Tuesday, February 11, 2025

50 NĂM -CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG VẪN MÃI MẶN NỒNG



Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy...(Việt Dzũng)


Thưa bạn,

Cuộc đời này có lắm khi bất mãn với nhau; rồi có người lại buông câu oán trách thà cứ mãi nghèo và đói như cũ còn hơn. Nói nghe thật cay đắng; nhưng cũng có cái nguyên do sâu xa của nó.


Cách vài thập niên; ngày đó khác thời nay nhiều. Đó là về miếng cơm manh áo so với thời nay. Hôm nay nhờ vào thời thế đổi dời con người khấm khá hơn nhưng tâm lý người đời nay phần nhiều thay đổi. Người bây giờ, có khi quên mất đi những tình cảm năm xưa, trầm luân khổ sở với bao nhiêu kỷ niệm nhọc nhằn túng quẫn... Từng thùng quà gửi 'chui' từ Mỹ qua Pháp từ Pháp về lại VN biết bao nhiêu truân chuyện vật lộn mới về được Tân Sơn Nhất.

Gởi về cho chị dăm ba xấp vải
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng...


Rồi qua "kiểm Tra" bao chặng hao mòn? Khi thùng quà về tay thân nhân thì hao hụt mấy phần. Người thân xúc động mừng vui đếm từng viên thuốc, từng mét vải, từng li từng tí biết bao nhiêu thứ nhưng thứ nào cũng quý hơn vàng cùng tính toán chi ly trải trang cho bao nhiêu thứ? Ôi cám ơn những tấm lòng của người thân thích dũng cảm ra đi nhưng trong lòng luôn canh cánh một tâm tình thương cha nhớ mẹ lưu luyến chị em ...


Con gởi về cho cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình...

Cả quê hương thiếu vật chất hàng hoá đến cùng cực:
thiếu gạo, ăn thiếu vải mặc thiếu thuốc men ...tất cả đều ngóng đợi từng gói quà đi vòng vo tam quốc mới đến tay người thân cật ruột? Rồi người ở lại, không biết bao nhiêu người phải chịu cảnh tù đày từ sự trả thù triền miên, thâm hiểm từ 'kẻ chiến thắng'...ôi nói sao hết bao nhọc nhằn của những bà mẹ, người vợ phải chia sớt từng miếng ăn cho những người thiếu đói trong nhà và cả người thân còn ở trong tù.































Rồi đổi mới đi đến đổi đời, tiền bạc mua bán thông thương của cải tăng dần những thiếu thốn tận mạng năm đó tan biến dần hồi. Nay xã hội đã khác xưa phần nhiều đầy đủ và thừa mứa vật chất.

Những thế hệ sinh sau 1990s, không biết gì những cảm xúc của cha mẹ hay người thân ngày xưa đó từng mừng đến phát khóc do mọi thứ nhỏ mọn đến đâu cũng là một 'trời đợi mong".



Người ra đi liều mình qua sóng gió đại dương , bão tố hải tặc thập tử nhất sinh. Tới bến bờ tự do chăng cũng lạ tiếng nói xa văn hoá cùng trải qua bao kỳ thị tủi thân để có lại cuộc đời. Người ở lại rung động nâng niu chắt bóp ôi quý hoá làm sao những món quà gói ghém tình cảm dạt dào cùng thẩm đượm mồ hôi nước mắt của kẻ ra đi.


Hình như cái thời đó đã qua thật sự? Những người cha, người chị hay người anh ở lại nay đã "ra đi" về trời miên viễn. Sóng gió của biến nạn nhọc nhằn hay thiếu thốn cam go cũng theo những thế hệ ngày trước nằm sâu trong quá khứ.


Khó lòng tìm lại cảm giác ngày xưa lúc vật chất nay đã đầy đủ, dư thừa!

 Thế hệ sinh sau không tài nào có những cảm giác của cha mẹ trước đây, hoạ chăng  hoàn cảnh trở về như trước.


THỜI NÀY "VIỆT KIỀU NAY THUA VC"


Lớp người VN mới nay đi lên cùng tăng tốc kinh tế, tất cả mọi người trong một xã hội quay cuồng trong vật chất dẩy đầy.

Có lời cho rằng "Việt Kiều nay thua VC"?


Không, xin thưa những người từng ra đi, chẳng bao giờ có ý nghĩ hơn thua hợm hĩnh ngoại trừ sự hi sinh trước sau như một, tình cảm đong đầy lúc nào cũng thế. Người đi về với tình cảm yêu thương nhung nhớ, những từ ngữ oái ăm "việt hay Kiều" cũng từ người khác đặt cho. Họ trở về không hề khoác trên vai haihữ VK, trái lại chỉ do bà con 'gán cho người xa quê 'đó thôi.


Mà thật lạ, dù đôi lúc Việt Kiều có đôi chút chạnh lòng nhưng tình cảm với người thân quê nhà, trong lòng người xa xứ vẫn mãi đầy ăm ắp. Có nói chi tình cảm con người hải ngoại vẫn đau đáu với nơi từng "chôn nhau cắt rốn" và mỗi dịp tết đến xuân về nơi sân bay quê nhà vẫn rộn ràng đông nghịt người xa về quê ăn tết.



dù quê hương nay đã quá đầy đủ mọi thứ thế mà khi về quê những thùng quà của người ra đi vẫn đầy ăm ắp? (phi trường Tân Sơn Nhất tết 2025)

Em gởi về cho anh một cây bút máy
Anh vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn

Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa
Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương
Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương
Em bán cho đời tìm đường vượt biên...

Làm sao thế hệ lớn lên sau đổi mới hay đúng ra sau năm 2000 hình dung ra nỗi trống trải và hụt hẩng của thế hệ đi trước... cha anh mình từng thấm thía bao cay đắng khi sự thế sụp đổ phũ phàng? Nỗi hoang lạnh bơ vơ của lớp người tay trắng tay cùng mất đi tất cả? Tình người ra đi bên kia bờ đại dương chắt chiu nhưng sâu đậm làm sao?


Lớp trẻ Việt Nam hiện nay khi sinh ra đời thì quê nhà nay hoàn toàn "thay da đổi thịt". Bao thành phố lớn huyên náo còi xe. Vật chất cung ứng nay đã quá ê hề. Tiền bạc từ hải ngoại hàng năm vẫn gửi về quê hương không biết bao nhiêu tỷ Mỹ Kim. Buôn bán và sản xuất càng lúc càng phong phú...


Thời gian qua mau đi theo mọi biến đổi của thời đại. Nói cho đúng, mọi tâm lý, tình cảm cũng qua mau và thay đổi theo dòng đời. Nhưng có một chuyện chẳng hề thay đổi đó là tấm lòng của kẻ ra đi. Những lớp người ly hương biệt xứ có khi về thăm lại cố hương lại  nhận lấy sự bạc bẽo phủ phàng?
 
Con gởi về cho cha vài viên thuốc ngủ
Cha chôn cuộc đời trong trong xứ tù chung thân
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Mơ ước yên lành...
trong giấc ngủ da vàng ./. (Việt Dzũng)


Thời nay quê hương không còn như xưa nữa, người về thăm quê biết vậy. Khi về thăm cố hương có lúc họ chạnh lòng buồn tủi, nhưng khi qua lại nước NGƯỜI, kẻ xa quê vẫn miệt mài và tình cảm vẫn y nguyên như "CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG" ngày trước ./.

ĐHL

Monday, February 10, 2025

NĂM MƯƠI NĂM NHỚ VỀ NHỮNG NGƯỜI VỢ TÙ và NỖI BUỒN QUA TRẠM




cảm tạ những người vợ tù cải tạo sau Tháng Tư mất Nước


Hai hàng cây so đũa
Lặng đứng nhìn xe qua
Lên thăm anh lần cuối
Hàng cây cũng nhạt nhòa
Lên thăm anh lần cuối 

trong lòng em khóc thầm... (Nguyên Huy-Trọng Minh)

 

TRẠM LÁN GÒN  HAY 'LÁNG CÓN' ?

    Chiếc xe hàng Hàm Tân - Sài Gòn vừa rời thị trấn La Gi, đổ dốc Tân An, qua cái cầu Suối Đó là đến trạm kiểm soát Lán Gòn. Cái trạm sau này còn có thêm cái tên khác là trạm 'quản lý thị trường'. 

  Người đi xe khó lòng quên được hình ảnh mấy người đeo băng đỏ nét mặt lúc nào cũng lầm lì. Những kẻ đó là những du kích hăng say công tác được huyện đề bạt lên những chức vụ cao hơn để 'cống hiến cho Đảng'. Phận người trong xe chỉ biết cúi đầu, nhất là những ai phải đem theo mấy món hàng đang bị quản lý gắt gao. Những mặt hàng nông sản từ bị đậu phụng, vài chục lon đậu xanh dù ít ỏi cũng bị giữ lại. Nói sao hết những thứ được liệt vào 'xuất khẩu' như mực khô đặc sản của biển Hàm Tân thì tránh sao được sự rình mò, xoi mói của du kích của những người đeo băng đỏ, khuôn mặt luôn làm vẻ nghiêm trang cùng hãnh diện với nhiệm vụ "ngăn sông cấm chợ" từ TRÊN giao xuống. Ôi, những cặp mắt "sắc như dao", lạnh lẽo vô hồn. Mấy người đó từng là "ác mộng" đối với dân buôn chuyến và nhất là T. nàng mới làm quen vài chuyến buôn lên về "Thành Phố" một cái tên mới mà người dân phải gọi, phải thuộc lòng trong bụng.


xe than thời bao cấp

  Tiếng cằn nhằn của ông già ngồi băng ghế trước; ông muốn vào VÕ Xu cho kịp đám kỵ. Tiếng than thở của bà già ngồi gần ông; bà cũng gấp vào Biên Hòa vì con trai của bà bị tai nạn xe máy. Mấy ông "kẹ" vẫn tỉnh bơ xét hàng. Thằng 'lơ xe'  lay hoay chạy vô, ra trạm, tay hắn không quên cầm theo bao thuốc JET mới "keng" chưa bóc tem. Bác tài xế đứng nói gì nho nhỏ với người trưởng trạm Lán Gòn. 

   -Bao gì đây?
   -Dạ ...dạ, khoai đó eng (anh), không có chi mô! tui vô thăm con tui trong Biên Hòa "xéc" (mang ) theo chút hàng (quà)

   Người đàn bà dáng  từ trên xã Sơn Mỹ về, vội vả trả lời người quản lý, ôm ốm nước da tai tái, mặt "lạnh như tiền".

Hắn  không lấy tay mà dùng cái que nhọn một đầu để săm soi tìm "chiến lợi phẩm". Mục tiêu của trạm này là tóm cho được số mực khô, thứ hàng phải bắt vào dạng 'ưu tiên một'.  Mùa này, Thành Phố (Sài gòn) đang cần mực khôNgười ta đồn rằng mực khô lúc này là mặt hàng "xuất khẩu". Thời gian đó, những cái gì có giá trị cao đều được liệt vào "hàng xuất khẩu".  Ác hại thay! do thứ hàng nhiều tiền, nó trở thành cái cớ để trạm Lán Gòn tịch thu sạch không chút  nương tay?

 Trạm Lán Gòn một thời nổi tiếng vơ vét thẳng tay!  Biết bao nhiêu người đi buôn mất vốn? Người dân ngẩn ngơ không biết cái gì là "quốc cấm"? Cái gì là đúng 'chính sách chế độ'... Vài xắc gạo từ Đức Linh về, vài bao khoai khô từ Sơn Mỹ đem đi, vài chục ký đậu xanh đậu phụng...mọi thứ đều có thể bị tịch thu bất cứ lúc nào nếu trạm này muốn.  Đó là lý do người ta đặt tên cho trạm cái biệt danh "Láng Cón" thay vì đúng tên Láng Gòn...

  Tim T. đập thình thịch. Cái que của người xét hàng  sắp xoi đến cái bao cát đựng đậu phụng hột đặt sát với cái bao đựng khoai  của người đàn bà từ xã Sơn Mỹ về kia. Thoáng nghĩ nhanh trong đầu, mười lăm ký đậu phụng hột loại 1 nếu bị mất đi thì khá nặng cho cái vốn cỏn con của nàng. T. vừa tập buôn vài lần thôi.  Gã cán bộ Quản Lý Thị Trường có cặp mắt tinh đời, chỉ thoáng nhìn nét mặt của hành khách hắn đoán được có phải người đi buôn hay không? Cũng may, T. mới vào nghề nên y chưa quen mặt. Những con buôn chuyên nghiệp khác , đi nhiều lần thì gã "quen mặt". "Nghề nuôi nghề"  Nghĩa là sao? tha vài chuyến cho con buôn kiếm chút lời xong bắt một chuyến, và cái vòng này cứ lẩn quẩn nuôi "mập thây" cái trạm quản lý 'hắc ám' nhất vùng này.


   
Những lúc này, con buôn "bắt bồ" với lơ xe , lơ xe. "Bắt bồ" với trạm- thế là đôi lúc "linh động " , cái que xoi kia lãng đi chỗ khác. Hay "chuyên nghiệp " hơn, lơ xe sẽ dấu giùm cho. Nàng còn  nghe phong phanh có người "bắt bồ đúng nghĩa" với lơ xe để bảo vệ hàng "quốc cấm" cho họ nữa? Thực ra nàng không muốn phải "lẳng lơ , ỏng ẹo" với mấy lơ xe để bảo vệ cái vốn đi buôn nghèo nào eo hẹp này. Những người vì thời cuộc đang dần dà trở thành "người đi buôn" , một "giai cấp" đang bị kỳ thị trong cái thời quản lý thị trường hay "ngăn sông cấm chợ". Sự "giằng co cọ xát, đấu trí, thông đồng, hay thoả hiệp" ngày cũng như đêm, trên mọi ngõ ngách,  mọi con đường quê huơng, giữa những người đi kiếm sống, nuôi đàn con, cha mẹ già, tiếp tế cho những thân nhân đang bị chế độ 'chiến thắng' giam cầm và những người chuyên đi tước đoạt vốn liếng hay miếng ăn của họ.

một thời xã hội thiếu thốn hàng hóa đến cùng cực nên người ta ví von "thủ kho to hơn thủ trưởng"



   T. chưa "bắt bồ" với lơ xe nào, nàng còn thả liều vào may rủi.  Nàng chỉ biết khấn trời, phật trong lòng phù hộ cho nàng thoát nạn. Sáng nay, T. gặp may do có một o từ Sơn Mỹ đi cùng xe là người chủ bao khoai kia, không hẹp hòi chi, ưng thuận cho T. bỏ "ké"(giúp) bao đậu phụng chung với bà dưới cái băng ghế dài:

       - Có chi o nói giúp cho con nghe o? con sắp đi thăm nuôi 'dôn'(chồng) con ngoài Trại Sông Mao o nờ!. 

  O đó dáng tuổi dì hay mẹ của T.  O không hẹp hòi chi. Nghe chồng nàng đang ở tù ngoài Trại Sông Mao, o cũng cảm động. Người làng của O cũng có mấy đứa cháu đi sĩ quan trong này còn đang 'cải tạo' ngoài đó chưa về. 

   T. tiếp tục tính toán trong đầu...nếu sáng đó nàng bị mất bao đậu phụng, thì vốn và lời từ  hai bó mực nàng đang cột sát vào hai đùi nàng sẽ bù vốn. Nàng sẽ huề vốn. Nhưng! cái ngày thăm nuôi định kỳ cho chồng ngoài trại SÔng Mao sẽ không có chi cả? Hoặc giả, nếu nàng dùng số tiền còn lại này mua hàng cho chồng thì khi về lại sẽ không còn vốn nữa!

  Mắt nàng giờ liếc nhanh về người quản lý thị trường, cái que xoi vây vẫy, chợt đảo nhanh qua băng ghế đối diện...
    
     -Bao  gì đây?
      -Dạ... dạ...


   Một cái bao lác đan bằng lá buông, trên để một mớ khoai luộc, lại "làm quà cho bà con " nhưng dưới là lớp mực mới phơi xong, đang tìm đường về ...Thành Phố.

  Cái bao lác kia bị lôi xuống, đem ngay vào trạm. Người chủ bao kia không còn giấu được lật đật chạy theo vừa chỉ trỏ khóc lóc, van xin...

  T. giờ mới dám thở mạnh. Nàng chợt thấy khỏe trong người sau những phút quá sức hồi hộp khiến tim nàng như muốn ngừng đập. Mắt T. chợt nhìn vào mặt người đàn bà kia, một ánh nhìn trìu mến, biết ơn.


  
Chiếc xe rồ máy chạy đi, bỏ người chủ bao mực khô kia lại với cái trạm. Hành khách tiếp tục bàn tán, nói chuyện, oán trách chửi khéo, than thở... ôi! đủ thứ chuyện.

  Bác tài xế và thằng lơ càu nhàu, than thở do chưa thu tiền xe người đàn bà thiếu may mắn vừa rồi. Thằng lơ tiếc bao thuốc JET chưa khui, hắn vào và đặt trên bàn cái trạm Lán Gòn nhưng chẳng kết quả gì. Có thể giá trị bao thuốc không đủ sức để trạm 'bỏ qua' chăng? Cái chính là chiếc xe chưa đóng tiền "hụi" tháng này cho trạm? 

-Hèn chi! 

Hắn nghĩ, cho đó là lý do xe hắn bị làm khó dễ sáng nay.

*

ngã ba 46 ( khoảng thập niên 1990) từ Sài Gòn ra, rẽ phải về thị trấn Lagi Hàm Tân

    Xe ra đến Ngã Ba 46, nó rẽ trái vô huớng Sài Gòn.

 Ngọn gió biển yếu dần khi xe ra đến đây. T. không cảm thấy chật chội hay nực nội chút nào. Thay vào đó, một cảm giác hạnh phúc, yêu đời bất chợt ập đến. Biết bao nhiêu mừng rỡ làm nàng quên luôn cảm giác ngứa ngáy khó chịu từ hai bó mực đang bó sát đùi nàng, gần "chỗ kín".

  "Nhờ vậy mình mới thoát được bàn tay "thằng quản lý" kia" 

 Nàng nghĩ thầm và cho đó là một "sáng kiến thông minh". Tuy vậy, nàng không quên cái lợi thế từ cái quần đen rộng ống của mình.

   Còn vài trạm "đột xuất" trên đường nhưng lơ xe và tài xế đã "lo trước" rồi. Những trạm sắp tới còn "nhân đạo " hơn cái trạm "Láng Cón" trong kia - cái trạm từng tịch thu hay làm đói biết bao gia đình.

   Xe bon bon chạy; thằng lơ thỉnh thoảng "ầm ừ " vài câu vọng cổ mà nó thuộc lòng đâu đó.

    T. lim dim mắt nhớ đến chồng ngoài trại Sông Mao đang ngày đêm mong đợi vợ thăm. Mường tượng khuôn mặt xanh xao và tấm thân gầy gò của chồng trong chuyến ra lần trước, bất giác T. không che giấu được  hai hàng nước mắt nhớ chồng  ứa ra không biết lúc nào ./.
 
Đinh hoa Lư 

Sunday, February 9, 2025

50 NĂM TA NGỒI NHỚ VỀ NHỮNG BUỔI CHIỀU XƯA


 Trên đường về nhớ đầy

Chiều chậm đưa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây...

(Chiều Hồ Dzếnh)


bóng chiều và cầu Thạch Hãn QT (ẩn danh)

*

Có những lần đi bộ cùng ngắm ánh chiều dần buông trên triền núi phía xa, tôi chạnh nhớ hình ảnh bao buổi chiều vàng trên quê hương ngày cũ.

Trong tâm tư, có thể của riêng tôi, hai tiếng quê hương giờ đây sao trừu tượng quá. Quê hương có thể là những ngày thơ dại nơi chôn nhau cắt rốn, cũng có thể là đất mới phương nam, lưu dân Quảng Trị đã chọn làm quê hương thứ hai sau Mùa Hè Đỏ Lửa.


Đối với ký ức tôi, cũng có thể của nhiều lứa trai sau ngày mất nước, quê hương còn là hình ảnh những buổi chiều vàng khi ánh nắng thoi thóp của một ngày tàn còn vương đọng trên những mãng đồi sim. Chiều tàn, ngày sắp tối chẳng khác chi là một "mệnh lệnh" vô hình hối thúc người tù binh nhanh chân hơn dù mệt và đói vác cây về trại trước lúc bầu trời sụp tối. Rồi đêm về, trong trại tù vừa hết giờ "phê bình kiểm điểm" nhau xong chờ người cán bộ coi tù cầm đèn pin vào từng lán điểm danh gọi số. Cuối cùng, tiễn đưa một ngày là BA tiếng kẻng, đó là "mệnh lệnh" cho tù đi ngủ. Trong giấc ngủ đêm trường, đó là lúc có người tù thả hồn mộng mị về lại chiều xưa, những ngày bé bỏng, rong chơi cùng lũ bạn với chuỗi ngày vô tư vui thú biết bao...

***

Có thật nhiều buổi chiều vàng trong một đời người. Những buổi chiều lưu dấu trong nhiều hoài niệm khác nhau. Thời gian cuồn cuộn trôi nhanh, xô đẩy dòng đời vào nhiều lối rẽ, hay từ biệt quê nhà đi về muôn ngã.
*
Người viết nhớ làm sao những buổi chiều, một thời con nít. Tuổi thơ hồn nhiên vui thú đó là những ngày rong chơi đá dế, thả diều.

Trời trở nồm vài ngọn gió từ mạn biển thổi lên, khi ánh nắng Nam Lào bớt gay gắt là lúc những cánh diều bọn tôi tha hồ bay bổng trên cánh đồng còn trơ gốc rạ.



Từ Cửa Lao Xá, Thành Cổ theo con Đường Ngự ra cánh đồng Hạnh Hoa là nơi bọn trẻ trong xóm chúng tôi làm nơi thả diều thi tài cao thấp. Cánh đồng giáp giới con đường Lê Văn Duyệt, ba tháng mùa hè trống không nhìn thẳng về bờ tre Xóm Tiêu, An Tiêm hay Ba Bến Trí Bưu còn rõ nét. Ruộng này chờ cày đất, đập bằng vồ, sau đó chờ nước từ sông Vĩnh Định lên cho vụ lúa. Nhưng bấy giờ cánh đồng là lãnh thổ của trẻ con chúng tôi làm bãi thả diều.

Ngày xưa chỉ ngần ấy thú chơi, nhưng lứa chúng tôi sao thương yêu nó đến thế? Những cọng tre chuốt mỏng, công phu mềm mại. Những đồng bạc nhịn ăn hàng, tôi mua cho được giấy bóng màu hồng hay xanh cùng cuộn dây gai, lọ hồ, lên tận Chợ Tỉnh mới có. Con diều dán bằng giấy vở, hồ bằng cơm nguội thì thuộc loại thô sơ hay "hết thời" không ai chơi? Những con diều màu mè, bay cao hơn, chắc chắn, có dây gai. Chúng đã tiến hay khá hơn nhiều, là niềm kiêu hãnh cho ai làm chủ nó, trong đó có tôi.

*
NHỚ CON DIỀU NGƯỜI LỚN

Tôi không thể nào quên được thứ diều của người lớn, nếu không muốn nói của các cậu tôi. Diều người lớn cũng được thả trên cánh đồng này. Cánh đồng rộng lớn từ xóm Tiêu trải dài tận Hạnh Hoa. Con diều người lớn phải có đồng rộng để làm bãi phóng nó lên. Diều còn mang trên lưng tới ba ống sáo, bay cao 'tận mây'. Thật quá thích, mỗi lần tai tôi nghe được tiếng sáo diều. Tiếng kêu o o như từ trên mây vọng xuống.

Tiếng sáo diều sẽ kêu suốt buổi những khi trời no gió. Ngắm con diều người lớn làm, lòng tôi ước ao thán phục. Cuộn dây gai to lớn đã tuôn ra hết cỡ, sợi dây cong cong cao lên tận con diều đang căng gió phất phơ. Chỉ có các cậu tôi mới kéo nổi thứ diều người lớn. Con nít chúng tôi chỉ có chạy theo, không đứa nào được cầm; và nếu muốn cũng chẳng ai cho.

Diều đã lên cao bình yên, thỉnh thoảng lại chao chạnh qua lại theo hướng gió. Yên tâm, cậu tôi kéo diều về nhà. Buộc một đầu dây vào cột hiên xong, cậu tôi mặc cho con diều đu đưa mãi trên không với tiếng sáo văng vẳng vọng xuống. Trong làn gió nồm của một buổi chiều, tôi cố lắng tai nghe tiếng sáo diều đó. Tiếng sáo như âm thanh của một thế giới nào đó, rất lạ đối với trí tưởng tượng của đứa con nít. Có chút gì hãnh diện do chỉ có nhà cậu tôi mới có con diều mang mấy ống sáo như thế. Có thể tôi nghĩ đúng, cậu tôi xem chừng thích thú với lối chơi này. Có khi cậu để vậy suốt đêm trăng. Ban ngày, tôi còn nhớ nếu muốn ngưng chơi, con diều sẽ từ từ bị thu ngắn dây lại. Sợi dây ngắn dần, con diều mỗi lúc một to. Tôi cảm thấy chút nào hồi hộp khi Diều trở xuống. Diều đã về nhà, sau một buổi chiều bay bỗng trên đám mây cao, y như trở về từ chốn "thần tiên" nào.



chiều về trên đồng ruộng Triệu Phong Quảng Trị (ẩn danh)


Theo lưu dân Quảng Trị xa lìa quê cũ. Từ Mùa Hè đó ra đi, người Quảng Trị trong đó có tôi vĩnh viễn chia tay những buổi chiều vàng quê hương. Người đi không bao giờ còn có cơ hội thấy ánh tà dương từ từ chìm hẳn dưới rặng Trường Sơn để lại những vệt sáng vàng vọt mờ dần trên nền trời phía tây.

Rồi một miền nam mưa nắng hai mùa. Người quê tôi sẽ dần dà yêu thương quê hương thứ hai này.

Miền nam trở thành hai tiếng thân yêu không biết lúc nào? Quê hương thứ hai chở che cho bao người dân mất đất. Nơi đây lại có những buổi chiều vàng. Bầu trời chung đâu phải riêng ai. Người làm ruộng về nhà, để lại phía sau rơi rớt vài vạt nắng cuối ngày trên đồng lúa vừa cắt. Người tiều phu nhanh chân vác rìu ra khỏi rẫy. Rừng còn buông lơi bao làn khói xám, nhẹ bay trên cánh rẫy cuối ngày. Lũ mục đồng vội lùa bò về làng, trả lại cảnh rừng tối thẩm phía sau. Buôn bán tảo tần đường xa, có anh thương nhân đang gò lưng đạp nhanh xe mong sớm về nhà khi ánh chiều dần dà tắt hẳn trên dặm đường gió bụi...

*

Thời gian mãi trôi với bao buổi chiều vàng như thế. Bao kỷ niệm, bao mảnh đời cùng sánh vai nhau lùi lại phía sau. Có lúc nào ta dừng chân nhìn lại phía sau để đếm được cuộc đời đã qua mấy buổi chiều vàng? Từng vạt nắng 'thi ân' lên ngàn cây nội cỏ trước khi bóng tối phủ trở về rồi lại có ánh dương rực rỡ của bình minh.

Năm mươi năm qua rồi, riêng tôi và có thể có nhiều người xa xứ khác vẫn ngồi trầm ngâm mà thương nhớ những buổi chiều vàng trong quá khứ. Kỷ niệm ngày xưa, là hình ảnh những cánh diều tuổi nhỏ bay cao. Ngày tháng hồn nhiên cứ mãi rong chơi cho đến khi có tiếng mạ kêu vang vang trong xóm. Trên cao, tiếng sáo con diều cậu tôi vẫn mãi ngân nga, nó như "lơ đễnh" chẳng sợ bóng chiều do con diều người lớn bay suốt đêm trăng khi bầu trời no gió ./.

ĐHL edition 9/2/2025

(dựa theo bài Bóng Chiều Xưa cùng tác giả)

50 NĂM - CHUYỆN BUỒN CỦA NGƯỜI THUA TRẬN

 

30 tháng Tư 1975 và CHUYỆN BUỒN CỦA NHỮNG NGƯỜI THUA TRẬN

Thưa độc giả

Cuộc chiến VN kết thúc kèm theo bao câu chuyện bi hùng về người lính VNCH. Có những câu chuyện kể lại nói về nhiều cuộc rút lui để bảo vệ thủ đô Sài Gòn. Nhưng có những đơn vị âm thầm hi sinh để cho những cánh quân Tổng Trừ Bị rút về Huế sau đó trở lại Sài Gòn...
Ít ai nhắc lại hay biết đến những hi sinh im lìm đó. Có những người lính trẻ, họ là những anh hùng vô danh thầm lặng hi sinh không một đòi hỏi hay ta thán nào. Những người lính chỉ biết một bề thi hành nhiệm vụ.
Người viết vào thời điểm này là một sĩ quan trẻ tuổi mới ra trường, với con mắt khách quan và cũng là người trong cuộc đã chứng kiến khi cùng toàn đơn vị hi sinh nằm lại bên bờ Ô Lâu thuộc làng Trạch Phổ và cuối cùng bị bắt làm tù binh vào trưa ngày 23/3/1975 tại rú Phong Bình, Quận Phong Điền Thừa Thiên
Cho đến hôm nay là nửa thế kỷ, thời điểm đúng nửa thế kỷ sau vài lần đăng lại bài này. Mục đích như là nén tâm nhang tưởng niệm về bao hi sinh thầm la lặng của người chiến sĩ VNCH. Bài viết này không luận thắng thua phải trái mà chỉ là tưởng niệm mà thôi. Nửa thế kỷ, tác giả thiết nghĩ cho đây là lần cuối đăng bài viết này như một lần giỗ cuối cùng cho những anh hùng vô danh của VNCH. Bao nhục vinh nhân thế xin bỏ lại đằng sau để bao nhiêu hương hồn u uẩn của quân dân cán chính miền nam đi vào cõi vĩnh hằng và an nghỉ.
Xin người dân ba miền nước Việt hãy trang trọng để dòng quân sử VNCH vào một ngăn kéo nghiêm trang trong dòng Việt Sử. Xin người dân Việt chớ ai dày xéo để khỏi tủi lòng những người con cùng máu đỏ da vàng.

Trân Trọng thay

Tác giả 


NGƯỜI LÍNH TRẺ NẰM LẠI BÊN DÒNG Ô LÂU



Người tân binh tên Thành được bổ sung về trung đội tôi chưa được bao lâu thì đơn vị đã có lệnh rút lui về đồng bằng Diên Sanh. Thành còn quá trẻ, trạc tuổi em trai tôi và lại là người Huế. Đa số người trong trung đội tôi đều là người Quảng Trị nên tôi để ý anh lính trẻ này nhiều hơn.
Gần một năm xa nhà, dấn thân vào đời lính. Ra đơn vị lên vùng núi này Thành bị vướng căn bệnh sốt rét, một chứng bệnh lan nhanh tại vùng núi quanh Động Ô Do.
Vừa khỏi cơn sốt rét nên da mặt Thành còn xanh xao. Nét gian truân người lính chỉ mới khởi đầu nên chưa thể xóa hết đi vẻ non dại của người con trai mới lớn từ một vùng quê. Thật ra, ngày ra đơn vị ngày đó Thành có nói tên quê em, đâu đó dưới quận Hương Điền nhưng lâu ngày tôi đành quên mất?
Sau ba tháng huấn luyện ở Trung Tâm Dạ Lê gần Phú Bài, Thành mãn khóa sau đó được đưa về Tiểu Khu Quảng Trị và cuối cùng em được bổ sung về trung đội 3 của tôi.
Điều tôi biết rõ về người lính trẻ này là Thành vừa rời lưỡi liềm, cái cuốc làng quê rồi đi vào nghiệp lính. Biết bao lớp tuổi cày cuốc, trụ cột cho gia đình từng phải lên đường tòng chinh trong thời tao loạn.
Rồi sau tết 1975, những gì đã đến trong cuộc chiến dai dẳng này bắt đầu xảy ra khi toàn bộ đơn vị Phòng tuyến Động Ông Do có lệnh di tản. Không những chỉ chúng tôi mà các tiểu đoàn lân cận ở vùng núi như Phòng tuyến Barbara cũng di tản vào ngày 17/3/1975
Ai ngờ đâu, Xuân 1975 đó là xuân cuối cùng của người lính miền nam- rồi các đơn vị của Tiểu Khu Quảng Trị là chứng nhân và cũng là nạn nhân cho một kết cuộc đau buồn bên bờ Sông Ô Lâu. Một dấu ấn khó quên trong đời quân ngũ vào tuần lễ cuối cùng của tháng Ba năm 1975. Tôi đã lâm trận và chứng kiến sự rút lui và nói cho đúng hơn là một sự rệu rã đầu tiên bên bờ sông xưa một cách bất ngờ, tức tưởi.
Bắc quân hình như đã được biết trước cuộc chiến đang đến hồi CÁO CHUNG. Họ hí hửng thổi còi vượt sông Ô Lâu bắt đầu vào hơi xế trưa ngày 23 tháng 3 năm đó.

LÀNG TRẠCH PHỔ ƯU ĐIỀM BỜ SÔNG Ô LÂU

Ruộng Trạch Phổ mới cấy xong, nhà hoang cửa vắng
Dĩ nhiên khỏi viết hết lên đây thì bạn đọc cũng hiểu rồi; đó sự tan rã đến nhanh. Nhưng trong tiếng súng và làn hơi áp mạnh của B 40 tấn công, tôi nghe có tiếng hét của hạ sĩ Lộc người y tá trung đội:
-Ch úy , ch Úy ! thằng Thành bị đạn rồi, ngay ngực nặng quá!
Thành chẳng chút may mắn, em bị trúng đạn ngay vào loạt đạn đầu của bắc quân vượt sông ngang xã Hải Văn... Càng lúc áp lực của những toán quân chính quy bên kia vừa qua sông càng bắn xối xả mạnh hơn.
Tất cả đại đội 2 chúng tôi bị dồn ra phía cánh đồng trống trải của Làng Trạch Phổ.
Bên cạnh cái lăng mộ ai đó giữa đồng lúa mới cấy tôi nghe tiếng rên của một người bị đạn, tiếng của Thành. Có thể bạn cho rằng tiếng rên kia phải là to lớn kêu gào hay thống thiết lắm chăng? Không phải thế! Qua bao nhiêu năm tôi không quên được tiếng rên của người lính trẻ. Thành chỉ rên lên tiếng “ i ..;i...” mà thôi. Người bị đạn không còn đủ sức để kêu to do đạn đã xuyên qua ngực, giữa tiếng nổ chát chúa của những tràng đạn tấn công, tiếng B 40 và từng hồi súp lê xung phong nghe lanh lảnh...
.
Đó là tiếng rên hay tiếng kêu đau đớn của người thanh niên vừa rời cái roi giữ trâu hay cái cày bên luống ruộng quê nhà. Một làng quê, nơi đó Thành có mẹ già. Những người thân yêu của Thành vĩnh viễn không còn thấy được Thành về. Tôi đoan chắc là Thành đã chết bên cánh đồng Trạch Phổ do người y tá bỏ cuộc và cả đơn vị tôi cũng tan nát thối lui ra giữa cánh đồng và tán loạn rút về rú Ưu Điềm. Tôi bị bắt tù binh từ cái rú càn đó. Có hai người tiểu đội trưởng cũng ngẩng đầu lên lần cuối cùng và gục xuống. Trong hình ảnh đó, có Hạ Sĩ Hách người tiểu đội trưởng già mà tôi còn nhớ tên.
Làm sao tôi quên được Thành, em là người lính trẻ mới về đơn vị tôi chỉ hai tháng, lại vĩnh viễn ra đi trong ngày tàn cuộc chiến? Tiếng rên “i ..i” của em -một người bị trúng đạn nhưng sao tôi nhớ mãi đến hôm nay? Tiếng kêu đau thương của một người thanh niên hay đúng hơn là một em nhỏ mới lớn. Một lứa xanh chưa có niềm vui nào khi tập tễnh bước vào đời với làn vải kaki, màu áo trận, cùng nòng súng lạnh lùng? Một lứa trai vừa giã từ cuộc sống đơn sơ bên mái tranh nghèo cùng mẹ hiền dưới khóm tre làng. Thành chỉ quen và nhìn đời qua những ngày chân lấm tay bùn bên con trâu, nhánh lúa.
Giờ đây em chỉ còn những làn hơi yếu ớt còn lại. Chút sức lực cuối cùng của một người trai, chới với thảm thương cùng sự tan nát của đơn vị mình giữa cánh đồng chưa xanh lá mạ ...Một tiếng rên đớn đau nhưng quá âm thầm, rời rạc không còn đủ sức để kêu thêm hai tiếng:
-MẸ ƠI!
Đó là tiếng nói cuối cùng người lính trẻ hay là nỗi buồn sót lại của một cuộc chiến ĐANG TÀN trên quê hương dau khổ Việt Nam.

nhờ vào cuốn phim tư liệu cũ có tên là "Đường về GP Huế" 26.3.1975, tác giả đã lấy được hình ảnh của toán tù binh (trong đó có tác giả đội nón lưỡi trai đi giữa) của đơn vị đại đội 2 tiểu đoàn 105 ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đang bị dẫn ra Đông hà ngày 24.3.1975, hình ảnh này có thể ngang đoạn gần Bến Đá

đồng bào QT chạy lui về nhà ngày 24/3/1975



***

Đã bốn mươi tám năm qua kể từ cái chiều 23 tháng 3 năm 1975 bên bờ Sông Ô Lâu, khi cầm bút viết vài dòng cho Thành tôi không cầm nỗi giọt nước mắt thương nhớ về Em. Thật tiếc và oan uổng cho Em trong giờ phút kết thúc chiến tranh. Em có hi sinh thêm nữa thì số phận miền nam cũng đã được định phần. Cái chết của em cũng chẳng giúp thêm gì cho NHỤC VINH của những người may mắn còn lại trên cuộc đời này?
Trên bàn thờ nhà em trong làng của người lính tử trận này, giờ có thể còn một bát nhang thờ vọng cho Em, người ra đi không hẹn ngày về? Con trâu bờ ruộng cùng lũy tre làng Thành vẫn doi dỏi trông chờ hình bóng người lính trẻ; dù em có về cùng đôi nạng thương binh. Nhưng có điều tôi tin chắc chắn rằng THÀNH cùng hai người tiểu đội trưởng cùng những anh em khác đã vĩnh viễn không về. Cũng như người đại đội trưởng chúng tôi, Đại Úy Lê Kim Chung, Anh đã nằm lại một mình bên làng Lương Mai, cũng vĩnh viễn chẳng về...
Gần năm mươi năm, sau ngày tàn cuộc chiến nhưng quê Mẹ vẫn còn quá nhiều trường hợp như Thành vẫn còn quá nhiều mẹ già đau đáu chờ con, vẫn nuôi hi vọng con về, cho đến lúc nhắm mắt tàn hơi?
    Tôi vẫn mãi thương xót cho số phận một NGƯỜI LÍNH TRẺ cùng tiếng rên cuối cùng bên bờ ruộng mới cấy của cái làng tên là Trạch Phổ năm xưa. Hàng năm cứ đến tháng Tư Đen là tôi tiếp tục tái đăng bài Hồi Tưởng về Thành. Đây cũng là nén tâm nhang cho tôi tưởng niệm về hương hồn một người LÍNH TRẺ đã hi sinh oan uổng trong ngày TÀN CUỘC CHIẾN. Đã nửa thế kỷ qua mau nhưng một câu chuyện trong muôn triệu nỗi buồn chiến tranh cứ day dứt và ám ảnh mãi làm lòng tôi khó bề quên được ./.

Ký Ức ĐHL Bên Bờ Sông Ô Lâu ngày Tàn Cuộc Chiến 23/3/1975

Đinh Hoa Lư



Friday, February 7, 2025

NĂM MƯƠI NĂM NHỚ CÂU CHUYỆN "QUAN THỪA LÍNH THIẾU"

 

NĂM MƯƠI NĂM ÔN LẠI CHUYỆN XƯA

Ký Ức của những người Trung Đội Trưởng sau lệnh ĐÔN QUÂN 


KHÓA BA ĐÌNH 12B/72 SĨ QUAN TRỪ BỊ 

TRƯỜNG ĐỐNG ĐẾ NHA TRANG 

CHỈ HUY TRƯỞNG: TRUNG TƯỚNG DƯ QUỐC ĐỐNG

 

TẠI SAO CÓ CHUYỆN NHỮNG ÔNG CHUẨN ÚY “KISSINGER”


Tại sao có cái tên “Chuẩn Úy Kissinger” đó ? Ai là người hiểu chuyện này?

Chào bạn đọc

Chuyện kể về Việt Nam Cộng Hòa hay Quân Lực VNCH một trang sử chiến bại trong cuộc chiến Quốc Cộng đã được nói hay viết quá nhiều nhưng người viết thiết nghĩ câu chuyện “Những Ông Chuẩn Úy Kissinger” có thể ai là người trong cuộc mới hiểu vấn đề này có thật. Những người Sĩ Quan cao cấp nhưng vị chỉ huy có chức vụ cầm đầu đã ra trường trước giai đoạn chiến sự 1972 thì khó biết được. Lý do là họ đâu còn ở cấp trung đội nữa mà là mấy ông cỡ Tiểu đoàn trưởng trở lên họ đã qua cái thời kỳ mang cái “quai chảo” trên ve áo, mặt còn trẻ măng “búng ra sữa” như mấy anh thanh niên thụ huấn sau thời điểm 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa.



MÙA HÈ ĐỎ LỬA và LỆNH ĐÔN QUÂN nhưng CÁI TRỚ TRÊU LÀ LÍNH THIẾU QUAN THỪA


1972 là cái mốc thời gian trong Chiến Tranh Việt Nam khi quân Bắc Việt tung toàn lực đánh VNCH trên các mặt trận nhất là từ Quân Khu I cho đến Quân Khu III. Cũng từ 1972 với sự rút lui của Sư Đoàn 3 Giới Tuyến mới có từ “Di Tản Chiến Thuật”. Di tản Chiến Thuật nói cho đúng ra là thua và rút. Nhưng cái hậu quả của Di Tản Chiến Thuật kèm theo sự hoảng loạn của người dân chạy bám theo người lính mới gây ra sự tan rã nhanh hơn.


Lệnh Đôn Quân từ TT Nguyễn Văn Thiệu nhắm vào tầng lớp sinh viên học sinh, tất cả đều bớt một năm gia hạn tuổi và phải vào quân trường hết. Nhưng cái khủng hoảng của chiến trường miền nam là THIẾU LÍNH chứ chẳng hề THIẾU SĨ QUAN.  Từ ông Thiệu cho đến Bộ TTM chẳng hề nghiên cứu điều này. Những người nhận LỆNH ĐÔN QUÂN đều ít nhất có văn bằng TÚ TÀI I trở lên.  Người viết cũng thế dù có Tú Tài II nhưng chẳng vào Đại học được. Vào quân trường các tân khóa sinh có nhiều người đã có bằng cao học nhưng chỉ rớt 1 năm là "a lê hấp" vào quân trường. Các đại đội tân khóa sinh, nếp gạo trỗn lẫn tú tài, cao học, sinh viên năm thứ...rồi sẽ ra chuẩn úy giống nhau và dĩ nhiên là họ không thể tốt nghiệp trung sĩ hay binh hai được.


Thế là quân trường từ trung tâm tuyển mộ nhập ngũ cho đến Quang Trung, Trường Võ Khoa  Thủ Đức, Đống Đế Nha Trang mỗi khóa đều trên một ngàn khóa sinh có lúc phải chia hai. Đôn quân và đôn quân từ đó các tân chuẩn úy ra trường tràn đầy đơn vị. Một trung đội ngoài chuẩn úy (hay thiếu úy) trung đội trưởng lại phải kèm thêm một ông tân chuẩn úy mới ra trường. Người tân chuẩn úy này chẳng có việc gì làm, trong lúc lính lại thiếu, có lúc phải mang ba lô đi qua trung đội khác chịu cảnh “không nhà, không đơn vị” …từ đó cái danh hiệu Kissinger ra đời .


TAI SAO LẠI CHỌN TÊN KISSINGER ?



Lê Đức Thọ (bìa phải) nói chuyện với Henry Kissinger qua người phiên dịch (lê đức Phương) tại Paris năm 1972


Nếu trở lại Chiến Tranh VN vào thời gian đó Henry Kissinger là người ngoại trưởng có sứ mệnh đi đi về về, Mỹ VN, Mỹ Paris với nhiều nhiệm vụ như “con thoi” Vị ngoại trưởng này còn là Cố Vấn An Ninh cho TT Mỹ là Richard Nixon và nắm rất nhiều yếu tố then chốt trong chiến tranh và hòa đàm nên còn bị gán cho cái tên là “Phù Thủy”. Nhưng hình dung người tân chuẩn úy đi đi về về trung đội này qua trung đội khác thế là bị gán cho ám danh là “chuẩn úy Kissinger” là thế. Kissinger là “rày đây mai đó” không có trung đội nào để nắm cả. Một thời gian đầu ra trường chính tác giả câu chuyện này cũng lâm vào hoàn cảnh này và chứng kiến đồng nghiệp ra sau mình một thời gian.


 HÌNH ẢNH THẰNG BẠN CÙNG KHÓA TỐNG HUỲNH THA  NGƯỜI “CHUẨN ÚY KISSINGER” TỘI NGHIỆP MÀ TÔI NHỚ MÃI TRONG LÒNG



    Tống Huỳnh Tha là đứa bạn đồng khóa 12B/72 không biết tại sao lại trôi giạt ra cái tiểu khu “chó ăn đá gà ăn muối” này không biết nữa? Người kể chuyện, tác giả, là gốc Quảng Trị do thương nhớ Quảng Trị mà tình nguyện chọn ra đây, về Quê Ngoại. Còn thằng Tha hắn là gốc Chợ Lớn người Tàu sao lưu lạc chốn này. Tha  ra Tiểu Khu Quảng Trị về Tiểu Đoàn 105 rồi về đại đội chúng tôi. Các sĩ quan mới cấp số trung đội trưởng đang dư thừa. Thật ra hắn trình diện tiểu đoàn 105 khá lâu. Ông Hồ Văn Cầu Tiểu đoàn Trưởng cho Tha tạm ở bộ chỉ huy tiểu đoàn một thời gian do không biết phải đẩy về đại đội nào? Vô lý ở mãi tiểu đoàn, thế là Tha phải về đại đội HAI của đại úy Lê Kim Chung. Nhắc đến Tha, trước tiên Đại Úy Lê quang Hiền chỉ lắc đầu ái ngại do hắn ta là lai Tàu mà lại người Sài Gòn. Tiếng Việt đã “lơ lớ” nhưng ác hại thay, hắn lại bị tống ra cái xứ tiếng nói trọ trẹ thật “ư là nặng” ngay người kể chuyện đôi lúc nghe cũng ngớ ra huống gì thằng bạn gốc nam? Thêm vào đó tâm tính người gốc Tàu làm sao "hội nhập" cho được vào cái xứ miền trung cực khổ, khó khăn rồi sinh ra khó chịu. Nói thật thì mất lòng, có thể độc giả chẳng ưa giá như thằng bạn đó trôi giạt về miền nam lục tỉnh nơi dân tình hào phóng dễ dãi hơn thì đỡ khổ cho hắn.


Tội nghiệp Tha hắn không biết đi đâu? Đầu tiên cũng kiếp ‘ăn tạm ở nhờ’ ở ban chỉ huy đại đội rồi chẳng có việc gì làm do trung đội trưởng trung đội nặng đã có thằng bạn khóa 9B/ 72 Lê văn Linh gốc Huế chiếm giữ rồi. Thằng Linh thì miệng liếng thoắng, khá vui vẻ và nhất là biết cách pha trò hay vừa lòng Đại đội trưởng hơn mấy trung đội trưởng khác nhiều. 

Thằng Tha, mang số phận “Kissinger” đúng nghĩa nhất. Ở ban chỉ huy đại đội lâu ngày nó lại là “đại sứ con thoi” tức là ông Henry Kissinger thời đó, khi ở trung đội này rồi sang trung đội khác. Nó không là trung đội trưởng khi trung đội trưởng đã đủ. Tha chỉ mang cái danh giả hiệu là “phụ tá trung đội trưởng" cho có. Phụ tá gì, có việc gì đâu. Giá như hắn ở vào thời lên núi Ô Do lúc lính đau thiếu thì có thể "phụ gác" với trung đội trưởng là tôi. Lên Động Ô Do sau này lính bị sốt rét đau hơn một nửa, trung đội chỉ còn 20 mạng. Quan Lính gì cũng chia nhau mà gác 2 ca một đêm.

Thời gian người kể về Tha là lúc đơn vị còn đóng ở Triệu Phong sau tết 1974.


...tiếp tục câu chuyện, tôi từng tự hỏi trong lòng lại hai chữ “phụ tá” nó chẳng có ý nghĩa gì nếu không muốn nói ra là quá dư thừa. Tôi là nhớ số phận một chuẩn úy khác cũng ‘trôi nổi’ về đại đội 2 chúng tôi một thời gian. Thằng Phước người nam, cũng chẳng có công việc do dư trung đội trưởng. Mà dư trung đội trưởng có nghĩa là do quân trường Thủ Đức và Đống Đế cho “ra lò” nhiều tân chuẩn úy sau cái LỆNH ĐÔN QUÂN. May cho thằng Phước, mang số thất nghiệp chỉ một thời gian. Vừa đổi quân lên vùng núi Ô Do thì hắn được Đại Đội trưởng Chung cho nó thuyên chuyển về Tiểu Đoàn để lấy sứ vụ lệnh về lại Sư Đoàn I do đòi hỏi của Quân Khu. Phước đi chưa hết mừng cho nó do nó đã thừa mà lại không được lòng Đại đội Trưởng cho lắm.




Nửa thế kỷ qua thế nhưng người kể chuyện chưa quên khuôn mặt của Tha. Một khuôn mặt phải nói là ngơ ngáo nửa giọng SG cùng lơ lớ giọng Tàu. Bộ đồ lính bạc màu, bụi đất xem chừng chẳng hề thay. Hắn là một “Kissinger” thì làm gì có một trung đội để chỉ huy cùng hầm trú ẩn hay máy liên lạc PRC 25. Dĩ nhiên, Tha chẳng hề có người lính nào dưới tay. Rõ ràng Tha 'chẳng có nhà mà chẳng có việc'. Không có lính thì ai nấu ăn cho. Có người thương thì kêu Tha tới ăn có lúc bị lơ đi thì thật tội? Một trung đội không thể có "2 vua", quả thật người trong cuộc như người viết mới chứng kiến cảnh trung đội trưởng lúc này quả thật dư thừa.  Sau Hòa Ước Paris, số trận đánh ít đi do vậy cảnh hao hụt sĩ quan trên chiến trường ít đi rõ rệt. Trước Hòa Ước 1973 chỉ vài trận là số sĩ quan mới ra đơn vị hao đi rất nhanh thì làm gì có cảnh lính thiếu quan thừa?


Giờ ngưng bắn không còn chuyện sĩ quan ra trường "bị nướng" nhiều thế là cái hệ quả của câu chuyện ĐÔN QUÂN xuất hiện. Đôn quân đồng nghĩa đa số sinh viên và học sinh có bằng tú tài trở lên đều vào quân trường. Họ ra trường mang cái lon đầu tiên là chuẩn úy và rồi khi mặt trận lắng dịu khắp nơi, dĩ nhiên sẽ hiện ra cái cảnh  quan dư lính thiếu. Lính thiếu là câu chuyện thực tế. Các ông tướng tá trên cao đâu hiểu hết sự tình này. Học trong quân trường, cấp số một trung đội là 42 người. Thực tế ra trường trong trung đội của người viết hiếm khi tới được 30 người. Người thiếu nhưng đạn dược tiếp vận cũng thiếu. Có ai nghĩ rằng một trung đội trưởng đang ở tiền tuyến chỉ có trong mình 3 quả lựu đạn M 67 và 150 viên đạn AR 15 chăng? Chốt trung đội tại Động Ông Do của tôi chỉ có 2 quả mìn Claymore để gài  nhưng một quả không có kíp nổ. Còn lính thật tình quá thiếu. Lính thiếu do không mộ được lính, lại còn tình trạng đào ngũ…có đứa từ bộ binh về nhà một thời gian đào ngũ tiếp ra địa phương quân. Có khi đào ngũ qua đơn vị khác nhưng đơn vị cũ vẫn còn ăn lương chưa báo (lính ma)...

Chuyện 50 năm chỉ có người sĩ quan cấp nhỏ có nghĩa là trung đội trưởng giáp mặt với quân địch do phải ở phía ngoài cùng mới thấu hiểu bao gian nan thiếu thốn.


***


GẶP LẠI TỐNG HUỲNH THA SAU NGÀY  "GÃY SÚNG" 


Mười mấy năm sau ngày người viết ở tù về, quá bất ngờ lại gặp và nhận ra Tha tại vùng Chợ Lớn. Hắn đang lang thang với chiếc xe đạp gà tàng đi mua phế liệu gần khu vực BV Chợ Rẫy.

 Người viết do đi nuôi mẹ già đang nằm bệnh viện Chợ Rẫy. Tuy Tha phải đi mua phế liệu kiếm sống nhưng so ra, hoàn cảnh của người viết còn tệ hơn Tha do hắn dù sao cũng là dân thành phố. Hàng ngày người viết phải dùng chiếc xe đạp thồ nặng nề bới từ vùng nương rẫy Hàm Tân vào SG làm phương tiện đạp từ Gia Định qua BV Chợ Rẫy nuôi mẹ.  Hai đứa gặp nhau gần 20 năm sau ngày tù tội, chưa hết mừng, tôi đã nhận ra khuôn mặt Tha đầy ác cảm ... 


Mặt Tha đỏ gay, bao nỗi uất hận, mặc cảm sau bao năm hắn vẫn không quên. Đó là hình ảnh cái ngày hắn mang cái lon chuẩn úy ra trình diện cái xứ QT quê tôi- "chó ăn đá gà ăn muối" lòng người thì khô khan không hề hào sảng, cảm thông nào với hắn. Linh tính báo động cho tôi hay rằng hình như hắn muốn trút bao uất hận thù ghét vào tôi vào giây phút đó...


Tôi vội chuồn mất không kịp nói từ biệt với Tống Huỳnh Tha. Mang cái giỏ thức ăn từ nhà mợ tôi tại chợ Bà Chiểu Gia Đình lên tầng hai BV thăm mẹ già, trong lòng tôi chỉ biết mừng cho Tha còn sống trở về với Chợ Lớn nơi xứ người Tàu hay Minh Hương gì đó của hắn.


Đúng nửa thế kỷ qua đi người viết không còn ca cẩm phàn nàn chuyện thiếu thốn mọi thứ từ viện trợ cho đời lính VNCH do khi đã hiểu ra người bạn ĐỒNG MINH ĐÃ BỎ BẠN DỨT GÁNH GIỮA ĐÀNG chuyện này nói ra cũng thừa do đã được nói quá nhiều...Dù sao đã qua được xứ Mỹ, con cái đã thành đạt mọi bề đó là phần thưởng cho những người từng thiếu thốn mọi bề những ngày ra đơn vị hay tù tội sau này.


Tác giả có thể cho rằng trong những cái không hề ai biết do các vị sĩ quan cấp cao, quyền lợi đầy đủ “tà lọt, gác đơ co” thừa thãi bên mình họ chẳng hề hay có những ký ức và hình ảnh chỉ có NHỮNG NGƯỜI SĨ QUAN TRUNG ĐỘI TRƯỞNG SAU THỜI ĐÔN QUÂN 1972 NHỚ MÃI


Đó là chuyện của những người Chuẩn Úy mang cái biệt hiệu “Kissinger” ra trường một cách thừa thãi vô duyên do họ tuy tốt nghiệp Trung Đội Trưởng mà chẳng hề có dư trung đội để nắm. 


Cái hệ quả của LÍNH THIẾU QUAN THỪA sau MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972 TỪ MỘT CÁI LỆNH ĐÔN QUÂN THIẾU THỰC TẾ vào NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG CỦA TRANG SỬ SẮP SỬA SANG TRANG./.

 

ĐHL viết cho 50 năm THÁNG TƯ ĐEN

 

 

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...