Sunday, February 9, 2025

50 NĂM TA NGỒI NHỚ VỀ NHỮNG BUỔI CHIỀU XƯA


 Trên đường về nhớ đầy

Chiều chậm đưa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây...

(Chiều Hồ Dzếnh)


bóng chiều và cầu Thạch Hãn QT (ẩn danh)

*

Có những lần đi bộ cùng ngắm ánh chiều dần buông trên triền núi phía xa, tôi chạnh nhớ hình ảnh bao buổi chiều vàng trên quê hương ngày cũ.

Trong tâm tư, có thể của riêng tôi, hai tiếng quê hương giờ đây sao trừu tượng quá. Quê hương có thể là những ngày thơ dại nơi chôn nhau cắt rốn, cũng có thể là đất mới phương nam, lưu dân Quảng Trị đã chọn làm quê hương thứ hai sau Mùa Hè Đỏ Lửa.


Đối với ký ức tôi, cũng có thể của nhiều lứa trai sau ngày mất nước, quê hương còn là hình ảnh những buổi chiều vàng khi ánh nắng thoi thóp của một ngày tàn còn vương đọng trên những mãng đồi sim. Chiều tàn, ngày sắp tối chẳng khác chi là một "mệnh lệnh" vô hình hối thúc người tù binh nhanh chân hơn dù mệt và đói vác cây về trại trước lúc bầu trời sụp tối. Rồi đêm về, trong trại tù vừa hết giờ "phê bình kiểm điểm" nhau xong chờ người cán bộ coi tù cầm đèn pin vào từng lán điểm danh gọi số. Cuối cùng, tiễn đưa một ngày là BA tiếng kẻng, đó là "mệnh lệnh" cho tù đi ngủ. Trong giấc ngủ đêm trường, đó là lúc có người tù thả hồn mộng mị về lại chiều xưa, những ngày bé bỏng, rong chơi cùng lũ bạn với chuỗi ngày vô tư vui thú biết bao...

***

Có thật nhiều buổi chiều vàng trong một đời người. Những buổi chiều lưu dấu trong nhiều hoài niệm khác nhau. Thời gian cuồn cuộn trôi nhanh, xô đẩy dòng đời vào nhiều lối rẽ, hay từ biệt quê nhà đi về muôn ngã.
*
Người viết nhớ làm sao những buổi chiều, một thời con nít. Tuổi thơ hồn nhiên vui thú đó là những ngày rong chơi đá dế, thả diều.

Trời trở nồm vài ngọn gió từ mạn biển thổi lên, khi ánh nắng Nam Lào bớt gay gắt là lúc những cánh diều bọn tôi tha hồ bay bổng trên cánh đồng còn trơ gốc rạ.



Từ Cửa Lao Xá, Thành Cổ theo con Đường Ngự ra cánh đồng Hạnh Hoa là nơi bọn trẻ trong xóm chúng tôi làm nơi thả diều thi tài cao thấp. Cánh đồng giáp giới con đường Lê Văn Duyệt, ba tháng mùa hè trống không nhìn thẳng về bờ tre Xóm Tiêu, An Tiêm hay Ba Bến Trí Bưu còn rõ nét. Ruộng này chờ cày đất, đập bằng vồ, sau đó chờ nước từ sông Vĩnh Định lên cho vụ lúa. Nhưng bấy giờ cánh đồng là lãnh thổ của trẻ con chúng tôi làm bãi thả diều.

Ngày xưa chỉ ngần ấy thú chơi, nhưng lứa chúng tôi sao thương yêu nó đến thế? Những cọng tre chuốt mỏng, công phu mềm mại. Những đồng bạc nhịn ăn hàng, tôi mua cho được giấy bóng màu hồng hay xanh cùng cuộn dây gai, lọ hồ, lên tận Chợ Tỉnh mới có. Con diều dán bằng giấy vở, hồ bằng cơm nguội thì thuộc loại thô sơ hay "hết thời" không ai chơi? Những con diều màu mè, bay cao hơn, chắc chắn, có dây gai. Chúng đã tiến hay khá hơn nhiều, là niềm kiêu hãnh cho ai làm chủ nó, trong đó có tôi.

*
NHỚ CON DIỀU NGƯỜI LỚN

Tôi không thể nào quên được thứ diều của người lớn, nếu không muốn nói của các cậu tôi. Diều người lớn cũng được thả trên cánh đồng này. Cánh đồng rộng lớn từ xóm Tiêu trải dài tận Hạnh Hoa. Con diều người lớn phải có đồng rộng để làm bãi phóng nó lên. Diều còn mang trên lưng tới ba ống sáo, bay cao 'tận mây'. Thật quá thích, mỗi lần tai tôi nghe được tiếng sáo diều. Tiếng kêu o o như từ trên mây vọng xuống.

Tiếng sáo diều sẽ kêu suốt buổi những khi trời no gió. Ngắm con diều người lớn làm, lòng tôi ước ao thán phục. Cuộn dây gai to lớn đã tuôn ra hết cỡ, sợi dây cong cong cao lên tận con diều đang căng gió phất phơ. Chỉ có các cậu tôi mới kéo nổi thứ diều người lớn. Con nít chúng tôi chỉ có chạy theo, không đứa nào được cầm; và nếu muốn cũng chẳng ai cho.

Diều đã lên cao bình yên, thỉnh thoảng lại chao chạnh qua lại theo hướng gió. Yên tâm, cậu tôi kéo diều về nhà. Buộc một đầu dây vào cột hiên xong, cậu tôi mặc cho con diều đu đưa mãi trên không với tiếng sáo văng vẳng vọng xuống. Trong làn gió nồm của một buổi chiều, tôi cố lắng tai nghe tiếng sáo diều đó. Tiếng sáo như âm thanh của một thế giới nào đó, rất lạ đối với trí tưởng tượng của đứa con nít. Có chút gì hãnh diện do chỉ có nhà cậu tôi mới có con diều mang mấy ống sáo như thế. Có thể tôi nghĩ đúng, cậu tôi xem chừng thích thú với lối chơi này. Có khi cậu để vậy suốt đêm trăng. Ban ngày, tôi còn nhớ nếu muốn ngưng chơi, con diều sẽ từ từ bị thu ngắn dây lại. Sợi dây ngắn dần, con diều mỗi lúc một to. Tôi cảm thấy chút nào hồi hộp khi Diều trở xuống. Diều đã về nhà, sau một buổi chiều bay bỗng trên đám mây cao, y như trở về từ chốn "thần tiên" nào.



chiều về trên đồng ruộng Triệu Phong Quảng Trị (ẩn danh)


Theo lưu dân Quảng Trị xa lìa quê cũ. Từ Mùa Hè đó ra đi, người Quảng Trị trong đó có tôi vĩnh viễn chia tay những buổi chiều vàng quê hương. Người đi không bao giờ còn có cơ hội thấy ánh tà dương từ từ chìm hẳn dưới rặng Trường Sơn để lại những vệt sáng vàng vọt mờ dần trên nền trời phía tây.

Rồi một miền nam mưa nắng hai mùa. Người quê tôi sẽ dần dà yêu thương quê hương thứ hai này.

Miền nam trở thành hai tiếng thân yêu không biết lúc nào? Quê hương thứ hai chở che cho bao người dân mất đất. Nơi đây lại có những buổi chiều vàng. Bầu trời chung đâu phải riêng ai. Người làm ruộng về nhà, để lại phía sau rơi rớt vài vạt nắng cuối ngày trên đồng lúa vừa cắt. Người tiều phu nhanh chân vác rìu ra khỏi rẫy. Rừng còn buông lơi bao làn khói xám, nhẹ bay trên cánh rẫy cuối ngày. Lũ mục đồng vội lùa bò về làng, trả lại cảnh rừng tối thẩm phía sau. Buôn bán tảo tần đường xa, có anh thương nhân đang gò lưng đạp nhanh xe mong sớm về nhà khi ánh chiều dần dà tắt hẳn trên dặm đường gió bụi...

*

Thời gian mãi trôi với bao buổi chiều vàng như thế. Bao kỷ niệm, bao mảnh đời cùng sánh vai nhau lùi lại phía sau. Có lúc nào ta dừng chân nhìn lại phía sau để đếm được cuộc đời đã qua mấy buổi chiều vàng? Từng vạt nắng 'thi ân' lên ngàn cây nội cỏ trước khi bóng tối phủ trở về rồi lại có ánh dương rực rỡ của bình minh.

Năm mươi năm qua rồi, riêng tôi và có thể có nhiều người xa xứ khác vẫn ngồi trầm ngâm mà thương nhớ những buổi chiều vàng trong quá khứ. Kỷ niệm ngày xưa, là hình ảnh những cánh diều tuổi nhỏ bay cao. Ngày tháng hồn nhiên cứ mãi rong chơi cho đến khi có tiếng mạ kêu vang vang trong xóm. Trên cao, tiếng sáo con diều cậu tôi vẫn mãi ngân nga, nó như "lơ đễnh" chẳng sợ bóng chiều do con diều người lớn bay suốt đêm trăng khi bầu trời no gió ./.

ĐHL edition 9/2/2025

(dựa theo bài Bóng Chiều Xưa cùng tác giả)

50 NĂM - CHUYỆN BUỒN CỦA NGƯỜI THUA TRẬN

 

30 tháng Tư 1975 và CHUYỆN BUỒN CỦA NHỮNG NGƯỜI THUA TRẬN

Thưa độc giả

Cuộc chiến VN kết thúc kèm theo bao câu chuyện bi hùng về người lính VNCH. Có những câu chuyện kể lại nói về nhiều cuộc rút lui để bảo vệ thủ đô Sài Gòn. Nhưng có những đơn vị âm thầm hi sinh để cho những cánh quân Tổng Trừ Bị rút về Huế sau đó trở lại Sài Gòn...
Ít ai nhắc lại hay biết đến những hi sinh im lìm đó. Có những người lính trẻ, họ là những anh hùng vô danh thầm lặng hi sinh không một đòi hỏi hay ta thán nào. Những người lính chỉ biết một bề thi hành nhiệm vụ.
Người viết vào thời điểm này là một sĩ quan trẻ tuổi mới ra trường, với con mắt khách quan và cũng là người trong cuộc đã chứng kiến khi cùng toàn đơn vị hi sinh nằm lại bên bờ Ô Lâu thuộc làng Trạch Phổ và cuối cùng bị bắt làm tù binh vào trưa ngày 23/3/1975 tại rú Phong Bình, Quận Phong Điền Thừa Thiên
Cho đến hôm nay là nửa thế kỷ, thời điểm đúng nửa thế kỷ sau vài lần đăng lại bài này. Mục đích như là nén tâm nhang tưởng niệm về bao hi sinh thầm la lặng của người chiến sĩ VNCH. Bài viết này không luận thắng thua phải trái mà chỉ là tưởng niệm mà thôi. Nửa thế kỷ, tác giả thiết nghĩ cho đây là lần cuối đăng bài viết này như một lần giỗ cuối cùng cho những anh hùng vô danh của VNCH. Bao nhục vinh nhân thế xin bỏ lại đằng sau để bao nhiêu hương hồn u uẩn của quân dân cán chính miền nam đi vào cõi vĩnh hằng và an nghỉ.
Xin người dân ba miền nước Việt hãy trang trọng để dòng quân sử VNCH vào một ngăn kéo nghiêm trang trong dòng Việt Sử. Xin người dân Việt chớ ai dày xéo để khỏi tủi lòng những người con cùng máu đỏ da vàng.

Trân Trọng thay

Tác giả 


NGƯỜI LÍNH TRẺ NẰM LẠI BÊN DÒNG Ô LÂU



Người tân binh tên Thành được bổ sung về trung đội tôi chưa được bao lâu thì đơn vị đã có lệnh rút lui về đồng bằng Diên Sanh. Thành còn quá trẻ, trạc tuổi em trai tôi và lại là người Huế. Đa số người trong trung đội tôi đều là người Quảng Trị nên tôi để ý anh lính trẻ này nhiều hơn.
Gần một năm xa nhà, dấn thân vào đời lính. Ra đơn vị lên vùng núi này Thành bị vướng căn bệnh sốt rét, một chứng bệnh lan nhanh tại vùng núi quanh Động Ô Do.
Vừa khỏi cơn sốt rét nên da mặt Thành còn xanh xao. Nét gian truân người lính chỉ mới khởi đầu nên chưa thể xóa hết đi vẻ non dại của người con trai mới lớn từ một vùng quê. Thật ra, ngày ra đơn vị ngày đó Thành có nói tên quê em, đâu đó dưới quận Hương Điền nhưng lâu ngày tôi đành quên mất?
Sau ba tháng huấn luyện ở Trung Tâm Dạ Lê gần Phú Bài, Thành mãn khóa sau đó được đưa về Tiểu Khu Quảng Trị và cuối cùng em được bổ sung về trung đội 3 của tôi.
Điều tôi biết rõ về người lính trẻ này là Thành vừa rời lưỡi liềm, cái cuốc làng quê rồi đi vào nghiệp lính. Biết bao lớp tuổi cày cuốc, trụ cột cho gia đình từng phải lên đường tòng chinh trong thời tao loạn.
Rồi sau tết 1975, những gì đã đến trong cuộc chiến dai dẳng này bắt đầu xảy ra khi toàn bộ đơn vị Phòng tuyến Động Ông Do có lệnh di tản. Không những chỉ chúng tôi mà các tiểu đoàn lân cận ở vùng núi như Phòng tuyến Barbara cũng di tản vào ngày 17/3/1975
Ai ngờ đâu, Xuân 1975 đó là xuân cuối cùng của người lính miền nam- rồi các đơn vị của Tiểu Khu Quảng Trị là chứng nhân và cũng là nạn nhân cho một kết cuộc đau buồn bên bờ Sông Ô Lâu. Một dấu ấn khó quên trong đời quân ngũ vào tuần lễ cuối cùng của tháng Ba năm 1975. Tôi đã lâm trận và chứng kiến sự rút lui và nói cho đúng hơn là một sự rệu rã đầu tiên bên bờ sông xưa một cách bất ngờ, tức tưởi.
Bắc quân hình như đã được biết trước cuộc chiến đang đến hồi CÁO CHUNG. Họ hí hửng thổi còi vượt sông Ô Lâu bắt đầu vào hơi xế trưa ngày 23 tháng 3 năm đó.

LÀNG TRẠCH PHỔ ƯU ĐIỀM BỜ SÔNG Ô LÂU

Ruộng Trạch Phổ mới cấy xong, nhà hoang cửa vắng
Dĩ nhiên khỏi viết hết lên đây thì bạn đọc cũng hiểu rồi; đó sự tan rã đến nhanh. Nhưng trong tiếng súng và làn hơi áp mạnh của B 40 tấn công, tôi nghe có tiếng hét của hạ sĩ Lộc người y tá trung đội:
-Ch úy , ch Úy ! thằng Thành bị đạn rồi, ngay ngực nặng quá!
Thành chẳng chút may mắn, em bị trúng đạn ngay vào loạt đạn đầu của bắc quân vượt sông ngang xã Hải Văn... Càng lúc áp lực của những toán quân chính quy bên kia vừa qua sông càng bắn xối xả mạnh hơn.
Tất cả đại đội 2 chúng tôi bị dồn ra phía cánh đồng trống trải của Làng Trạch Phổ.
Bên cạnh cái lăng mộ ai đó giữa đồng lúa mới cấy tôi nghe tiếng rên của một người bị đạn, tiếng của Thành. Có thể bạn cho rằng tiếng rên kia phải là to lớn kêu gào hay thống thiết lắm chăng? Không phải thế! Qua bao nhiêu năm tôi không quên được tiếng rên của người lính trẻ. Thành chỉ rên lên tiếng “ i ..;i...” mà thôi. Người bị đạn không còn đủ sức để kêu to do đạn đã xuyên qua ngực, giữa tiếng nổ chát chúa của những tràng đạn tấn công, tiếng B 40 và từng hồi súp lê xung phong nghe lanh lảnh...
.
Đó là tiếng rên hay tiếng kêu đau đớn của người thanh niên vừa rời cái roi giữ trâu hay cái cày bên luống ruộng quê nhà. Một làng quê, nơi đó Thành có mẹ già. Những người thân yêu của Thành vĩnh viễn không còn thấy được Thành về. Tôi đoan chắc là Thành đã chết bên cánh đồng Trạch Phổ do người y tá bỏ cuộc và cả đơn vị tôi cũng tan nát thối lui ra giữa cánh đồng và tán loạn rút về rú Ưu Điềm. Tôi bị bắt tù binh từ cái rú càn đó. Có hai người tiểu đội trưởng cũng ngẩng đầu lên lần cuối cùng và gục xuống. Trong hình ảnh đó, có Hạ Sĩ Hách người tiểu đội trưởng già mà tôi còn nhớ tên.
Làm sao tôi quên được Thành, em là người lính trẻ mới về đơn vị tôi chỉ hai tháng, lại vĩnh viễn ra đi trong ngày tàn cuộc chiến? Tiếng rên “i ..i” của em -một người bị trúng đạn nhưng sao tôi nhớ mãi đến hôm nay? Tiếng kêu đau thương của một người thanh niên hay đúng hơn là một em nhỏ mới lớn. Một lứa xanh chưa có niềm vui nào khi tập tễnh bước vào đời với làn vải kaki, màu áo trận, cùng nòng súng lạnh lùng? Một lứa trai vừa giã từ cuộc sống đơn sơ bên mái tranh nghèo cùng mẹ hiền dưới khóm tre làng. Thành chỉ quen và nhìn đời qua những ngày chân lấm tay bùn bên con trâu, nhánh lúa.
Giờ đây em chỉ còn những làn hơi yếu ớt còn lại. Chút sức lực cuối cùng của một người trai, chới với thảm thương cùng sự tan nát của đơn vị mình giữa cánh đồng chưa xanh lá mạ ...Một tiếng rên đớn đau nhưng quá âm thầm, rời rạc không còn đủ sức để kêu thêm hai tiếng:
-MẸ ƠI!
Đó là tiếng nói cuối cùng người lính trẻ hay là nỗi buồn sót lại của một cuộc chiến ĐANG TÀN trên quê hương dau khổ Việt Nam.

nhờ vào cuốn phim tư liệu cũ có tên là "Đường về GP Huế" 26.3.1975, tác giả đã lấy được hình ảnh của toán tù binh (trong đó có tác giả đội nón lưỡi trai đi giữa) của đơn vị đại đội 2 tiểu đoàn 105 ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đang bị dẫn ra Đông hà ngày 24.3.1975, hình ảnh này có thể ngang đoạn gần Bến Đá

đồng bào QT chạy lui về nhà ngày 24/3/1975



***

Đã bốn mươi tám năm qua kể từ cái chiều 23 tháng 3 năm 1975 bên bờ Sông Ô Lâu, khi cầm bút viết vài dòng cho Thành tôi không cầm nỗi giọt nước mắt thương nhớ về Em. Thật tiếc và oan uổng cho Em trong giờ phút kết thúc chiến tranh. Em có hi sinh thêm nữa thì số phận miền nam cũng đã được định phần. Cái chết của em cũng chẳng giúp thêm gì cho NHỤC VINH của những người may mắn còn lại trên cuộc đời này?
Trên bàn thờ nhà em trong làng của người lính tử trận này, giờ có thể còn một bát nhang thờ vọng cho Em, người ra đi không hẹn ngày về? Con trâu bờ ruộng cùng lũy tre làng Thành vẫn doi dỏi trông chờ hình bóng người lính trẻ; dù em có về cùng đôi nạng thương binh. Nhưng có điều tôi tin chắc chắn rằng THÀNH cùng hai người tiểu đội trưởng cùng những anh em khác đã vĩnh viễn không về. Cũng như người đại đội trưởng chúng tôi, Đại Úy Lê Kim Chung, Anh đã nằm lại một mình bên làng Lương Mai, cũng vĩnh viễn chẳng về...
Gần năm mươi năm, sau ngày tàn cuộc chiến nhưng quê Mẹ vẫn còn quá nhiều trường hợp như Thành vẫn còn quá nhiều mẹ già đau đáu chờ con, vẫn nuôi hi vọng con về, cho đến lúc nhắm mắt tàn hơi?
    Tôi vẫn mãi thương xót cho số phận một NGƯỜI LÍNH TRẺ cùng tiếng rên cuối cùng bên bờ ruộng mới cấy của cái làng tên là Trạch Phổ năm xưa. Hàng năm cứ đến tháng Tư Đen là tôi tiếp tục tái đăng bài Hồi Tưởng về Thành. Đây cũng là nén tâm nhang cho tôi tưởng niệm về hương hồn một người LÍNH TRẺ đã hi sinh oan uổng trong ngày TÀN CUỘC CHIẾN. Đã nửa thế kỷ qua mau nhưng một câu chuyện trong muôn triệu nỗi buồn chiến tranh cứ day dứt và ám ảnh mãi làm lòng tôi khó bề quên được ./.

Ký Ức ĐHL Bên Bờ Sông Ô Lâu ngày Tàn Cuộc Chiến 23/3/1975

Đinh Hoa Lư



Friday, February 7, 2025

NĂM MƯƠI NĂM NHỚ CÂU CHUYỆN "QUAN THỪA LÍNH THIẾU"

 

NĂM MƯƠI NĂM ÔN LẠI CHUYỆN XƯA

Ký Ức của những người Trung Đội Trưởng sau lệnh ĐÔN QUÂN 


KHÓA BA ĐÌNH 12B/72 SĨ QUAN TRỪ BỊ 

TRƯỜNG ĐỐNG ĐẾ NHA TRANG 

CHỈ HUY TRƯỞNG: TRUNG TƯỚNG DƯ QUỐC ĐỐNG

 

TẠI SAO CÓ CHUYỆN NHỮNG ÔNG CHUẨN ÚY “KISSINGER”


Tại sao có cái tên “Chuẩn Úy Kissinger” đó ? Ai là người hiểu chuyện này?

Chào bạn đọc

Chuyện kể về Việt Nam Cộng Hòa hay Quân Lực VNCH một trang sử chiến bại trong cuộc chiến Quốc Cộng đã được nói hay viết quá nhiều nhưng người viết thiết nghĩ câu chuyện “Những Ông Chuẩn Úy Kissinger” có thể ai là người trong cuộc mới hiểu vấn đề này có thật. Những người Sĩ Quan cao cấp nhưng vị chỉ huy có chức vụ cầm đầu đã ra trường trước giai đoạn chiến sự 1972 thì khó biết được. Lý do là họ đâu còn ở cấp trung đội nữa mà là mấy ông cỡ Tiểu đoàn trưởng trở lên họ đã qua cái thời kỳ mang cái “quai chảo” trên ve áo, mặt còn trẻ măng “búng ra sữa” như mấy anh thanh niên thụ huấn sau thời điểm 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa.



MÙA HÈ ĐỎ LỬA và LỆNH ĐÔN QUÂN nhưng CÁI TRỚ TRÊU LÀ LÍNH THIẾU QUAN THỪA


1972 là cái mốc thời gian trong Chiến Tranh Việt Nam khi quân Bắc Việt tung toàn lực đánh VNCH trên các mặt trận nhất là từ Quân Khu I cho đến Quân Khu III. Cũng từ 1972 với sự rút lui của Sư Đoàn 3 Giới Tuyến mới có từ “Di Tản Chiến Thuật”. Di tản Chiến Thuật nói cho đúng ra là thua và rút. Nhưng cái hậu quả của Di Tản Chiến Thuật kèm theo sự hoảng loạn của người dân chạy bám theo người lính mới gây ra sự tan rã nhanh hơn.


Lệnh Đôn Quân từ TT Nguyễn Văn Thiệu nhắm vào tầng lớp sinh viên học sinh, tất cả đều bớt một năm gia hạn tuổi và phải vào quân trường hết. Nhưng cái khủng hoảng của chiến trường miền nam là THIẾU LÍNH chứ chẳng hề THIẾU SĨ QUAN.  Từ ông Thiệu cho đến Bộ TTM chẳng hề nghiên cứu điều này. Những người nhận LỆNH ĐÔN QUÂN đều ít nhất có văn bằng TÚ TÀI I trở lên.  Người viết cũng thế dù có Tú Tài II nhưng chẳng vào Đại học được. Vào quân trường các tân khóa sinh có nhiều người đã có bằng cao học nhưng chỉ rớt 1 năm là "a lê hấp" vào quân trường. Các đại đội tân khóa sinh, nếp gạo trỗn lẫn tú tài, cao học, sinh viên năm thứ...rồi sẽ ra chuẩn úy giống nhau và dĩ nhiên là họ không thể tốt nghiệp trung sĩ hay binh hai được.


Thế là quân trường từ trung tâm tuyển mộ nhập ngũ cho đến Quang Trung, Trường Võ Khoa  Thủ Đức, Đống Đế Nha Trang mỗi khóa đều trên một ngàn khóa sinh có lúc phải chia hai. Đôn quân và đôn quân từ đó các tân chuẩn úy ra trường tràn đầy đơn vị. Một trung đội ngoài chuẩn úy (hay thiếu úy) trung đội trưởng lại phải kèm thêm một ông tân chuẩn úy mới ra trường. Người tân chuẩn úy này chẳng có việc gì làm, trong lúc lính lại thiếu, có lúc phải mang ba lô đi qua trung đội khác chịu cảnh “không nhà, không đơn vị” …từ đó cái danh hiệu Kissinger ra đời .


TAI SAO LẠI CHỌN TÊN KISSINGER ?



Lê Đức Thọ (bìa phải) nói chuyện với Henry Kissinger qua người phiên dịch (lê đức Phương) tại Paris năm 1972


Nếu trở lại Chiến Tranh VN vào thời gian đó Henry Kissinger là người ngoại trưởng có sứ mệnh đi đi về về, Mỹ VN, Mỹ Paris với nhiều nhiệm vụ như “con thoi” Vị ngoại trưởng này còn là Cố Vấn An Ninh cho TT Mỹ là Richard Nixon và nắm rất nhiều yếu tố then chốt trong chiến tranh và hòa đàm nên còn bị gán cho cái tên là “Phù Thủy”. Nhưng hình dung người tân chuẩn úy đi đi về về trung đội này qua trung đội khác thế là bị gán cho ám danh là “chuẩn úy Kissinger” là thế. Kissinger là “rày đây mai đó” không có trung đội nào để nắm cả. Một thời gian đầu ra trường chính tác giả câu chuyện này cũng lâm vào hoàn cảnh này và chứng kiến đồng nghiệp ra sau mình một thời gian.


 HÌNH ẢNH THẰNG BẠN CÙNG KHÓA TỐNG HUỲNH THA  NGƯỜI “CHUẨN ÚY KISSINGER” TỘI NGHIỆP MÀ TÔI NHỚ MÃI TRONG LÒNG



    Tống Huỳnh Tha là đứa bạn đồng khóa 12B/72 không biết tại sao lại trôi giạt ra cái tiểu khu “chó ăn đá gà ăn muối” này không biết nữa? Người kể chuyện, tác giả, là gốc Quảng Trị do thương nhớ Quảng Trị mà tình nguyện chọn ra đây, về Quê Ngoại. Còn thằng Tha hắn là gốc Chợ Lớn người Tàu sao lưu lạc chốn này. Tha  ra Tiểu Khu Quảng Trị về Tiểu Đoàn 105 rồi về đại đội chúng tôi. Các sĩ quan mới cấp số trung đội trưởng đang dư thừa. Thật ra hắn trình diện tiểu đoàn 105 khá lâu. Ông Hồ Văn Cầu Tiểu đoàn Trưởng cho Tha tạm ở bộ chỉ huy tiểu đoàn một thời gian do không biết phải đẩy về đại đội nào? Vô lý ở mãi tiểu đoàn, thế là Tha phải về đại đội HAI của đại úy Lê Kim Chung. Nhắc đến Tha, trước tiên Đại Úy Lê quang Hiền chỉ lắc đầu ái ngại do hắn ta là lai Tàu mà lại người Sài Gòn. Tiếng Việt đã “lơ lớ” nhưng ác hại thay, hắn lại bị tống ra cái xứ tiếng nói trọ trẹ thật “ư là nặng” ngay người kể chuyện đôi lúc nghe cũng ngớ ra huống gì thằng bạn gốc nam? Thêm vào đó tâm tính người gốc Tàu làm sao "hội nhập" cho được vào cái xứ miền trung cực khổ, khó khăn rồi sinh ra khó chịu. Nói thật thì mất lòng, có thể độc giả chẳng ưa giá như thằng bạn đó trôi giạt về miền nam lục tỉnh nơi dân tình hào phóng dễ dãi hơn thì đỡ khổ cho hắn.


Tội nghiệp Tha hắn không biết đi đâu? Đầu tiên cũng kiếp ‘ăn tạm ở nhờ’ ở ban chỉ huy đại đội rồi chẳng có việc gì làm do trung đội trưởng trung đội nặng đã có thằng bạn khóa 9B/ 72 Lê văn Linh gốc Huế chiếm giữ rồi. Thằng Linh thì miệng liếng thoắng, khá vui vẻ và nhất là biết cách pha trò hay vừa lòng Đại đội trưởng hơn mấy trung đội trưởng khác nhiều. 

Thằng Tha, mang số phận “Kissinger” đúng nghĩa nhất. Ở ban chỉ huy đại đội lâu ngày nó lại là “đại sứ con thoi” tức là ông Henry Kissinger thời đó, khi ở trung đội này rồi sang trung đội khác. Nó không là trung đội trưởng khi trung đội trưởng đã đủ. Tha chỉ mang cái danh giả hiệu là “phụ tá trung đội trưởng" cho có. Phụ tá gì, có việc gì đâu. Giá như hắn ở vào thời lên núi Ô Do lúc lính đau thiếu thì có thể "phụ gác" với trung đội trưởng là tôi. Lên Động Ô Do sau này lính bị sốt rét đau hơn một nửa, trung đội chỉ còn 20 mạng. Quan Lính gì cũng chia nhau mà gác 2 ca một đêm.

Thời gian người kể về Tha là lúc đơn vị còn đóng ở Triệu Phong sau tết 1974.


...tiếp tục câu chuyện, tôi từng tự hỏi trong lòng lại hai chữ “phụ tá” nó chẳng có ý nghĩa gì nếu không muốn nói ra là quá dư thừa. Tôi là nhớ số phận một chuẩn úy khác cũng ‘trôi nổi’ về đại đội 2 chúng tôi một thời gian. Thằng Phước người nam, cũng chẳng có công việc do dư trung đội trưởng. Mà dư trung đội trưởng có nghĩa là do quân trường Thủ Đức và Đống Đế cho “ra lò” nhiều tân chuẩn úy sau cái LỆNH ĐÔN QUÂN. May cho thằng Phước, mang số thất nghiệp chỉ một thời gian. Vừa đổi quân lên vùng núi Ô Do thì hắn được Đại Đội trưởng Chung cho nó thuyên chuyển về Tiểu Đoàn để lấy sứ vụ lệnh về lại Sư Đoàn I do đòi hỏi của Quân Khu. Phước đi chưa hết mừng cho nó do nó đã thừa mà lại không được lòng Đại đội Trưởng cho lắm.




Nửa thế kỷ qua thế nhưng người kể chuyện chưa quên khuôn mặt của Tha. Một khuôn mặt phải nói là ngơ ngáo nửa giọng SG cùng lơ lớ giọng Tàu. Bộ đồ lính bạc màu, bụi đất xem chừng chẳng hề thay. Hắn là một “Kissinger” thì làm gì có một trung đội để chỉ huy cùng hầm trú ẩn hay máy liên lạc PRC 25. Dĩ nhiên, Tha chẳng hề có người lính nào dưới tay. Rõ ràng Tha 'chẳng có nhà mà chẳng có việc'. Không có lính thì ai nấu ăn cho. Có người thương thì kêu Tha tới ăn có lúc bị lơ đi thì thật tội? Một trung đội không thể có "2 vua", quả thật người trong cuộc như người viết mới chứng kiến cảnh trung đội trưởng lúc này quả thật dư thừa.  Sau Hòa Ước Paris, số trận đánh ít đi do vậy cảnh hao hụt sĩ quan trên chiến trường ít đi rõ rệt. Trước Hòa Ước 1973 chỉ vài trận là số sĩ quan mới ra đơn vị hao đi rất nhanh thì làm gì có cảnh lính thiếu quan thừa?


Giờ ngưng bắn không còn chuyện sĩ quan ra trường "bị nướng" nhiều thế là cái hệ quả của câu chuyện ĐÔN QUÂN xuất hiện. Đôn quân đồng nghĩa đa số sinh viên và học sinh có bằng tú tài trở lên đều vào quân trường. Họ ra trường mang cái lon đầu tiên là chuẩn úy và rồi khi mặt trận lắng dịu khắp nơi, dĩ nhiên sẽ hiện ra cái cảnh  quan dư lính thiếu. Lính thiếu là câu chuyện thực tế. Các ông tướng tá trên cao đâu hiểu hết sự tình này. Học trong quân trường, cấp số một trung đội là 42 người. Thực tế ra trường trong trung đội của người viết hiếm khi tới được 30 người. Người thiếu nhưng đạn dược tiếp vận cũng thiếu. Có ai nghĩ rằng một trung đội trưởng đang ở tiền tuyến chỉ có trong mình 3 quả lựu đạn M 67 và 150 viên đạn AR 15 chăng? Chốt trung đội tại Động Ông Do của tôi chỉ có 2 quả mìn Claymore để gài  nhưng một quả không có kíp nổ. Còn lính thật tình quá thiếu. Lính thiếu do không mộ được lính, lại còn tình trạng đào ngũ…có đứa từ bộ binh về nhà một thời gian đào ngũ tiếp ra địa phương quân. Có khi đào ngũ qua đơn vị khác nhưng đơn vị cũ vẫn còn ăn lương chưa báo (lính ma)...

Chuyện 50 năm chỉ có người sĩ quan cấp nhỏ có nghĩa là trung đội trưởng giáp mặt với quân địch do phải ở phía ngoài cùng mới thấu hiểu bao gian nan thiếu thốn.


***


GẶP LẠI TỐNG HUỲNH THA SAU NGÀY  "GÃY SÚNG" 


Mười mấy năm sau ngày người viết ở tù về, quá bất ngờ lại gặp và nhận ra Tha tại vùng Chợ Lớn. Hắn đang lang thang với chiếc xe đạp gà tàng đi mua phế liệu gần khu vực BV Chợ Rẫy.

 Người viết do đi nuôi mẹ già đang nằm bệnh viện Chợ Rẫy. Tuy Tha phải đi mua phế liệu kiếm sống nhưng so ra, hoàn cảnh của người viết còn tệ hơn Tha do hắn dù sao cũng là dân thành phố. Hàng ngày người viết phải dùng chiếc xe đạp thồ nặng nề bới từ vùng nương rẫy Hàm Tân vào SG làm phương tiện đạp từ Gia Định qua BV Chợ Rẫy nuôi mẹ.  Hai đứa gặp nhau gần 20 năm sau ngày tù tội, chưa hết mừng, tôi đã nhận ra khuôn mặt Tha đầy ác cảm ... 


Mặt Tha đỏ gay, bao nỗi uất hận, mặc cảm sau bao năm hắn vẫn không quên. Đó là hình ảnh cái ngày hắn mang cái lon chuẩn úy ra trình diện cái xứ QT quê tôi- "chó ăn đá gà ăn muối" lòng người thì khô khan không hề hào sảng, cảm thông nào với hắn. Linh tính báo động cho tôi hay rằng hình như hắn muốn trút bao uất hận thù ghét vào tôi vào giây phút đó...


Tôi vội chuồn mất không kịp nói từ biệt với Tống Huỳnh Tha. Mang cái giỏ thức ăn từ nhà mợ tôi tại chợ Bà Chiểu Gia Đình lên tầng hai BV thăm mẹ già, trong lòng tôi chỉ biết mừng cho Tha còn sống trở về với Chợ Lớn nơi xứ người Tàu hay Minh Hương gì đó của hắn.


Đúng nửa thế kỷ qua đi người viết không còn ca cẩm phàn nàn chuyện thiếu thốn mọi thứ từ viện trợ cho đời lính VNCH do khi đã hiểu ra người bạn ĐỒNG MINH ĐÃ BỎ BẠN DỨT GÁNH GIỮA ĐÀNG chuyện này nói ra cũng thừa do đã được nói quá nhiều...Dù sao đã qua được xứ Mỹ, con cái đã thành đạt mọi bề đó là phần thưởng cho những người từng thiếu thốn mọi bề những ngày ra đơn vị hay tù tội sau này.


Tác giả có thể cho rằng trong những cái không hề ai biết do các vị sĩ quan cấp cao, quyền lợi đầy đủ “tà lọt, gác đơ co” thừa thãi bên mình họ chẳng hề hay có những ký ức và hình ảnh chỉ có NHỮNG NGƯỜI SĨ QUAN TRUNG ĐỘI TRƯỞNG SAU THỜI ĐÔN QUÂN 1972 NHỚ MÃI


Đó là chuyện của những người Chuẩn Úy mang cái biệt hiệu “Kissinger” ra trường một cách thừa thãi vô duyên do họ tuy tốt nghiệp Trung Đội Trưởng mà chẳng hề có dư trung đội để nắm. 


Cái hệ quả của LÍNH THIẾU QUAN THỪA sau MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972 TỪ MỘT CÁI LỆNH ĐÔN QUÂN THIẾU THỰC TẾ vào NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG CỦA TRANG SỬ SẮP SỬA SANG TRANG./.

 

ĐHL viết cho 50 năm THÁNG TƯ ĐEN

 

 

Friday, January 31, 2025

HÃY SỐNG THỰC VỚI KHẢ NĂNG CỦA TA

 CHÀO BẠN ĐỌC

Trước hết xin mời bạn đọc một ngụ ngôn AESOP 


CHUYỆN CON QUẠ MƯỢN LÔNG CÔNG




Chú Quạ có cơ hội bay qua vườn ngự uyển của một vương quốc nọ. Quạ ta có cơ hội chiêm ngưỡng rất nhiều cảnh đẹp diệu kỳ nhưng do tính khí nhỏ mọn, nó lại ghen tị với bấy Công Hoàng Gia đang có trên thân những bộ lông màu sặc sở, đẹp tuyệt trần.

Giống Quạ đen thì bạn biết rồi, nó là giống chim đã không đẹp thái độ lại còn hẹp hòi nữa. Đã vậy Quạ còn tưởng tượng rằng nó sẽ hòa nhập được với xã hội loài Công dưới kia nếu nó có bộ lông như chúng. Từ ý nghĩ đó Quạ bèn đi lượm lại những sợi lông Công rụng, xong gắn quanh bộ lông đen của nó.

Mang bộ lông vay mượn này, Quạ ta vừa khệnh khạng, vênh váo bước về nhà khoe cùng bầy chim của nó. Xong Quạ ta bay trở lại vườn Ngự Uyển chen giữa bầy Công. Nhưng bầy Công biết ngay nó là ai. Nổi giận do Quạ là đứa lừa gạt, bầy Công liền xáp tới vặt trụi những sợi lông Quạ giả dạng. Chưa hết, một số lông đen của con Quạ gian dối kia còn bị bầy công vặt mất.

Con quạ tội nghiệp bay về lại tổ. Chưa hết xui xẻo, ở nhà quạ cũng còn nhiều điều bất mãn đang chờ đợi nó. Bầy quạ nhà chưa quên thái độ hách dịch của quạ vừa qua nên trừng phạt bằng cách đuổi nó ra đi bằng hàng loạt cú mổ đau điếng kèm thêm nhiều tràng cười chế nhạo ./.


*    Bộ lông vay mượn không hề biến thành loài chim đẹp

*    Trứng rồng thì nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu

*    Cái áo khoác không hề làm được thầy tu

* Hữu xạ tự nhiên hương

* Cáo mượn oai hùm, lâu ngày cũng lộ ra chân tướng  

=============== 

HÌNH- CÁO MƯỢN OAI HÙM



LỜI BÀN của ĐHL


Thưa bạn đọc

Câu chuyện ngụ ngôn xem chừng hóm hỉnh nhưng xét với mọi thời đại thì nó rất thích hợp để răn người. Thật thế thời nào cũng có hạng người chuyên núp lén và nhờ vả vào hào quang của kẻ khác để tự vinh danh cho cá nhân mình. Thực tài của họ đã kém nhưng không chịu học hỏi hay sống thật với khả năng hiện tại của mình lại ưa nổi trội một cách dối trá. Nói một cách khác "cáo mượn oai hùm" chúng ta thấy nhan nhản khắp nơi, khắp mọi hoàn cảnh xã hội. Trong đời sống kinh tế chính trị đã thế, lắm kẻ không tự "đứng bằng hai chân của mình" nhưng lại ưa thích dựa hơi chức quyền danh vọng của gia đình, bè bạn phe nhóm để kiêu căng hay khoe khoang với người khác là thói đời ta hay gặp. 



cái áo choàng không biến mình thành thầy tu 


Trong văn chương thi phú cũng thế, nó không là ngoại lệ. Thi sĩ thời nay quá nhiều, quá loạn nhưng số thi gia đáng giá chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thời đại tin học, nhan nhản thi văn nhưng tuổi thọ của tác phẩm thời đại này chỉ sống một thời gian ngắn lại chìm vào quên lãng. Tại sao như vậy? Do tác giả đó không sống thực với khả năng mình. Họ sống trong ảo giác và hoang tưởng hay cố giấu che khả năng hạn hẹp của con người mình. Thơ không ra thơ văn không ra văn. Viết lách chân thật, thì lại lười chỉ buông vài ba chữ Câu không ra câu, cú không ra cú, vần không ra vần chẳng biết là loại thơ gì lại 'phán' cho một danh hiệu là "THƠ Mới". Nếu đã lười biếng viết lách ta nên đọc và trở thành độc giả hơn là tác giả. Viết lách biếng, sợ mỏi tay đau óc lại viết vài câu vài chữ, cho có... thơ không hề là thơ mà văn xuôi chẳng hề là xuôi không ra thể loại gì? nhưng họ lại háo danh mới là một thứ bệnh đáng chê trách. Thứ bệnh bất tài nhưng lại ưa nổi trội.


Áo thụng vái nhau- cứ thế người này 'phong tước' người kia và người kia 'phong hầu' cho người nọ là THI BÁ, THI GIA vậy là xong. Hậu quả đưa đến là thi đàn chúng ta rơi vào tình trạng 'tạp pí lù' OAN UỔNG cho nhiều tài năng đúng nghĩa.

Hãy sống thực và chân thật với khả năng của ta hơn là 'choàng cái áo thầy tu' nó chẳng hề biến mình thành thầy tu được. Hữu xạ tự nhiên hương mà thôi.

Ngu Yên là bút hiệu của Nguyễn Hiền Tiến, sinh năm 1952 tại Bình Định, hiện cư ngụ ở Houston, Texas. Ông cộng tác với nhiều tạp chí văn chương hải ngoại, giấy cũng như mạng: Văn Học, Hợp Lưu, Văn, Việt Magazine, Quê Mẹ, Làng Văn, Da Màu, Gió-O, Tiền Vệ, Văn Việt… 

Ông có lời phê bình thẳng thắn như sau

 “Báo chí, tập san, sách in, nhất là trang mạng và mạng thông tin xã hội, đầy dẫy thơ, cát và ngọc lẫn lộn, ngọc ít cát nhiều. Người đọc ít được diện kiến thơ hay mà phải liếc qua nhiều thơ dở, khiến thơ càng ngày càng mất uy tín, mất thưởng ngoạn. Thơ, giờ đây, không phải chỉ là rẻ rúng, mà miễn phí vẫn không lôi kéo được mắt nhìn, như cá ươn chợ chiều cho không, chẳng ai lấy...

Có nhiều điều trăn trở về thi văn thời đại nói như Ngu Yên do "cát ngọc lẫn lộn, ngọc ít cát nhiều..." mà ra cả. 

Thói đời hay vị nể, kiêng dè hoặc 'phong tước' cho nhau cuối cùng đi đến sự 'lạm phát' trong văn học đó là điều cảnh báo. Trong thời đại Internet khi bao thế hệ đi sau đang mê mẩn vào giải trí qua hình ảnh, lười biếng đọc dần hồi, tình trạng lạm phát thi văn phải chăng khiến chúng ta ai có chút lòng sao không buông tiếng THỞ DÀI cho đặng?


ĐHL  mồng 3 tết Ất TỴ 



BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...