Wednesday, January 22, 2025

THÀNH XƯA

NHỚ CỔ THÀNH và PHƯỜNG ĐỆ TỨ NĂM XƯA



vài lời thưa trước với bạn đọc


CỔ THÀNH hay THÀNH CỔ 


Trước 1975 danh từ CỔ THÀNH từng được gọi cho tên Thành Quảng trị một kiến trúc có từ thời Nhà Nguyễn. 

Theo cuốn Từ Điển Nhà Nguyễn của nhà Biên Khảo Võ Hương An,

Thành Quảng Trị (Cổ Thành) đầu đời Gia Long thành là lỵ sở dinh Quảng Trị, đặt tại Phường Tiền Kiên Huyện Thuận Xương. Qua năm Gia Long thứ 8 (1809) mới dời về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) chỉ mới đắp bằng đất,  qua năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới xây gạch. Thành Quảng Trị có chu vi 481 trương  6 thước (1926.40 mét), cao 1 trượng (4m), dày 3 trượng (12m), có 4 cửa, chung quanh có hào rộng 4 trượng 6 thước (18.40m), sâu 8 thước (2.40m). Thành này hoàn toàn bị phá trong chiến trận năm 1972. (trích)

Ngoài ra chúng ta nên phân biệt Cổ Thành với Làng  Cổ Thành (hình dưới).

Trước 1972 người thành phố QT gọi tắt Cổ Thành là "THÀNH". Nói "Thành" nhưng ai cũng hiểu đó là Cổ Thành QT

vd:

-Khi hôm có pháo kích trong Thành 

-Ba hắn làm lính trong Thành 

-Đi vô Cửa Hữu, Cổng Thành Đinh công Tráng

nhân đây người viết cũng xin nhắc lại ngày xưa ngay từ lúc mới ra đời chữ "Thôn Đệ Tứ, Đệ Tam" đã có sau thời Đệ Nhị CH cùng thời với phong trào "Ấp Tân Sinh" lại có tên là Phường ví dụ Phường Đệ Nhất, P Đệ Tứ Thị xã QT...nên có cái chức là Phường trưởng, Ấp Trưởng .Cùng thời phong trào Xây Dựng Nông Thôn đặc biệt được coi trọng.

bản đồ của Pháp Thành Quảng Trị năm 1883 tỷ lệ xích 1/4000 có ghi chú từng nơi đánh dấu Alphabet chữ in hoa (nguồn: Võ Hương An. Tự Điển Nhà Nguyễn)



        

vào bài 


Biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên con sông thương
Nào ai biết nông sâu? 


 THỜI GIAN QUA MAU. ÔI 'SUƠNG GIÓ PHÔI PHA XÓA DẦN BIẾT BAO KỶ NIỆM CỦA NHỮNG NGƯỜI THA HƯƠNG BIỆT XỨ. NHỚ LÀM SAO MỘT BỨC TƯỜNG THÀNH RÊU PHONG PHỦ KÍN, DI TÍCH QUẢNG TRỊ, NAY CHỈ CÒN ĐỌNG LẠI TRONG KÝ ỨC BAO NGƯỜI! 

NGƯỜI QT LY HƯƠNG CHẲNG KHÁC CHI "CON THUYỀN KHÔNG BẾN"  THUYỀN TRÔI MÃI CHẲNG HẸN LÚC VỀ.

ĐÊM TRƯỜNG TỈNH GIẤC TA NGHE "TIẾNG XƯA" NHƯ VỌNG LẠI TỪ TẬN ĐÁY LÒNG...QUÊ HƯƠNG  BIẾT BAO GIỜ TRỞ LẠI? DĨ VÃNG NAY CHỈ CÒN TRONG TÂM THỨC  NHƯ BAO ÂM VANG TỪ QUÁ KHỨ VỌNG VỀ,  MỘT THƯỞ HỒN QUÊ  

(bài tái đăng )



     Ngược thời gian trở về quá khứ, tôi nhớ về Cổ Thành xa xưa Quảng trị trong mờ nhạt khói sưong, Cổ Thành như ẩn như hiện với những gì còn sót lại trong ký ức một ngưòi xa xứ.

   
Đối với tôi, hình ảnh cái thành xa xưa đó trong những sáng mù sương chẳng khác gì một bức tranh xưa trong Việt Sử hay những truyện cổ tích mà tôi thường đọc.
Cửa Hậu trong làn sương sớm qua trí tưởng tưởng của tuổi thơ - tôi từng mơ màng trong cổng thành uy nghiêm kia có những vị "tướng trời cùng muôn ngàn tinh binh gươm giáo đầy trời". Trong thinh không vắng vẻ của ban mai, mặt hồ quanh thành bồng bềnh một màu trắng đục của màn sương như những đám mây làm trí tưởng tưởng của tôi xa thêm- cái cổng thành như ở trên mây, hay cái cổng "THIÊN ĐÌNH" trong truyện tranh tôi hay đọc. Cho đến khi vầng dương lên cao, ánh nắng mai đã phá tan màn sương đục thì thành cổ mới trở về hiện thực của nó.
  Xóm tôi ở đối diện với cổng thành Cửa Hậu. Cửa Hậu còn gọi là cửa Lao Xá vì Pháp xưa kia dùng giam giữ tù chính trị. Sau này Cửa Lao xá cũng như nguyên tên cũng dùng để giam tù. Cửa Lao xá vẫn mở cho đến năm 1967 thì bị lấp kín sau khi phía Mặt Trận đánh và giải thoát khoảng một trăm rưỡi người tù. Tôi nhớ cái đêm hôm đó tôi nằm trốn dưới gầm giường mà người run cầm cập. Bên ngoài, tức là con đường Ngự - con đường kiệt đâm chạy thẳng tắp về đồng An Tiêm- gần sáng có tiếng chân người chạy rầm rập, xôn xao. Sáng mới biết đó là chuyện cửa Lao xá bị phá và phía bên kia đã vào được trong thành để giải thoát tù chính trị. Ông Tỉnh Đông chạy theo đám người này. Nhưng không ai biết ông là ông Tỉnh Đông cả. Trời hơi tờ mờ, ông  một mình trốn chạy lui. Ông ngồi trước hiên nhà ngoại tôi, tức là nhà tôi ở. Ông tỉnh Đông lúc này bận bộ đồ tù màu đen, trong nhà ngoại tôi không biết là ai nên cả nhà đều rất sợ. Sau này trong nhà mới nghe nói là ông. Trong vụ đánh Lao Xá vào năm 1967, phía họ giải thoát được đâu hơn trăm người tù nhưng phía họ cũng bị tử trận hơn mười người.

 

 

2022 bạn Nguyễn Văn Bốn người P Đệ Tứ xưa về thăm Cửa Hậu nay chỉ còn gạch đá rêu phong 

   Nhớ về Cửa Hậu tức là tôi phải kể cái mốc thời gian trước 1967 vì khi này tôi nhớ đến cái cổng thành tôi hay vô chơi. Tụi con nít như tôi ở xóm Cửa Hậu hay vô được vì mấy chú Bảo An gác thành cũng không e ngại gì lũ nhỏ này chú đã quen mặt. Thế là tụi tôi vào được thành cùng với lũ bạn con lính trong thành leo lên Thành Cổ chơi. mới biết bức tường thành dày ơi là dày! thảo nào đất ngoài thành bị mất đi tạo thành cái hồ to lớn bao quanh. Bức tường thành, như một con đê có con đường nghiêng nghiêng cho bọn tôi leo lên chơi. Ngó ra xóm Hậu, hướng về đồng An Tiêm có bờ tre cong cong mờ nhạt. bọn tôi khoan khoái biết mấy. Có đụn cát cao ai đổ sát chân thành phía ngoài chúng tôi thi nhau đứng trên thành dám liều mình thi gan nhảy xuống. Xong, bọn chúng tôi lại chạy vào thành leo lên nhảy xuống tiếp... Mấy chú lính Bảo An  hàng ngày gác thành đứng ngó theo chỉ cười mấy chú chẳng la rầy con nít trong xóm. Ngày nào mấy chú cũng ra xóm chơi hay mua vài món đồ vặt nên chúng tôi quen mặt.

 

    Từ cửa thành theo cái cầu gạch đi ra gặp đường Lê Văn Duyệt, có hai cái chái nhà nghỉ tạm, lợp tôn cho người đi thăm tù. Ngày thăm tù sẽ có nhiều đợt người tù có lính dẫn ra gặp gia đình.

 

Những giỏ đồ ăn, những miếng lá chuối đựng quà, những mo cơm, những lời nói năng tâm sự. Hình ảnh lưu luyến của người nhà từ dưới làng quê, những miếng cơm mang nặng hơi hám ruộng đồng và những giây phút ngắn ngủi. Rồi người tù chính trị phải chia tay vào lại trong thành để người tù khác ra...

 Khi cái cổng sắt khép lại, bên trong là một thế giới khác hẳn với bên ngoài. Phía ngoài là xóm Cửa Hậu thân thương muôn thuở của chúng tôi cùng những ngày tuổi thơ  vui chơi và hồn nhiên ăn học. 

Nhớ làm sao, có những đêm lũ nhỏ chơi đá lon ngoài đường Lê Văn Duyệt, tai tôi nghe rõ tiếng kẻng của các chú lính canh đổi phiên gác đâu đó quanh thành. Đêm về khuya, ai cũng nghe rõ tiếng mấy con chim cuốc quanh hồ thành kêu mãi  không ngưng. Tiếng chim kêu đêm nghe buồn làm sao. Trong không gian vắng lặng, nhưng xa xa vẫn còn tiếng rao bánh mỳ vẳng lại. Mùa hè, những đêm trăng thanh gió mát con đường ngoài thành cổ bỗng vui hơn nhờ vào mấy gánh chè hay thỉnh thoảng có một xe phở đi bán dạo trong đêm. 



 KHÔNG ẢNH  Cổ Thành Quảng Trị


CỔNG LAO XÁ hay là CỬA HẬU CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ năm 1967 đã bị đóng lấp do bị tấn công 
       và bên phải hình ảnh CỬA HẬU  hiện nay - 2012

bạn cùng xóm Nguyễn v Bốn từ SG về thăm xóm cũ tháng 10 - 2022 


bạn tôi đứng ngay trước con đường Ngự năm xưa nay đà bị bít lối 
   
      hơn 5 năm trước có hai anh em Nguyễn thanh Điền (nay vừa mất) và Nguyễn thi thanh Tâm ra thăm Cửa Hậu

đồng huơng P Đệ Tứ gặp nhau tại hai ngoai  (6/9/2015)Đứng trái sang: Lê Vang - Đinh trọng Phúc , Đỗ Trung - Lê Văn- + 2 người đẹp năm xưa Trí Bưu Góc Bầu

*
Ban ngày cửa thành Lao xá (hay Cửa Hậu) được mở mỗi khi có một toán đông người tù được vài chú lính dẫn đi làm. Hồi đó người QT hay gọi là đi làm "cỏ vê"(corvee) nôm na là đi làm tạp dịch. Đoàn tù sẽ đi một đoàn dài ra tận ngoài tòa tỉnh hay mấy cơ quan công sở nào đó. Xế chiều đoàn tù mới về.

 


 

Người viết không quên hình ảnh đoàn tù đi về có chiếc xe kéo. Trong cái lồng vuông trên xe, có vài con chó kém may do chạy rong ngoài đường nên bị bắt. Thời này chó chạy rong ngoài đường là có lệnh bắt do thiên hạ sợ chó dại cắn. Nhắc đến đây, tôi nhớ hình ảnh cái thòng lọng bằng kẽm. Bàn tay thiện nghệ của một chú tù, tiếng kêu ăng ẳng của con chó bị bắt.  Tôi tin chắc mấy con chó vô phúc đó sẽ không có ngày trở lại.

   Hình ảnh đoàn tù đi làm corvee ngày đó làm tôi nhớ đến cái chết của anh Thủ con bác Trữ sau xóm. Một chiều nọ có chú lính Bảo An đang dẫn tù về. Đoàn tù đang đi ngoài đường Lê v Duyệt thì anh Thủ chạy ra gây hấn với chú lính này để trả thù. Có người kể nguyên cớ là những ngày anh Thủ ở tù trong Lao xá có tư thù với chú lính đó.  Khi ra tù anh Thủ chờ dịp người đó dẫn tù qua xóm, anh mới chạy ra gây sự trả thù. Cuộc cãi cọ đưa đến án mạng. Trong cơn tức giận người lính sẵn mang súng, chú đuổi theo anh Thủ vào tận trong xóm. Ngay lúc đó, tôi  nghe những phát đạn từ khẩu súng tiểu liên thompson vang lên bên xóm. Chạy vội qua, tôi chứng kiến hình ảnh anh Thủ nằm ngữa trên nền nhà, thở thoi thóp. Lúc bị đạn, anh Thủ đang ở trần, thân hình lực lưỡng chỉ 1 cái quần đùi. Rất may mắn trong cái phòng đó còn có cái nôi con nít đang đu đưa nhưng không hề hấn gì. Anh Thủ nằm chết trên nền nhà bác Lê bá Oa, ông thân anh Lê bá Lư. ( nhà xóm sau lưng nhà Hà thị bích Huờng và nhà cậu tôi). Tội nghiệp anh Thủ; xóm Cửa Hậu chúng tôi mất Anh là mất một giọng ca vọng cổ " rất mùi". Đáng tiếc làm sao do anh không quên đi chuyện cũ những ngày trong tù mới có kết quả bi thảm như thế.
 
Nói lan man qua xóm tôi thì phải kể đến nhà ông Cai Ngữ. Ông là thân sinh các anh Khanh, Sỏ, Thăng. Anh Sỏ học giỏi. Anh Sỏ vào đại học Huế nhưng chưa ra sư phạm ngay mà học thêm cao học toán. Nhớ đến anh Sỏ, tôi nhớ đến mặt anh khi nào cũng đỏ gay như uống rượu, cái áo sơ mi trắng khi nào cũng xuề xòa bỏ ngoài, cùng dáng đi nhanh thoăn thoắt. Thời buổi này trai tráng trong thôn ai cũng lên đường tòng quân dù ở phía nào cũng phải tuân hành lệnh chính phủ trên ban. Trường hợp theo đuổi học vấn lên cao như anh Sỏ thì phải là hiếm.



                                        *

Tôi cứ lan man phải trở về chuyện Thành Cổ. Cửa Hậu chỉ mở cho đến 1967 còn cửa Hữu tức là cổng thành Đinh công Tráng mở cho đến ngày tan nát. Ngoài ra, cửa Tả ngó ra đường Duy Tân, Cửa Tiền ngó ra đường Lê thái Tổ thì bị đóng từ lâu. Nhắc đến Thành thì phải nhắc đến cái hồ bao quanh. Đến mùa nước lên tức là mùa lụt nước dâng. Từ sông Thạch Hãn nước tràn vào hồ lênh láng làm khổ những dãy nhà xây sát bờ hồ. Đất hẹp người đông, dĩ nhiên hồ Thành cũng bị lấn nhưng chuyện này cũng giúp cá trong hồ sinh sôi nảy nở rất nhiều. Thế là lúc mùa khô về, khi hồ Thành chỉ còn xâm sấp nước cùng màu xanh của lục bình là lúc những người tù "nhà phạt" trong thành bị dẫn ra ra tát cá. Xóm Cửa Hậu vui lây từ tiếng ồn ào của người tù tát nước bắt cá. Cá nhiều lắm. Mấy cái thùng phuy chẳng bao lâu lại đựng đầy ắp cá.  Ở hồ cá bắt được toàn là cá tràu (lóc). Trên mé đường quan, người dân xóm chúng tôi, nói đúng ra là cả phường chúng tôi đứng chờ sẵn. Xế trưa khi cả trăm người tù cùng mấy thùng cá vào hết trong thành; vừa lúc 2 cánh cửa thành khép lại là chúng tôi a nhau xuống hồ. Lúc này tiếng ồn ào huyên náo của người dân lại còn gấp mấy lần lúc sáng. Những tốp nhỏ chia nhau từng lô tát thật cạn nước để mò cá. Có đứa mò thật tài chỉ chút chi là được mấy con tràu to bằng cán rựa. Có đứa giỏi hơn bắt được cả mấy con lươn dài ngùng ngoằn vàng hươm. Tôi sợ nhất mấy con rô hay con hẽn (cá trê) cái ngạnh, cái kỳ của chúng nhọn hoắt làm chảy cả máu tay. Lớp bùn dày của hồ này nó còn tiềm ẩn bao nhiêu con cá chưa bắt được nhưng nó không thoát được những bàn tay mò cá giỏi cùng tính chịu khó. Bà con trong xóm a nhau tới coi con cá tràu to nhất nó bị quăng ngay lê bờ vì nếu để nó vùng vằng lâu sẽ truột khỏi tay và trốn thoát dưới bùn. Lại thằng Mẹo hắn việc chi cũng rành. Con tràu to nhất là của nó; sau khi quăng con tràu lên bờ nó vọt theo đè cả người lên con cá đang vẫy vùng muốn thoát lại xuống hồ. Nói chung cá và hồ là sở hữu của Thành người dân không có quyền chi, thế nhưng ngày tát cá thu nguồn lợi từ cái hồ trước mặt cửa Lao xá thì quân dân ai cũng có phần chẳng hề làm khó. Khi mùa khô tháng hạ thực sự đến, người tù Lao Xá lại ra trồng rau muống để có thêm rau cho tù ăn.

 

*

 

   Từ cửa Hậu trong thành ngó về hướng sông sẽ có cái chòi canh cao ngất xây từ thời Pháp nên không ai còn dùng. Cái chòi này từ An tiêm Nại Cửu nhìn lên thành phố là thấy. Ngày xưa khi học lớp nhì Trường Nam,  tôi hay theo mấy đứa bạn ở "trại gia binh" theo Cửa Hữu để vào. Nhà thằng Hùng học cùng lớp, ba hắn nghe đâu là trung úy người nam và nhà đứa bạn ở cái nhà Gia Binh sát cái chòi canh cao ngất. Tôi có dịp mon men tới đứng cạnh cái chòi nghe đâu xây từ thời Pháp này. Nhìn cái thang sắt sét rỉ, tôi nhát gan chỉ tới gần và chẳng dám leo lên.  Phía chân cái chòi cao này, có một đoạn thành bị sập ngó ra con đường Lê văn Duyệt . Hồi này người trong thành có ra đây xây mấy cái hồ nuôi cá rô phi. Trên mé đường Lê văn Duyệt phải qua cái cửa đúc xi măng có khắc hình cá rô phi đàng hoàng. Sau này nuôi cá không xong, lại trồng rau muống, cuối cùng lại biến thành Trại Gà. 

 

Từ Trại Gà trong thành, qua mấy hồ cá bỏ hoang, leo lên đường Lê văn Duyệt chúng ta nếu quẹo trái sẽ hướng múi đầu Trần Hưng Đạo. Nhưng trước tiên phải gặp nhà ông Đội Chức. Nhà ông có mấy cây đào lựu lâu năm rậm rạp người ta đồn có tinh (tức là ma cái). Dân trong thôn thêu dệt chuyện Anh Trần Đại -bạn ngang lứa với nhà văn Hoàng Long Hải- con ông Đội Chức "điên điên tàng tàng" gì đó. Thiên hạ ác khẩu đồn rằng do anh "lấy con tinh" cái kia làm 'vợ'. Thiên hạ 'thêm mắm thêm muối' rằng: đêm khuya đi ngang Miếu Âm Hồn này còn nghe tiếng ru con nữa mới là rùng rợn. Nói gì thì nói ngay ngả ba Lê văn Duyệt múi Trần hưng Đạo phía một góc đất kế con hói tức đối diện miếu này có một bãi tha ma. Người lớn kể lại rằng Tây bắn tù chính trị chôn lấp ở đây nhưng có người viết khác ví dụ cũng theo nhà văn Hoàng long Hải (Tuệ Chương) thì bãi tha ma này là nơi chôn những hài nhi từ nhà thuơng Tây gần đó - sau này là trường Nữ Tiểu Học Quảng trị - đem ra chôn tại đây. Sau này bãi tha ma trở thành những nấm mồ vô chủ theo ngày tháng đất đá mòn dần không ai nhang khói và mất dần dấu vết. Ngoại trừ mấy ngôi mả bằng đá, người viết ngày ngày đi học ngang đó còn thấy, có người nói là mả Nhật thì không bị thời gian phá hoại thôi.

 

Tác giả khó quên thứ cảm giác  "ơn ớn" mỗi lúc đi học ngang qua Miếu Âm hồn (theo bác Hoàng long Hải thì Miếu Đôi nằm sát với bờ sông Thạch Hãn gần tới chùa Tỉnh Hội còn đây là miếu Âm Hồn ngày xưa người viết cũng hay nhầm) và bãi tha ma đó cũng theo bác Hải thì đây là nơi chôn cất những người chết từ nhà thuơng tỉnh gần đó, nhà thuơng này sau này làm trường Nữ tiểu học QT- ngó qua Trại Tuyển Mộ.

 

Miếu Âm Hồn này cạnh "xóm Heo", tên xóm này người dân trong phường Đệ Tứ đặt với nhau, lâu ngày quen miệng. Sau này tôi cũng bớt sợ miếu âm hồn đó nhờ ngày rằm nhóm "THIÊN TIÊN THÁNH GIÁO" của ông họa sĩ tên Tư nào đó trên phố QT, cứ dịp rằm ông Tư hay về làm lễ trong miếu này.   

 

con lân đúc nổi trên tấm bình phong trước miễu - hai con mắt "ma quái" cuả nó như đang lom lom nhìn tôi...

  Đi học ngang qua tôi có ghé vô miếu coi. Ông Tư lúc nào cũng giả trang làm "BÀ" cùng các bà kia phấn son lòe loẹt, tiếng 'cóc xèng xèng", tiếng ông Tư lên đồng, cùng khói hương nghi ngút làm tôi hết cả sợ khi nhìn con lân đúc nổi trên tấm bình phong trước miễu - hai con mắt "ma quái" cuả nó như đang lom lom nhìn tôi . Bà ngoại tôi có kể rằng mạ tôi ngày xưa hồi nhỏ đi theo ngoại tôi, mạ tôi đi sau ngoại tôi chợt linh tính sao nhìn vô trong miếu thấy một khuôn mặt như mặt mèo, hai con mắt xanh lè. Mạ tôi sợ "cứng cả người"á khẩu không nói được , về nhà bà ngoại tôi vuốt tim xoa dầu " hu' ba hồn bảy vía" rất lâu mạ tôi mới hoàn hồn. Từ câu chuyện ngoại kể lại nên lúc nào đi học ngang Miếu Đôi tôi cũng sợ. Nhìn mấy chùm đào lựu xum xuê trái trên mấy cành cao che phủ nóc miếu tôi chẳng 'dám thèm" cúi đầu đi thẳng.(Chỉ khi qua nhà ông đại úy Đối có mấy trái đào tiên trăng trắng (trong nam gọi mận)ló ra ngoài bức tường rào tôi mới có gan kiếm vài trái mà thôi

 

Cạnh miếu có mấy cây ngô đồng cổ thụ đầy bóng mát. Gia đình phật tử trong phường chùa Tỉnh hội hay tụ họp sinh hoạt cùng các em oanh vũ.  

 

Ngang xóm Heo là bắt đầu con đường Trần hưng Đạo. Từ múi đầu đường này đi lên ít bước là Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ, bước qua Cao Thắng mới tới Trường Nam.

 

đoàn hát bội Hoa Mai (hình tượng trưng)
 

 

Tiếng là "bốn ngã đường thành", nhưng theo ý tôi con đường Lê văn Duyệt là vui nhất. Trước tiên vì nó có sinh hoạt của người tù ra vô hàng ngày qua cổng Lao Xá , có lính tráng ra mua bán, và phải nói đến đám HÁT BỘI tên là HOA MAI của ông ĐƯƠNG "đóng quân lâu dài" trước mặt nhà ông Đội Chức nơi cái bãi đất làm sân bóng trong thôn. Ông Đương và đoàn Hoa Mai của ông rất nghèo, nghèo đến nỗi cả đoàn không còn tiền để về lại quê huơng Quảng Nam của ông. Lúc đầu người dân thôn tôi tức là thôn Đệ Tứ (đường Lê v Duyệt) còn tiền coi dần dà hết tiền khách vắng dần. Hồi đó tôi rất mê hát bội của đoàn hát này. Do chẳng có cái thú nào hơn đoàn hát này. Rất lâu mới có một đoàn chiếu phim công cộng. Có đoàn cải lương nào đó trong nam ra thành phố Quảng trị lại còn hiếm hoi hơn.  Dù có hay không, tôi làm gì mua nỗi cái vé đắt tiền của các đoàn cải lương nổi tiếng như Thủ Đô, Hương Mùa Thu, Thanh Minh -Thanh Nga dạo đó? 

 

Người kể xin trở lại đoàn hát bội Hoa Mai.  Ông bà Đương đóng đủ vai- từ Phật THÍCH CA, Quan Âm thị Kính, cho đến Quan Công, Trương Phi ông cũng đóng "tuốt luốt".  Tôi nhớ làm sao, tiếng trống "cầm chầu" của mấy cụ già. Mấy dồng bạc quăng lên sân khấu thuởng cho diễn viên cùng cái bóng lom khom của đửa nhỏ nhanh nhẩu chạy ra lượm tiền. Đoàn hát trú ngụ ở phường chúng tôi lâu quá, tài tử đẻ thêm con. Túi tiền dân trong phường lâu ngày cũng cạn. Sự tò mò háo hức cũng tan dần khi nhìn thấy bà bầu tức vợ ông Đương cùng những bà vợ mấy ông kép khác ban ngày ra chợ không còn "hình dáng mỹ miều" như lúc đóng tuồng mà là những bà đào về chiều già nua, nhăn nheo đến thảm thiết.  Tôi còn nhớ, có những đêm mưa, vắng khách, tiếng ông Đương van nài "xin quý vị coi giúp cho đoàn tôi vì mùa đông mưa gió tội nghiệp!!!"...

 

Sự buồn rầu ảo não cùng thê lương của một đoàn hát "về chiều" lại bị mắc kẹt lại tại một thôn xóm cũng nghèo ngày đó quả là một dấu ấn khó quên cho cuộc đời nghệ sĩ.  Bao nhiêu cảm nhận đáng thương cho những ai làm văn hóa mà cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đáng lẽ họ phải được nâng đỡ và bảo trợ cho những công việc bảo tồn giềng mối đạo đức phong hóa cho dân tộc.

THỜI GIAN QUA MAU. ÔI 'SUƠNG GIÓ PHÔI PHA BÓNG NGUYỆT TÀ..." NHƯ CÂU THƠ XƯA HÀN TÍN. BỨC TƯỜNG THÀNH RÊU PHONG PHỦ KÍN, DI TÍCH QUẢNG TRỊ, NAY CHỈ CÒN ĐỌNG LẠI TRONG KÝ ỨC NHỮNG AI CÓ TÂM HỒN HOÀI CỔ.

   Kể lại cho thế hệ sau người viết thường mang một hoài bão trong lòng. Lòng mong ước sao với trí tưởng tượng phong phú của tuổi trẻ hôm nay sẽ có một THÀNH CỔ uy nghi từng mang tên danh tướng Đinh công Tráng như hiện về cùng với cháu con ./.

 

 CALI ngày 6 tháng 11 năm 2011
Đinh hoa Lu
edition  30/10/2022 SAN JOSE USA
===============================================================
                                                 2012   DHL VỀ THĂM  LẠI THÀNH XƯA

                                 c Cửa Hậu NGÓ RA được xây mới NGÓ RA ĐƯỜNG LÊ VĂN DUYỆT CŨ ngõ này huớng về An Tiêm bằng con đường gọi là ĐƯỜNG NGỰ nhưng trong hình chúng ta đã thấy nhà xây bít lối

                                               DI TÍCH CỬA LAO XÁ hay CỬA HẬU
                                       CỬA HẬU  NGÓ VỀ GÓC BẦU

TỪ CỬA HẬU NGÓ LÊN XÓM HEO HAY múi đường TRẦN HƯNG ĐẠO

                    VẪN ĐÁM LỤC BÌNH HAY BÈO DƯỚI HỐ QUANH THÀNH  GIỐNG XƯA


                                VỢ CHỒNG NGƯỜI VIẾT BÀI NÀY VỀ LẠI QT 6/2012

          HUỲNH RÔ CON CHÚ HUỲNH CHỐN XE ĐÒ QT-HUẾ XÓM CỬA HẬU XƯA
                             CÙNG  Lê v Lộc  (LÊ BẢO LÂM) / XÓM GÓC BẦU CỬA TẢ XƯA

BÃI NHAN BIỀU XƯA NAY KHÔNG CÒN

Tuesday, January 21, 2025

TÙ ĐI 'SỤT' CÁ


Nhớ Thượng Sĩ Trầm -Trại 4 Ái Tử 


bụi cây lá ngấy


    Ông Trầm người tù già nhất Lán 4 đang ngồi nhả khói. Điếu thuốc to tướng vấn bằng giấy báo. Thuốc bên trong chẳng phải là thuốc rê hay cẩm lệ mà làm từ lá cây ngái, chúng tôi hay gọi là cây Ngấy loại dây leo nấu nước uống khá lành. Túng quá, thuốc rê gia đình thăm nuôi đã hết từ lâu. Làng Vĩnh Lại bên kia con sông Thạch Hãn nhưng giờ đây xem như là "diệu vợi" đối với ông Trầm. 


Ông là thượng sĩ thường vụ, và cũng là người tù lớn tuổi nhất trong lán. chúng tôi trong lán phần nhiều là trung đội trưởng, chuẩn úy trẻ măng. Chúng tôi xem ông là người cha già trong lán. Ông Trầm tuy là thượng sĩ nhưng đối với làng ông vẫn bị đem lên đây với hai tiếng là "học tập". Chỉ có người viết là tù binh từ mặt trận và các đơn vị từ Huế trong ngày thất thủ, riêng đối với Ông thì đi từ địa phương lên. Tôi hay lân la bên ông Trầm, chia điếu thuốc vấn từ lá ngấy khô cho đỡ cơn ghiền. Nguyễn văn Sở cũng là người Vĩnh Lại nhưng ngang lứa tuổi với tôi, đứa nào cũng là trung đội trưởng mới ra trường. Thằng Sở lạ lắm, hắn nói chuyện rất nhanh, khó ai nghe kịp. Một lần đi rừng, thằng Sở lại là đứa đi nhanh nhất.



 Bước hắn đi nhanh nhất. Mỗi lần đôi dép lốp kiểu bộ đội bị trật quai, hắn liền ngồi xuống xâu lại đuổi theo toán đi rừng. Bước đi hắn thoăn thoắt chút chi hắn lại tiến lên trước. Thời gian đó, không riêng gì Sở, chúng tôi đều được phát dép lốp đi rừng. Sở hơn chúng tôi nhờ tài xâu lại quai dép, không ai làm nhanh hơn hắn. Đường mùa mưa trơn trợt dép lốp trật quai lia lịa. Đoạn đường lên rừng hay từ rừng về mùa mưa, có khi chúng tôi phải ba bốn lần xâu lại quai dép. 



 Ngày nghỉ cuối tuần như hôm nay ông hay kể chuyện ngày xưa cho tôi nghe. Mồng Hai tháng Chín qua rồi. Đó là cái lễ đầu tiên trong tù có một ít "tiêu chuẩn" mà người kể chuyện còn nhớ. Mỗi người được nửa gói thuốc lá Tam Đảo 10 điếu, nửa gói thuốc lào Thống Nhất. Có tiết kiệm chi rồi cũng hết từ lâu. Ông Trầm là người hút thuốc lá nặng.  Thuốc vấn, cẩm lệ cuối cùng là thuốc rê những thứ ông có trong dịp người nhà lên thăm tù sau này mới đủ cho ông "phê". Nhưng đào đâu ra lúc này lúc mọi thứ đã cạn sạch.  Hút thuốc Lào là phương tiện chính cho những ai ghiền thuốc.  Tôi lại miên man chuyện cái ống thuốc Lào tức là điếu cày. Đã kể thì phải nhắc lại cái "nõ điếu" cày, tức là phần gắn vào ống thuốc để ta bỏ "bi" thuốc vào đó. Chủ nhân cái ống phải tìm cho ra gốc sim để đẽo cho ra cái nõ. Gỗ sim mới không bị nứt nẻ. Ngày cuối tuần là lúc rảnh rang để mấy đứa bạn mân mê gọt dũa cái nõ bằng gỗ sim. Toàn trại, nói chung tất cả người tù đều hút thuốc Lào. Những lúc toàn lán cạn thuốc, thật khó quên cả mấy anh em chia nhau một "bi" thuốc cuối cùng. Người đầu kéo một chút, người thứ hai kéo một phần tư, hay ít hơn...cho đến người bạn cuối cùng rít hết chút khói còn lại trong ống. Anh chàng sau cùng kéo cho tận hết làn hơi cuối còn lại trong cái ống lại phân bua :

-THẬP TOÀN ĐẠI BỔ...

Người bạn tù dùng 4 chữ trong bài thuốc Đông Y nào đó, vừa hài hước vừa bào chữa cho sự tận dụng hay bòn mót làn khói cuối.


Nhớ cái "điếu cày" thì tôi khó quên bao đốt tre giang trên rừng, quả ích lợi cho tù. Từ lạt buộc, đan đát cho đến cái ống thuốc Lào mỗi lần hút tiếng nghe tiếng "phùm phụp", âm thanh đặc trưng và mùi thuốc cũng khó quên. Thuốc Lào là "thượng đế" do nó hút là phê. Không phê thì chưa biết thuốc Lào là gì? Tôi nhớ thằng Thu trong lán vừa phê thuốc do hắn hút lúc bụng đói. Thu say thuốc Lào rõ nặng. Người hắn lảo đảo, ngã xuống nghe tiếng "rầm" may mà không chết nhờ có bạn bè. Ông Trầm là dân chuyên vấn cẩm lệ và thuốc rê nhưng rồi cũng bắt đầu mê cái ống thuốc lào. Thật ra, "có còn hơn không" không ai chê chuyện mê hay ghiền thuốc Lào vào lúc đó. Những lúc chia nhau từng ngụm khói từ một "bi" thuốc hỏn hon, còn lại hay những lúc phải vấn lá ngấy khô thay thuốc thật mới biết người tù cần hơi khói thuốc chừng nào. Tù cần thuốc, cần "phê" để quên đi thực tại đó là những cảm giác thiếu đói, thèm khát mọi thứ, khó lòng kể cho hết...

***

Như chợt khám phá  một điều thú vị, ông gọi giật phắc:

-MI ĐI SỤT CÁ KHÔNG P. ?

-DẠ ĐI CHỚ. 

-KÊU THẰNG SỞ ĐI VỚI.

Ô không quên thằng Sở do hắn cũng là người cùng làng Vĩnh Lại hơn nữa tất cả ba người đều cùng tổ với nhau. Trần đình Côn dĩ nhiên không ai dám kêu hắn đi sợ liên lụy.

Những ngày ở trại 4 khoảng gần cuối năm 1975, thời gian đầu Bộ Đội miền Bắc còn cai quản tù binh chúng tôi không khắc nghiệt như khi bị trao qua Công An "quản lý" như sau này.  Vòng rào lỏng lẻo, cuối tuần chúng tôi còn đi "cải thiện linh tinh" kiếm chút gì giúp cho bao tử. Chỉ có đêm về là lo có mặt là được. Nguyễn văn Sở và người viết đồng ý ngay với ý kiến chợt nảy sinh của ông. Cuối tuần, không có gì chỉ ngồi thèm thuốc đến chết người thôi. Ngoài kia là căn nhà thăm nuôi , Trại mới xây xong, vắng ngắt giữa cảnh núi đồi hiu quạnh. Đến kỳ thăm nuôi, căn nhà vãng lai đó mới vui hơn một ít. Người nhà của tù về rồi, sẽ trả lại quang cảnh vắng ngắt như mọi ngày.


Thời gian đầu, lúc bộ đội coi tù Trại chẳng có cổng gác. Mà chẳng cần ai gác do chưa có vụ trốn trại nào. Cái hàng rào kẻm gai lưa thưa cho có. Thời gian này rất lạ, ở trên nhà cán bộ chẳng ai lo chuyện tù trốn cả. Trần đình Côn, hắn là toán trưởng có ba hắn nghe đâu đi bộ đội tập kết có quen trại trưởng Trại 4 tên Thú. Đúng vậy, có một ngày ai đó chỉ cho người viết  hình ảnh một người bộ đội già tay dắt một chiếc xe đạp giàng đi ngoài hàng rào. Ông ta tiến đến hướng khu nhà cán bộ. Ông là cha của Trần đình Côn tổ trưởng trong lán. Ông đi tập kết về lại QT ông tới thăm thằng con trai trong tù. Ông là bạn ông Thú trại trưởng cùng bộ đội lâu năm. Có cha đi tập kết, cũng như nhiều người khác, chuyện Côn về sớm hơn chúng tôi là lẽ thường. 

Lán trưởng (nhà trưởng) chúng tôi là anh Nguyễn danh Huấn người Gio Linh. Mỗi lán có nhiều tổ. Mỗi khối có nhiều lán. Lán tức là cái nhà tranh lớn chứa mấy chục người tù. Còn khối có bốn lán như vậy. Tôi còn nhớ nụ cười hiền hòa của anh Huấn. Người anh điềm đạm, ít khi cáu gắt với ai. Đêm đêm vừa kéo hơi thuốc lào vừa kể chuyện đơn vị thuộc Sư Đoàn 23 trước ngày "TAN HÀNG...CỐ GẮNG".  Anh chỉ là trung đội trưởng, rồi chuyện về lại địa phương...Làng Xuân Mị, Gio Linh quê anh. Khi người sĩ quan trẻ đó trở về phải nhọc nhằn đối phó với sự kỳ thị của địa phương. Anh Huấn kể lại có những đêm HỌP DÂN hay đội đoàn, anh phải đối phó với bao hằn học, gay gắt. Trước đội đoàn hợp tác tại quê anh với lời kể lại chất chứa bao cay đắng do anh phải QUỲ mỗi lần Hợp Tác hay Đội họp.  Lên được trại 4, tuy là tù nhưng anh Huấn cảm thấy thoải mái hơn ở địa phương nhiều. Nguyễn danh Huấn, Trần Côn đều về trước tôi. Hai người đều về Sơn Mỹ Hàm tân trong thời gian đầu ra trại. Tội cho anh Huấn mất sớm ở Suối Nghệ nên không đi Mỹ được. Phần Côn lận đận lao đao từ vùng kinh tế mới này sang nông trường nọ cuối cùng gặp may đi được Mỹ trong các đợt HO "nạo vét" sau cùng.  Côn về trước khá lâu, lại đi sau tôi khá lâu. Thế là công bằng. Tuy nhiên tôi đã giúp được cho người bạn tù một LÁ THƯ GIỚI THIỆU "Côn có ở tù cùng Lán" để Côn làm bằng chứng lúc gặp PHÁI ĐOÀN phỏng vấn đi Mỹ trong đợt truy cứu HO cuối cùng. 


***




    Ông Trầm dắt thằng Sở và tôi đi ra hướng khác tránh cho nhà cán bộ thấy. Ngày nghỉ cuối tuần chẳng ai có việc. Trại nghỉ hẳn nhưng chẳng có vệ binh canh chừng. Cả ba người đi tắt qua hướng Nại Cửu Phường để ra hướng Căn Cứ Ái Tử cũ.

Một vùng đồi núi càn, lau lách rậm rạp. Quang cảnh một vùng hoang vu không có bóng người ngoại trừ mấy trại tù vừa mới lập. Mấy con đường đất đỏ ngày trước chưa mất dấu. Cây leo và bụi rậm chưa phủ hết xác mấy chiến xa của mặt trận vừa qua. Căn cứ Ái Tử chỉ còn là những tấm ri sắt cong queo bị xé toạc bởi đạn pháo. Những hầm chứa đầu đạn 105 ly và 155 ly bị nổ tung rơi vải tung tóe. Ông Trầm bảo Sở và tôi kiếm 2 đầu đạn 105 ly chưa bắn rồi vác theo ông. Cả ba người lầm lũi bước về lại hướng núi nơi có rất nhiều hố bom B 52 giờ đã trở thành những cái hồ nho nhỏ. Vác hai đầu đạn không chưa hề có ngòi nổ nên không thể nổ được. Tới mấy cái hố bom rồi, bảo chúng tôi dừng lại. 

Cái que sắt khá nặng có một đầu nhọn do thằng Sở vác theo, không ngờ giờ đây mới bắt đầu có ích. 

Cái cảnh "điếc không sợ súng" là giây phút đó. Liên tục đâm cái đầu sắt nhọn vào phẩn miệng quả đạn thật quả là chuyện liều. Không liều làm sao có cá ăn. Do đây là cơ hội "cải thiện" mà đã là tù thì làm gì còn chuyện sợ chết. Đã "cùi thì không sợ Lở" ý nghĩa cuối cùng là liều.  Thật ra theo kinh nghiệm pháo binh, chỉ có đầu nổ gắn vào mới làm cho đầu đạn có sức nổ được. Theo lệnh ông Trầm hai đứa chúng tôi thay phiên nhau dùng cái que sắt nặng đó liên tục đục vào lỗ đầu quả đạn pháo vị trí sẽ gắn đầu nổ nếu như quả đạn sắp được bắn đi. Sở và tôi, bậm môi nghiến răng liên tục thụt cái đầu nhọn que sắt dần hồi khai thông qua được lớp nhôm dày đi vào phần chứa thuốc nổ bên trong. Một lớp bột chất nổ màu vàng bên trong đã thành hình. 



Ông Trầm đốt một vài que củi xong lấy than hồng thả vào lớp bột thuốc nổ bên trong miệng quả đạn. Người yếu bóng vía làm sao dám làm chuyện này hay dám đứng gần bên?

Ông trấn an: 

-KHÔNG RĂNG MÔ ! (không sao đâu)


Ông nói chắc mẩm như đã rành rọt từ bao đời. Ông chẳng sợ gì do ông biết không hề gì. Lớp bột thuốc nổ bên trên bắt đầu bén lửa. Tôi chưa hết cảm giác run sợ lúc đó. Cứ tưởng tượng quả đạn nổ tung thì banh xác hết cả ba người.


Cơn run của tôi chưa hết, thì đầu đạn bắt đầu bén lửa cháy phùn phụt lên cao. Ông Trầm đợi cho làn khói trắng trên miệng quả pháo bốc lên độ cao vừa ý, xong ông vội ôm quả đạn đan cháy lội ra giữa hố bom và cắm ngược quả đạn xuống lớp bùn. Quả đạn được sức cháy nên không tắt đi vẫn tuôn những làn hơi bùm bụp bắn lên từ đáy miệng hố bom. 

Té ra ông đã kinh nghiệm chuyện này từ lâu, có điều kinh nghiệm này của ông không biết lúc nào?


ÔI NHIỀU CÁ QUÁ ĐI !


Quả đạn bắn hơi, sôi sùng sục giữa hồ non nửa tiếng đồng hồ thì ngưng hẳn. Một cảnh tượng trước mắt mà chúng tôi lần đầu tiên trong đời mới thấy...


Ôi thôi bao nhiêu thứ cá trong cái hố bom nhỏ, nói chung bất cứ có con vật nào núp sống dưới cái hồ này bao lâu nay đều  lo ngoi lên mép hồ để tìm hơi thở. Nhiều nhất là cá tràu và cá trê chúng thi nhau cằn lên mép cỏ để sống. Chúng thực sự bị say thuốc súng không thể nào ở nán lại trong làn nước đã sặc mùi thuốc súng vừa rồi. Mấy con rạm con đam đều chung số phận chúng thi nhau bỏ nước bò lên.  Cả ba người hỉ hả thi nhau bắt cả bỏ vào mấy cái bao cát nylon xanh của Mỹ. 

Thật là một "CHIẾN CÔNG" lần đầu tiên trong đời người viết mới chứng kiến đối với loài cá. Những con cá thành hình từ ngày TÀN CUỘC CHIẾN trong mấy cái hố bom sau cái cảnh bom bay đạn lạc. Ngày tàn cuộc chiến, sau hai ba mùa mưa rơi rơi trên miền đất khổ. Nước hố bom đã định hình một cảnh sống tái sinh. Hố bom cũng là hồ cá cỏn con lẫn trong những vùng đồi hoang dại mà ngày xưa từng ầm vang tiếng bom rền đạn réo. Tôi có ngờ đâu cái cảnh SỤT CÁ HỐ BOM như ngày hôm đó lại mang lại niềm vui cho chúng tôi khi người tù được cá. 


Từ năm 1977 chúng tôi bị đi đày ra Thanh Hóa cho đến khi vào lại Ái Tử và vô Bình Điền thì mất tin ông Trầm. Có thể ông đã được về trước.  Cả nửa thế kỷ qua đi, chắc hẳn năm này ông chẳng còn trên cõi thế này nữa. Ông ngang lứa với ba mẹ tôi thì ắt hẳn đã về với những người "muôn năm cũ". Nhớ về ông tôi không bao giờ quên khói thuốc lá ngấy, cùng hình ảnh mấy cái hố bom bên bụi bờ lau lách đìu hiu cạnh trại tù Ái Tử  năm nào.


ĐHL  21/1/2025

nhớ trại 4 Ái Tử 


Friday, January 17, 2025

HƯƠNG THƠM TIÊN TỬ








bạch quỳnh chụp 2 giờ sáng



Và một mình tôi chép dòng tâm tình tặng người chưa biết một lần
Vì trong phút ấy, tôi một mình thì thầm, giờ đã gặp được nụ hoa nở về đêm...

(Hoa Nở Về Đêm- Mạnh Phát)


    Sáng sớm vừa ra vườn sau, bất giác tôi cảm thấy một mùi thơm rất lạ. Quả thật, có mùi thơm loài hoa nào đó làm khứu giác tôi chợt 'choàng tỉnh giấc'. Có thể vườn hàng xóm đang có cây hoa quý nào đó? Tôi cố nhìn quanh, ngửi theo hướng gió... 

Ôi thôi đúng rồi! Có hai đóa quỳnh trắng lần đầu tiên vừa nở trong đêm. Hai đóa bạch quỳnh này đang xen với mấy đóa hồng quỳnh nở hai hôm trước. Mùi thơm lạ này chắc chắn tỏa ra từ hai đóa bạch quỳnh vừa nở, ngay cái chậu gần chỗ tôi đứng, thế mà tôi chẳng hề hay.



 Chuyện là mấy bữa nay tôi cứ xun xoe, mừng rỡ, chụp hình, khoe với bạn hữu mấy đóa hồng quỳnh do nó quá đẹp. Thú thật với quý bạn, hoa quỳnh đỏ đẹp thì đẹp thật nhưng tôi chẳng khám phá ra mùi hương nào cả. Giờ phút này, xin thưa thật đây là lần đầu tiên kẻ viết bài này mới khám phá ra một hương thơm tuyệt diệu từ mấy đóa bạch quỳnh vừa nở trong đêm. Trồng quỳnh ba năm, giờ này tôi mới có dịp thưởng thức được sắc hương bạch quỳnh.


Làm sao tôi không vui, khi vừa có thêm sắc hoa màu trắng tinh khiết- cùng  một mùi thơm thật lạ làm "dậy" cả hồn người. Hai chậu quỳnh lớn nhất đang liên tục nở hoa. Mấy cành lá xương xẩu, khô khan, thiếu nước, trông bạc nhược một thời gian trước đây, được đền bù  bằng những đóa hoa tinh khôi, đẹp rực rỡ.


Người viết cũng xin thưa với quý bạn, hồng quỳnhhoàng quỳnh cũng từ mấy chậu này. Tôi trồng ba năm nay, ít nhiều đều ra hoa. Mùa trước, hai loại  quỳnh vàng, đỏ đã ra hoa nhưng nhỏ hơn. Năm nay, sau khi bưng các chậu quỳnh ra mái hiên sau, chúng cho hoa thật lớn. Tôi nghĩ rằng quỳnh không chịu nắng gắt hay khí trời quá lạnh.


 Sáng nay, quả là một bất ngờ đầy thú vị đến với tôi. Khứu giác vừa được mấy đóa bạch quỳnh "ban thưởng" sau mấy năm săm soi, chăm sóc. Hương thơm như vương vấn, đậm đà trong làn không khí lành lạnh của buổi sáng sớm. Một màu trắng tinh khiết cùng mùi hương thật lạ vừa giúp tôi tỉnh người trong buổi sáng tinh mơ. Cảm giác mừng rỡ cũng có, phấn chấn cũng có do tôi biết hai chậu quỳnh lớn này vẫn còn ra hoa. Những búp quỳnh mới nhú, mỗi ngày một dài hơn, chực chờ bung ra nhiều đài hoa lộng lẫy, đỏ đậm hay trắng trinh bạch.


 Từng lá quỳnh trông như cố uốn mình, xương xẩu, khô khan trông thật bạc nhược. Do đây là cách thức tôi 'ép' cho quỳnh mau ra hoa theo lời chỉ vẽ của đồng hương, bạn hữu. Giờ công sức này được bù lại bằng những đóa hoa đẹp tinh khôi cùng thứ hương thơm quyến rũ lạ thường.


Một sự phấn kích, khoái trá do cảm giác này "không hẹn mà gặp". Do nó quá bất ngờ lẫn thú vị. Rõ ràng tôi chẳng cần quá cầu kỳ hay tốn kém gì; thế nhưng, sớm nay tôi nhận được một hương thơm đậm đà đến thế.




Tôi gắng diễn tả mùi thơm của quỳnh hoa. Cụ thể hơn, tôi muốn nói riêng mùi hương của bạch quỳnh mới đáng là mùi thơm đáng giá để quý bạn đánh giá thực hư xem sao?


Hương hoa sáng nay không giống hương  NGỌC LAN do ngọc lan quá nồng nàn. Nhưng thứ hương này chẳng giống mùi thơm của hoa hồng- thứ hương thơm nhẹ thoáng, vào ban trưa nắng đứng bóng chúng ta mới cảm nhận được. Hoa lài thoang thoảng thơm do hương lài lúc có lúc không như bay bổng theo làn gió nhẹ. 


Phải chăng hương quỳnh là một sự kết hợp; hay nó mang một tố chất rất riêng giúp khứu giác của ta không lầm được. Nói, quỳnh hương nồng nàn cũng chưa đúng hẳn; mà thoang thoảng thơm như lài cũng chẳng phải. Tôi phải vận dụng từ ngữ ra sao để diễn tả cho thật đúng một hương hoa vừa cho tôi một cảm giác sảng khoái vào sáng nay...


 Một mùi thơm của loài phấn hương trang điểm, kết hợp một ít nồng nàn của ngọc lan cùng hương hồng  để cho ta một hương thơm nhẹ nhàng lẫn sâu lắng nào đó nhưng lại thoảng bay xa. Hương thơm thật lạ giữa hai trạng thái chìm đắm nhưng nhẹ bay xa. Một hấp lực nào đó để khứu giác mình phải chú mục, tìm kiếm; không được lơ đễnh coi thường mới cảm nhận được. Một loài hương chẳng cần quá "chiều chuộng" ta, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng "phục vụ",  trái lại bắt mình phải trân trọng, săn tìm, nâng niu.


MỘT KHÁM PHÁ LÝ THÚ VỀ HƯƠNG QUỲNH

...Vì trong phút ấy tôi tìm mình thì thầm giờ đã gặp được một nụ hoa nở về đêm...(nhạc)


Những sáng sớm khác, nhiều đóa bạch quỳnh nở muộn tiếp tục ra hoa. Có điều khá bất ngờ làn hơi lạnh buổi sáng hay nhiệt độ khác thường khiến hương thơm bạch quỳnh như bữa đầu tiên không còn xuất hiện. Tôi vắt óc cố suy nghĩ tại sao? Cũng hoa quỳnh trắng, cũng nở về khuya sao mùi hương quý báu kia đi đâu mất? Tôi đoán rằng không phải hương quỳnh khi nào hoa nở đều có mà tùy căn duyên theo một lý do nào đó...độ ẩm, hơi lạnh áp suất không khí nói ra điều này mới thấy QUỲNH HƯƠNG quý báu làm sao !
        

Thế thì người viết có nên cho hương quỳnh là một loài hương quý phái thượng lưu chăng  ?


Hay mình nên đặt hương thơm này- hương bạch quỳnh- với cái tên là Hương Tiên Tử.


Ôi nếu được vậy, ai cũng chiều ý thế, thì tôi sung sướng biết bao !


Bình phẩm ra sao tùy bạn đọc. Nhưng theo thiển ý của người viết bài, một khi đã thích quỳnh thì chúng ta hãy tận hưởng mùi thơ quỳnh hương nhiều hơn nữa.


Bạch quỳnh nở đều đặn các đêm tiếp theo. Tôi còn biết thêm một kinh nghiệm từ mấy chậu quỳnh. Quỳnh trắng nở sau cùng; chậm nhất nhưng lại thơm, thế mới quý làm sao.


Người viết lại “bụng bảo dạ”- chỉ ngần ấy chậu quỳnh trong nhà là đủ. Người viết sẽ không gầy quỳnh thêm nữa làm gì.  Cuộc đời này, cái gì nhiều quá cũng tự nó mất dần giá trị- biết đủ là đủ.

Nhưng có điều chúng ta nên lường trước, hoa quỳnh không nhất thiết năm nào cũng nở. Có năm chúng ta sẽ gọi là "mất mùa" do chẳng có đóa quỳnh nào ra đời chào chủ nhà ngoại trừ những cành lá xương xẩu, vô hồn...

 Trở lại với câu chuyện QUỲNH HOA hôm nay, có hai điều tôi cảm nhận được từ hoa quỳnh đó là LOÀI HOA NỞ VỀ ĐÊM; tiếp đến, HƯƠNG QUỲNH.  Vâng đúng thế theo tôi hương thơm đó mới chính là HƯƠNG THƠM TIÊN TỬ./.

 

TÁI BIÊN của ĐHL



SÁNG SỚM MỘT MÌNH


Chim hỡi bay về nơi đâu?
Đường xa nắng đã nhạt màu
Còn ai ở cuối trời sầu?
Nghe như ngại ngần đôi cánh mỏi...

(Nhạc Lê Tín Hương)...


    Mặt trời chưa lên cao.Thời khắc này tôi hay có cái thú ngồi một mình ở vườn sau chờ ánh dương lên. Hàng xóm còn im lìm trong giấc ngủ. Trong mấy lùm cam vườn bên cạnh, có tiếng vài con chim dậy sớm rời rạc gọi nhau. Ngoài đường thỉnh thoảng có vài chiếc xe đi làm sớm chạy vụt qua.




Tôi có thú vui tự chế ly cà phê theo kiểu cũ. Cách chế đơn giản chẳng cầu kỳ gì-nghĩa là tôi bỏ sữa đặc, xong bỏ cà phê phin y xưa không khác chút nào. Muốn giữ nóng tôi chỉ đặt ly cà phê vào giữa một ly nước nóng khác bao ngoài, vậy là xong. 

Mùi cà phê này đánh thức khứu giác. Tôi không chọn cà phê hiện nay nhập từ Việt Nam do người ta bỏ thêm mùi thơm nhiều quá. Tôi chỉ ưa loại cà phê xay bình thường. Thị hiếu của tôi khiến tôi phải chọn loại cà phê sản xuất từ tiểu bang Louisiana, đó là thứ cà phê xay đóng hộp hiệu Du Monde. Nhớ đến Louisiana, trong tôi thoáng nhớ những người bạn ra đi trong chương trình HO. 





Gia đình anh Hoàng Thỉnh, người bạn vong niên cùng ra đi từ miền đất khổ Động Đền, Hàm Tân nhưng cái số đến Mỹ tùy theo được bảo trợ từng nhà. Nhà anh Hoàng Thỉnh được sponsor đến Louisiana, một nơi ít dân ít việc. Người trẻ trong nhà có khi phải tìm việc ở nơi đồng áng nông nghiệp trong thời gian đầu gian khó trong việc kiếm ra đời sống mới. Anh Hoàng Thỉnh "ra đi" nhưng còn may anh còn nhớ đến bạn bè, đồng đội, tập thơ ĐƯỜNG VÔ RỪNG LÁ của anh đó là bao dòng tâm sự, hay trăn trở để lại cho đời, cho gia đình cho bạn bè, những ai còn lại còn nhớ đến anh.



Phần gia đình người viết lại được bảo trợ về San Jose một nơi mà chuyện thuê nhà tưởng chừng là cơn "ác mộng"...thời gian dần qua, sướng khổ gian nan chi tại xứ người ai cũng qua. Chuyện đáng nhớ rằng giờ đây kẻ còn người mất. Mà kẻ còn như người viết đây lại quá ít? Chẳng còn ai để ngồi bên ly cà phê bình dị đời thường để nhớ lại chuyện hay hình ảnh ngày xưa.




Đem ra vườn tôi ngồi vừa nhâm nhi chút cà phê vừa nghĩ đến lời nói đầy tham vọng của "vua cà phê" tại VN hiện tại. Thứ cà phê chưa chiếm lĩnh thị trường Mỹ bao nhiêu nhưng đã dọa 'hất cẳng' vua Cà Phê Star Burst tại nội địa Hoa Kỳ? Người mình hiện nay vừa tham vọng vừa cao vọng lại vừa vọng ngôn. Thú thật, những thứ cà phê mà hiện nay quê nhà cho là 'vua cà phê' nhưng hương vị  có thể nói là LẠM DỤNG mùi thơm nhiều quá. Thú thật, người viết không phải không đủ tiền để mua mấy loại cà phê Trung Nguyên. Nestle hay nhiều loại cà phê uống liền khác nhập từ VN nhưng hương và vị của chúng đã thất bại ngay với người biết UỐNG CÀ PHÊ là gì?

Cà phê xay sẵn lại trộn hương vị nhiều quá? Cà phê sữa uống liền thì quá ngọt hay quá nhiều creme... đi qua các siêu thị tại đây, nhãn hiệu cà phê càng lúc càng nhiều giá cả khó tăng nhưng con cái hay bọn trẻ tại đây lại ưa uống cà phê Star Burst hơn là mua cà phê sản xuất tại quê nhà. Biết khi nào các chủ hãng tại VN hiện tại 'HẤT CẲNG' được cà phê StarBurst? 
Đó là tâm lý người trẻ tại Mỹ. Còn người già như chúng tôi uống cà phê là vì hương vị Cà Phê chứ không hề thèm muốn hương vị của mùi thơm khác...


Giọt đắng của cà phê nguyên chất chỉ cần đó là hạt cà phê và cách rang cũng thuần túy là cách rang ngày xưa không cầu kỳ vì thị hiếu gia tăng...chưa hẳn đó là chiếm được sự thắng lợi trong thị trường. 



cà phê Trung Nguyên đang vào Mỹ nhưng ngày 'hất cẳng' cà phê Star Burst không biết khi nào? 


,  Miên man nghĩ qua chuyện khác, tôi đợi tia nắng dầu tiên ló lên từ hướng đông, tai nghe tiếng chim hót muộn tôi vừa ngắm luống hành, vạt cải con mới lên, những chậu ớt mọi,,,đằng trước là liếp mướp đắng nghiêng nghiêng...ánh mặt trời từ từ hừng lên rồi tất cả hình ảnh rõ dần.



Hướng đông ngày xưa bên nhà là Biển Thái Bình; giờ đã khác hẳn do nó là bờ đông nước Mỹ. Có thể tôi nghĩ về tình hình chính trị Hoa Kỳ, rồi lan man qua những hình ảnh trong quá khứ. Hôm qua tôi lại viết về Chợ Quảng Trị, một tỉnh ngoài cùng của miền nam VNCH. Tôi chỉ sửa lại từ bài cũ khá lâu nhưng lấy đề tựa khác cho bạn bè chưa đoc. Những suy nghĩ của tôi trong một buổi sáng sớm nó lan man lắm không mạch lạc gì. Tuy nhiên tôi cảm nhận một điều rất thật đó là những suy tư trong một buổi sáng sớm tĩnh mịch.

Vườn rau của tôi vào đầu tháng Mười. Trời đã vào thu hơn hai tuần rồi nên vắng tiếng chim. Thật lạ, bầy chim mới tháng trước nó ồn ào lắm. Nào giẻ, nào chim sẻ nào cu ...giờ nó bắt đầu trốn đâu hết?  Ban ngày sẽ có nhiều bầy quạ và kên kên còn lai vãng hay đậu từng bầy ngoài bìa rừng có cây cao ngất.

Chim bay đi về miền nắng ấm hơn cũng là lúc vườn nhà của tôi bắt đầu tàn dần. Khí hậu bắt đầu lạnh sau những ngày rất nóng non 40 độ C vào hai tuần trước. Vào đầu tháng Mười mọi năm, khi người ta chuẩn bị đón Halloween ngày của Ma Quỷ là mùa thu đến rồi. Những đợt không khí lạnh dần và vườn sau của tôi sẽ còn hai loại rau xà lách và cải là ưa lạnh mà thôi. Có thể tôi sẽ trồng nhiều hành ta và kiệu nữa, chúng hợp khí lạnh thu và đông hơn.







Cây trồng đó là những thứ tôi tiêu khiển và có ích cho bếp nhà. Vợ chồng tôi thường tự hào về ‘rau xanh’ tự chế của mình; mấy ai có được. Giàn bầu dài vừa qua thật nhiều trái giờ đã hết rồi. Tuy hết nhưng tôi có đi tặng người quen một số và cảm thấy vui vui trong lòng.

Đó là chuyện mùa hạ, giờ sáng nay tôi đang ngồi đây đón thu cũng như chờ ánh dương lên cao. Những ánh nắng đáng mong đợi do nó ấm áp chứ không nóng nực khó chịu như thời tiết mùa hè tháng trước.

Cà phê hết, ly trà đã  cạn khô. Những dòng suy nghĩ, tưởng tượng hay nhớ nhung, rất nhiều nhưng lộn xộn  về quá khứ. Bao hình ảnh trộn lẫn vừa chấm dứt, tôi vội đứng dậy thức bà xã tôi để cùng nhau đi bộ quanh xóm.
 Càng già vợ chồng tôi càng thấy cần sức khỏe hơn hết nên hay khuyên nhau cố gắng đi bộ hàng ngày. Những thứ này đâu mất tiền mua, lòng ước mong có được dịp nhìn về quê hương đất nước có ngày thay đổi. Lực bất tòng tâm, những lúc ngồi “độc ẩm vườn sau” chính là lúc tâm tư lắng đọng để một tâm hổn còn nhiều ước vọng làm tôi hay xao xuyến trong lòng./.



Đinh Hoa Lư San Jose một ngày vào đông 2019

edition 18/1/2025

Tuesday, January 14, 2025

NHA TRANG NGÀY VỀ




HỒI KÝ

                                       
    Tôi mất một ngày và một đêm trên chuyến tàu chợ vào Nha Trang. Nếu là tàu Thống Nhất, nó sẽ đi suốt vào tận Sài Gòn, nhưng đây là “tàu chợ’ nó ngang Nha Trang là hết. Tôi nghe cái tên “Tàu Thống Nhất” từ hồi còn ở trại Ái Tử. Những tờ báo Nhân Dân trên “căn tin” (tiếng này tôi không tự đặt ra mà trại gọi tên cho cái phòng đọc báo) hay cứ cho là 'thư viện tù' cho nó quan trọng một tí. Những tờ báo Nhân Dân đóng nẹp tre cẩn thận, móc trên vách đất của phòng đọc báo trong trại ngoài ra không có sự chọn lựa nào khác. Nhớ đến ‘căn tin’ đọc báo kia, nếu không lầm ngày đó có tập truyện mỏng có tựa là "Cây Đa Bến Cũ" của hàng binh Phạm văn Đính. Gần hai ngày, chiếc tàu không có 'dịp may' nào dừng lại chờ tàu Thống Nhất qua mặt nên tôi không hình dung tàu đó nó đẹp, sang, to lớn ra sao?


 Khoảng sáu giờ sáng tàu sắp qua hầm đèo "Rù Rì'. Người ta cho biết, và tôi cũng biết khi tàu qua Ninh Hoà, đi vào thêm vài chục cây số nữa.




Tính từ ngày ra trường, cuối tháng 11 năm 1973 đến nay tháng Tám 1980 ngót 7 năm xa Đống Đế, xa đèo Rù Rì và những bãi tập chiến thuật trong mấy tháng quân trường. Mau quá, hơn bảy năm qua biết bao biến đổi cho một miền nam và cuộc đời những thằng lính, những đứa tù binh?

 Bao người nằm xuống thì an phận rồi. Họ đã đền xong nợ nước, kể cả nợ đời hay nợ áo cơm.

Nhưng nhiều người còn lại phải chật vật, khốn khổ với hai chữ "ĐỔI ĐỜI”. Hoàn cảnh giờ đây chẳng khác gì những mớ rác hỗn độn, đủ màu sắc bị quăng vào và lắc đều trong cái thùng lớn, từng ngày từng giờ. Hình ảnh trước mắt tôi hai ngày nay, kể cả bản thân bị chao đảo, dồn ép trong những toa tàu chợ hôi hám, nóng nực.

Tàu đã vào khoảng tối cái hầm. Những ngày huấn luyện giai đoạn 2 tại Đống Đế đại đội khoá sinh tôi từng qua lại hầm này. Ngày đó chúng tôi đi sát vào thành hầm để giữ an toàn. Lúc chúng tôi qua hầm xong, tôi nhớ không có chiếc tàu nào tới. Hầm này không dài hơn hầm ở Hải vân, Đà Nẵng được. Tôi tưởng tưởng hướng trên đầu tôi, sườn núi Rù Rì- Đống Đế những buổi tập 'Trung Đội Phòng Thủ' hay "Trung Đội Di Tản Chiến Thuật' ... Những ngày tập sát Bãi Tiên, sóng biển bạc đầu, rì rào gió mát. Nào là Đỉnh "Thằng Cù Lần" tức là cái tượng lính sơn trắng trong tư thế “cầm súng thao diễn nghỉ". Nào đỉnh Hòn Khô phải chinh phục nó trước đêm gắn alpha cũng vào tháng Tám năm 1973.

Giờ tôi về đây, cũng vào tháng Tám trong thân thể gầy còm, áo quần tả tơi bạc phếch'? "chiến bại binh" trở về làm sao mà oanh liệt, oai hùng được?


Tôi nhớ hai câu truyền miệng trong Quân Trường Đống Đế:

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em ngồi xoả tóc đợi chờ ai?

Tôi chẳng biết tác giả là ai? khoá đàn anh nào trong quân trường? Nhưng chúng tôi cứ truyền miệng cho nhau, dễ quá sao mà không thuộc.

Đêm về, từ "chambre" đại đội tôi ngó lên Hòn Khô, viền núi đen sẫm in hình lên nền trời sáng mờ.  Tôi tán thưởng, gật gù, “công nhận trông giống hình 'người con gái nằm xoã tóc' hết sức!”

"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ”,
 “thằng Cù Lần” trên đỉnh 100 m, trước Hòn Khô, ngay sau lưng tiểu đoàn khoá sinh mang số 13 của chúng tôi.


Những cuối tuần đi phép, chỉ đi 12 tiếng trong ngày. Chúng tôi từ Đống Đế có thể về 'bát' phố Nha Trang. Nhưng Nha Trang, một thành phố dành cho 'người yêu Hải Quân, Không Quân'. Đây là tôi viết thật cho ngày đó, bởi thế tôi chẳng về Nha Trang. Do “tự ti mặc cảm” làm tôi chỉ du ngoạn ngang Cầu Xóm Bống hay Tháp Bà rồi trở lui. Uổng công đánh giày xi ra, ủi áo quần phép.

                                  di hành qua Bãi Tiên




Ôi những kỷ niệm lính qua nhanh, những cảm xúc, những nỗi nhớ mang máng hay sâu đậm. Nhưng cuối cùng tất cả đều buồn, đều tủi, cho những đời lính "đứt gánh giữa đàng'.
Tàu chui ra hầm. Hòn Dung còn đó. Những ngày lính quân trường di hành qua đây, mấy xóm phong cùi, giờ còn không? Chúng tôi lúc đó vẫn mua thức ăn tại bãi tập gần núi Dung, người làng đó có thể ra đây bán thức ăn gói sẵn trong mấy cái gói nylon, chúng tôi chẳng e sợ gì cả.

BẾN XE NGUYỄN HOÀNG- NHA TRANG

Anh xe ôm rồ xe chở tôi tới bến xe Nguyễn Hoàng lúc giờ bán vé gần hết. Hình ảnh những chiếc xe dài liên tỉnh thời trước vẫn còn đó, cũ hơn. Những chữ Hợp Tác Xã Xe Đò ...giờ được thế vào những cái tên tư nhân ngày trước. Nha Trang ồn ào, náo nhiệt hơn Huế. Vẫn có những đứa trẻ bán mỳ và hàng rong đeo theo nài nỉ với chiếc xe sắp chạy.
Tôi chạy nhanh vào phòng vé ...người ta lắc đầu làm gì có vé giờ này ?
Một anh nói lớn với cụ già:

-Ra đầu đường đón mới có về Sài Gòn mau lên!

Tôi nghe vậy liền chạy theo họ.

Quả đúng! người ta rành chuyện này. Phải “linh động” tránh bến xe một đoạn khá xa. Mấy chiếc vừa rời bến sẽ tấp vào đón khách thêm, ngoài số khách tiêu chuẩn mà vé đã bán. Hợp tác xã xe khách là vậy.
 Sau này tôi mới hiểu có vậy mới sống còn, nghĩa là biết “linh động” với nhau. Người ta bán vé tiêu chuẩn chỉ ít thôi, theo giá "nhà nước" quy định thì làm xe 'sống' được?
Chiếc xe dài vàng nhạt sà vào:
-Dzô Sài gòn, Sài Gòn phải không- 
' Lơ' [1]xe một tay bám vào thành cửa, đầu nghiêng ra ngoài, hỏi lớn.
Tôi bám theo ba người đi Sài Gòn, khỏi cần hỏi khi nghe họ đi Sài Gòn. Xe đón 'gió' kiểu này không có thì giờ cho hai bên 'kỳ kèo' giá cả. Lơ xe vừa nói vừa kéo, vừa đẩy mấy người khách như 'tống' mạnh vào trong cho người tài xế rồ ga chạy mất như bị ma đuổi?
-Anh kia dzô đâu?
Thấy bộ dạng tôi, anh chàng 'lơ xe' có thể đoán là người 'ngoài kia' vào. Tôi quên mất là cái mũ cối bằng rơm ép, màu vàng của tôi đang dội trên đầu [2]
 nên làm họ lầm là người "ngoài bắc" vào? (sau này tôi tiếc hùi hụi sao không đưa giấy ra trại cho lơ xe? người trong này biết 'tù về' thì không ai ép giá cao bao giờ)

-100 đồng ‘dzô’ Bình Tuy?

Tôi không còn nhớ có ‘kỳ kèo’ trả giá với người lơ xe đó không? Tôi chỉ nhớ là đưa ngay 100 đồng cho anh ta; lại còn mừng do anh ta lôi ra cái ghế 'súp'(3) bằng gỗ nhỏ xíu, bảo tôi lui ngồi tít cuối xe.

Có được chuyến xe vô nam, có được cái ghế nhỏ khỏi phải đứng thế là tôi mừng rồi.  Tuy biết rằng 100 đồng lớn lắm, nhưng tôi còn đủ tiền. Cám ơn tình cảm từ mẹ đích tôi, từ bạn bè, bà con  ngoài Huế, Quảng Trị, Đông Hà, giờ tôi mới ngồi trên chuyền xe khởi hành từ Nha Trang này.

Tuy ngồi phía cuối xe, lắc và nhồi nhiều nhất, nhưng tôi lúc đó thật thích thú khác xa với hai ngày trên chuyến tàu chợ vừa qua.


Chiếc xe qua ngã ba Diên Khánh bắt đầu quẹo trái
 vào hướng nam:

-Ba Mẹ ơi! cả nhà ơi! con gần đến nhà rồi!

Lòng tôi  sung sướng lâng lâng. Ước gì cả nhà tôi trong kia biết được giây phút này đây, tôi đang có mặt trong chuyến xe đò vào nam./.

ĐHL
Edit mùa Đại Dịch 23/4/2020 (San Jose -California)
=========================================
[*] đây là cái tên 'chọc tếu' với nhau trong quân trường , truyền miệng có tính hài hước trong đời lính quân trường. Thực ra là tượng lính chống súng trong tư thế thao diễn "Nghỉ", sau 1975 đã bị phá huỷ
[1] lơ xe: phụ giúp cho tài xế lái xe
[2]: sau này trong nhà tôi tiếc cho tôi sao không nói với họ là "tù về" nghe tù "cải tạo" về là họ bớt tiền cho liền
[3]: ghế 'súp'(supplementaire): tức là ghế phụ thêm ,dấu theo dành ghi thiếu ghế cho khách

========================================

ĐI CHIẾN DICH CỦA CÁC SVSQ VNCH

ĐI CHIẾN DỊCH- TƯỞNG NIỆM 50 NĂM NGÀY KÝ THỎA ƯỚC "TRÓI TAY QLVNCH"- BA LÊ  27/1/1973 ĐI CHIẾN DỊCH những SVSQ  KHÓA 8/72 ĐI CHIẾN...