Wednesday, July 26, 2023

RA TRẠI (ký ức của Đinh hoa Lư)

 

toàn tập


  I   -  GIÃ TỪ TRẠI  BÌNH ĐIỀN
   Làm sạch lại cái ba lô bạc phếch, tôi lật đật bỏ vào vài thứ  phải mang theo hôm nay... bộ áo quần tù mới trại phát, tôi chưa bận lần nào, tất cả thư từ gia đình gửi cho tôi, vài sợi dây dép lốp. Chừng ấy thôi, tôi chẳng có gì để mang về.  Tai như ù, miệng khản đặc, tôi lắp bắp nói với mấy anh bạn tù vừa được trại kêu tên đứng sang một bên không tiếp tục theo đoàn bước ra cổng trại để đi làm như mọi ngáy khác:

-Anh cũng có tên anh Quyết , anh Chuân nữa anh cũng có tên nữa a?
....

 Làn sương mờ mịt trên đỉnh Bastogne ẩn hiện phía ngoài. Xung quanh đều mờ sương vào sáng sớm, giờ đi lao động. Trại 3 Bình Điền gồm mười dãy nhà tranh song song xung quanh được rào bằng ở giữa hai lớp hàng rào thép gai cao, phía trong còn bùng nhùng 'concertina'  Mỹ.

 Trên cái chòi cao trước cổng, một công an áo vàng cầm sổ điểm danh từng đội tù lần lượt bước ra ...
-Những anh có tên sau đây ...đứng qua một bên

-Nguyễn văn A

-Trần văn B

-Ngô văn Ch

-Nguyễn văn Quyết....

-Đinh trọng Phúc 
...
Lỗ tai tôi như lùng bùng , tôi cố tin là mình nghe không lầm ?

-có phải tên em khôn anh Quyết ?

-đúng rồi, tên em đó mà , cả tên anh nữa !

 Anh Quyết đội trưởng,  mấy người khác và tôi nhanh chóng đứng qua một bên . Những khuôn mặt cố làm 'nghiêm trang' nhưng thật ra ai cũng sướng 'muốn điên'. Bao lần rồi, mỗi lần cán bộ trực đứng trên cái cổng kia đọc tên là có một đợt Trại cho tù về . Giờ tuy không nói ra nhưng ai cũng biết . 
  Các khối kia cũng vậy; mỗi khối có vài người bước ra khỏi hàng.  Sáng nay không còn tiếng nói chuyện xì xào râm ran như mọi khi. Những khuôn mặt đăm chiêu, tư lự lần lượt ra cổng...
-Ê nhớ để cái... lại cho tau nghe Q.?

-Ê mi bỏ cái ...cho tau nghe?
... 
   Những người thiếu may mắn trong đợt này cố ngoái đầu dặn dò người về sáng nay cho lại những thứ cần dùng. Chiều nay khi họ đi làm về thì chúng tôi đã rời Trại mất rồi .



  Cái kim may, khúc chỉ, cái lon gô, cái chén cơm, cái bi đông nước  ...thậm chí cái bào sắn ra sợi ...mọi thứ đều là 'bảo bối' trong tù 
   Tôi để lại cái mũ đi rừng, cái gô đen lại cho thằng Thu nằm cạnh tôi. Hắn dặn tôi thật kỹ trước khi bước ra cổng. Đầu hắn cứ ngoái nhìn lại, ánh mắt khẩn cầu. Nhà Thu ở SG, tôi thì ở tận Bình Tuy nên hắn chẳng cần dặn trước tôi gì, tương tự tôi cũng chẳng dặn trước hắn gì nếu Thu về trước.
  Những người ra trại hôm nay đa số là gốc Huế. Những thằng bạn tôi có thể nhắn về gia đình như Côn (Trần Đình) như Huấn (Nguyễn Danh) thì ra tù  sớm hơn tôi mấy năm tại Ái Tử, 
     Tôi bỏ vội cái gô và cái mũ vào cái ba lô cho phía trên sạp nằm cho Thu. Chia gia tài' là giây phút này, tình bạn cũng thể hiện giây phút này . Kẻ về người ở .Những cục đường, những lát khoai luộc , mấy thứ linh tinh đều bỏ lại . Một thứ tình cảm chân thành hay an ủi nhau ở phút này . Về và ở những đồn đoán lao xao trong trại , không ai biết ai đi ai ở để nói chuyện, để nhắn trước. Cuộc chia tay không bao giờ được Trại cho biết  vì 'an ninh ' hay do này nọ ...
     Cái tầng cấp bước lên những căn nhà cán bộ phía trước trại sao hôm nay tôi bước nhẹ hều . Những bước chân lâng lâng sung sướng,  cảm giác duy nhất từ hơn năm năm tôi mới có. Trong phòng cán bộ đi ra, tôi là người được trại cho số tiền lớn nhất, ba mươi hai đồng bạc , [1] gia đình tôi ở tận Bình Tuy cách xa đây hơn một ngàn cây số!
  Tôi không nhớ rõ có ngoái lại nhìn cái cổng , cái chòi gác cao của Trại một lần cuối cùng hay không, ngoại trừ một hình ảnh tôi nhớ rõ, đó là anh 'tăng gia sản xuất' đứng tần ngần bên mấy luống rau xanh nhìn theo chúng tôi. Khỏi đoán, tôi biết anh đang nghĩ gì?

   Thôi, xin giã từ mấy công việc lấy 'phân tù' trộn băm với lá rừng làm nguồn bón cây . Anh' tăng gia' kia còn mãi công việc 'chẳng đặng đừng'- hòa tưới phân người lên mấy luống cải xanh đang mọc nhanh 'phơi phới' .
[1]  Cũng giống toán thợ rèn làm ra cuốc rựa, ba 'lạng' mỳ tươi  'bồi dưỡng', đó là phần thuởng của Trại tặng thêm cho họ trong ngày.

  Giờ toán chúng tôi cất bước ra về . Tự do thoải mái - khó diễn tả nỗi háo hức bên trong mỗi người, nhưng tất cả đều chung một ý : 

ĐI MAU VỀ NHÀ.
   Mấy trảng đồi đang phủ màu xanh của sắn Bình Điền.  Bao công sức của người tù tạo dựng nay xin bỏ lại phía sau.

Trước mắt chúng tôi hiện lên hình ảnh xóm làng Kinh Tế Mới của dân mới lên vùng này. Người Huế lên đây không biết khi nào . Họ lên lập nghiệp hay sao ? cảm giác chúng tôi thật lạ ! Ngày đó vùng này là rừng, là nơi của chiến tranh , mịt mùng khói súng, "Mặt Trận Tây Nam Huế" ngày ngày tin chiến sự in đậm trên mặt báo . Chỉ sáu năm thôi tất cả đều đổi thay, như một giấc mơ,thật sự là mơ?

  Hình ảnh mấy sườn núi, xa gần trước mắt chúng tôi bị đốt cháy nham nhở, từ khai hoang mở đất. Hai bên con đường đất đỏ, quanh co có vài cái quán tranh sơ sài. Trong xa kia là mấy trại tù mà chúng tôi vừa từ giã. Những năm xa cách không ngờ người dân cũng 'đổi đời' như chúng tôi cùng 'đáo sơn tầm thực'. Tù thì trồng sắn, dân cũng chẳng khác chi tất cả đều lên đây , phá rừng trồng cây lương thực thay cho lúa gạo.


    Chúng tôi không ai bảo ai đều sà vào cái quán cơm bình dân bên đường trong lúc chờ xe đò từ Huế lên.

O bán cơm đon đả mời chào chúng tôi

 -rứa là sướng quá rồi mấy anh ơi , dưới nhà chắc mừng lắm hỉ!
    Mấy anh và tôi 'dạ dạ' luôn miệng,  thật lòng cảm tạ lời chúc mừng của O . Lạ gì, thấy chúng tôi, người dân biết ngay tù mới được tha. Nhiều lần như vậy rồi . Cứ nhìn những chiếc áo vằn vện, sọc ngang dọc ai mà chẳng đoán ra .  Phải kể mấy cái ba lô nữa , đủ hình dạng,  nhưng tất cả đều nhẹ hều. "Gia tài' của tù đều bỏ lại cho bạn , có gì quý đâu ngoại trừ cái mạng về với gia đình .
- mấy anh ăn cơm cá dưa kho hỉ ?
-mấy đồng rứa o ? 
  Tôi chỉ hỏi giá , còn chọn lựa thì không . Cơm là 'nhất trên đời" và cũng là thứ hàng 'độc nhất vô nhị' trong cái quán này .
  -hai đồng anh nờ !

  -"Thế là mình  còn 29 đồng..."
-"còn đón xe hàng về Huế nũa," tôi thầm nghĩ. 
    Gần sáu năm trời, hôm nay tôi mới ăn đọi cơm 'ngon nhất' trên đời . Đọi cơm trắng, O đơm khá đầy, cộng thêm hai con cá nục kho cùng mấy lát dưa huờng kho ngon và thấm. Cái vị giác của tôi lúc này đang 'liên hoan' cùng cái tài kho nấu của O bán hàng người Huế . Cái bao tử cùng sẵn sàng tiếp nhận những gì từ miệng tôi sau khi 'thuởng thức' và đưa xuống . Tất cả đều thoải mái, không còn những lúc chần chừ lưỡng lự ...hình ảnh mới ngày hôm qua...những củ khoai , heng sắn phải chia đều trong trại...nhữn củ sắn chia phần ăn nhanh thì sợ hết , tôi phải để dành về đêm trước khi đi ngủ , ăn dằn bụng và ngủ cho êm .
   Hầu như mọi người đều có lộ phí và ăn tô cơm cá dưa kho của o bán hàng .Những cái đầu gật gù những lời nói chuyện râm ran, những hẹn hò gặp nhau sau ngày về với gia đình . Chúng tôi không quên nhau , Ái Tử -Thanh Hóa-Bình điền biết bao kỷ niệm buồn vui .
    O bán cơm bận áo Bà Ba trắng, tuy nước da sạm đi vì nắng Bình Điền nhưng không che đi cái 'chất Huế' từ dưới thành phố lên đây. Dáng nhanh nhẹn, giọng mời ngọt ngào bao lâu mua bán dưới Huế. Giờ lên đây O cũng bán mua, nhưng là hàng cơm và thức ăn bình dân hạp với dân vùng kinh tế.
  -Mấy anh về chị có đen(g) thì đừng có chê nghe mấy anh !
  Câu nói bất ngờ của O làm mấy anh không ai bảo ai đều ngước lên....

   Có thể mấy năm trước O từng chứng kiến cảnh túng bấn của bao người vợ tù gian nan, tất tả ngược xuôi. Những người vợ, người mẹ hay con dâu này bán hết những cái gì bán được trong buổi 'giao thời' . Từ vòng vàng, nhẫn cưới kỷ niệm,  cái máy hát, rồi tủ bàn và áo quần nào còn đẹp, tất cả lần lượt ra đi do cái thiếu đói của bầy con, sau ngày ba chúng đi tù .

  Trong nhóm tôi là đứa em cấp bậc nhỏ nhất, lại độc thân . Tôi chưa thấm thía những cảm xúc bằng các anh, những người  bao đêm quay quắt nhớ vợ thuơng con .

   Những đọi cơm hôm nay O xúc đầy hơn,  không tính toán . O mừng các anh.  O nói thật lòng . Năm tháng chịu đựng gian truân, thiếu thốn từ vật chất lẫn tinh thần, những người vợ tù đáng quý biết bao !Sao mà chê 'đen' được các chị ở nhà ? 'thân cò lặn lội' gần xa , bao dặm đường gian nan tìm ra hạt gạo nuôi con, phần lo bới xách cho chồng trên trại.. Hình ảnh đoàn người thăm tù hằng hai tháng , những người đàn bà nay quần thô áo vải , theo bước đi vội vàng, hai cái túi xách đu đưa hai đầu đòn gánh... 
  Chiếc xe hàng từ Huế lên rồi . Từ xa đám bụi vàng bốc cao . Chúng tôi trả tiền cho o bán cơm vừa khen, vừa cám ơn O về đọi cơm sao ngon quá . Ánh mắt O long lanh, những niềm vui hôm nay chan hòa cùng nhau . Vội vàng từ giã cái quán tranh, tôi áng chừng câu nói kia còn vẳng vẳng sau lưng...
-Mấy anh về, chị có đeng thì đừng có chê nghe mấy anh !
                                *
II- HUẾ & NHỮNG CHIẾC XE ĐẠP ÔM


   Chiếc xe Bình Điền thả chúng tôi xuống gần Ga Huế thì trời chưa chiều lắm. Mấy anh em  hối hả chia tay, xong tìm cách nhanh nhất về nhà.

       Tôi ngơ ngác ngó quanh . Mấy năm xa cách chốn đế đô, giờ tôi nhìn lại Huế chợt có cái cảm giác Huế có một vẻ gì xác xơ và xa lạ ! Tôi cũng như các bạn khác từ rừng xanh núi thẳm về lại chốn thị thành mới biết quê hưong chỉ vài năm mà đã tiều tụy đến não nề ! Nhà ga Huế im lìm trong cơn nắng tháng 8, cửa cái bể cái vá, vài ba cái quán cũng đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo vài nải chuối đong đưa. ..

   Những lời mời của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại:

- Đi xe khôn eng...

-chú... chú ...đi xe cháu nì chú


    Tôi nhìn quanh toàn là xe đạp. Những chiếc xe méo mó, sét rỉ lâu ngày , yếu ớt không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người dân Huế giờ đây lại 'sáng tạo' ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây lần nào. Giờ họ phải tận dụng đến sức lực cơ bắp của mình kiếm đồng tiền bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải bấm bụng giành giật miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng -hình đặc biệt xưa nay mà tôi vẫn còn ghi trong trí óc. Ngày xưa người ta cũng đi xe ôm, xe thồ nhưng tệ lắm là chiếc Honda nhấn ga là chạy vù vù thế mà đã than khổ rồi !?

    Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi, những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo; giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai,và tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi.

-Về Tây lộc mấy rứa?
-Chú cho 3 đồng à chú..


   Thú thật nhìn cái dáng của tôi em đó cũng chẳng nói thách làm gì vì biết chúng tôi là ... cải tạo mà. Xa Tây lộc không biết mấy năm rồi cứ nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây đặt tên là chợ Tây Lộc kế đường Trần quốc Toản .

   Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương . Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét rêu phong rệu rả. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi cứ hơi lấn người tới trước lòng như muốn mình được nhẹ hơn. Hỏi chuyện thì tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em cũng không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra ngừoi khách. Có khi cả ngày em mới được 1 cuốc xe vừa đủ mua 3 lon gạo.

   Xe đã vô cửa Thượng tứ. Nó cứ chạy rập rình qua mấy đoạn có "ổ gà, ổ vịt" . Tôi lại như muốn rướn người lên cho nhẹ bớt đi khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ đàng sau tôi thấy chiếc áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.

   Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mỏi đó sẽ kéo dài trong một tâm trạng não nùng của van lơn, buồn tủi, đợi mong.



                                         *


III  NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH


Khi tôi về, nhìn dân tôi ngỡ ngàng
Khi tôi về, nhìn quê hương điêu tàn
Nhìn tuổi thơ nghèo nàn, nuôi đời trong dối gian!
..
Con Đường Tôi Về / Lê tín Hương

12/6/1980
      Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ bạc Bắc tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp vội vàng của em, lưng em hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng em. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì . Kiếm khách thêm thì trời đã chiều . Ai đi đâu lúc này , thời buổi ngoài đường người đi bộ đông hơn xe đạp.
          -Ba lon gạo là cùng !

    Tôi nghĩ thầm.

    Thời "củi quế gạo châu" vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Tôi nhớ vào cuối năm 1975 khi mới có trại tù Ái Tử, một đồng bạc bắc , lén về được Chợ Hôm gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi chỉ mua được 1 'lon' khoai khô . Tiền thời này, cao nhất là đồng bạc 10$, mau` đỏ choé, cái thời quí gạo chẳng khác gì 'thuốc bổ -sâm nhung ' ...
Tôi thở dài  quay bước tìm nhà mẹ đích tôi [1]. Trước kia mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát Chợ , nay đã bị Nhà Nước đuổi hết . Trong Chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng" !

   Con đường nhỏ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp day về phía phi trường Tây Lộc cũ. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi mừng lắm . Câu nói đầu tiên của mẹ tôi là nguyền rũa ai đã giam tôi quá lâu 

   -Quân chi  ác ôn rứa ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới 5-6 năm dữ rứa hè..?!

   Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này . Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm , sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè . Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc . Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền ?

     Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32 $ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' 
[2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi , sự thật ngoài trại tù lại khác . Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu , cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và tiêu chuẩn hoá nên tất cả đều là 'Chợ Đen" mới có. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' mà lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc?

VỀ LẠI QUẢNG TRỊ  12/6/1980

 Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường QL gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí . Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng.  Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là Ba. 

Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về định cư gần ngã tư Quang Trung - Hồ đắc Hanh (tôi dùng tên đường trước 1975 để dễ dàng xác định vị trí cho những ai từng sống ở thành phố này trước 1972). Nơi này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả dù xe đò bị vào 'hợp tác xã' rồi. 


 Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn, trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ của Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa. Bốn
 và tôi là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu. Tội nghiệp! xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất? Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai? nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa biết ai giúp đòi lại cho? Bà con - cố cựu  tản mác tứ phuơng, kẻ ở trong nam, người tận khu Thị Tứ Đông Hà mới sau này.

 Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng (trước mặt Tiểu Khu Quảng Trị đóng tại cồn cát Diên Sanh ) xem như 'xoá sổ'  bà con xóm Cửa Hậu ( đường Lê v Duyệt - Duy Tân) thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư' sau 1975. 


    Chuyện hồi cư Lần Một nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1972. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ" . Đợt hồi cư thứ hai là
 cuộc đổi đời sâu đậm nhất : ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên , vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh  hay Hải Trí như vừa nói ở trên.

 Đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm xúc về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn. thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'. Cùng với nhiều đứa bạn khác cùng lớn lên trong cái xóm thân yêu nói trên.


Sau khi gặp gỡ Bốn và gia đình hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà. Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu Thị Tứ Mới của Đông Hà sau ngày "giải phóng' để tìm bà con Xóm cửa Hậu. 

Nào hai gia đình dì của Bốn : dì Nậy , dì Dỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã.Chú Thanh chồng Dì Nậy đã qua đời. Nhà bạn Trần Tài (em út của cac anh Tiết, Tước , Xê và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình ; xưa , trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi . 


    Đến đây , tôi nhớ hình ảnh anh Quang thời học sinh anh Q cũng rất thuơng tôi , các dì các o ngang lứa mẹ tôi đều thuơng tôi , ngày 17 tháng 3, 1975 khi rút quân về anh là tiểu đoàn trưởng t Đ 122 chỉ gặp anh lần đó là lần cuối. Thời Cửa Hậu lứa anh Quan anh Truơng Đá , anh Liệu , anh Tùng , anh Thuận đều thuơng tôi. Cái tên "Sù Sựa" là do anh Đá đặt cho tôi để chọc . 

    Bốn cứ gọi tôi là "Sù Sựa" , bạn ấy gọi riết đến quên cả tên "cúng cơm ' của tôi.  Biệt danh này , do Bốn năng gọi  mới lan nhanh khắp xóm.


   Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà , ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt'  . Tôi rất nôn về nam , gia đình tôi trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ . 


   Tình cảm từ mẹ tôi tại Tây lộc từ bạn bè bà con lối xóm của tôi đóng góp giúp tôi gần 300$ bạc Bắc cho tôi lộ phí vào nam về với gia đình . Con số này quá lớn vào lúc này, nó chứng minh điều tôi nói bà con lối xóm bạn bè thuơng tôi như tôi vừa viết chẳng hề sai .Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký , một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố  QT . Nhảy lên được chiếc xe 'gió' lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời  . ..


còn tiếp

[1]: ba tôi hai vợ , mẹ ruột tôi là bà hai, còn ở trong nam 
[2]: năm này còn ăn tiền xu còn gọi là hào : một đồng bạc ăn 10 hao`
                                                 ******
        IV   GIÃ TỪ GA HUẾ
         









Huế! Huế ơi !
.....
cuộc đổi đời
dù đá nát vàng phai
nơi đất khách lạc loài
tôi vẫn nhớ mãi thương hoài về Huế
(Trần thị Lại Hồng)


GIAN NAN NHỮNG CÁI VÉ TÀU?



một người bộ đội trẻ măng ngơ ngác trước Cửa Thượng Tứ 1980


    Thập niên 1980 dân mình sợ nhất là chuyện đi xa. Huống gì tôi, khi cầm cái giấy ra trại trong tay, nó không thể là cái giấy thông hành loại ưu tiên  cho tôi về với gia đình một cách thuận lợi .

Chuyện cái vé tàu
     Vé tàu đây là vé tàu hoả, hay xe lửa. Ai gọi sao cũng được miễn là đưa được cái 'thân hình' vào trong toa chiếc tàu chợ là một điều may mắn . Năm này nghe đã có tàu THỐNG NHẤT, nhưng đây  không phải là hình ảnh  người dân mong đợi , huống gì  tôi là người tù được tha về .
    Từ Tây Lộc tôi tìm cách lên ga Huế nằm chờ trong đêm . "Những tư tưởng lớn gặp nhau" tại đây. Lố nhố trong cái phòng rộng không ghế chẳng bàn người dân Huế đã ngồi đây từ lâu . Họ dựa lưng vào vách nhà ga, không rời những cái bị lác, nhưng cái bao bột mỳ cũ đựng đồ bên trong.  Những ô cửa bán vé đang đóng im ỉm vì sáng tới 'cán bộ' mới bán vé tàu .

   Tôi cũng tìm chỗ, ngồi bệt xuống cái nền xi măng dơ bẩn, dựa lưng suy nghĩ miên man. Tôi nhớ về hình ảnh mấy ngày qua, y như giấc mộng ... Những cái rẫy sắn bạt ngàn, những rừng mây nước đầy gai của Bình Điền phía Tây nam Huế. ,.tiếng trại đọc tên người được tha về, những bước chân người về vội vả không dám ngó lui cái trại tù quá nhiều ấn tượng...tôi không thể  chợp mắt chút nào, lòng nôn nao tưởng tượng đến hình ảnh gia đình tôi ba mẹ, các em , dì cậu bà con trong đó sẽ mừng thế nào khi bước chân tôi về đến ngõ .

    Tôi lại nhớ về hình ảnh mẹ đích tôi em Hoà .. còn lại sinh nhai ở Tây Lộc , anh Nghĩa, con đầu ba tôi giờ phiêu bạt ra sao ? Tiếng mừng rỡ của những người bạn chí thiết của tôi tại xóm Cửa Hậu một thành phố mất rồi . Sự giúp đỡ chí tình của Bốn và bà con bạn bè ngoài Hải Trí , ngoài Đông hà, ôi ! một tình thuơng , ngập tràn ân nghĩa .

    Đêm còn dài. Tôi không dám bắt chuyện với ai. Cái rụt rè của người mới ra tù,  giờ tôi nhớ lại .  Có lẽ họ xem tôi như 'anh du kích' nào trên rừng mới về  do tôi không bận áo quần sọc tù mà bận cái áo ka ki lính màu ô liu đã bạc màu. Cái mũ cối bằng rơm vàng mà trại phát, thêm cái va lô VNCH cũ mà tôi từng dùng bao năm nay. Thỉnh thoảng tôi nắn lại kiểm soát cuộn tiền xem còn không . Tôi chia số tiền ra hai nơi; một nữa để mua vé , một nửa phòng thủ khi cần thiết. ..


GIÂY PHÚT BON CHEN 


    Độ ba giờ sáng thiên hạ đã tới chật cứng cả phòng đợi. Tôi bắt đầu ngột ngạt, sự lo lắng của tôi tăng cao dần. Làm sao mà có vé bán đủ cho ngần ấy người ? Làm sao tôi có vé đây ? Hình ảnh khi trời rạng sáng sẽ ra sao trước ba cái ô nho nhỏ bán vé kia ?
   Năm giờ sáng trời đã hơi ràng rạng. Những khuôn mặt bồn chồn , tiếng ồn ào bắt đầu huyên náo . Một đám đông không phải đang sắp hàng thứ tự mà một đám đông bắt đầu dồn nén lẫn nhau. Từ ông già , trung niên , cho đến mấy anh thanh niên đều chuẩn bị . Tôi tưởng tượng tất cả 'cơ bắp' của họ đã 'sẵn sàng' !

    Riêng tôi, tới sớm nên không cách cửa sổ bán vé bao nhiêu. Trong tôi, nửa do dự , nửa lo sợ, rụt rè không sẵn sàng 'tung hết' sức lục ra đối phó với tình hình xem chừng gay cấn đến nơi. Mới ra tù, cái gì tôi cũng lo, cũng sợ. Tôi chưa hết cái cảm giác bị ràng buộc , canh chừng như ở trong trại . Mọi người , mọi thứ đều hơn tôi một bậc.

     Tiếng còi tu-huýt của người bảo vệ chợt rít lên. Cửa bán vé mở rồi. Tôi không kịp thấy người bán vé là nam hay nữ trong đó vì có một sức mạnh như 'triều dâng thác lũ' cứ đẩy tôi lui dần, lui dần. Lúc này sao tôi yếu quá . Hết sức bình sinh tôi cố lấn tới nhưng rất ít kết quả !

     Tiếng la hét, chửi rủa vang lên loạn xạ. Hết kiểm soát rồi. Thật ra có ai kiểm soát đâu? Giờ chỉ còn vấn đề của sức mạnh, la hét và cuồng nộ thôi. Ngoại trừ tôi, do quá rụt rè không dám kéo ai, mạnh tay hay 'thịnh nộ' với ai ...

     Chợt lại có tiếng tu-huýt vang lên từng hồi liên tục, tiếng la ơi ói nghe từ phía trước. Có chuyện gì bất thường trước đó?
                      -Xê ra! xê ra ! 
   Người bảo vệ vừa thổi còi vừa đạp lên vai người dân buơn về trước , tiếp đến hai ba người nữa . anh ta phải đi trên "đống người" vì không còn cách nào chen lấn nỗi. Mặt anh đỏ gay, hơi thở hồng hộc , cái băng đỏ bảo vệ bên tay áo phải xập sình gần rời ra. Không ai chống lại anh . Bảo vệ vừa kéo vừa la hét, họ đạp trên đầu đám đông thật sự; tuy vậy chẳng thấy ai lùi lại sau.

  - Chuyện gì  ? 

    Câu trả lời rõ ràng cho tôi là hình ảnh ba người bảo vệ kéo lê thân mình anh thanh niên đầu tóc rũ rượi ra ngoài . Thì ra anh ta bị ngất . Tôi chứng kiến một sự thật trước mắt: một thanh niên phải xỉu khi giành vé tàu .

   -Hết vé ,hết vé !

    Tôi nghe tim mình như ngưng đập, trời đất như sụp đổ!

    -Hết vé rồi? làm răng đây ?


Cả đám đông khựng lại ...

    -Răng mà hết vé , mới bán mà ?

    -Tiêu chuẩn ...ưu tiên.... vừa phải thôi chớ ?


   Người ta càu nhàu, chửi rủa. Tôi không còn nghe gì, hai lỗ tai như lùng bùng, trong lòng 'chết lịm'.
Thất vọng. 
  Tôi còn nhớ, tôi cũng biết cách vào phòng bưu điện đánh giây thép [1]vào Hàm Tân cho gia đình tôi biết khó mua vé tàu .

-Răng eng không tới Công An ga xin phuơng tiện ?

    Một bác  không mua được vé như tôi , sau khi nghe hoàn cảnh tôi mới được tha về nên mách  cho tôi vậy...

    Phòng công an Ga Huế nằm ở cuối ga. Thú thật, vì nóng lòng bởi phuơng tiện nên tôi mới 'bấm bụng' đẩy cửa bước vào .

     Tôi không còn nhớ mấy ông công an Ga Huế bận đồ thường hay đồ cảnh phục nữa . Tôi đưa giấy ra trại ra và trình bày . Hình ảnh tôi nhớ sâu đậm nhất là cái lắc đầu lạnh lùng và ánh mắt lừ đừ như vô hồn từ chối lời thỉnh cầu của tôi về chuyện vé tàu vào nam .  Họ trả lời tôi , họ chỉ lo an ninh còn vé tàu thì họ không có thẩm quyền .
 Thế là hết , tôi thất vọng đi ra.

 Tôi đi lên, đi xuống , gặp ai tôi hỏi đó.


  Chợt ánh mắt tôi bắt gặp một đám người đang lố nhố trước mắt, tôi bước nhanh tới đó. Một thanh niên và một đứa bé đang đứng trấn một lỗ hổng vừa người chun qua tại bờ tường chia cách sân tàu tới và phía ngoài đường .


   Người thanh niên và đứa thiếu niên đều có giọng nói Hà tĩnh Nghệ an gì đó:

-đưa ba đồng qua lỗ này, chờ tàu tới mấy bác cứ lên và sau đó cứ ghi vé phạt , ba đồng ba đồng thôi ...

    Tôi nghe thế mừng như sắp 'chết đuối vớ được phao" vậy . Thú thật giờ này mà hai người kia nói năm hay mười đồng tôi cũng phải đưa thôi . Một điều lạ , tại sao có cái lỗ này ? mấy ông bảo vệ sao không biết ? Vào thời điểm đó tôi không có thì giờ để thắc mắc, chỉ đưa ngay ba đồng cho anh thanh niên giọng Nghệ An kia . Thấy lâu, anh ta vội đẩy tôi lên cao bảo tôi nhảy, dành lỗ kia cho mấy người kia chui qua.

   Nhảy xuống xong, móc cái ba lô lên vai, tôi nhìn anh thanh niên ra vẻ biết ơn, vội ù chạy càng nhanh càng tốt do sợ an ninh bắt lại. Cái sợ của tôi 'nhân đôi' vì tôi là một 'thằng phạm'
[2] mới được tha về ...


 
 [1]   ngày xưa đánh điện tín (telegraphing) người trung hay nói là đi 'đánh giây thép'
[2]: ngoài kia hay gọi người tù nguòi bị án là phạm  (phạm nhân)

                                                 ******

 V -   CHUYN TÀU XUÔI NAM




    Th
ế là tôi đã  lt vào chuyến tàu ch t ngoài kia vào.
Nh
ng  toa tàu người đông như nêm ci. Tôi chy ti chy lui như 'gà mc đ' . Hú vía, cui cùng tôi đu người được lên mt toa gn cui. Nhét được thân mình vào trong toa tàu , ch cn ngn này thôi là xong.

    Trong toa tàu, hai dãy gh
ế dài hai bên dĩ nhiên không còn ch nào đ nhét cái 'bàn to' vào. Hành khách lên sau ngi đ li gia. Cht đến ni, người ngi trên vai, thm chí  ngay c 'trên đu' người khác khi mt tay c níu lên cái móc đu hay cái giá ngang đng hành lý .

Tàu ch
y.

     Ti
ếng còi rít lên; con tàu lc mình rùng rùng đu chm sau nhanh dn . Thế là giã t Huế, giã t cái ga bán vé quá nhiu xúc đng. Mi hôm qua đây và rng sáng nay thôi; nhng âm thanh chen ln , la hét như còn tn ti , tiếng chói tai nhn hoc như c réo mãi trong đu tôi. Tng lp người b xô dt v sau...mái tóc rũ xung, cái đu gc xung ca người thanh niên b xu khi giành mua vé tàu ...

   Con tàu x
ưa kia phun khói đen sì gi không còn. Nhng cái đu máy diesel cũ k thế vào cho nhng con tàu ch này. Tàu ngang Phú Luơng hay Phú Bài gì đó, tôi đoán vy .
Tay tôi mõi nh
 vì phi níu, cái lưng còn đeo cái ba lô may mà chng có gì . Tôi c gng đ phi ngi lên đu mt bác ngi bt gia sàn tàu.

   Toa tàu đông ng
ười quá. Thnh thong người đi t toa này sang toa khác phi la hét lên đ người ngi gia toa nhếch người cho h b chân qua. Tiếng cn nhn ca bà lão b đp lên chân, tiếng ho rũ rượi ca anh thanh niên ngi gn ca s.
Th
nh thong tôi thy được vài đám rung, vài ct đin thoi trôi nhanh v sau . Con tàu thnh thong lc mnh, khi nghiêng bên này , ri li nghiêng bên kia làm tôi có phn hi hp.

    L
n cui cùng tôi đi tàu tc là năm 1977. Năm đó gn 1000 tù binh ci to chúng tôi t giã Đô Luơng , Ngh An và sau đó lên tàu ho đ ra Thanh Hoá , tiếp tc ci to Lòng H Sông Mc huyn Như Xuân

   Gi
 , tc gn bn năm sau tôi li được đi tàu . Nhưng mng vui hơn lúc đó, vì đây là chuyến tàu đua tôi v vi gia đình, nhng người thân thuơng nh.

     Hình nh
ư con Tàu đã đến ga Trui. Ngày kia tôi có v thăm li làng ni , Ni tôi gi chng còn ai . Chú tôi còn ci to trên Bình Đin . Ông bà đã mt . Anh em xao lc người còn ci to lp đi kinh tế mi Nam Đông . Thím đu tôi, trong ba ăn không quên món bt lc quy s trường ca thím . Chú tôi xa nhà đã 5 năm. Trong thôn xóm không biết làm gì ăn. Con cháu lp quá nh , lp toàn đàn bà con gái  ngày xưa sng còn có đng luơng chú tôi chu cp thêm , gi thì ?

   Ra tù, m
i Huế, Trui , Quãng tr , người thân bn bè ...cnh sinh hot đng bào . Tt c cng li cho tôi cm giác ht hng ,bun lo vô hn. Mt xã hi trước mt tôi như chi vi sp rơi tòm xung mt vc thm to ln đen ngòm . S chia xa ca nhng người tôi không còn thy mt. Cm giác bơ vơ l lùng, tôi như b vt vào mt cõi hoang mng vu vơ nào đó .
     Gi
 tôi không có kh năng nào đ nhìn ra được khung ca s
 đ
 xem con tàu qua cu Trui hay chưa ? Nếu ngi xe thoi mái, khi qua cu Trui nhìn theo con nước chếch v dưới kia bên b sông lp ló tàn phượng vĩ đ i , sà cành soi bóng nước sông. Nơi đó là bến đò thôn Xuân Lai , gn nhà Ni tôi .

    Tâm lý c
a tôi gi đang lo lng cho vn đ vé pht ra sao ? gi thì my người soát vé chc gn ti . H đi toa này xung toa khác không ai thoát được .

     L
n đu tiên trong đi tôi sp gp trường hp vé pht trên tàu . Ngày xưa còn nh , tôi theo ba tôi vào ga Qung tr mua vé tàu đi Trui hay đâu đó tôi không còn nh ngoài tr hình nh cái vé tàu nho nh b người soát vé ln lượt bm 'cái l' tròn trên đó . Đích thc tôi chưa h biết vé pht ln nào; hơn na chuyến tàu này đang hot đng trong mt chế đ khác , xã hi khác mà người chiến thng 'l hoc' đi vi tôi .

    Tai tôi th
nh thong có nghe tiếng còi tàu. Nó không còn là tiếng hú lên lâu dài t cái đu máy đt bng than phun khói đen sì thi xưa . Tiếng còi tàu du kêu rt khác nó kêu toang toác tiếng lanh lãnh rt ngn ri im.

    Có ti
ếng người xao xác phía trước . S im lng đt ngt ca mt toa người, láo nháo, n ào là c mt s khác thường.
Ti
ếng người nói trước tôi .

   -h
 soát vé , h soát vé !

    Cái gì ph
i đến s đến thôi. Tht tình tôi không nghĩ đến chuyn pht tin mà s v vn rng h s đui tôi xung tàu gia đường. My người có vé thì mau hơn. Riêng nhng người không vé thì b hch hi đi đâu ?xung đâu ? tiếng lí nhí tr li tôi không nghe rõ .

   -anh kia vé đâu ? 

    Ng
ười soát vé ,khá già , cái mũ ci b đi đã bc phếch . Tôi đã trù liu ri , cái "LNH THA " tôi đưa cho ông ta đc , và trình bày hoàn cnh ca mình . Tôi thy ông ta ngc nhiên khi tôi kêu ông ta là "cán b'. Nhưng cái v ngc nhiên đó ông du đi rt nhanh.

   -Sao anh không mua vé tàu , có L
nh Tha này cũng ưu tiên cho anh mà ,cách mng ta khi nào cũng khoan hng và nhân đo anh biết không ? 

   Tôi t
 li chuyn chen nhau mua vé vào rng sáng , và  ôi vi ông rng cũng ti sm lm , trong lot nhng người đu tiên ti đi ti Ga Huế . Nhưng không th 'manh đng' (mt t tôi mi biết t trong tri) vi bà con cô bác nên b dt lui sau . Tôi du chuyn anh thanh niên b xu vì s rng biết đâu ông ta cho tôi 'nói xu Cách Mng" cũng nên .

Gi
ng ông ta bt ng du li
   -Tàu này t
i ga cui cùng là Nha Trang không đi đến Bình Tuy đâu nhé.

    Tôi ch
 mong có thế, Nha Trang hay đâu cũng được min là càng vô nam càng được chng nào hay chng đó . Tôi li càng mng hơn khi ông ta ly pht ch 'năm chc' đng . S tin khá ln , nhưng tôi còn li trên hai trăm làm sao không v nam được .

    Ng
ười soát vé đi ri , cái ging Thanh Hoá ca ông tôi nghe và đoán được vì tôi có lao đng ngoài đó hai năm và có mt cán b qun giáo người Thanh Hoá mt ln coi tù chúng tôi.

    Trong tôi c
m giác yêu đi dâng cao. Không khí hết c ngt ngt. Quanh tôi, mi th đu đáng yêu . 

   Con tàu t nhiên chuyn đng rùng rc , hơi chm , v nng n, nó đang men theo bin bt đu ti chân đèo Hi Vân . Thnh thong khung ca s hơi hé ra.  Tôi thy rt r , nhng ngn sóng bc đu đánh vào chân núi Hi Vân.  Tàu chy hơi dc, trước nó là nhng cái hm tàu đen ngòm đang đi.


******

VI - NHA TRANG NGÀY TÔI về LẠI Nhưng lại Thoáng Qua


Nha Trang biển đầy, tình yêu không có đây 
Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát. (PD)





   



Tôi đã mất một ngày một đêm trên chuyến tàu chợ vào Nha Trang. Tàu Thống Nhất mới vào xa hơn. Tôi biết tin tàu Thống Nhất từ hồi còn ở trại tù Ái Tử, những tờ báo Nhân Dân trên 'căn tin' , tàm tạm là 'thư viện tù'. Hình ảnh những tờ báo ,trịnh trọng đóng vào cái nẹp tre , để cho tù "học tập" vào ngày nghỉ lao động. 

   Gần hai ngày, chiếc tàu chở tôi không có 'dịp may' nào dừng lại chờ tàu Thống Nhất qua mặt nên tôi không hình dung tàu đó nó đẹp , sang, to lớn, màu mè ...ra sao , để 'rửa' mắt sau những ngày ở trên rừng .


    Khoảng sáu giờ sáng tàu sắp qua hầm đèo "Rù Rì' . Người ta cho biết , và tôi cũng biết khi tàu qua Ninh Hoà , đi vào thêm vài chục cây số nữa. 


Tôi đã về lại Nha Trang !


    Tính từ ngày ra trường, cuối tháng 11 năm 1973 đến nay , tháng Tám , 1980 ngót 7 năm xa Đống Đế, xa đèo Rù Rì những bãi tập trong mấy tháng quân trường . Mau quá, hơn bảy năm qua biết bao biến đổi cho một miền Nam và cuộc đời những thằng lính, những đứa tù binh ...bao người nằm xuống thì an phận rồi . Họ đã xong cái nợ áo cơm , nợ nước..;kể cả nợ đời . 


    Những người còn lại, chật vật khốn khổ với hai chữ "ĐỔI ĐỜI' như những mớ rác rưới hỗn độn, đủ màu sắc bị quăng vào và lắc đều trong cái thùng lớn , từng ngày từng giờ . Hình ảnh trước mắt tôi hai ngày nay ,kể cả bản thân, bị lắc đều dồn ép trong những toa tàu chợ hôi hám nóng nực chật chội . 


    Tàu đã vào khoảng tối của cái hầm . Những ngày huấn luyện giai đoạn 2 tại Đống Đế đại đội khoá sinh tôi từng qua lại hầm này . Chúng tôi đi sát vào thành hầm để giữ an toàn. Lúc chúng tôi qua hầm , tôi nhớ không có chiếc tàu nào tới . Hầm này không dài hơn hầm ở Hải vân SƠn Đà Nẵng được. Giờ tôi tưởng tưởng trên đầu tôi, sườn núi Rù Rì Đống Đế những buổi tập 'Trung Đội Phòng Thủ' hay "Trung Đội Di Tản Chiến Thuật' ... Những ngày tập sát Bãi Tiên, sóng biển bạc đầu hay rì rào gió mát. Nào là Đỉnh "Thằng Cù Lần"
[*] tức là cái tượng Lính 'thao diễn "nghỈ" ' màu trắng. Nào đỉnh Hòn Khô phải chinh phục nó trước đêm gắn Alpha cũng vào tháng Tám năm 1973 . 
   Giờ tôi về đây, cũng vào tháng Tám trong thân thể gầy còm áo quần tả tơi bạc phếch ' người "chiến bại binh' trở về làm sao mà 'oanh liệt, oai hùng' cho được? 
Tôi nhớ hai câu truyền miệng trong Đống Đế

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em ngồi xoả tóc đợi chò ai ...
    chẳng biết tác giả là ai? khoá đàn anh nào trong quân trường tôi học. Nhưng chúng tôi cứ truyền miệng cho nhau , dễ quá sao mà không thuộc.

   Đêm về, từ "chambre" đại đội tôi ngó lên Hòn Khô , viền núi in lên nền trời , tôi tán thưởng và gật gù công nhận trông giống hình 'người con gái nằm xoã tóc' thật. 


"Anh Đứng Ngàn năm thao diễn nghỉ' là thằng Cù Lần trên đỉnh 100 m ,ngay sau lưng quân trường trước Hòn Khô . Ôi những kỷ niệm thoáng nhanh, những cảm xúc những nỗi nhớ mang máng , buồn buồn cho một đời lính 'đứt gánh giữa đàng' 


   Những cuối tuần đi phép , chỉ đi trong ngày . Chúng tôi từ Đống Đế có thể về 'bát' phố Nha Trang . Một thành phố dành cho '
người yêu Hải Quân, Không Quân' . Bởi thế tôi chẳng về Nha Trang , cái mặc cảm làm tôi chỉ du ngoạn cầu xóm Bống , Tháp Bà rồi trở lui . Uổng công đánh giày , ủi áo quần phép .

  Tàu chui ra hầm . Hòn Dung còn đó. Những ngày di hành qua đây, mấy xóm phong cùi , giờ còn không ? tội nghiệp cho cai' làng cùi . Chúng tôi lúc đó vẫn mua thức ăn tại bãi tập gần núi Dung , gần 'làng đó' chẳng gì e ngại.


BẾN XE NGUYỄN HOÀNG 

   Anh xe ôm rồ xe chở tôi tới bến xe Nguyễn Hoàng lúc giờ bán vé gần hết. Hình ảnh những chiếc xe dài liên tỉnh thời trước vẫn còn đó, tuy cũ hơn. Những chữ Hợp Tác Xã xe Đò ...giờ được thế vào những cái tên tư nhân ngày đó . Nha trang ồn ào náo nhiệt hơn Huế. Vẫn có những đứa trẻ bán mỳ và hàng rong đang đeo theo nài nỉ với chiếc xe sắp chạy. Tôi chạy nhanh vào phòng vé ...người ta lắc đầu làm gì có vé giờ này ?


Một anh dang nói lớn với cụ già 

-Ra đầu đường đón mới có về Sài GÒn mau!
Tôi chạy theo họ vì vô Sài Gòn thì đuơng nhiên phải qua Bình Tuy .
  Quả đúng! người ta rành rọt chuyện này. Phải linh động tránh bến xe NH một quảng xa, mấy chiếc rời bến sẽ tấp vào đón khách thêm, ngoài số khách tiêu chuẩn mà vé đã bán. Hợp tác xã xe khách là vậy. 
   Chiếc xe dài vàng nhạt sà vào .

-Sài gòn , sài gòn phải không ?


' Lơ' [1]xe một tay bám vào thành cửa, đầu nghiêng ra ngoài hỏi lớn.

 Tôi bám theo ba người đi Sài Gòn , khỏi cần hỏi khi nghe họ đi Sài Gòn . Xe đón 'gió' kiểu này không có thì giờ cho hai bên 'kỳ kèo' giá cả. Lơ xe vừa nói vừa kéo, vừa đẩy mấy người khách như 'tống' mạnh vào trong cho người tài xế rồ ga chạy mất như bị 'ma đuổi" ...


 -anh kia dô đâu ?


  Thấy bộ dạng tôi , anh chàng 'lơ xe' có thể đoán là người 'ngoài kia' vào . Tôi quên mất là cái mũ cối bằng rơm ép màu vàng của tôi đang dội trên đầu . [2]

-100 đồng dô Bình Tuy !


   Tôi không nhớ tôi có kỳ kèo với người lơ xe đó không? Tôi chỉ nhớ là đưa ngay 100 cho anh chàng ta ; lại còn 'mừng' vì anh ta lôi ra cái ghế 'súp'
[3] bằng gỗ nhỏ xíu bảo tôi lui ngồi tít đằng sau . 

   Có được chuyến xe vô nam, ngang Bình Tuy, có được cái ghế nhỏ xíu khỏi phải đứng thế là tôi mừng rồi , tuy biết rằng 100 đồng lớn lắm . Nhưng tôi còn đủ tiền. Cám ơn tình cảm từ mẹ đích tôi , từ bạn bè bà con xóm tôi ngoài Huế, ngoài Quảng trị Đông Hà , giờ tôi mới ngồi trên chuyền xe khởi hành từ Nha Trang này. 


  Tuy ngồi sau cùng đuôi xe, nhưng cảm giác tôi lúc đó thật thú vị khác với gần hai ngày trên chuyến tàu chợ vừa qua. ..


  Chiếc xe qua ngã ba Diên Khánh bắt đầu quẹo trái.


   -Ba Mẹ ơi cả nhà ơi , con gần đến nhà rồi !

Lòng tôi lâng lâng sung sướng . Ước gì gia đình tôi biết được giờ này tôi đang có mặt trong chuyến xe  vào nam .



[*] đây là cái tên ' tếu' với nhau trong quân trường , truyền miệng có tính hài hước trong đời lính quân trường. Thực ra là tượng lính chống súng trong tư thế thao diễn "NGhỈ", sau 1975 đã bị phá huỷ  [1] lơ xe: phụ giúp cho tài xế lái xe


[2]: sau này trong nhà tôi tiếc cho tôi sao không nói với họ là "tù về" nghe tù "cải tạo" về là họ bớt tiền cho liền 
[3]: ghế 'súp' (supplementary ) tức là ghế phụ thêm ,dấu theo dành ghi thiếu ghế cho khách
-----------------------------------
*

            VII -   VỀ NHÀ


                   Ngã Ba 46 hình khoảng sau năm 2000



    Chiếc xe chạy khá nhanh nhưng lại không bỏ qua chuyện kiếm thêm khách giữa đường. Hành lang giữa chật cứng người. Số người này ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao để thở. Phần tôi, thoải mái hơn chút đỉnh nhờ lên xe trước.  'Lơ'  xe lấy 'ngon ơ' của tôi đúng một trăm đồng bỏ vào túi. Chuyện tiền nong của chàng ta với tài xế không liên quan gì với tôi. Thế mà tôi lại âm thầm 'cám ơn' cái ghế 'súp' hiếm hoi do anh ta dành cho tôi ngồi cuối chiếc xe lúc vừa rời bến Nha Trang.

   Xe chạy nắp theo bờ biển . Hình như là bờ biển Ninh Chữ. Hoang sơ với làn nước mấp mé theo con đường , trong xanh . Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển nước trong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền .

Cuối năm 1974, năm cuối cùng trước khi miền Nam 'đổi đời', lấy phép từ QT, tôi dám 'bạo gan' đi xe hàng vào tận Sài Gòn. Ngang đây, cảnh biển quá đẹp  nên tôi nhớ mãi. Như vậy là gần Phan Thiết rồi. Từ Phan thiết vào đến Bình tuy sẽ không còn xa nữa ...

   Qua khỏi cầu Phan Thiết, chiếc xe đang vào Thành Phố. Trong xe tôi vẫn ngửi được mùi nước mắm từ mấy xưởng làm nước mắm gần múi cầu. Những đống hũ nhỏ, sơn trắng la liệt dưới kia. Người ta vẫn còn làm nước mắm đựng trong hũ đất giống ngày trước. Chiếc xe dài này chạy xuyên qua Thành Phố. Phố Phan vắng vẻ, buồn hiu. Nhiều cửa tiệm khách thưa thớt, vài chiếc xe honda 67 màu đen còn sót lại chạy vù qua mặt chiếc xe hàng. Bạn cùng lớp với tôi, Nguyễn cường Nam, ra trường sau tôi, hồi đó nghe tin Nam "trấn nhậm" cây cầu nào ngoài Phan Rang? Giờ tôi không còn biết tin gì về Nam? Phan Rang xe đã qua rồi, đây là Phan Thiết; có thể Phan Rang, thị trấn nhỏ quá, nên tôi không để ý chăng?

Rừng Lá !

  Xe đã ngang Rừng Lá . Người ta đặt  tên là Rừng Lá không biết do sao? Trước đây xe hàng ngang đây, tất cả đều lo sợ. Nỗi ám ảnh bị 'du kích' ra chận đường, một rừng lá của mật khu của 'người bên kia' . Khi đi phép từ QT vào ngang đây, năm đó tôi dám 'cả gan' bận đồ lính ngồi trên xe hàng. Năm đó vào phép, như tôi vừa kể, trong nhà ai cũng mừng cho tôi 'thoát nạn' . Nhưng về lại đơn vị tức trả phép, ba mẹ tôi phải 'rán sức'  mua vé máy bay cho tôi ra lại Huế, chiếc DC 4 bốn cánh quạt bay vù vù gần 3 tiếng mới tới Phú Bài ...

  Dòng suy nghĩ của tôi đột ngột ngưng hẳn, anh chàng lơ báo cho tôi biết sắp đến Ngã Ba 46 , họ sẽ thả tôi xuống đó .
  Tới rồi! về nhà rồi ! một cảm giác hân hoan , hồi hộp khó tả trào dâng trong lòng ...


NGÃ BA BỐN SÁU 

   Xe thả tôi xuống liền rồ máy chạy ngay. Tôi đứng bên đường nhìn theo chiếc xe dài , màu vàng nhạt khuất hẳn dưới con dốc xa xa .

   Trời thật sự chiều. Con lộ chính của đất nước giờ này thật vắng. Tôi băng qua đường. Ngã ba này giờ chỉ vài cái quán lèo tèo, vắng khách. Giờ này tôi không còn tìm ra một phuơng tiện nào để về LaGI cả . 

  Cuối năm 1974 trong chuyến phép về thăm nhà lần đầu (cũng như lần chót), tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về Bình Tuy. Những chuyến xe lam đông khách từ đây về La Gi , khoảng xa 18 cây số , khá ồn ào náo nhiệt . Từ đây vô là nơi định cư của đồng bào QT, theo chuơng trình Khẩn Hoang LẬp Ấp, của Quốc Vụ Khanh vào năm 1973 cho đến 1974.
   Giờ tất cả đều vắng vẻ. Không ai trả lời tôi do chẳng có ai đi bộ,  ngoại trừ tấm bảng xi măng khá lớn có mấy dòng chữ:

RỪNG LÀ VÀNG...ĐỐT RỪNG NHƯ THỂ ĐỐT DA THỊT MÌNH  
lời tt Phạm văn Đồng

   Chỉ có tấm bảng kia là 'lạ' đối với tôi kèm theo sự đìu hiu vắng vẻ của một 'NGÃ BA 46', một thời xe lam, xe ôm , dập dìu lên về Bình tuy trong đó có khá đông lưu dân QT.

   Đương nhiên tôi phải đi bộ về nhà. Đi bộ đối với tôi lúc này là chuyện quá thường. Những ngày trong Trại tù Ái Tử, ngày ngày đoạn đường vác cây gỗ nặng từ trên rừng về trại cũng non hai muơi cây số, tôi đã quen. So với bấy giờ, rộng bước thênh thang, vai 'nhẹ hều' cộng thêm niềm vui quá lớn- niềm vui RA TRẠI.

   Mặt trời chưa lặn hẳn để cho tôi thấy nhà cửa xóm làng hai bên  đường , một vùng còn gọi là Tân Hà  (HÀm tân -Đông Hà). Vài đám ruộng cỏn con , xen vài luống mía . Những túp lều tranh còn vuơng khói, xen kẻ vài mái nhà tôn xi măng xam xám . Bên trái tôi một bóng núi nhòn nhọn , màu rừng chiều đen sậm lại . Tất cả đều im lìm , lặng yên trong buổi chiều tàn. Tôi cúi đầu bước  nhanh , con đường không có tiếng xe nào . Tiếng người có thể vang lên trong mấy túp lều tranh đó, hay còn khuất sau vài con rẫy phía trái núi nhòn nhọn kia ? tôi chẳng còn thắc mắc, lo bước thật nhanh đuổi theo ánh chiều tà , mặt trời sắp lăn.

  Ngang cầu Suối Đó thì trời đã tối. Ánh trăng thượng tuần làm rõ đường đi. Cái cầu đã sụp không biết vì lý do gì, đang xây dựng lại. Mùa khô nên tôi đi vòng xuống dưới lội qua con sông cạn dễ dàng. Ban ngày, có lẽ xe đò chạy vòng đường khác. Lội qua xong, leo lên lại con đường, tôi dựa lưng lên cái ba lô tạm nghỉ mệt trên con đường nhựa.


   Cái ngày cuối cùng tôi về Động Đền, nơi bà con tôi ở rất đông trong đó tức là cuối năm 1974. Ngày đó tôi thăm vùng này được hai ngày trước khi ra lại QT. Gia đình ba mẹ tôi lúc này còn ở tận Mỵ tho, tôi theo mẹ tôi, người buôn trái cây từ Mỹ tho lên bỏ mối nơi này từ chợ Lagi về đến Chợ Động Đền .

  Động Đền, nơi người QT ở kề bên nhau. Rẫy rừng than củi, buôn bán nông phẩm là chính. Những cái quán cà phê nho nhỏ, những cái chợ cũng nho nhỏ , những mái trường cho con em QT và những chuyện gì nữa sản sinh ra từ vùng đất mới này, tôi không tường tận gì cho lắm. Sau năm 1972, gia đình tôi 'chạy' thẳng đến Mỹ Tho, chỉ về tập trung ở đây sau năm 1975; và đây cũng là lý do tôi khai địa chỉ trong giấy Ra Trại là vùng này.

   Mặt trăng già hơn một nửa, đã chếch, tôi vội vả bật dậy tiếp tục bước nhanh.

-Ngã Tư Quân Cảnh đây rồi !

  Tôi vội rẽ phải bước về hướng này . Chỉ vào vài cây nữa là đến Động Đền . Nhưng nhà tôi ở xóm nào ? tôi hoàn toàn mù tịt , trong địa chỉ là Xã Tân Mỹ thôi.

  Con đường đất lồi lõm , khó đi trong bóng đêm . Tôi cứ men theo vậy đi mãi . Ánh đêm và thôn xóm tối đen hai bên đường . Trời về khuya, tôi càng lúc càng bước nhanh;hình như tôi đang mò lên một con dốc ( còn gọi là dốc Tân Sơn , từ chợ Cam Bình bắt đầu lên xã Tân Sơn , sau này gọi là xã Sơn Mỹ). Còn ánh đèn nào leo lét tôi đánh bạo bước vào hỏi nhà

Một giọng nói  Gio Linh của một chú trung niên trả lời :

- Ôi o Nhỏ ...thôn Cam Bình phải khôn ? chú đi lui xuống ngay  dưới dốc là đến ngay thôi ...

   Hú vía !  tôi mừng quá cám ơn ríu rít. Người khách trong đêm như tôi , nghe mới ra tù chắc là một chuyện lạ cho  gia đình  kia bàn tán 'đỡ buồn ' ?Tôi vội bước lui, xuống con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.

   May quá, vẫn còn ánh đèn nào leo lét vừa thắp lên trong mái nhà tranh bên phải tôi. Tôi nhớ lúc qua đây tôi không thấy có ánh đèn này, có thể họ vừa làm gì đó , mới thắp lên lại. Mừng rỡ, tôi gõ cữa xin vào .

   Định thần nhìn kỷ , trong mái nhà tranh lụp xụp này kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp có thắp ngọn đèn dầu . Thì ra  đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, trong nha` còn thơm mùi bún xáo của khách vừa ăn đêm . Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi
 ( Bà Dậu thân mẫu của Đinh hữu Thư người cùng xóm Cam Bình . Mẹ của Thư đã mất )người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn lù mù. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm 'ngủ' trong đêm.

   Thật lạ, không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người . Vừa nghe tôi hỏi xong, bác vội nói ngay với cái giọng Bắc 'di cư 1954':

-Ôi ! cậu là Phúc con o Nhỏ phải không ? theo tôi , theo tôi , o Nhỏ ở ngay sau này rồi.

   Nói xong, bà vội cầm cây đèn dầu dẫn tôi đi ngay.

Con đường trong xóm tối om . Một mái tranh lụp xụp , lờ mờ dưới nền đêm khi trăng vừa khuất .
Cầm cây đèn dầu trong tay , bác kêu lớn:

-O Nhỏ ơi, o Nhỏ , thằng Phúc về rồi o Nhỏ ơi !


HẾT 

hồi ký by Đinh hoa Lư

                               
 

Tuesday, July 25, 2023

TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG TỪNG CÓ MỘT THẾ HỆ ĐÁ BANH RẤT XƯA

ký giả Đoàn Trọng xướng ngôn viên SaiGon Entertainment Television tại Nam California 

(bài này rất mong sự góp tin thêm của bạn đọc, xin cám ơn)

ĐHL


*

TRONG dịp tham dự Đại Hội Thế Giới có tên "Quảng Trị Mảnh Đất Tình Người" tại Nam Cali, khi người viết đang lay hoay tìm bạn bè, chợt có anh Đoàn Trọng xướng ngôn viên kiêm ký giả của Đài Truyền Hình Saigon Entertainment Television (SET) từ ngoài kia bước nhanh vào tìm tôi. Gặp tôi, anh Trọng hỏi một câu khiến tôi rất bất ngờ...

- Ô thưa anh, anh là Phúc, anh là gì của anh Võ Tự Bé, tôi vừa nghe người quen đang đứng ngoài restaurant cho hay anh Võ tự Bé vừa mất...



Anh Đoàn Trọng chắc nghe ai trong đoàn chúng tôi từ Bắc Cali đang tập dợt lại cách dàn đội nữ, phía ngoài cửa phụ của Golden Sea Restaurant,  mới lật đật chạy vào trong tìm tôi và hỏi.


Tôi gặp anh Trọng lần đầu trong bữa chiều tới thăm nhà anh chị Tường Sâm vào hôm kia. Anh là người QT nhưng rời Quảng Trị từ lâu nên giọng nói của anh có phần đổi khác. Tôi bất ngờ thật, tại sao lại có người biết tin người cậu vừa qua đời.

Anh Trọng nói tiếp

-Thời đó tôi là người ngưỡng mộ anh Võ tự Bé vô cùng một cầu thủ có hạng trong đội đá banh của Nguyễn Hoàng...

Lời hỏi thăm của anh Trọng làm tôi nhớ về một quá khứ Đá Banh ngày xưa khi tôi mới chín, mười tuổi. Một hình ảnh ngày xưa hiện về trong trí nhớ từ một đứa bé sinh ra lớn lên từ cái thôn có tên  Đệ Tứ. Một con đường có tên Lê văn Duyệt, một thành phố Địa Đầu cùng một ngôi trường trung học có những cầu thủ đá banh- thế hệ trưởng thượng như cậu người viết là Võ Tự Bé cùng thế hệ ngang lứa cậu tôi như các chú Hoàng văn Lợi, Tống viết Lạc, Trần văn Tây, Trần văn Đại, Trương Đá, Nguyễn Bích, Nguyễn Liệu... Một lời hỏi thăm từ anh Đoàn Trọng cùng lúc đưa tôi về lại hình ảnh một cái sân đá banh của Tỉnh có tên là Sân Vận Động sát ngay phía lưng của ngôi trường thân yêu mang tên Trung Học Nguyễn Hoàng mà bao thế hệ Quảng Trị không bao giờ quên được. Người viết cũng xin nhắc lại thời đó bà con mình chỉ nói "đá banh" chứ không nói "đá bóng, bóng đá" như thời nay.


sân vận động Quảng Trị và cái khán đài hình này có thể nhờ lính Hoa Kỳ lưu giữ mới còn 



giày đinh đá banh  ngày xưa cũng giống bây giờ


Đội banh còn được cấp những đôi giày đinh đặc biệt, để đá và luyện tập. Tôi nhớ đế giày còn có những khối u cứng ngắt để cầu thủ khỏi té. Đứa bé như tôi chỉ được sờ vào đôi giày và những cái đinh ở dưới mà sợ 'ớn lưng' như thể bàn đinh đó đang dẫm trên chân mình không bằng.


Thời gian đó khoảng trước 1960 lúc đó tôi còn nhỏ quá. Trong trí nhớ mù mờ chỉ nhớ những lần xem các trận đá tại sân vận động hào hứng vô cùng. Hình ảnh những lần thi đấu tại đây. Cái khán đài chưa bao giờ tỉnh có tiền sửa sang lại. Cái sân cỏ chưa có căn cứ MACV như sau này. Trên tỉnh không biết có cầu thủ nào có thể có anh Nguyễn Dực (em thầy Nguyễn Bảo) cũng là một cầu thủ có hạng ngay cả khi vào trại Tù tại Ái Tử cũng là một cầu thủ. Anh Dục mất trong tù do kiết lỵ khoảng 1977.


Thời này có nghĩa là trước 1960, tình hình chiến tranh chưa cao độ do chưa có MTGPMN ra đời. Cậu Võ tự Bé sau này đi Công Dân Vụ vừa thi xong tú tài năm 1961, đem vợ con từ biệt quê hương QT vào nam. Từ đó cậu Bé tôi vào Biệt Động Quân một lần với người bạn là chú Hoàng Tùng

Cũng giống như hoàn cảnh anh Đoàn Trọng, sau này cũng biệt xứ lưu lạc vào nam cho đến khi qua Mỹ, duyên kỳ ngộ lại gặp Đồng Hương QT tại Nam Cali phát triển nên anh Trọng có nhiều chương trình ưu tiên phỏng vấn hội QT nam Cali. 


Đoàn Trọng (vét trắng)  đang hỏi ĐHL (vét đen) về sự qua đời của người cậu Võ Tự Bé, một cựu học sinh cựu trào NH và là cầu thủ đá banh một thời QT trước 1960






Lớp Nguyễn Hoàng như cậu Võ Hoa có các anh Lê ngọc Phái và Lê Cẩm  có thể biết nhưng lớp Võ Tự Bé thì có thể thầy Nguyễn Bảo hay lớn hơn mới biết. 

Tôi không ngờ trong mịt mờ trí nhớ một đội đá bóng hay của Nguyễn Hoàng và trong đó có nhiều cầu thủ thuộc thôn Đệ Tứ năm xưa, hôm nay lại có người nhắc lại.  


Sau năm 1963 thì phong trào đá banh không còn nữa do tình hình chiến sự leo thang. Những cầu thủ giỏi năm xưa hầu hết đều ra tiền tuyến thi hành bổn phận làm trai. Nói như nhà văn Hoàng Long Hải thì "Phường tôi sĩ quan cấp úy không thiếu chi, kể không hết. Loon lá như vầy, tù cải tạo về sớm thế nào được, ít ra cũng 5 – 7 năm nên đi HO cũng bộn lắm. Ở Mỹ, có nhiều Hội Quảng Trị, tình hình cũng na ná như thế cả..."

(Tuệ Chương-Phường Đệ Tứ của Tui)


Người thôn cũ chúng tôi, đồng môn NH ở nam Cali và bắc Cali nhiều lắm. Tôi vừa gặp anh Nguyễn Bích và chị Lê thị Thạnh phu nhân của anh Bích người cùng thôn và thân với cậu tôi. Tôi cũng gặp nhiều người bạn cùng thôn đệ Tứ như Mỹ Tín (em chị Thạnh), Võ Trung, Nguyễn Văn, Lê Vang... nhưng lớp người ra đi từ xưa lại biết người cầu thủ NH là Võ Tự Bé quả làm tôi khá bất ngờ.


Sơ ngộ với anh Đoàn Trọng xướng ngôn viên của đài TV Sài Gòn Entertaiment Television (SET) tại Nam Cali tôi không ngờ anh là người QT và là người vừa nhắc lại đội đá banh ngày xưa trường NH và của thành phố QT mà hầu như rất ít người nhớ.


Dù sao cũng nhờ anh Đoàn Trọng đã giúp tôi nhớ lại hình ảnh cái Sân Vận Động Quảng Trị, một thời vang tiếng đá banh cùng cái khán đài kỷ niệm một thời rất xưa, trước cả những năm 1960.


Các thế hệ đàn anh NH cùng một thời phong trào đá banh đa số đều tòng quân chọn đường binh nghiệp. Và từ đó cũng là lúc chiến tranh càng ngày càng lan rộng. Lứa con cháu như chúng tôi vào học trường NH (1965-1972) thì cơ quan MACV đã xây dựng xong. Sân Vận Động biến thành sân đậu cho máy bay trực thăng hơn là nơi đá banh. Những chiếc trực thăng H.34 của Mỹ, hay trực thăng có đuôi giống 'con cào cào' của Úc Đại Lợi đậu suốt ngày trên mặt cái sân banh này cho đến xế chiều thì bay đâu vào Huế.




Ngồi học trường NH có dịp ghé mắt qua khung cửa, những lúc thấy được cái sân vận động. Đó là những lúc tôi nhớ lại những trận đá banh hào hứng... hình ảnh cái khán đài đông nghẹt người xem, đủ loại khán giả. Một thời an bình ngắn ngủi qua đi theo khói lửa chiến tranh. Hàng ngày trên cái sân vận động u buồn, hiu hắt hay có hai chiếc trực thăng H.34 im lìm đậu.  Hai cái chong chóng trỉu xuống, thỉnh thoảng hơi nhúc nhích do ngọn gió từ cánh đồng Quy Thiện thổi về...

Quảng Trị ơi, tôi hằng nhớ về một thời chinh chiến ./.


ĐINH HOA LƯ 25.7.2023

edit 27.1. 2024

Sunday, July 23, 2023

NỖI BUỒN VIẾT VÀ GIẤY

Theo năm tháng hoài mong 

thư gửi đi mấy lần đợi hồi âm chưa thấy

em ơi nhớ rằng đây còn có anh đêm ngày 

hằng thương nhớ vơi đầy


(Châu Kỳ/ Sao Chưa thấy Hồi Âm)

BẠN MẾN,




Có lúc nào bạn ngồi nhớ lại một thời mực và giấy không? Cái thời chúng ta hay mua từng đồng mực viên hoà với nước rồi đựng trong cái chai nhỏ xong không quên "nhém" hay vặn thật kỹ. Có mực đồng nghĩa chúng ta đang học lớp ba lớp tư niềm hãnh diện này khiến chúng ta  nâng niu những  bình mực này chẳng khác chi báu vật? Làm sao chúng ta quên được  hình ảnh xin mạ vài đồng rồi chạy ù ra cái quán đầu kiệt mua cho ra cái lưỡi viết rồi về nhà cắm vào cái cán viết. Nếu mua chưa ra cán, chúng ta cột tạm vào đầu cái đũa gãy hay cái que tre nào đó cũng xong.



Mua mực viên thì ta phân biệt mực tím hay mực xanh để o bán quán biết mà bán cho đúng. Bình mực không VITA còn sót lại chúng ta cũng  dùng mãi tưởng như 'suốt đời' - ôi quý làm sao!

:

Ai đã qua cái thời học trò bé nhỏ khi đã vào những năm được dùng viết mực làm sao mà không nâng niu từng nét chữ. tiết kiệm từng giọt mực. Chúng ta vừa dùng giấy thấm cho khô vừa hít hà suýt xoa mỗi khi làm bình mực đổ.  Rồi thời bình mực 'nhựa KHÔNG ĐỔ' ra đời, một lần nữa chúng ta quý nó làm sao!

Hạnh phúc thay cho từng trang giấy sau giờ tập viết cùng những điểm 9 hay 10 màu đỏ đậm đà cùng lời khen của thầy cô. Từng giọt mực lập công. Rồi chúng ta thương cái cán viết những lúc nó nhịp nhàng lên xuống viết nên bao nét chữ dịu dàng lúc ngón tay cậu học trò nắn nót mải mê.

TIM TÍM MỰC MỒNG TƠI



Hạt mồng tơi khi chín cũng tạm làm mực tím viết chơi. Những chỉ viết tạm thôi chứ không thể nào thay mực viên hoàn toàn được. Thế mà người viết còn nhớ có lúc có dùng rồi . Những chùm hạt mồng tơi khi chín đen nhánh, ép nước tím nó ra chấm rồi viết trên trang giấy vở học trò nhàn nhạt, không ra thể thống gì. Thương hạt mồng tơi không ai mà không nhớ bờ giậu nghiêng nghiêng cho cây mồng tơi mọc nhờ. Ôi mồng tơi lá xanh mát mắt, vắt vẻo mấy chùm hạt chín muồi, một màu đen đậm.


 *

Tuổi nhỏ hồn nhiên qua mau. Bao cô, cậu học trò nay bước vào thời biết dùng viết máy. Hãnh diện làm sao khi ta bước vào trung học. Nam sinh trung học thật lòng vui sướng  khi trên túi áo trái của mình lại "lấp ló"  màu vàng óng ánh của cái nắp viết máy. Tuyệt đỉnh ước mơ là ngòi pilot; nắp vàng càng quý. Loại khá thì có viết máy parker, alpha... Những thứ viết máy thế kia chúng còn tiêu biểu cho một thời kỳ chúng ta khôn lớn lúc đang bước vào ngưỡng cửa trung học. Viết máy tiện lợi cho học trò trung học, vừa qua thời tiểu học - lớp ba lớp tư với ve lọ, mực viên cùng cái cán viết tòa, ôi chúng ta nhớ lại, sao mà "lạc hậu" quá đi.

Thời thế đổi thay vùn vụt. Ngày trước chắc hẳn chúng ta chẳng hề hình dung hình ảnh cuộc sống nói chung là xã hội hôm nay đang chạy đua với kỹ thuật số (digital) cùng "a còng" (@)". ..

Nhân viên bưu điện - các chú các cô chuyên ngồi đánh điện tín (giây thép) nay ngồi ngáp dài buồn cho công ăn việc nay chẳng còn thích hợp. 



Cảnh đợi cánh thư xanh người yêu từ phương trời xa sao thơ mộng quá. Hai kẻ yêu nhau ngày qua ngày ngóng bác bưu tá viên đầu ngõ quả thật không còn nếu có chăng nữa cũng thật hiếm hoi. Chúng ta hồi tưởng lại, phải chăng giây phút nhận lá thư xanh đó là lúc ta bỗng dưng thấy người đưa thư " hôm nay sao đáng yêu chi lạ". Ôi chỉ là hoài niệm một thời- chuyện đánh giây thép "tích tịch tè tè" các bác bưu tá viên sẽ mang các tờ điện tín khẩn cấp nào đó... bao hình ảnh thực sự chìm sâu vào quá khứ.
 
Các thế hệ đi sau làm sao chiêm nghiệm được cảm xúc và hình ảnh ngày đó như chúng ta từng có. Những thế hệ sau này còn gọi là "gen Z" hoàn toàn không có những cảm xúc vừa tả. Có thiệt thòi chăng cho những tâm hồn sinh ra và lớn lên trong thời kỹ thuật số, mọi thứ đều có các robot tin học tính toán, làm thay.



Tất cả đều biến mất trong thời đại điện toán. 

Thế đó, thế gian biến đổi khôn lường không ai ngờ được. Chính chúng ta trong thời đại hôm nay chưa hẳn đã đoán được hình ảnh ngày mai, một ngày mai ra sao cho SỐ PHẬN VIẾT VÀ GIẤY?

Nhưng biết đâu mai đây thiên hạ sẽ có một ngày: ngày bạn cũng như tôi thèm muốn một lá thư xanh với đôi dòng chữ tự tay người viết lấy. Có thể bạn cho là chuyện  'huyền thoại ' đó thôi. Ai thân lắm thì sẽ hiện trong vài dòng mét xịt (message) trong cái Iphone đời mới thế là ấm lòng biết mấy.

Cái ngày đó sẽ có thật đó bạn ạ. Đó là khi thiên hạ lười viết. Ngón tay nay quen rồi khi chỉ biết gõ và bấm thôi. Những dòng "mét xịt" trong Iphone sẽ thay cho hàng chữ dịu dàng trìu mến trong lá thư xanh nào đó. Phong bì và những con tem không ai còn nhớ. Hình ảnh tờ giấy viết thư loại pelure màu xanh hi vọng hay hồng tình yêu sẽ không ai nhớ hay biết đến nữa! Đây là thời những con 'rô- bốt tin học'  thay người trong viết và giấy cùng trao đổi tâm tư...

Chúng ta mong sao thấy lại một thời mực tím cùng đôi dòng tự tình trên trang vở. Những câu thơ ghi lại từ một bài thơ lãng mạn đa tình. Có bài thơ tình nào đó hay đến não lòng làm người ta phải nắn nót chép lại, e ấp cất dấu bên trong cuốn vở học trò hay cuốn sổ nhật ký ngày xanh...
Chúng ta đâu có những cảm giác bồi hồi xúc cảm của một ngày xưa, phút giây nhận được lá thư người thương yêu gửi qua bưu điện. Những lá thư có khi hàng tuần và cả non cả tháng mới tay người nhận. Một thời đại phương tiện thông tin quả khó khăn và thiếu thốn. Một cảm xúc và trải nghiệm nho nhỏ nào đó dâng lên trong tâm hồn chúng ta, lớp người sống qua hai thời đại xưa mà không quá xưa và nay tức là kỹ nghệ Internet và kỹ thuật số phát triển như vũ bão.

Khi còn tự chúng ta xác nhận còn lắng đọng trong tâm hồn chút tâm tình hoài cổ, lúc chúng ta hay nhắc lại nhiều chuyện "ngày xửa ngày xưa", ắt hẳn chúng ta còn nhắc lại một thời VIẾT và GIẤY. Lãng mạn hơn một chút, chúng ta có thể gọi đây là Nỗi Buồn Bút Mực. Một nỗi buồn nào đó man mác dâng lên trong lòng khi những hình ảnh dễ thương đang chia tay chúng ta vĩnh viễn./.

ĐHL edition và tái đăng  22.7.2023

Thursday, July 20, 2023

NHÂN CHUYỆN STEPHEN B. YOUNG VÀ CUỐN SÁCH MỚI -SỰ PHẢN BỘI CỦA KISSINGER

 

SÁCH MỚI- KISSINGER'S BETRAYAL

SỰ PHẢN BỘI CỦA KISSINGER

By STEPHEN YOUNG

Lược tiểu sử GS Stephen B. Young

Stephen B. Young từng phục vụ trong thời chiến tranh VN trong chức vụ phó cố vấn vùng quận của tỉnh Vĩnh Long tư 1967-1971. Về nước Ông tốt nghiệp TS danh dự (cum laude)tại Đại học Luật Harvard và từng làm trợ tá cho Hiệu Trưởng trường Luật Harvard. Hiện Ông là GS Luật tại Đại học Luật Hamline

Ông thông thạo Việt Ngữ đã cùng người vợ VN dịch cuốn the Zenith (Đỉnh Cao Chói Lọi) cho nhà văn phản tỉnh Dương thu Hương.


Theo tin của tờ Vietvungvinh.com tại thành phố San Jose bắc California vào lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật ngày 2 tháng 7 năm 2023, đông đảo đồng hương đã đến hội trường Quận hạt Santa Clara bắc California, để tham dự buổi hội thảo mang chủ đề "Từ Hoả Tuyến Quảng Trị 1972 đến Hoà Ước Paris 1973" với diễn giả chính là Giáo sư Stephen B. Young. Đồng thời cũng là buổi ra mắt sách "Sự phản bội của Kissinger". Tác giả Giáo sư Young lên án ngoại trưởng Hoa Kỳ phản bội đồng minh qua Hiệp định Paris 1973.

*
Trong cuốn sách rất mới này phải nói đúng 50 năm từ ngày ký kết Hòa Ước Ba Lê cho đến nay một học giả Mỹ đã ra một cuốn sách chứa nhiều thông tin nhất để lột trần âm mưu và thủ đoạn của Henry Kissinger người đã rắp tâm bỏ rơi đồng minh VNCH trước ký kết đàm phán Hiệp Định Paris 27/1/1973.
Theo Gs Young, Henry Kissinger với tư cách là Cố Vấn An Ninh cho TT Richard Nixon từ 1969, ông Young cho rằng Kissinger đã bỏ rơi đồng minh một cách tức tưởi khi ông ta đàm phán Hiệp Định Paris hầu chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc CHIẾN ỦY NHIỆM với Liên xô lúc đó. Nhưng theo Young, Henry Kissinger người đã tạo cơ hội cho miền Bắc chỉ trong vòng hai năm đã áp đảo thành công VNCH với chiến thắng cuối cùng vào tháng Tư 1975.
Trong cuốn Kissinger’s Betrayal How America Lost the Vietnam War, ông Young giải thích sâu sắc mang tính logic trước sau, nguyên nhân – hậu quả về cuộc chiến dựa trên căn bản kiến thức trực tiếp và sự quan tâm cho người dân Đông Nam Á nói chung và miền nam VN nói riêng.
Dĩ nhiên đối với cánh tả và phong trào phản chiến trước đây họ không ủng hộ cuốn sách này. Nhưng đối với người VNCH và đồng bào tỵ nạn CS, cuốn sách mới này của GS Young đã bộc lộ sự bất mãn của ông không riêng gì đối với Kissinger mà cả phong trào phản chiến tại Mỹ trong thời chiến Tranh VN.
Hiện nay, Henry Kissinger đã lộ rõ chân tướng là ủng hộ Tập Cận Bình và Putin hơn là Ukraine đủ cho ta thấy sự rắp tâm 'bán đứng' VNCH là cả một thủ đoạn của ông cựu ngoại trưởng hoàn toàn có thật. Đã có nhiều sách vở báo chí bàn về Kissinger nhưng cuốn sách mới này là một tài liệu lưu thế quý báu cho chúng ta và thế hệ con cháu trong sử liệu chiến tranh quốc cộng.




hình đính kèm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (P) tiếp ông Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, tại Nhà khách Điếu Ngư Đài ở Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 20/07/2023. Tại buổi tiếp này chính Tập đã nói Trung Quốc không bao giờ "quên người bạn cũ" của mình.
VIA REUTERS - CHINA DAILY

Cuốn sách này tuy mới nhưng không mới đối với VNCH một thời đã chống đối 'sự đi đêm' liên tục của Henry Kissinger người mà VNCH gọi là "Ngoại giao con thoi", "Phù Thủy" hay là "Quân Sư" kể cả "Vua Đi đêm" ...vv

VNCH từng không ngớt lời nguyền rủa Henry Kissinger khi bắt buộc miền nam phải ký hiệp ước bất công bất minh Ba Lê 27/1/1973.

Phải chăng Henry Kissinger người chỉ định và tạo ra một chuyển biến lịch sử trong Chiến Tranh VN?

Chưa hẳn thế, nếu chúng ta đọc lại lời đe dọa và mạt sát một cách vô lương tâm và không liêm sĩ, thủy chung của TT Richard Nixon thì tất sẽ thấy rằng ông Kissinger chỉ là người thừa hành hay chỉ là một công thần đắc lực và tận tụy cho TT Richard Nixon mà thôi.
Trong bức thư cuối cùng bức ép đe dọa TT Nguyễn văn Thiệu, ông Nixon viết


Theo luật Mỹ sau hơn 40 năm bức thư này đã bạch hóa như sau

TÒA BẠCH ỐC

HOA THỊNH ĐỐN

 

TỔNG THỐNG THÂN MẾN


Một lần nữa tôi đã phái Tướng Haig tới Sài gòn để gặp tổng thống nhằm thông báo cho ngài biết về quyết sách quốc gia cuối cùng của riêng cá nhân tôi về vấn đề đàm phán ngưng bắn cùng những triển vọng mà chúng ta đang đối mặt.


Hai tháng qua, với những lá thư riêng cá nhân tôi, qua nhiều lần bàn thảo thêm, với nhiều lần liên lạc với TS Kissinger, cùng Tướng Haig, và Đại Sứ Bunker và qua những  cuộc thảo luận hàng ngày tại Ba Lê; tôi đã nghiêm túc thông báo cho ngài biết các tiến trình về cuộc đàm phán, tôi đã truyền đạt cho tổng thống nhiều đánh giá tốt nhất vì lợi ích chung giữa chúng ta.


Tôi đã cho ngài mọi cơ hội để cùng chúng tôi mang lại hòa bình trong danh dự với người dân miền Nam Việt Nam.

Nhiệm vụ của Tướng Haig tới có mục đích giải thích cho ngài biết ngài PHẢI hợp tác với ý định cuối cùng của tôi là tiến hành chứ không còn thay đổi. Nếu thấy cần thiết Hoa Kỳ có thể đơn phương thực hiện.


Các sự kiện gần đây không hề thay đổi quyết định của tôi. Mặc dù cuộc đàm phán với Hà Nội đang gặp một số chướng ngại nhưng tôi muốn ngài chớ hiểu lầm về ba vấn đề rất cơ bản như sau: 

*Trước tiên là chúng ta đang đứng bên bờ thỏa thuận bất cứ lúc nào. 

*Thứ hai, thương thảo với Hà Nội hiện nay lại bị đình trệ rất nhiều do họ đã khai thác được sự bất đồng công khai của chúng ta. Hà Nội thừa sức biết rõ điều này, quả là một điều bất lợi hết sức nghiêm trọng cho phía ngài.

* Thứ ba, như tôi vừa thông báo cho phía họ, thậm chí nếu Hà Nội đáp ứng các yêu cầu căn bản còn lại, tôi sẽ nhanh chóng tiến hành thủ tục ký kết thỏa thuận.

Chắc ngài cũng biết các hành động quân sự khởi động trước khi trướng Haig đến.

 Tướng Haig sẽ giải thích cho ngài biết các hành động như vậy nó mang một ý nghĩa quyết tâm của phía chúng tôi (Mỹ) muốn đưa cuộc xung đột chấm dứt nhanh chóng cũng như chỉ ra những gì tôi chuẩn bị làm nếu họ vi phạm thỏa thuận. Tôi cũng không muốn ngài bị bỏ lại với những ấn tượng quá sai lầm. Dù bất cứ hoàn cảnh nào các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ vừa nói không thể hiện mong muốn hay ý định rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ can dự nếu Hà Nội đáp ứng điều khoản thỏa thuận mà tôi sẽ ký.

Nếu bây giờ vẫn thiếu sự hợp tác giữa chúng ta và nếu ngài vẫn không chịu hợp tác ký kết thỏa ước, điều này sẽ mang lại hậu quả tai hại cho ngài trong liên hệ hai quốc gia. Tôi tin chắc sự từ khước này sẽ đem lại một thảm họa to lớn, làm tiêu tan bao thành quả chúng ta cùng chiến đấu hơn thập kỷ qua. Hơn thế nữa, đây là điều không thể nào tha thứ do nó làm chúng ta mất đi một cơ hội có được trong công bằng và danh dự.


Qua tướng Haig, tổng thống  CHỈ CÒN  một cơ hội cuối này để trả lời cho tôi một lần cuối cùng những gì tôi đã chủ tâm hoạch định; còn không thì ĐƯỜNG AI NẤY ĐI. 

Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa, tướng HAIG tới Sài Gòn không nhằm thương thảo với tổng thống.


Đã là lúc chúng ta cần hợp tác để thương thảo với kẻ thù. Thế nên ngay bây giờ, ngài phải quyết định- một là HỢP TÁC với chúng tôi hai là ngài để tôi TỰ ký kết riêng với kẻ thù khi họ phục vụ được LỢI ÍCH MỘT MÌNH NƯỚC MỸ./.


TRÂN TRỌNG CHÀO NGÀI

Richard Nixon


President Nixon (center) meeting with Nguyen Phu Duc (left), South Vietnamese President Nguyen Van Thieu' special emissary, to put his seal of approval on the Vietnam cease-fire agreement negotiated by Henry Kissinger (at right). 

VỚI SỰ BỨC ÉP CỦA TT NIXON, TT THIỆU SAU ĐÓ PHẢI GỬI ĐẶC SỨ NGUYỄN PHÚ ĐỨC GẶP TT NIXON VÀ NGOẠI TRƯỞNG KISSINGER CHẤP THUẬN KÝ KẾT



Qua bức thư của TT Nixon chúng ta thấy rõ ràng lời lẽ của TT Nixon đối với TT VNCH là một sự đe dọa, coi thường và chà xí bỏ rơi không hơn không kém.
Chớ đổ hết tội cho Henry Kissinger mà hãy đi từ chính phủ đương thời là TT Nixon cả Quốc Hội Hoa Kỳ và đương nhiên là cả Chính SÁch Lớn của tập đoàn Tài Phiệt Mỹ và thời đó.
Henry Kissinger chỉ làm nhiệm vụ con thoi hơn là nhà hoạch định chính sách (Policy Maker)
Đi xa hơn và cao hơn nhiều bậc nữa nếu chúng ta nghĩ đến chiến lược của tài phiệt Tây Phương đã là người "hoạch định chính sách" còn lớn hơn các nhà làm chính sách trong chính phủ Hoa Kỳ nữa.
Đây là thực tế dù thực tế này rất cay đắng cho VNCH

Nếu chúng ta cùng hồi tưởng lại không gian và hoàn cảnh trong thời CHIẾN TRANH LẠNH  (Cold War) thì hình ảnh những đại công ty các nước Tư Bản ồ ạt làm ăn tại các nước theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa hay các nước trong Khối Thứ Ba là những hình ảnh ‘lạ lùng không thể tin được’ vào thời đó. Một thời gian Tư Bản và Cộng Sản xem nhau như  “nước và lửa”, thù địch, đối kháng cùng chiến tranh một mất một còn. Thế mà những điều ta không thể tin nay đã thành sự thật. Tư bản đã bắt tay với CS mà những chuyến công du ‘con thoi’ của Henry Kissinger cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ vào đầu năm 1971 tới Bắc Kinh là dấu hiệu cho một cuộc cách mạng về kinh tế chính trị hoàn cầu.


                 Henry Kissinger và Chu ân Lai năm 1971 

 Một sự thật rất đắng cay cho những con người từng phục vụ và bảo vệ VNCH, một mảnh đất thân yêu từng ươm mầm tự do dân chủ và chế độ Cộng Hòa nhưng đã bị bức tử trong sự thay đổi thời thế và hoạch định từ bàn cờ chính trị quốc tế.  Bàn cờ chính trị kinh tế thế giới đã lật qua một trang mới đó là TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ THẾ GIỚI còn gọi tắt là TOÀN CẦU HÓA. Đáng thương cho VNCH là một nước nạn nhân cho Toàn Cầu Hóa này do hoàn cảnh đặc biệt về cuộc chiến QUốc Cộng mà bước rút lui của quân đội Hoa Kỳ về nước được đánh đổi bằng cái chết của VNCH và mở màn cho Toàn Cầu Hóa mà sự vững mạnh của nền kinh tế thứ hai thế giới của Trung Hoa là thí dụ điển hình nhất.


Sự thật của TOÀN CẦU HÓA kinh tế thế giới đã cho ta thấy rất nhiều nhà TỶ PHÚ ĐỎ mọc lên từ vùng đất CS như Trung Cộng và Việt Nam hiện tại. Một sự thật không chối bỏ đó là cuộc sống sung túc hơn, đầy đủ hơn, thay đổi màu da sắc áo từ những nước có thu nhập đầu người thấp nhất thế giới như VN và ngay cả Trung Cộng và giờ đây lợi tức đầu người đang lên cao một cách nhanh chóng.

Khi họ Tập còn khen "người bạn cũ tốt" là cụ già lụ khụ 100 tuổi Henry Kissinger đang thăm nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Hoa thì chúng ta thấy rằng 

Chiến Tranh Mỹ Hoa chỉ là điều trên "đầu môi chót lưỡi" và thoa vuốt những thành phần cực đoan chủ nghĩa dân tộc của Bắc Kinh thôi 

Nước Mỹ ra sao khi không có "chuỗi cung ứng" khổng lồ của Trung Cộng. Trung Cộng sẽ ra sao khi không có khối tiêu thụ khổng lồ của nội địa Hoa Kỳ?

Chúng ta cũng thấy rằng nền kinh tế nội địa Hoa Kỳ chiếm hết 3/4 sức mạnh kinh tế của Mỹ.

Từ các nguyên lý trên, dù Henry Kissinger là tội đồ của VNCH nhưng vẫn là công thần nước Mỹ. Khi Kissinger tuy tuổi già sức yếu vẫn chưa mất đi 'bản chất con thoi' của ông ta, và hình ảnh Kissinger-Tập cận Bình tại Bắc Kinh hiện tại cũng không quá ngạc nhiên chút nào cả.

Người viết nói ra điều này để chúng ta cùng nhận chân ra sự thật rằng các siêu cường vẫn gắn bó với nhau do cùng chung quyền lợi và thân phận nhược tiểu dù vào thời nào cũng thiệt thòi và là "con dê tế thần" cho các "ván bài quốc tế" cả.

Chỉ tiếc rằng khi VNCH mất đi vẫn còn nhiều "thân phận nhược tiểu" khác phát sinh, họ không bao giờ nhận ra kinh nghiệm...

Kinh nghiệm đó là đặt lợi ích toàn dân lên trên hết, dân chủ hóa chính quyền để làm cho dân giàu nước mạnh thoát ra cái lưới cay độc của sự vứt bỏ và phản bội khi phải 'nương nhờ' hay 'lệ thuộc' dù bất cứ dưới một cường quốc nào.

Thân phận nhược tiểu không phải chỉ có một VNCH bị hi sinh vứt bỏ một cách tức tưởi, sẽ còn nhiều Henry Kissinger khác nếu các dân tộc nhỏ bé không nhìn ra vấn đề. 

BÀN CỜ QUỐC TẾ KHI NÀO CŨNG DỌN TIỆC CHO CÁC THẾ LỰC GIÀU MẠNH VÀ THÂN PHẬN NHƯỢC TIỂU LÚC NÀO CŨNG SẴN SÀNG BỊ HI SINH VỨT BỎ CHO QUYỀN LỢI CỦA SIÊU CƯỜNG MÀ THÔI 


ĐHL 22.7.2023




BIỆT GIAM tại Trại Bình Điền

Bức hình này không phải là Trại tù số 3 Bình Điền Huế nhưng rất giống nhất là cái CONEX  giam tù khá giống theo trí nhớ chúng tôi khi lần lư...