Nhớ Thượng Sĩ Trầm -Trại 4 Ái Tử
Ông Trầm người tù già nhất Lán 4 đang ngồi nhả khói. Điếu thuốc to tướng vấn bằng giấy báo. Thuốc bên trong chẳng phải là thuốc rê hay cẩm lệ mà làm từ lá cây ngái, chúng tôi hay gọi là cây Ngấy loại dây leo nấu nước uống khá lành. Túng quá, thuốc rê gia đình thăm nuôi đã hết từ lâu. Làng Vĩnh Lại bên kia con sông Thạch Hãn nhưng giờ đây xem như là "diệu vợi" đối với ông Trầm.
Ông là thượng sĩ thường vụ, và cũng là người tù lớn tuổi nhất trong lán. chúng tôi trong lán phần nhiều là trung đội trưởng, chuẩn úy trẻ măng. Chúng tôi xem ông là người cha già trong lán. Ông Trầm tuy là thượng sĩ nhưng đối với làng ông vẫn bị đem lên đây với hai tiếng là "học tập". Chỉ có người viết là tù binh từ mặt trận và các đơn vị từ Huế trong ngày thất thủ, riêng đối với Ông thì đi từ địa phương lên. Tôi hay lân la bên ông Trầm, chia điếu thuốc vấn từ lá ngấy khô cho đỡ cơn ghiền. Nguyễn văn Sở cũng là người Vĩnh Lại nhưng ngang lứa tuổi với tôi, đứa nào cũng là trung đội trưởng mới ra trường. Thằng Sở lạ lắm, hắn nói chuyện rất nhanh, khó ai nghe kịp. Một lần đi rừng, thằng Sở lại là đứa đi nhanh nhất.
Bước hắn đi nhanh nhất. Mỗi lần đôi dép lốp kiểu bộ đội bị trật quai, hắn liền ngồi xuống xâu lại đuổi theo toán đi rừng. Bước đi hắn thoăn thoắt chút chi hắn lại tiến lên trước. Thời gian đó, không riêng gì Sở, chúng tôi đều được phát dép lốp đi rừng. Sở hơn chúng tôi nhờ tài xâu lại quai dép, không ai làm nhanh hơn hắn. Đường mùa mưa trơn trợt dép lốp trật quai lia lịa. Đoạn đường lên rừng hay từ rừng về mùa mưa, có khi chúng tôi phải ba bốn lần xâu lại quai dép.
Như chợt khám phá một điều thú vị, ông gọi giật phắc:
-MI ĐI SỤT CÁ KHÔNG P. ?
-DẠ ĐI CHỚ.
-KÊU THẰNG SỞ ĐI VỚI.
Ô không quên thằng Sở do hắn cũng là người cùng làng Vĩnh Lại hơn nữa tất cả ba người đều cùng tổ với nhau. Trần đình Côn dĩ nhiên không ai dám kêu hắn đi sợ liên lụy.
Những ngày ở trại 4 khoảng gần cuối năm 1975, thời gian đầu Bộ Đội miền Bắc còn cai quản tù binh chúng tôi không khắc nghiệt như khi bị trao qua Công An "quản lý" như sau này. Vòng rào lỏng lẻo, cuối tuần chúng tôi còn đi "cải thiện linh tinh" kiếm chút gì giúp cho bao tử. Chỉ có đêm về là lo có mặt là được. Nguyễn văn Sở và người viết đồng ý ngay với ý kiến chợt nảy sinh của ông. Cuối tuần, không có gì chỉ ngồi thèm thuốc đến chết người thôi. Ngoài kia là căn nhà thăm nuôi , Trại mới xây xong, vắng ngắt giữa cảnh núi đồi hiu quạnh. Đến kỳ thăm nuôi, căn nhà vãng lai đó mới vui hơn một ít. Người nhà của tù về rồi, sẽ trả lại quang cảnh vắng ngắt như mọi ngày.
Thời gian đầu, lúc bộ đội coi tù Trại chẳng có cổng gác. Mà chẳng cần ai gác do chưa có vụ trốn trại nào. Cái hàng rào kẻm gai lưa thưa cho có. Thời gian này rất lạ, ở trên nhà cán bộ chẳng ai lo chuyện tù trốn cả. Trần đình Côn, hắn là toán trưởng có ba hắn nghe đâu đi bộ đội tập kết có quen trại trưởng Trại 4 tên Thú. Đúng vậy, có một ngày ai đó chỉ cho người viết hình ảnh một người bộ đội già tay dắt một chiếc xe đạp giàng đi ngoài hàng rào. Ông ta tiến đến hướng khu nhà cán bộ. Ông là cha của Trần đình Côn tổ trưởng trong lán. Ông đi tập kết về lại QT ông tới thăm thằng con trai trong tù. Ông là bạn ông Thú trại trưởng cùng bộ đội lâu năm. Có cha đi tập kết, cũng như nhiều người khác, chuyện Côn về sớm hơn chúng tôi là lẽ thường.
Lán trưởng (nhà trưởng) chúng tôi là anh Nguyễn danh Huấn người Gio Linh. Mỗi lán có nhiều tổ. Mỗi khối có nhiều lán. Lán tức là cái nhà tranh lớn chứa mấy chục người tù. Còn khối có bốn lán như vậy. Tôi còn nhớ nụ cười hiền hòa của anh Huấn. Người anh điềm đạm, ít khi cáu gắt với ai. Đêm đêm vừa kéo hơi thuốc lào vừa kể chuyện đơn vị thuộc Sư Đoàn 23 trước ngày "TAN HÀNG...CỐ GẮNG". Anh chỉ là trung đội trưởng, rồi chuyện về lại địa phương...Làng Xuân Mị, Gio Linh quê anh. Khi người sĩ quan trẻ đó trở về phải nhọc nhằn đối phó với sự kỳ thị của địa phương. Anh Huấn kể lại có những đêm HỌP DÂN hay đội đoàn, anh phải đối phó với bao hằn học, gay gắt. Trước đội đoàn hợp tác tại quê anh với lời kể lại chất chứa bao cay đắng do anh phải QUỲ mỗi lần Hợp Tác hay Đội họp. Lên được trại 4, tuy là tù nhưng anh Huấn cảm thấy thoải mái hơn ở địa phương nhiều. Nguyễn danh Huấn, Trần Côn đều về trước tôi. Hai người đều về Sơn Mỹ Hàm tân trong thời gian đầu ra trại. Tội cho anh Huấn mất sớm ở Suối Nghệ nên không đi Mỹ được. Phần Côn lận đận lao đao từ vùng kinh tế mới này sang nông trường nọ cuối cùng gặp may đi được Mỹ trong các đợt HO "nạo vét" sau cùng. Côn về trước khá lâu, lại đi sau tôi khá lâu. Thế là công bằng. Tuy nhiên tôi đã giúp được cho người bạn tù một LÁ THƯ GIỚI THIỆU "Côn có ở tù cùng Lán" để Côn làm bằng chứng lúc gặp PHÁI ĐOÀN phỏng vấn đi Mỹ trong đợt truy cứu HO cuối cùng.
***
Ông Trầm dắt thằng Sở và tôi đi ra hướng khác tránh cho nhà cán bộ thấy. Ngày nghỉ cuối tuần chẳng ai có việc. Trại nghỉ hẳn nhưng chẳng có vệ binh canh chừng. Cả ba người đi tắt qua hướng Nại Cửu Phường để ra hướng Căn Cứ Ái Tử cũ.
Một vùng đồi núi càn, lau lách rậm rạp. Quang cảnh một vùng hoang vu không có bóng người ngoại trừ mấy trại tù vừa mới lập. Mấy con đường đất đỏ ngày trước chưa mất dấu. Cây leo và bụi rậm chưa phủ hết xác mấy chiến xa của mặt trận vừa qua. Căn cứ Ái Tử chỉ còn là những tấm ri sắt cong queo bị xé toạc bởi đạn pháo. Những hầm chứa đầu đạn 105 ly và 155 ly bị nổ tung rơi vải tung tóe. Ông Trầm bảo Sở và tôi kiếm 2 đầu đạn 105 ly chưa bắn rồi vác theo ông. Cả ba người lầm lũi bước về lại hướng núi nơi có rất nhiều hố bom B 52 giờ đã trở thành những cái hồ nho nhỏ. Vác hai đầu đạn không chưa hề có ngòi nổ nên không thể nổ được. Tới mấy cái hố bom rồi, bảo chúng tôi dừng lại.
Cái que sắt khá nặng có một đầu nhọn do thằng Sở vác theo, không ngờ giờ đây mới bắt đầu có ích.
Cái cảnh "điếc không sợ súng" là giây phút đó. Liên tục đâm cái đầu sắt nhọn vào phẩn miệng quả đạn thật quả là chuyện liều. Không liều làm sao có cá ăn. Do đây là cơ hội "cải thiện" mà đã là tù thì làm gì còn chuyện sợ chết. Đã "cùi thì không sợ Lở" ý nghĩa cuối cùng là liều. Thật ra theo kinh nghiệm pháo binh, chỉ có đầu nổ gắn vào mới làm cho đầu đạn có sức nổ được. Theo lệnh ông Trầm hai đứa chúng tôi thay phiên nhau dùng cái que sắt nặng đó liên tục đục vào lỗ đầu quả đạn pháo vị trí sẽ gắn đầu nổ nếu như quả đạn sắp được bắn đi. Sở và tôi, bậm môi nghiến răng liên tục thụt cái đầu nhọn que sắt dần hồi khai thông qua được lớp nhôm dày đi vào phần chứa thuốc nổ bên trong. Một lớp bột chất nổ màu vàng bên trong đã thành hình.
Ông Trầm đốt một vài que củi xong lấy than hồng thả vào lớp bột thuốc nổ bên trong miệng quả đạn. Người yếu bóng vía làm sao dám làm chuyện này hay dám đứng gần bên?
Ông trấn an:
-KHÔNG RĂNG MÔ ! (không sao đâu)
Ông nói chắc mẩm như đã rành rọt từ bao đời. Ông chẳng sợ gì do ông biết không hề gì. Lớp bột thuốc nổ bên trên bắt đầu bén lửa. Tôi chưa hết cảm giác run sợ lúc đó. Cứ tưởng tượng quả đạn nổ tung thì banh xác hết cả ba người.
Cơn run của tôi chưa hết, thì đầu đạn bắt đầu bén lửa cháy phùn phụt lên cao. Ông Trầm đợi cho làn khói trắng trên miệng quả pháo bốc lên độ cao vừa ý, xong ông vội ôm quả đạn đan cháy lội ra giữa hố bom và cắm ngược quả đạn xuống lớp bùn. Quả đạn được sức cháy nên không tắt đi vẫn tuôn những làn hơi bùm bụp bắn lên từ đáy miệng hố bom.
Té ra ông đã kinh nghiệm chuyện này từ lâu, có điều kinh nghiệm này của ông không biết lúc nào?
ÔI NHIỀU CÁ QUÁ ĐI !
Quả đạn bắn hơi, sôi sùng sục giữa hồ non nửa tiếng đồng hồ thì ngưng hẳn. Một cảnh tượng trước mắt mà chúng tôi lần đầu tiên trong đời mới thấy...
Ôi thôi bao nhiêu thứ cá trong cái hố bom nhỏ, nói chung bất cứ có con vật nào núp sống dưới cái hồ này bao lâu nay đều lo ngoi lên mép hồ để tìm hơi thở. Nhiều nhất là cá tràu và cá trê chúng thi nhau cằn lên mép cỏ để sống. Chúng thực sự bị say thuốc súng không thể nào ở nán lại trong làn nước đã sặc mùi thuốc súng vừa rồi. Mấy con rạm con đam đều chung số phận chúng thi nhau bỏ nước bò lên. Cả ba người hỉ hả thi nhau bắt cả bỏ vào mấy cái bao cát nylon xanh của Mỹ.
Thật là một "CHIẾN CÔNG" lần đầu tiên trong đời người viết mới chứng kiến đối với loài cá. Những con cá thành hình từ ngày TÀN CUỘC CHIẾN trong mấy cái hố bom sau cái cảnh bom bay đạn lạc. Ngày tàn cuộc chiến, sau hai ba mùa mưa rơi rơi trên miền đất khổ. Nước hố bom đã định hình một cảnh sống tái sinh. Hố bom cũng là hồ cá cỏn con lẫn trong những vùng đồi hoang dại mà ngày xưa từng ầm vang tiếng bom rền đạn réo. Tôi có ngờ đâu cái cảnh SỤT CÁ HỐ BOM như ngày hôm đó lại mang lại niềm vui cho chúng tôi khi người tù được cá.
Từ năm 1977 chúng tôi bị đi đày ra Thanh Hóa cho đến khi vào lại Ái Tử và vô Bình Điền thì mất tin ông Trầm. Có thể ông đã được về trước. Cả nửa thế kỷ qua đi, chắc hẳn năm này ông chẳng còn trên cõi thế này nữa. Ông ngang lứa với ba mẹ tôi thì ắt hẳn đã về với những người "muôn năm cũ". Nhớ về ông tôi không bao giờ quên khói thuốc lá ngấy, cùng hình ảnh mấy cái hố bom bên bụi bờ lau lách đìu hiu cạnh trại tù Ái Tử năm nào.
ĐHL 21/1/2025
nhớ trại 4 Ái Tử
No comments:
Post a Comment