22, 2025

50 NĂM THÁNG TƯ ĐEN- BỎ RƠI VIỆT NAM by Mark Moyar

 

Mark Moyar- CAY ĐẮNG CỦA TÁC GIẢ TỪNG VIẾT RA SỰ THẬT CỦA CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG CUỐN CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN

 



CUỘC CHIẾN VN ĐÚNG RA HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH ĐÃ CHIẾN THẮNG  


TT Lyndon B. Johnson và Ngoại Trưởng Dean Rusk 


NHỮNG KHÁM PHÁ BẤT NGỜ


Từ năm 1990 tôi (Mark Moyar) đã quan tâm khảo sát về cuộc Chiến tranh Việt Nam lúc tôi là sinh viên về Khoa Lịch Sử về Chiến Tranh Thế Giới (xung đột thế giới). Có vấn đề thu hút tôi nghiên cứu về với chủ đề này đến từ tâm lý khinh miệt của các đồng nghiệp, giáo sư và kể cả giới trí thức nói chung không chỉ dành cho chiến tranh mà còn dành cho các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Riêng đối với tôi, tôi cho rằng đó quả là một lỗi lầm sâu sắc khi cho rằng những thanh niên Hoa Kỳ từng ra đi và liều mạng ở chiến trường Đông Nam Á lại bị coi khinh là kém xứng đáng hơn những người đã sống ru rú cùng an vui ở nhà.

Vấn đề thứ hai làm tôi phải đào sâu nghiên cứu do thói thường phần đông người ta cứ cho là Cuộc Chiến VN không bao giờ có thể thắng được. Theo biên khảo của nhiều sách vở lịch sử dòng chính, Hoa Kỳ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến do người Cộng sản Việt Nam luôn cống hiến hi sinh và sự hi sinh đó  được cho là vượt trội hơn nhiều so với các đồng minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Cũng vì lý do đó, nên không thể có chiến lược thay thế hay hơn nào có thể đạt được thành công trong cuộc chiến, và do vậy người Mỹ đã phải từ bỏ VNCH sau khi chịu thương vong và tổn thất quá lâu dài.

    Lên Cao Học, khi tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về cả hai điều trính bày trên. Tôi đào sâu vào những kẽ hở sâu xa của cuộc chiến, từ đó tôi đã thu được vô số thông tin chưa được khai thác về một hướng nghiên cứu khác. (Tôi có được nhiều khám phá phong phú hơn đó là nhờ Merle Pribbenow, một nhà ngôn ngữ học nghỉ hưu, ông đã tìm tòi và dịch rất nhiều tài liệu và lịch sử từ phía miền bắc VN.) Những nguồn tư liệu của miền Bắc  đã làm sáng tỏ thêm những tranh luận bao lâu nay. Các tư liệu mới cho thấy miền bắc thật ra đã lãnh đạo các cuộc “kháng chiến” tại miền Nam Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên dù Hà Nội từng  thuyết phục và tuyên truyền cho phương Tây cả tin rằng kháng chiến đó chỉ là ‘phong trào địa phương’ thuần túy. Họ cũng bác bỏ quan điểm mà ai cũng tin là chính phủ VNCH rõ ràng từng quay cuồng về mặt quân sự sau thời điểm Ngô Đình Diệm bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.

    Có những khám phá khác đó là kết quả nghiên cứu thêm các khía cạnh bị bỏ quên cho đến nay của cuộc chiến đó. Chẳng có nhà sử học nào trước đó đã xem xét chi tiết những gì diễn ra trong ván cờ “domino” lân cận khi Lyndon Johnson đưa ra quyết định định mệnh vào năm 1965 là đưa bộ binh Hoa Kỳ vào miền nam VN. Trên thực tế, ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore, các nhà lãnh đạo chống Cộng đã cảnh báo trước rằng sự sụp đổ của VNCH sẽ khiến tất cả các quân domino Đông Nam Á sụp đổ theo. Họ đã đề nghị đưa quân vào cuộc chiến với mục đích chống lại chủ nghĩa CS. Đột nhiên, lý thuyết domino đó xem ra có vẻ hợp lý hơn nhiều.


CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN


Khi tầm rộng của lãnh thổ  trở nên rõ ràng, tôi đã dự kiến và hoàn thành BA TẬP về Chiến Tranh VN. Tập thứ Nhất- kể từ năm 1954 đến năm 1965, tôi đã mất bảy năm để hoàn thành. Tập thứ NHẤT này có tiêu đề “ CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN Triumph Forsaken”, nó nhanh chóng  bị xem là ‘CHỦ NGHĨA XÉT LẠI’. Lý do,  ý nghĩa của tập này căn bản nó thách thức tính chính thống đang ngự trị nước Mỹ. Phải kể ra đây, nó đi cùng với một số ít sách khác trong danh mục đại loại như  “A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H. R. McMaster.

Cuốn Triumph Forsaken cho chúng ta hay rằng Hồ Chí Minh là một người Cộng sản có học thuyết Cộng Sản. Giống như các đồng minh Liên Xô và Trung Cộng,  ông ta là biết tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin  rằng những người Cộng sản nên hợp tác trong việc truyền bá cách mạng thế giới. Vào thời điểm TT Lyndon B. Johnson quyết định đưa bộ binh tham chiến  tại miền nam Việt Nam, Hồ chí Minh và đồng minh CS đã gần đạt được mục tiêu là biến toàn bộ Đông Nam Á thành Cộng sản, và rất có thể họ đã thành công nếu Hoa Kỳ không ra tay kịp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo ra khả năng làm tiên đề cho một cuộc đảo chính chống Cộng sản ở Indonesia và sự tự tàn phá của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, đồng thời giúp các quân cờ domino châu Á khác tăng cường khả năng phòng thủ.


Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge và TT Ngô Đình Diệm tháng 8 năm 1963

SAI LẦM TỪ MỘT TỔNG THỐNG CHO ĐẾN ÔNG ĐẠI SỨ

 Tôi (Mark) cho rằng chiến tranh không chỉ cần thiết mà còn có thể chiến thắng bằng các quyết định chiến lược tốt hơn thế. Sai lầm nghiêm trọng nhất là quyết định của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đó là ông Henry Cabot Lodge người đã xúi giục đảo chính lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm, làm sụp đổ bộ máy an ninh VNCH và  gián tiếp giúp Bắc Việt bắt đầu  tiến hành cuộc xâm lăng to lớn vào miền Nam. Có thêm một sai lầm khác, quyết định của TT Johnson không đưa lực lượng bộ binh Mỹ vào Lào để chặn Đường mòn Hồ Chí Minh, một động thái quá thiếu thông minh do điều đó có thể làm thay đổi cục diện cuộc chiến và giảm nhu cầu về lực lượng Mỹ tại miền nam.

Cuốn sách Triumph Forsaken đã tạo ra nhiều cuộc bàn tán, thảo luận đáng kể trong giới học giả, bao gồm một lượng lớn phản hồi, “ Chiến Thắng Đã Thấy”. Có một số thảo luận mang tính xây dựng, nhưng phần lớn trong số đó tẩy chay, nhỏ nhặt, thậm chí là nói xấu với người khác. Có điều đặc biệt khi chuyện này đến tai các cựu chiến binh thuộc phong trào phản chiến cùng những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít giáo sư hoan nghênh, có không ít thách thức chứng minh rõ ràng đối với tầng lớp hiểu biết nông cạn, thì cuốn sách đó chỉ nhận lại sự thù địch tập thể của số đông và kết quả gây thất bại cho tôi nộp đơn xin vào làm một vị trí giảng viên hàn lâm viện đều bị chống phá gay gắt.

Tôi nói ra sự thật này không phải để được CHO NHẬN  vào tầng lớp nạn nhân ngày càng nhiều của Hoa Kỳ - những bất hạnh của tôi với giới học giả lại dẫn đến may mắn bất ngờ là được vào dạy những sinh viên xuất sắc tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ để tiến hành nghiên cứu về các chủ đề quân sự cần thiết và cấp bách nhất. Thay vào đó, nó chỉ ra những mối nguy hiểm đối với xã hội của một học viện bị chính trị hóa. Khi một nghề chứng minh rằng biết phát triển dựa trên những ý tưởng mới và tranh luận thay vì tẩy chay những người đưa ra những quan điểm chính thống nhất định, thì nó không bao giờ tước đi cơ hội tiếp cận của sinh viên với những suy nghĩ nghiêm túc và sẽ không khuyến khích phần còn lại của xã hội phớt lờ nó. Cách duy nhất để có kết quả tốt đẹp trong nghiên cứu quân sự là chứng tỏ rằng nó cởi mở với những thách thức và  sẽ xem xét nghiêm túc những ý tưởng mới.

Thách thức trong các quan điểm chính thống xung quanh Cuộc Chiến Việt Nam ngày nay cũng có vai trò cần thiết hơn bao giờ hết. Khi tôi làm cố vấn nghiên cứu quân sự tại  Afghanistan, Iraq và các vùng xung đột khác, tôi đã thấy các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và nhà khoa học chính trị tìm cách áp dụng các bài học của Cuộc Chiến Việt Nam. Càng khảo sát, tôi càng tin rằng họ hiểu biết khá hời hợt về lịch sử chiến tranh đó. Thêm vào đó, họ tỏ ra phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết học thuật cũ từng  mang lại cho họ những kinh nghiệm tệ hại sai lầm -  những kinh nghiệm chiến tranh sai lạc càng mang tới nhiều cái chết cho đàn ông và đàn bà, thậm chí có thể thua cuộc trong cuộc chiến tranh mới.

Thực tế trong nghiên cứu gần đây, tôi tập trung vào các sự kiện lịch sử của năm 1967, trong chiến tranh VN và tôi đã đưa ra ánh sáng những điều mới mẻ, quan trọng trong các cuộc hội luận tại Hoa Kỳ các tác động quyết định do chiến tranh mang lại. Trong số những sự kiện lý thú và hấp dẫn nhất của năm 1967 là sự hối tiếc của chính quyền Johnson  khi Johnson quyết định không tạo ra sự tìm cách thảo luận công khai trong nước để tạo ra làn sóng hay phong trào ủng hộ cho cuộc chiến do sự cần thiết của cuộc chiến đáng cần phải có. Các quan chức Hoa kỳ giờ đây mới nhận thức rằng sự thiếu nhiệt tình của công chúng đối với cuộc chiến càng khuyến khích đối phương tin rằng Hoa Kỳ cuối cùng sẽ từ bỏ đồng minh, và do đó Bắc Việt Nam không có lý do gì để bỏ cuộc.


MỘT CUỘC CHIẾN KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG NẾU NGƯỜI DÂN HOA KỲ KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ ĐANG CÓ CHIẾN TRANH


Cố ngoại Trưởng Dean Rusk nhận xét vào tháng 10 năm 1967 rằng, “Chính phủ đã đưa ra một quyết định có chủ ý là không tạo ra tâm lý chiến tranh ở Hoa Kỳ…” bởi vì nó “quá nguy hiểm cho đất nước Hoa Kỳ ” Johnson, Dean Rusk và các quan chức khác đã lo sợ rằng cơn sốt chiến tranh sẽ làm suy yếu các chương trình nội địa như Chương Trình Great Society và làm gia tăng căng thẳng với Liên Xô. Nhưng rồi, Ông Rusk thừa nhận, “có thể đây là một sai lầm; có lẽ sẽ tốt hơn nếu thực hiện các bước để xây dựng ý thức về một quốc gia đang có chiến tranh.”

    Suốt năm 1967, các cố vấn tại Bạch Ốc và các nhà lãnh đạo nước ngoài đã nhiều lần thúc giục TT Johnson thay đổi hướng đi, nói với công chúng Mỹ lý do tại sao Hoa Kỳ có mặt tại miền nam Việt Nam và những gì họ đang cố gắng đạt cho được. Nhưng TT Johnson không thể tự mình làm điều đó, ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những hậu quả tai hại của sự im lặng của ông. “Nếu lịch sử buộc tội chúng ta vì sự kiện Việt Nam,” TT Johnson thừa nhận vào mùa thu 1967, “thì do tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng yêu nước.”

Trong trường hợp thiếu sự cổ vũ khởi xướng của tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa kỳ đối với chiến tranh VN đã giảm sút trong suốt năm 1967. Như các quan chức chính quyền từng lo sợ, sự suy yếu quyết tâm của Mỹ lại củng cố quyết tâm kiên trì của Bắc Việt. Hà Nội rõ ràng đã từ chối mọi lời đề nghị đàm phán hòa bình của Mỹ, CS Hà Nội dự đoán rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn lại của ý chí người dân Hoa Kỳ.

Nói cách khác, việc công chúng quay lưng lại với chiến tranh VN là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích và thuyết phục người dân Mỹ ủng hộ nó.

Nửa thế kỷ sau, hôm nay với việc đất nước Hoa Kỳ đang vướng vào hai cuộc chiến tranh khác biệt, kéo dài và khả năng những cuộc xung đột khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, Chiến Tranh VN  là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của chúng ta nên ghi nhớ.

Mark Moyar

ĐHL Dịch thuật và tựa đề 

Mark Moyar, giám đốc Trung tâm Lịch sử Quân sự và Ngoại giao, là tác giả của cuốn sách “Oppose Any Foe: The Rise of America’s Special Operations Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965.”

 Nguồn

Opinion | Was Vietnam Winnable? - The New York Times (nytimes.com)

MARK MOYAR- BỎ RƠI VIỆT NAM



 Abandoning Vietnam


Moyar sinh năm 1971,  tốt nghiệp cử nhân tối ưu (summa cum laude) về sử học tại Đại Học Harvard và tiến sĩ sử học tại Đại Học Cambridge. Ông thuờng viết cho các tờ báo lớn tại Mỹ như New York Times, The Wall Street Journal và Washington Post

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam 1954-1965.
(Triumph Forsaken: the Vietnam War 1954-1965 Mark Moyar)

======= 

George J. Veith là cựu đại úy trong quân lực Hoa kỳ, tác giả cuốn Code Name Bright Light: the Untold Story of U.S POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998) … the Black April The Fall of South Vietnam

---------------------
..trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính sự viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế giới chuyện đau lòng, cái giá của biết bao sinh mạng khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây...

Dr. Mark Moyar

***


   Từ giây phút chuyến trực thăng cuối cùng bay khỏi tòa đại sứ Mỹ Sài gòn vào tháng Tư 1975, đó là thời sụp đổ của Miền Nam VN cũng là thời điểm đáng nhớ nhất về sự chấm dứt của một cuộc chién mà người Mỹ can dự.

Cánh bồ câu (Democrats/Dân Chủ) thì mãi đổ tội bằng những luận điệu vô lý lên sự thất bại của một đồng minh nước Mỹ. Họ cho rằng bởi đồng minh này quá yếu kém và không đáng giá để hỗ trợ?
 Cánh diều hâu ( Republicans/ Cọng Hòa) thì đổ tội cho quyết định ngu ngốc từ các chính trị gia Mỹ về việc cắt giảm viện trợ đã làm non 60 ngàn sinh mạng thanh niên Mỹ hi sinh oan uổng.

Thế mà khác với các kịch bản trước đây trong cuộc chiến Việt Nam, sự hạ màn đau khổ này chỉ nhận được vài sự an ủi qua loa từ các sử gia. Các tác giả có những bài viết tạm coi là hoàn hảo cũng chỉ lướt nhanh qua giai đoạn từ 1973-1975 thôi - Một giai đoạn không còn sự hiện diện của lực lượng chiến đấu nào của Mỹ cùng sự quan tâm ít ỏi từ giới báo chỉ Hoa kỳ hay ngay cả các giới chức dân sự. Một giai đoạn mà các giới chuyên khảo thiếu nhiều tài liệu Anh ngữ để nghiên cứu.

========

TS George J. Veith là tác giả 4 cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam, trong có các cuốn liên quan đến Chiến Tranh VN như:

-Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998),

-Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 (2012),

Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (2021)

Ông viết nhiều về Chiến tranh Việt Nam, diễn thuyết tại nhiều hội nghị cũng như điều trần về vấn đề POW/MIA trước Quốc hội Hoa Kỳ. Cuốn sách thứ tư của ông là một lịch sử chính trị, xã hội và kinh tế về sự trỗi dậy và sụp đổ của miền Nam Việt Nam.

Ông tốt nghiệp PhD tại Đại Học Monash tại Melbourgh, Victoria  Úc Đại Lợi









George J. Veith

====== 
chiếc trực thăng liều lĩnh đậu cheo leo trên một building để bốc người tại SG những giờ phút cuối cùng


George J. Veith trong cuốn Tháng Tư Đen và sự Sụp Đổ của Miền Nam (2012) đã có công xóa đi khoảng trống lịch sử nói trên. Trong một nhận xét đặc biệt, ông đã khai thác đúng đắn các sự kiện bị lãng tránh. Tác giả từng phỏng vấn các sử gia miền bắc cũng như một số cấp chỉ huy quân sự của miền nam. Bằng nhiều chi tiết cặn kẽ, ông đã trình bày 'từng núi' chi tiết giúp giải tỏa được các câu hỏi chính yếu lịch sử.

Dẫu rằng các lãnh đạo miền nam từng phạm nhiều lỗi lầm quan trọng trong cuộc chiến 1975 chống trả sự tấn công của miền Bắc, nhưng ông Veith cho rằng sự thất bại kia không đến từ sự một chính quyền thiếu khả năng và từ một sự chiến đấu kém cỏi!  Cuộc chiến 1972 và những trận đụng độ của Mùa Hè Đỏ Lửa hay những trận đụng độ lớn trong thời gian 1973-74 nhưng ít ai biết, các cấp chỉ huy quân sự miền nam từng chứng tỏ các khả năng bất ngờ. Trong trận tấn công cuối cùng của Bắc quân, các cấp chỉ huy và các đơn vị miền nam đã chiến đấu dũng mãnh quá bất ngờ. Nếu người Mỹ nhớ lại thì rõ ràng trong chiến thắng Trận Xuân Lộc, một sư đoàn miền nam chống lại được ba sư đoàn Bắc việt. Nhưng ông Veith cũng ghi lại thêm những trận đụng độ khác vào tháng Ba và tháng Tư 1975 bao gồm những cuộc chiến đấu mạnh mẽ của miền nam từ Mõ Tàu đến Núi Bông phía bắc, từ Bến Cầu đến Chơn Thành chặng giữa, cùng tại Cần Thơ và Long An ở miền nam.

Với minh chứng đầy thuyết phục, ông Veith cho rằng chính sự cắt giảm 'ác liệt' quân viện cho miền Nam xuống chỉ còn một nửa do Quốc Hội Mỹ đã dẫn đến sự thất bại cho họ (VNCH) vào đầu tháng Ba, khi miền Bắc bắt đầu mở màn cuộc tấn công quy mô nhất thì không quân miền nam thiếu nhiên liệu cùng phụ tùng thay thế cho các phi tuần chiến đấu làm sự phòng ngự yếu đi đến 900 dặm về mạn tây. Thế là Bắc quân có cơ hội tấn công cùng chiếm lĩnh một số thị trấn và thành phố quan trọng.

Thiếu hụt không vận, quân đội miền Nam thuờng xuyên dựa vào xe hay chủ yếu phải di chuyển bằng chân. Đồng bào của họ lại chạy theo với lính do lo sợ bị Cộng Sản thảm sát do bao ấn tượng thảm sát tại Huế 1968 hay Đại Lộ Kinh Hoàng 1972.  Phụ nữ, trẻ em cùng bao xe dân sự tha hồ tắc nghẽn các tuyến đường và cầu chính làm cuộc rút lui càng chậm chạp thêm... 

Đó là cơ hội cho Bắc quân xé nát đơn vị Nam quân.

Thời gian lực lượng phía Nam tháo lui nhằm xây dựng tuyến phòng ngự cho thành phố cạnh biển là Đà nẵng, có hơn một triệu dân cuống cuồng dồn đến một thành phố có hơn nửa triệu dân đang ở càng làm tăng thêm tình trạng hỗn loạn. Những con đường kẹt cứng xe dân sự, theo ông Veith, càng làm các xe quân sự khó lòng di chuyển nhằm phối trí lực lượng. Một số binh sĩ bận lo cho bà con hay gia đình vượt thoát. Một ví tướng sáng giá vào lúc đó là tướng Ngô quang Trưởng, phải đi đến quyết định di tản bằng đường biển vì không thể nào phối trí lực lượng được nữa. Một số vượt được bằng tàu, nhưng hàng ngàn binh sĩ miền Nam đã bị các đơn vị Bắc quân tràn vào bắt sống.
Mũi tên màu đỏ hướng tiến của bắc quân 

    Trong cuốn Tháng Tư Đen, tác giả cũng cho độc giả thấy rằng sự cắt giảm viện trợ to lớn của Hoa kỳ đồng nghĩa với sự bất lực của miền Nam không thể nào dội bom các lực lượng diện địa của Bắc Quân đang hiện diện rõ ràng. Không quân Miền Nam cũng bất lực không đủ các phi tuần cần thiết cho đến lúc quân CS tràn ngập các sân bay.

 Vào tháng Giêng 1973, chúng ta nhớ TT Nixon có hứa rằng không lực Hoa kỳ sẽ giáng trả đích đáng nếu Bắc Việt vi phạm Thỏa Uóc Hòa Bình ký tại Ba lê. Nhưng sự kiện Watergate xảy đến, cùng lúc Quốc Hội dùng Luật Quyền Giới Hạn Chiến Tranh của Tổng Thống ký vào năm 1973 đã ngăn chận người kế vị là TT Gerald Ford không còn giữ được chữ TÍN cho VNCH.

    Dẫu rằng quân số miền nam có tới 763,000 vào năm 1975, nhưng khả năng cơ động của họ cũng chỉ còn 110,000 vào thời gian cuối cùng. Trong thời gian này, Bắc quân đã dồn được con số 350,000 quân cũng nhờ vào sự tái kiến trúc của Đường Mòn Hồ Chí Minh như một xa lộ thênh thang cùng các ống dẫn dầu chạy song song theo nó. 

Theo TS George Veith, trong tình trạng tuyệt vọng có các đơn vị nam quân đã kháng cự mãnh liệt chống lại sự tấn công ào ạt của bắc quân. Theo ước tính từ Hà Nội , phía Bắc đã mất tới 6000 sinh mạng trong những ngày cuối cuộc chiến. Quân miền Nam đã chiến đấu với một hi vọng mơ hồ có được một ranh giới ngưng bắn khác với quân xâm lăng cho tới giờ phút Sài gòn tuyên bố đầu hàng.

Có hơn 100,000 binh sĩ miền nam đồng minh của Hoa kỳ đã hi sinh trong những trận đánh cuối cùng, bao gồm bị xử tử tại chỗ hay bỏ mình do bị hành hạ trong các trại "cải tạo'.  Hơn nửa triệu người dân miền Nam đã bỏ mình khi cố gắng trốn chạy CS bằng thuyền .

Trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế nhân chuyện đau lòng- cái giá của biết bao sinh mạng - khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây./.

MARK MOYAR

dịch và edit LỜI BẠT by ĐHL  

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam , 1954-1965

SOURCE

No comments:

Post a Comment

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...