toàn tập
Trên cái chòi cao trước cổng, một công an áo vàng cầm sổ điểm danh từng đội tù lần lượt bước ra ...
...
...
Thôi, xin giã từ mấy công việc lấy 'phân tù' trộn băm với lá rừng làm nguồn bón cây . Anh' tăng gia' kia còn mãi công việc 'chẳng đặng đừng'- hòa tưới phân người lên mấy luống cải xanh đang mọc nhanh 'phơi phới' .[1] Cũng giống toán thợ rèn làm ra cuốc rựa, ba 'lạng' mỳ tươi 'bồi dưỡng', đó là phần thuởng của Trại tặng thêm cho họ trong ngày.
ĐI MAU VỀ NHÀ.
Hình ảnh mấy sườn núi, xa gần trước mắt chúng tôi bị đốt cháy nham nhở, từ khai hoang mở đất. Hai bên con đường đất đỏ, quanh co có vài cái quán tranh sơ sài. Trong xa kia là mấy trại tù mà chúng tôi vừa từ giã. Những năm xa cách không ngờ người dân cũng 'đổi đời' như chúng tôi cùng 'đáo sơn tầm thực'. Tù thì trồng sắn, dân cũng chẳng khác chi tất cả đều lên đây , phá rừng trồng cây lương thực thay cho lúa gạo.
Chúng tôi không ai bảo ai đều sà vào cái quán cơm bình dân bên đường trong lúc chờ xe đò từ Huế lên.
-Mấy anh về chị có đen(g) thì đừng có chê nghe mấy anh !
Trong nhóm tôi là đứa em cấp bậc nhỏ nhất, lại độc thân . Tôi chưa thấm thía những cảm xúc bằng các anh, những người bao đêm quay quắt nhớ vợ thuơng con .
Những đọi cơm hôm nay O xúc đầy hơn, không tính toán . O mừng các anh. O nói thật lòng . Năm tháng chịu đựng gian truân, thiếu thốn từ vật chất lẫn tinh thần, những người vợ tù đáng quý biết bao !Sao mà chê 'đen' được các chị ở nhà ? 'thân cò lặn lội' gần xa , bao dặm đường gian nan tìm ra hạt gạo nuôi con, phần lo bới xách cho chồng trên trại.. Hình ảnh đoàn người thăm tù hằng hai tháng , những người đàn bà nay quần thô áo vải , theo bước đi vội vàng, hai cái túi xách đu đưa hai đầu đòn gánh...
Tôi ngơ ngác ngó quanh . Mấy năm xa cách chốn đế đô, giờ tôi nhìn lại Huế chợt có cái cảm giác Huế có một vẻ gì xác xơ và xa lạ ! Tôi cũng như các bạn khác từ rừng xanh núi thẳm về lại chốn thị thành mới biết quê hưong chỉ vài năm mà đã tiều tụy đến não nề ! Nhà ga Huế im lìm trong cơn nắng tháng 8, cửa cái bể cái vá, vài ba cái quán cũng đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo vài nải chuối đong đưa. ..
Những lời mời của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại:
- Đi xe khôn eng...
-chú... chú ...đi xe cháu nì chú
Tôi nhìn quanh toàn là xe đạp. Những chiếc xe méo mó, sét rỉ lâu ngày , yếu ớt không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người dân Huế giờ đây lại 'sáng tạo' ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây lần nào. Giờ họ phải tận dụng đến sức lực cơ bắp của mình kiếm đồng tiền bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải bấm bụng giành giật miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng -hình đặc biệt xưa nay mà tôi vẫn còn ghi trong trí óc. Ngày xưa người ta cũng đi xe ôm, xe thồ nhưng tệ lắm là chiếc Honda nhấn ga là chạy vù vù thế mà đã than khổ rồi !?
Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi, những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo; giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai,và tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi.
-Về Tây lộc mấy rứa?
-Chú cho 3 đồng à chú..
Thú thật nhìn cái dáng của tôi em đó cũng chẳng nói thách làm gì vì biết chúng tôi là ... cải tạo mà. Xa Tây lộc không biết mấy năm rồi cứ nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây đặt tên là chợ Tây Lộc kế đường Trần quốc Toản .
Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương . Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét rêu phong rệu rả. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi cứ hơi lấn người tới trước lòng như muốn mình được nhẹ hơn. Hỏi chuyện thì tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em cũng không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra ngừoi khách. Có khi cả ngày em mới được 1 cuốc xe vừa đủ mua 3 lon gạo.
Xe đã vô cửa Thượng tứ. Nó cứ chạy rập rình qua mấy đoạn có "ổ gà, ổ vịt" . Tôi lại như muốn rướn người lên cho nhẹ bớt đi khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ đàng sau tôi thấy chiếc áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.
Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mỏi đó sẽ kéo dài trong một tâm trạng não nùng của van lơn, buồn tủi, đợi mong.
*
III NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH
Khi tôi về, nhìn dân tôi ngỡ ngàng
Khi tôi về, nhìn quê hương điêu tàn
Nhìn tuổi thơ nghèo nàn, nuôi đời trong dối gian!..
12/6/1980
Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ bạc Bắc tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp vội vàng của em, lưng em hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng em. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì . Kiếm khách thêm thì trời đã chiều . Ai đi đâu lúc này , thời buổi ngoài đường người đi bộ đông hơn xe đạp.
-Ba lon gạo là cùng !
Tôi nghĩ thầm.
Thời "củi quế gạo châu" vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Tôi nhớ vào cuối năm 1975 khi mới có trại tù Ái Tử, một đồng bạc bắc , lén về được Chợ Hôm gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi chỉ mua được 1 'lon' khoai khô . Tiền thời này, cao nhất là đồng bạc 10$, mau` đỏ choé, cái thời quí gạo chẳng khác gì 'thuốc bổ -sâm nhung ' ...
Tôi thở dài quay bước tìm nhà mẹ đích tôi [1]. Trước kia mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát Chợ , nay đã bị Nhà Nước đuổi hết . Trong Chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng" !
Con đường nhỏ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp day về phía phi trường Tây Lộc cũ. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi mừng lắm . Câu nói đầu tiên của mẹ tôi là nguyền rũa ai đã giam tôi quá lâu
-Quân chi ác ôn rứa ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới 5-6 năm dữ rứa hè..?!
Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này . Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm , sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè . Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc . Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền ?
Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32 $ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' [2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi , sự thật ngoài trại tù lại khác . Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu , cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và tiêu chuẩn hoá nên tất cả đều là 'Chợ Đen" mới có. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' mà lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc?
Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường QL gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí . Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng. Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là Ba.
Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về định cư gần ngã tư Quang Trung - Hồ đắc Hanh (tôi dùng tên đường trước 1975 để dễ dàng xác định vị trí cho những ai từng sống ở thành phố này trước 1972). Nơi này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả dù xe đò bị vào 'hợp tác xã' rồi.
Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn, trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ của Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa. Bốn và tôi là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu. Tội nghiệp! xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất? Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai? nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa biết ai giúp đòi lại cho? Bà con - cố cựu tản mác tứ phuơng, kẻ ở trong nam, người tận khu Thị Tứ Đông Hà mới sau này.
Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng (trước mặt Tiểu Khu Quảng Trị đóng tại cồn cát Diên Sanh ) xem như 'xoá sổ' bà con xóm Cửa Hậu ( đường Lê v Duyệt - Duy Tân) thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư' sau 1975.
Chuyện hồi cư Lần Một nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1972. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ" . Đợt hồi cư thứ hai là cuộc đổi đời sâu đậm nhất : ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên , vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh hay Hải Trí như vừa nói ở trên.
Đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm xúc về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn. thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'. Cùng với nhiều đứa bạn khác cùng lớn lên trong cái xóm thân yêu nói trên.
Sau khi gặp gỡ Bốn và gia đình hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà. Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu Thị Tứ Mới của Đông Hà sau ngày "giải phóng' để tìm bà con Xóm cửa Hậu.
Nào hai gia đình dì của Bốn : dì Nậy , dì Dỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã.Chú Thanh chồng Dì Nậy đã qua đời. Nhà bạn Trần Tài (em út của cac anh Tiết, Tước , Xê và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình ; xưa , trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi .
Đến đây , tôi nhớ hình ảnh anh Quang thời học sinh anh Q cũng rất thuơng tôi , các dì các o ngang lứa mẹ tôi đều thuơng tôi , ngày 17 tháng 3, 1975 khi rút quân về anh là tiểu đoàn trưởng t Đ 122 chỉ gặp anh lần đó là lần cuối. Thời Cửa Hậu lứa anh Quan anh Truơng Đá , anh Liệu , anh Tùng , anh Thuận đều thuơng tôi. Cái tên "Sù Sựa" là do anh Đá đặt cho tôi để chọc .
Bốn cứ gọi tôi là "Sù Sựa" , bạn ấy gọi riết đến quên cả tên "cúng cơm ' của tôi. Biệt danh này , do Bốn năng gọi mới lan nhanh khắp xóm.
Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà , ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt' . Tôi rất nôn về nam , gia đình tôi trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ .
Tình cảm từ mẹ tôi tại Tây lộc từ bạn bè bà con lối xóm của tôi đóng góp giúp tôi gần 300$ bạc Bắc cho tôi lộ phí vào nam về với gia đình . Con số này quá lớn vào lúc này, nó chứng minh điều tôi nói bà con lối xóm bạn bè thuơng tôi như tôi vừa viết chẳng hề sai .Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký , một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố QT . Nhảy lên được chiếc xe 'gió' lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời . ..
còn tiếp
[1]: ba tôi hai vợ , mẹ ruột tôi là bà hai, còn ở trong nam
[2]: năm này còn ăn tiền xu còn gọi là hào : một đồng bạc ăn 10 hao`
******
.....
cuộc đổi đời
dù đá nát vàng phai
nơi đất khách lạc loài
tôi vẫn nhớ mãi thương hoài về Huế
GIAN NAN NHỮNG CÁI VÉ TÀU?
Thập niên 1980 dân mình sợ nhất là chuyện đi xa. Huống gì tôi, khi cầm cái giấy ra trại trong tay, nó không thể là cái giấy thông hành loại ưu tiên cho tôi về với gia đình một cách thuận lợi .
Chuyện cái vé tàu
Vé tàu đây là vé tàu hoả, hay xe lửa. Ai gọi sao cũng được miễn là đưa được cái 'thân hình' vào trong toa chiếc tàu chợ là một điều may mắn . Năm này nghe đã có tàu THỐNG NHẤT, nhưng đây không phải là hình ảnh người dân mong đợi , huống gì tôi là người tù được tha về .
Từ Tây Lộc tôi tìm cách lên ga Huế nằm chờ trong đêm . "Những tư tưởng lớn gặp nhau" tại đây. Lố nhố trong cái phòng rộng không ghế chẳng bàn người dân Huế đã ngồi đây từ lâu . Họ dựa lưng vào vách nhà ga, không rời những cái bị lác, nhưng cái bao bột mỳ cũ đựng đồ bên trong. Những ô cửa bán vé đang đóng im ỉm vì sáng tới 'cán bộ' mới bán vé tàu .
Tôi cũng tìm chỗ, ngồi bệt xuống cái nền xi măng dơ bẩn, dựa lưng suy nghĩ miên man. Tôi nhớ về hình ảnh mấy ngày qua, y như giấc mộng ... Những cái rẫy sắn bạt ngàn, những rừng mây nước đầy gai của Bình Điền phía Tây nam Huế. ,.tiếng trại đọc tên người được tha về, những bước chân người về vội vả không dám ngó lui cái trại tù quá nhiều ấn tượng...tôi không thể chợp mắt chút nào, lòng nôn nao tưởng tượng đến hình ảnh gia đình tôi ba mẹ, các em , dì cậu bà con trong đó sẽ mừng thế nào khi bước chân tôi về đến ngõ .
Tôi lại nhớ về hình ảnh mẹ đích tôi em Hoà .. còn lại sinh nhai ở Tây Lộc , anh Nghĩa, con đầu ba tôi giờ phiêu bạt ra sao ? Tiếng mừng rỡ của những người bạn chí thiết của tôi tại xóm Cửa Hậu một thành phố mất rồi . Sự giúp đỡ chí tình của Bốn và bà con bạn bè ngoài Hải Trí , ngoài Đông hà, ôi ! một tình thuơng , ngập tràn ân nghĩa .
Đêm còn dài. Tôi không dám bắt chuyện với ai. Cái rụt rè của người mới ra tù, giờ tôi nhớ lại . Có lẽ họ xem tôi như 'anh du kích' nào trên rừng mới về do tôi không bận áo quần sọc tù mà bận cái áo ka ki lính màu ô liu đã bạc màu. Cái mũ cối bằng rơm vàng mà trại phát, thêm cái va lô VNCH cũ mà tôi từng dùng bao năm nay. Thỉnh thoảng tôi nắn lại kiểm soát cuộn tiền xem còn không . Tôi chia số tiền ra hai nơi; một nữa để mua vé , một nửa phòng thủ khi cần thiết. ..
GIÂY PHÚT BON CHEN
Độ ba giờ sáng thiên hạ đã tới chật cứng cả phòng đợi. Tôi bắt đầu ngột ngạt, sự lo lắng của tôi tăng cao dần. Làm sao mà có vé bán đủ cho ngần ấy người ? Làm sao tôi có vé đây ? Hình ảnh khi trời rạng sáng sẽ ra sao trước ba cái ô nho nhỏ bán vé kia ?
Riêng tôi, tới sớm nên không cách cửa sổ bán vé bao nhiêu. Trong tôi, nửa do dự , nửa lo sợ, rụt rè không sẵn sàng 'tung hết' sức lục ra đối phó với tình hình xem chừng gay cấn đến nơi. Mới ra tù, cái gì tôi cũng lo, cũng sợ. Tôi chưa hết cái cảm giác bị ràng buộc , canh chừng như ở trong trại . Mọi người , mọi thứ đều hơn tôi một bậc.
Tiếng còi tu-huýt của người bảo vệ chợt rít lên. Cửa bán vé mở rồi. Tôi không kịp thấy người bán vé là nam hay nữ trong đó vì có một sức mạnh như 'triều dâng thác lũ' cứ đẩy tôi lui dần, lui dần. Lúc này sao tôi yếu quá . Hết sức bình sinh tôi cố lấn tới nhưng rất ít kết quả !
Tiếng la hét, chửi rủa vang lên loạn xạ. Hết kiểm soát rồi. Thật ra có ai kiểm soát đâu? Giờ chỉ còn vấn đề của sức mạnh, la hét và cuồng nộ thôi. Ngoại trừ tôi, do quá rụt rè không dám kéo ai, mạnh tay hay 'thịnh nộ' với ai ...
Chợt lại có tiếng tu-huýt vang lên từng hồi liên tục, tiếng la ơi ói nghe từ phía trước. Có chuyện gì bất thường trước đó?
-Xê ra! xê ra !
Người bảo vệ vừa thổi còi vừa đạp lên vai người dân buơn về trước , tiếp đến hai ba người nữa . anh ta phải đi trên "đống người" vì không còn cách nào chen lấn nỗi. Mặt anh đỏ gay, hơi thở hồng hộc , cái băng đỏ bảo vệ bên tay áo phải xập sình gần rời ra. Không ai chống lại anh . Bảo vệ vừa kéo vừa la hét, họ đạp trên đầu đám đông thật sự; tuy vậy chẳng thấy ai lùi lại sau.
- Chuyện gì ?
Câu trả lời rõ ràng cho tôi là hình ảnh ba người bảo vệ kéo lê thân mình anh thanh niên đầu tóc rũ rượi ra ngoài . Thì ra anh ta bị ngất . Tôi chứng kiến một sự thật trước mắt: một thanh niên phải xỉu khi giành vé tàu .
-Hết vé ,hết vé !
Tôi nghe tim mình như ngưng đập, trời đất như sụp đổ!
-Hết vé rồi? làm răng đây ?
Cả đám đông khựng lại ...
-Răng mà hết vé , mới bán mà ?
-Tiêu chuẩn ...ưu tiên.... vừa phải thôi chớ ?
Người ta càu nhàu, chửi rủa. Tôi không còn nghe gì, hai lỗ tai như lùng bùng, trong lòng 'chết lịm'.
Thất vọng.
-Răng eng không tới Công An ga xin phuơng tiện ?
Một bác không mua được vé như tôi , sau khi nghe hoàn cảnh tôi mới được tha về nên mách cho tôi vậy...
Phòng công an Ga Huế nằm ở cuối ga. Thú thật, vì nóng lòng bởi phuơng tiện nên tôi mới 'bấm bụng' đẩy cửa bước vào .
Tôi không còn nhớ mấy ông công an Ga Huế bận đồ thường hay đồ cảnh phục nữa . Tôi đưa giấy ra trại ra và trình bày . Hình ảnh tôi nhớ sâu đậm nhất là cái lắc đầu lạnh lùng và ánh mắt lừ đừ như vô hồn từ chối lời thỉnh cầu của tôi về chuyện vé tàu vào nam . Họ trả lời tôi , họ chỉ lo an ninh còn vé tàu thì họ không có thẩm quyền .
Thế là hết , tôi thất vọng đi ra.
Tôi đi lên, đi xuống , gặp ai tôi hỏi đó.
Chợt ánh mắt tôi bắt gặp một đám người đang lố nhố trước mắt, tôi bước nhanh tới đó. Một thanh niên và một đứa bé đang đứng trấn một lỗ hổng vừa người chun qua tại bờ tường chia cách sân tàu tới và phía ngoài đường .
Người thanh niên và đứa thiếu niên đều có giọng nói Hà tĩnh Nghệ an gì đó:
-đưa ba đồng qua lỗ này, chờ tàu tới mấy bác cứ lên và sau đó cứ ghi vé phạt , ba đồng ba đồng thôi ...
Tôi nghe thế mừng như sắp 'chết đuối vớ được phao" vậy . Thú thật giờ này mà hai người kia nói năm hay mười đồng tôi cũng phải đưa thôi . Một điều lạ , tại sao có cái lỗ này ? mấy ông bảo vệ sao không biết ? Vào thời điểm đó tôi không có thì giờ để thắc mắc, chỉ đưa ngay ba đồng cho anh thanh niên giọng Nghệ An kia . Thấy lâu, anh ta vội đẩy tôi lên cao bảo tôi nhảy, dành lỗ kia cho mấy người kia chui qua.
Nhảy xuống xong, móc cái ba lô lên vai, tôi nhìn anh thanh niên ra vẻ biết ơn, vội ù chạy càng nhanh càng tốt do sợ an ninh bắt lại. Cái sợ của tôi 'nhân đôi' vì tôi là một 'thằng phạm'[2] mới được tha về ...
[1] ngày xưa đánh điện tín (telegraphing) người trung hay nói là đi 'đánh giây thép'
[2]: ngoài kia hay gọi người tù nguòi bị án là phạm (phạm nhân)
******
V - CHUYẾN TÀU XUÔI NAM
Thế là tôi đã lọt vào chuyến tàu chợ từ ngoài kia vào.
Những toa tàu người đông như nêm cối. Tôi chạy tới chạy lui như 'gà mắc đẻ' . Hú vía, cuối cùng tôi đu người được lên một toa gần cuối. Nhét được thân mình vào trong toa tàu , chỉ cần ngần này thôi là xong.
Trong toa tàu, hai dãy ghế dài hai bên dĩ nhiên không còn chỗ nào để nhét cái 'bàn toạ' vào. Hành khách lên sau ngồi đầy ở lối giữa. Chật đến nỗi, người ngồi trên vai, thậm chí ngay cả 'trên đầu' người khác khi một tay cố níu lên cái móc đu hay cái giá ngang đựng hành lý .
Tàu chạy.
Tiếng còi rít lên; con tàu lắc mình rùng rùng đầu chậm sau nhanh dần . Thế là giã từ Huế, giã từ cái ga bán vé quá nhiều xúc động. Mới hôm qua đây và rạng sáng nay thôi; những âm thanh chen lấn , la hét như còn tồn tại , tiếng chói tai nhọn hoắc như cứ réo mãi trong đầu tôi. Từng lớp người bị xô dạt về sau...mái tóc rũ xuống, cái đầu gục xuống của người thanh niên bị xỉu khi giành mua vé tàu ...
Con tàu xưa kia phun khói đen sì giờ không còn. Những cái đầu máy diesel cũ kỹ thế vào cho những con tàu chợ này. Tàu ngang Phú Luơng hay Phú Bài gì đó, tôi đoán vậy .
Tay tôi mõi nhừ vì phải níu, cái lưng còn đeo cái ba lô may mà chẳng có gì . Tôi cố gắng để phải ngồi lên đầu một bác ngồi bệt giữa sàn tàu.
Toa tàu đông người quá. Thỉnh thoảng người đi từ toa này sang toa khác phải la hét lên để người ngồi giữa toa nhếch người cho họ bỏ chân qua. Tiếng cằn nhằn của bà lão bị đạp lên chân, tiếng ho rũ rượi của anh thanh niên ngồi gần cửa sổ.
Thỉnh thoảng tôi thấy được vài đám ruộng, vài cột điện thoại trôi nhanh về sau . Con tàu thỉnh thoảng lắc mạnh, khi nghiêng bên này , rồi lại nghiêng bên kia làm tôi có phần hồi hộp.
Lần cuối cùng tôi đi tàu tức là năm 1977. Năm đó gần 1000 tù binh cải tạo chúng tôi từ giã Đô Luơng , Nghệ An và sau đó lên tàu hoả để ra Thanh Hoá , tiếp tục cải tạo Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân
Giờ , tức gần bốn năm sau tôi lại được đi tàu . Nhưng mừng vui hơn lúc đó, vì đây là chuyến tàu đua tôi về với gia đình, những người thân thuơng nhớ.
Hình như con Tàu đã đến ga Truồi. Ngày kia tôi có về thăm lại làng nội , Nội tôi giờ chẳng còn ai . Chú tôi còn cải tạo trên Bình Điền . Ông bà đã mất . Anh em xao lạc người còn cải tạo lớp đi kinh tế mới Nam Đông . Thím đầu tôi, trong bữa ăn không quên món bột lọc quậy sở trường của thím . Chú tôi xa nhà đã 5 năm. Trong thôn xóm không biết làm gì ăn. Con cháu lớp quá nhỏ , lớp toàn đàn bà con gái ngày xưa sống còn có đồng luơng chú tôi chu cấp thêm , giờ thì ?
Ra tù, mới Huế, Truồi , Quãng trị , người thân bạn bè ...cảnh sinh hoạt đồng bào . Tất cả cộng lại cho tôi cảm giác hụt hẫng ,buồn lo vô hạn. Một xã hội trước mắt tôi như chới với sắp rơi tòm xuống một vực thẳm to lớn đen ngòm . Sự chia xa của những người tôi không còn thấy mặt. Cảm giác bơ vơ lạ lùng, tôi như bị vứt vào một cõi hoang mộng vu vơ nào đó .
Giờ tôi không có khả năng nào để nhìn ra được khung cửa sổ
để xem con tàu qua cầu Truồi hay chưa ? Nếu ngồi xe thoải mái, khi qua cầu Truồi nhìn theo con nước chếch về dưới kia bên bờ sông lấp ló tàn phượng vĩ đỏ ối , sà cành soi bóng nước sông. Nơi đó là bến đò thôn Xuân Lai , gần nhà Nội tôi .
Tâm lý của tôi giờ đang lo lắng cho vấn đề vé phạt ra sao ? giờ thì mấy người soát vé chắc gần tới . Họ đi toa này xuống toa khác không ai thoát được .
Lần đầu tiên trong đời tôi sắp gặp trường hợp vé phạt trên tàu . Ngày xưa còn nhỏ , tôi theo ba tôi vào ga Quảng trị mua vé tàu đi Truồi hay đâu đó tôi không còn nhớ ngoài trừ hình ảnh cái vé tàu nho nhỏ bị người soát vé lần lượt bấm 'cái lỗ' tròn trên đó . Đích thực tôi chưa hề biết vé phạt lần nào; hơn nữa chuyến tàu này đang hoạt động trong một chế độ khác , xã hội khác mà người chiến thắng 'lạ hoắc' đối với tôi .
Tai tôi thỉnh thoảng có nghe tiếng còi tàu. Nó không còn là tiếng hú lên lâu dài từ cái đầu máy đốt bằng than phun khói đen sì thời xưa . Tiếng còi tàu dầu kêu rất khác nó kêu toang toác tiếng lanh lãnh rất ngắn rồi im.
Có tiếng người xao xác phía trước . Sự im lặng đột ngột của một toa người, láo nháo, ồn ào là cả một sự khác thường.
Tiếng người nói trước tôi .
-họ soát vé , họ soát vé !
Cái gì phải đến sẽ đến thôi. Thật tình tôi không nghĩ đến chuyện phạt tiền mà sợ vớ vẫn rằng họ sẽ đuổi tôi xuống tàu giữa đường. Mấy người có vé thì mau hơn. Riêng những người không vé thì bị hạch hỏi đi đâu ?xuống đâu ? tiếng lí nhí trả lời tôi không nghe rõ .
-anh kia vé đâu ?
Người soát vé ,khá già , cái mũ cối bộ đội đã bạc phếch . Tôi đã trù liệu rồi , cái "LỆNH THA " tôi đưa cho ông ta đọc , và trình bày hoàn cảnh của mình . Tôi thấy ông ta ngạc nhiên khi tôi kêu ông ta là "cán bộ'. Nhưng cái vẻ ngạc nhiên đó ông dấu đi rất nhanh.
-Sao anh không mua vé tàu , có Lệnh Tha này cũng ưu tiên cho anh mà ,cách mạng ta khi nào cũng khoan hồng và nhân đạo anh biết không ?
Tôi tả lại chuyện chen nhau mua vé vào rạng sáng , và ỉ ôi với ông rằng cũng tới sớm lắm , trong loạt những người đầu tiên tới đợi tại Ga Huế . Nhưng không thể 'manh động' (một từ tôi mới biết từ trong trại) với bà con cô bác nên bị dạt lui sau . Tôi dấu chuyện anh thanh niên bị xỉu vì sợ rằng biết đâu ông ta cho tôi 'nói xấu Cách Mạng" cũng nên .
Giọng ông ta bất ngờ dịu lại
-Tàu này tới ga cuối cùng là Nha Trang không đi đến Bình Tuy đâu nhé.
Tôi chỉ mong có thế, Nha Trang hay đâu cũng được miễn là càng vô nam càng được chặng nào hay chặng đó . Tôi lại càng mừng hơn khi ông ta lấy phạt chỉ 'năm chục' đồng . Số tiền khá lớn , nhưng tôi còn lại trên hai trăm làm sao không về nam được .
Người soát vé đi rồi , cái giọng Thanh Hoá của ông tôi nghe và đoán được vì tôi có lao động ngoài đó hai năm và có một cán bộ quản giáo người Thanh Hoá một lần coi tù chúng tôi.
Trong tôi cảm giác yêu đời dâng cao. Không khí hết cả ngột ngạt. Quanh tôi, mọi thứ đều đáng yêu .
VI - NHA TRANG NGÀY TÔI về LẠI Nhưng lại Thoáng Qua
Gần hai ngày, chiếc tàu chở tôi không có 'dịp may' nào dừng lại chờ tàu Thống Nhất qua mặt nên tôi không hình dung tàu đó nó đẹp , sang, to lớn, màu mè ...ra sao , để 'rửa' mắt sau những ngày ở trên rừng .
Khoảng sáu giờ sáng tàu sắp qua hầm đèo "Rù Rì' . Người ta cho biết , và tôi cũng biết khi tàu qua Ninh Hoà , đi vào thêm vài chục cây số nữa.
Tôi đã về lại Nha Trang !
Tính từ ngày ra trường, cuối tháng 11 năm 1973 đến nay , tháng Tám , 1980 ngót 7 năm xa Đống Đế, xa đèo Rù Rì những bãi tập trong mấy tháng quân trường . Mau quá, hơn bảy năm qua biết bao biến đổi cho một miền Nam và cuộc đời những thằng lính, những đứa tù binh ...bao người nằm xuống thì an phận rồi . Họ đã xong cái nợ áo cơm , nợ nước..;kể cả nợ đời .
Những người còn lại, chật vật khốn khổ với hai chữ "ĐỔI ĐỜI' như những mớ rác rưới hỗn độn, đủ màu sắc bị quăng vào và lắc đều trong cái thùng lớn , từng ngày từng giờ . Hình ảnh trước mắt tôi hai ngày nay ,kể cả bản thân, bị lắc đều dồn ép trong những toa tàu chợ hôi hám nóng nực chật chội .
Tàu đã vào khoảng tối của cái hầm . Những ngày huấn luyện giai đoạn 2 tại Đống Đế đại đội khoá sinh tôi từng qua lại hầm này . Chúng tôi đi sát vào thành hầm để giữ an toàn. Lúc chúng tôi qua hầm , tôi nhớ không có chiếc tàu nào tới . Hầm này không dài hơn hầm ở Hải vân SƠn Đà Nẵng được. Giờ tôi tưởng tưởng trên đầu tôi, sườn núi Rù Rì Đống Đế những buổi tập 'Trung Đội Phòng Thủ' hay "Trung Đội Di Tản Chiến Thuật' ... Những ngày tập sát Bãi Tiên, sóng biển bạc đầu hay rì rào gió mát. Nào là Đỉnh "Thằng Cù Lần"[*] tức là cái tượng Lính 'thao diễn "nghỈ" ' màu trắng. Nào đỉnh Hòn Khô phải chinh phục nó trước đêm gắn Alpha cũng vào tháng Tám năm 1973 .
Giờ tôi về đây, cũng vào tháng Tám trong thân thể gầy còm áo quần tả tơi bạc phếch ' người "chiến bại binh' trở về làm sao mà 'oanh liệt, oai hùng' cho được?
Tôi nhớ hai câu truyền miệng trong Đống Đế
Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em ngồi xoả tóc đợi chò ai ...
Đêm về, từ "chambre" đại đội tôi ngó lên Hòn Khô , viền núi in lên nền trời , tôi tán thưởng và gật gù công nhận trông giống hình 'người con gái nằm xoã tóc' thật.
"Anh Đứng Ngàn năm thao diễn nghỉ' là thằng Cù Lần trên đỉnh 100 m ,ngay sau lưng quân trường trước Hòn Khô . Ôi những kỷ niệm thoáng nhanh, những cảm xúc những nỗi nhớ mang máng , buồn buồn cho một đời lính 'đứt gánh giữa đàng'
Những cuối tuần đi phép , chỉ đi trong ngày . Chúng tôi từ Đống Đế có thể về 'bát' phố Nha Trang . Một thành phố dành cho 'người yêu Hải Quân, Không Quân' . Bởi thế tôi chẳng về Nha Trang , cái mặc cảm làm tôi chỉ du ngoạn cầu xóm Bống , Tháp Bà rồi trở lui . Uổng công đánh giày , ủi áo quần phép .
Tàu chui ra hầm . Hòn Dung còn đó. Những ngày di hành qua đây, mấy xóm phong cùi , giờ còn không ? tội nghiệp cho cai' làng cùi . Chúng tôi lúc đó vẫn mua thức ăn tại bãi tập gần núi Dung , gần 'làng đó' chẳng gì e ngại.
Anh xe ôm rồ xe chở tôi tới bến xe Nguyễn Hoàng lúc giờ bán vé gần hết. Hình ảnh những chiếc xe dài liên tỉnh thời trước vẫn còn đó, tuy cũ hơn. Những chữ Hợp Tác Xã xe Đò ...giờ được thế vào những cái tên tư nhân ngày đó . Nha trang ồn ào náo nhiệt hơn Huế. Vẫn có những đứa trẻ bán mỳ và hàng rong đang đeo theo nài nỉ với chiếc xe sắp chạy. Tôi chạy nhanh vào phòng vé ...người ta lắc đầu làm gì có vé giờ này ?
Một anh dang nói lớn với cụ già
-Ra đầu đường đón mới có về Sài GÒn mau!
Tôi chạy theo họ vì vô Sài Gòn thì đuơng nhiên phải qua Bình Tuy .
Quả đúng! người ta rành rọt chuyện này. Phải linh động tránh bến xe NH một quảng xa, mấy chiếc rời bến sẽ tấp vào đón khách thêm, ngoài số khách tiêu chuẩn mà vé đã bán. Hợp tác xã xe khách là vậy.
Chiếc xe dài vàng nhạt sà vào .
-Sài gòn , sài gòn phải không ?
' Lơ' [1]xe một tay bám vào thành cửa, đầu nghiêng ra ngoài hỏi lớn.
Tôi bám theo ba người đi Sài Gòn , khỏi cần hỏi khi nghe họ đi Sài Gòn . Xe đón 'gió' kiểu này không có thì giờ cho hai bên 'kỳ kèo' giá cả. Lơ xe vừa nói vừa kéo, vừa đẩy mấy người khách như 'tống' mạnh vào trong cho người tài xế rồ ga chạy mất như bị 'ma đuổi" ...
-anh kia dô đâu ?
Thấy bộ dạng tôi , anh chàng 'lơ xe' có thể đoán là người 'ngoài kia' vào . Tôi quên mất là cái mũ cối bằng rơm ép màu vàng của tôi đang dội trên đầu . [2]
-100 đồng dô Bình Tuy !
Tôi không nhớ tôi có kỳ kèo với người lơ xe đó không? Tôi chỉ nhớ là đưa ngay 100 cho anh chàng ta ; lại còn 'mừng' vì anh ta lôi ra cái ghế 'súp'[3] bằng gỗ nhỏ xíu bảo tôi lui ngồi tít đằng sau .
Có được chuyến xe vô nam, ngang Bình Tuy, có được cái ghế nhỏ xíu khỏi phải đứng thế là tôi mừng rồi , tuy biết rằng 100 đồng lớn lắm . Nhưng tôi còn đủ tiền. Cám ơn tình cảm từ mẹ đích tôi , từ bạn bè bà con xóm tôi ngoài Huế, ngoài Quảng trị Đông Hà , giờ tôi mới ngồi trên chuyền xe khởi hành từ Nha Trang này.
Tuy ngồi sau cùng đuôi xe, nhưng cảm giác tôi lúc đó thật thú vị khác với gần hai ngày trên chuyến tàu chợ vừa qua. ..
Chiếc xe qua ngã ba Diên Khánh bắt đầu quẹo trái.
-Ba Mẹ ơi cả nhà ơi , con gần đến nhà rồi !
Lòng tôi lâng lâng sung sướng . Ước gì gia đình tôi biết được giờ này tôi đang có mặt trong chuyến xe vào nam .
[*] đây là cái tên ' tếu' với nhau trong quân trường , truyền miệng có tính hài hước trong đời lính quân trường. Thực ra là tượng lính chống súng trong tư thế thao diễn "NGhỈ", sau 1975 đã bị phá huỷ [1] lơ xe: phụ giúp cho tài xế lái xe
[2]: sau này trong nhà tôi tiếc cho tôi sao không nói với họ là "tù về" nghe tù "cải tạo" về là họ bớt tiền cho liền
[3]: ghế 'súp' (supplementary ) tức là ghế phụ thêm ,dấu theo dành ghi thiếu ghế cho khách
VII - VỀ NHÀ
Cuối năm 1974 trong chuyến phép về thăm nhà lần đầu (cũng như lần chót), tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về Bình Tuy. Những chuyến xe lam đông khách từ đây về La Gi , khoảng xa 18 cây số , khá ồn ào náo nhiệt . Từ đây vô là nơi định cư của đồng bào QT, theo chuơng trình Khẩn Hoang LẬp Ấp, của Quốc Vụ Khanh vào năm 1973 cho đến 1974.
Định thần nhìn kỷ , trong mái nhà tranh lụp xụp này kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp có thắp ngọn đèn dầu . Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, trong nha` còn thơm mùi bún xáo của khách vừa ăn đêm . Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi ( Bà Dậu thân mẫu của Đinh hữu Thư người cùng xóm Cam Bình . Mẹ của Thư đã mất )người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn lù mù. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm 'ngủ' trong đêm.
Thật lạ, không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người . Vừa nghe tôi hỏi xong, bác vội nói ngay với cái giọng Bắc 'di cư 1954':