Monday, February 27, 2023

THÀNH CỔ XA XƯA - HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ


...Khi tôi về nghẹn ngào trong nắng
Tưởng rằng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về
Nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời
Không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ...
 (Đường xưa Lối Cũ)

  bài viết này xin gửi về bà con Phường Đệ Tứ QT xa xưa... ĐHL


NHỮNG NGƯỜI PHƯỜNG ĐỆ TỨ THA  HƯƠNG  (nam California 2015)

 *

   CON ĐƯỜNG NGỰ là đường nào?Nó bắt đầu từ đường Lê v Duyệt rẽ thẳng góc đâm về huớng An Tiêm .  Khởi đầu là cái quán của mạ tôi . Cái quán trước đường Cửa Hậu là cái quán nhỏ từ đời mệ ngoại sang qua lại cho mạ tôi bán ở đây . Quán sát cái giếng nằm lọt vào đất ông Xạ Lịch tức là anh chú bác với mệ ngoại tôi. Quán nhỏ mà đắt khách vì trong xóm cần gì là có ngay. Từ cái kẹo, chai bia, ly rượu, kim chỉ , giấy tiền vàng bạc, vở sách bút chì ...thuốc hút, đá lạnh nước chanh , mỳ xíu ban sáng ...tôi kể không hết.  Quán trước cửa Lao Xá nên hay có lính coi thành ra mua. Những lần thăm nuôi tù nhân trong thành quán mạ tôi cũng bán được một mớ.

 Người kể chuyện nhớ lại, chú Vân mỗi khi lái xe về là ghé quán uống ly rượu thuốc trước khi về nhà. Nhà Chú thím Vân ở xa, sau xóm nơi ngó ra cánh đồng lúa An Tiêm và hạnh Hoa. Nhà chú ở một bên đường Ngự, đối diện với nhà Ông Lâm tức là ba chú Tùng và chị Dao ...
 Sau lưng là trường Ấp tân Sinh mới được xây một dãy dài.
XÓm Cửa Hậu càng lúc càng đông. Đồng bào tản cư tránh chiến tranh, vợ con lính càng lên nhiều và xây liên tục nối xa tận ngoài đồng kể không hết .

    Sau năm 1967 có thêm Đại Đội Chiêu Hồi đóng gần nhà Ông Nguyễn tri Duyến, ông thân của các chị Đoàn, chị Liễu nên càng vui thêm.
Qua vài bài viết từ trước tới nay, người viết cố 'moi tìm' trong tim óc những gì mình nhớ lại thôn xóm năm xưa để bà con "những người còn lại" đôi lúc được thả hồn về "đường xưa lối cũ"...
Giờ để tiếp nối, mời bạn đọc và những người quen biết cũ 'đi chuyến tàu kỷ niệm', hình dung lại xóm Cửa Hậu xa xưa  trong  bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ...
                                       
 ***

  TRÊN TRANG BLOG  tôi viết đến đây chắc bạn đọc ít ai biết. Đó là con đường gắn liền với tôi lúc sinh ra lớn dần lên một thời niên thiếu trước Cửa Lao Xá mà nay đã thực sự mất tên, và bị lấp mất bởi nhà cửa người ta xây lên trên. Đã thế con đường Lê văn Duyệt cũng vô cớ bị xóa tên. Theo sử thì tả quân Lê văn Duyệt cũng là một võ tướng thời xưa công tội là chuyện của nhà Nguyễn , đến đời Thiệu Trị cũng được phục danh và cái Lăng Ông to lớn ai ở Sài Gòn mà chẳng ghé một lần trong đời.
Đường Phan đình Phùng đã có trong lịch sử thành phố QT xa xưa ròi, việc tréo ngoe chồng lên con đường Lê v Duyệt thì không hay chút nào. 

hình người viết chụp cho cậu Võ Cư năm 1969, ông đang đứng chính ngả ba Lê văn Duyệt và lối vô Cổng Thành Cửa Hậu (đã bị lấp sau 1967)- ngó thẳng ra con ĐƯỜNG NGỰ--trên cổng thành phía cánh phải  chúng ta thấy có một mái che tồn nhô lên, mấy chú bảo an đêm nào cũng gác đó , lâu lâu đánh kẻng đổi gác, vài ba tiếng rời rạc trong đêm trường ...
 

*
    Bây giờ tôi lại kể về con ĐƯỜNG NGỰ. Con đường này chính ngay Cửa Hậu ngó ra thẳng về An Tiêm. Lúc tôi còn nhỏ, mệ tôi thuờng kể là con đường vua Ngự nên gọi là thế nhưng trong nhà Ngoại tôi không biết vua nào. Chẳng qua là truyền miệng cho nhau. Cho đến gần đây, ông Nguyễn lý Tưởng có giải thích thêm thời vua Hàm Nghi chạy ra Tân SỞ 1884 đặt tên để ghi nhớ vua Hàm Nghi khi thất thủ kinh thành 1884 có di chuyển qua đây.  Dân quân ở đây đắp thành một con đường đất lớn để quan quân di chuyển. Như vậy về thời gian cho đến 1972  lớn lên cạnh con đường lịch sử hơn cả trăm năm...

   Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa hay Lý  ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Võ Bình (trung úy Biệt Kích chồng của mợ Trần thị Kim  Thược Gio Linh)  thời đó là lứa cùng anh Liệu anh Thăng a Sỏ con ô Cai Ngữ, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước, nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu, thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa. Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo, thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu. Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của hai anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), ngày nào cũng đi tận dưới xa gánh nước cho mẹ. Đàn ông con trai mà anh gánh "dẻo queo".


   Cạnh cái giếng là cái quán tạp hóa của mạ tôi. Quán này mệ ngoại tôi đi tu giao lại cho mạ tôi. Lính và nhân viên coi tù trong Cửa Lao Xá (hay Cửa Hậu) hay ra mua hàng. Người tù khi đi làm tạp dịch về cũng được du di cho ghé nhanh quán mạ tôi mua vài thứ. Nhờ mấy chú coi tù hay ra mua hàng ở quán mạ tôi nên nhà tôi bán hàng khá đắt. Có chú Tạc nói giọng Sài gòn làm trong Lao Xá rất lâu rất thân với nhà ngoại tôi. Chú rảnh là ra quán mạ tôi uống rượu thuốc hay nhậu lai rai. Mấy chú Bảo An trong thành ít khi ra quán ngoại trừ mấy chú mang súng dẫn đoàn tù đi làm tạp dịch ngoài tỉnh về. Cái quán này là đầu đường Ngự nằm vào đất của nhà ông Xạ Lịch (Lê ái Lịch), bà ngoại tôi kêu là anh (con chú bác). Ông  Lịch theo công giáo với vợ. Ông có mấy cậu là Lê ái Phương và anh cả là Lê ái Long ở xa, còn có dì Cúc...Nhà ông Lịch thời này tuy không giàu bằng nhà ông Lê ái Thanh, anh của ông Lịch có nhà cạnh bên. Nhà ông Lê ái Thanh ông thân của cậu Lê ái Minh có xe đò chạy QT- Huế (tên là Thiện Thành). Cậu Long con ông Lịch tuy là công chức nhưng cũng "tậu" được một chiếc xe Gobel , '"còm măng" từ bên Ý gửi qua. Ngày chiếc gobel về tới, cả xóm chạy tới coi. Chiếc xe mới được đựng trong một cái thùng gỗ bằng ván to lớn. Sau khi dùng 'xà beng' cạy ván ra, chiếc xe GOBEL mới toanh sừng sững dứng ở trong trông thật "hách". Thời gian đó chưa có honda, ngoài trừ  mobilette, lambretta, hay velo solex.


Đầu hết của đường Ngự phía bên kia là nhà của chú Huỳnh Chốn, ông thân sinh của Huỳnh Rô, và Huỳnh Toàn,  số nhà là 65 Lê v Duyệt. Nhà của chú Huỳnh Chốn là chủ xe Phước Toàn tên của hai đứa em của Rô. Hình như Huỳnh Rô có đúa em gái tên Liên nữa. Trước khi nhà Huỳnh Rô ở, đây là nhà của chú Nguyễn văn Ba, cha của đứa bạn thân Nguyễn văn BỐn. Thời này nhà bạn tôi đã có xe đò chạy Qt -Huế. có cho chú Kỳ thuê làm quán may. Cái quán ngó ra là cái cống thông ra hồ của Thành CỔ. TÔi nhớ  chú Kỳ rất vui tính và nghịch. Chú ngồi may vậy mà lấy tờ bạc cột một đầu kéo ra giữa con đường nhựa, còn đầu kia tôi còn nhớ buộc vào cái máy may singer. Sau khi "ngụy trang" sợi chỉ khách đi ngoài đường cúi xuống lượm bị chú Kỳ đạp lẹ cái máy may, sợi chỉ kéo phăng tờ bạc lui làm người khách "tiu nghỉu" , trong quán chú Kỳ và tụi tôi cười sướng cái bụng. Người lượm bạc "trật" chỉ biết cúi đầu đi nhanh , chẳng dám cự nự một lời !Đêm về ngay đầu đường Ngự này, tức là cái cống và cái cột đèn của con đường Lê v Duyệt trước cổng Thành, tụi tôi chơi đá lon,' hô la manh' với nhau.

  Bắt đầu đi sâu vào là nhà bà ngoại tôi hay nhà tôi lớn lên bên các cậu tôi là Võ Cư ,Bé , Phương , Hoa , Ba , Bình...lớn lên các cậu tôi đi Trường Thiếu sinh Quân hay binh nghiệp khác. Cậu đầu Võ Cư trước là trung đoàn 95 VM , sau này về lại bên Cộng Hòa là công an. Có thời bên VM cho người đàn bà về lại 'móc nôi' nhưng bất thành. 1968 nhà sập một nửa nhà dưới cái nhà ngói trên hư hại ít ỏi. Tôi tuy là đứa cháu ngoại nhưng là thắp huơng khói sớm tối trong nhà ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất sớm từ 1949, sau này bà ngoại tôi lại làm bà vải tận chùa SẮC TỨ bên Ái Tử thỉnh thoảng có việc gì tôi mới qua chở bà về. Đối diện nhà Ngoại tôi tức là bên kia con đuòng là nhà Ôn Vui và mệ Dịu. Nhà Ôn Vui có hai cây khế, một cây chua một cây ngọt. Cây khế ngọt yếu ớt ít trái hơn. Cây khế chua to lớn rậm rạp phủ một nhánh qua sân nhà Ông Nguyễn trọng Thệ. Nhà mệ Dịu làm nghề thợ may trong nhà. O Lài là con gái đầu. Ôn mệ Vui có người con trai tên Hiền đi ăn học đâu xa thỉnh thoảng mới về. O Lài là chị lớn đi tu đạo sau về nhà, em o Lài tên Diệm xấp xỉ tuổi tôi.  Bên lưng nhà mệ Dịu là nhà O Hoài mẹ chị Huờng và Hoàn. Còn người con gái nữa là Hòa cũng. xấp xỉ tuổi tôi. Tội nghiệp 2 con trai o Hoài, thằng Gioan thằng Huởng bị VC pháo vô thành, lạc ra ngoài khoảng 1967 chết oan mất thằng Gioan. Tuổi nhỏ anh em chúng tôi trong nhà ngoại cùng trang lứa như mấy nàng hồi đó là Diệm, Hòa bốc chẵn lẽ ăn thua sợi thun (địu) hay 'cò cò' tức còn gọi là "chơi thiên trời" vui vẻ hồn nhiên đúng là thời con nít ...

     Theo con đuòng này tiếp nhà ôn Vui mệ Dịu là nhà Ông Nguyễn trọng Thệ như vừa nói. Ông Thệ là ông thân của các chú Nguyễn trọng  Kỳ- Khôi -Tống -Toàn.  Anh Nguyễn trọng Toàn sau này là chồng của chị Thí. Ông Thệ có cái tính rất sạch. Sáng chiều chi cũng thấy ông cầm cái chủi cán dài quét quét trước cươi (sân). Ông Thệ hình như là người Ngô Xá. Rảnh là ông thay áo quần lên phố thăm ông Thầy Thoàn trên phố(thân sinh tướng Hoàng xuân Lãm). Nhà ông Thệ trước đây mua lại của chú Võ Vọng. chú Vọng hay đi chiếc mobilette chạy lẹt đẹt. Sau này chú VỌng về ở gần nhà mệ Cửu Mình là mệ cậu Hiếu ở kế bên trụ sở phuòng Đệ Tứ - hay gần kiệt xuống nhà bạn Nguyễn Văn (nay ở Nam Cali) và Nguyễn Kiệt (mất tại Đông Hà).


    Sau 1967, nhà này 
ông Thệ bán cho chú Huỳnh Chốn, ba của Huỳnh văn Rô. Còn nhà Huỳnh Rô số 65 trước đường thì lại bán cho mẹ và dì tôi . Nhưng nhà tôi số 65 trước đường ở một năm thì bị cháy vì vụ Mậu Thân 1968. Sau đó nhà tôi phải lên thôn Đệ Nhất làm ăn.

      Tiếp tục con đường Ngự, nối tiếp 
nhà Ngoại tôi là nhà của bác Hà công Kinh tức là ông thân của Hà thị bích Huờng (nay ở Đà Nẵng). Thời tôi còn nhỏ, đây là nhà của ông Lâm, thân sinh của võ sĩ Bách Tùng Lâm; tức chú Tùng lấy tên ba người:  ông Lâm, Bách là anh của chú Tùng. Ông Lâm có võ gia truyền, sau này chú Tùng mới là võ sĩ nổi tiếng. Chú Tùng chú Bách cùng lứa với hai cậu Võ Phương và Võ Hoa tôi. Một thời 1960 nhà của ông Lâm còn là nhà tranh, có đụn rơm và buị tre. Tôi còn nhớ trong Sài gòn, ra làm một cuốn phim , đóng cảnh thanh niên chiến đấu. Có thể vào thời Ấp chiến Lược thịnh hành. Đêm đó thật vui, có cả anh Nguyễn Bích( anh rễ Mỹ tín , chồng chị Lợi ) cùng với các thanh niên trong thôn được dựng cảnh thanh niên chiến đấu , bận đồ đen cầm đuốc lập lòe chạy cạnh đống rơm trước máy quay phim thật vui. Sau này nhà ông Lâm bán lại cho nhà  Hà thị bích Huờng. Ba của Huờng là bác Kinh làm kiều lộ hay là công chánh tỉnh QT. Bên kia nhà ông Thệ thì bán cho nhà chú Huỳnh Chốn. Cả hai ông Lâm và ông Thệ không đi đâu xa mà ra mua đất phía sau ruộng tức là tiếp tục con đường Ngự để lập vườn vui thú điền viên.


ĐƯỜNG NGỰ HÔM NAY CHỈ CÒN DẤU TÍCH PHAI MỜ 


Bức hình này người viết xin đánh dấu hôm nay là ngày năm 2022  Lấy từ cái mốc thời gian là năm 1972 tức đã tròn 50  năm hay đúng nửa thế kỷ lạnh lùng qua đi, nay con Đường Ngự chỉ còn là gờ đất mỏng manh giữa cảnh đồng lúa lên xanh tốt.

 Ôi thời gian, chỉ là kỷ niệm xa dần cho những ai ra đi nhưng còn thương về quá khứ 
Bao nhiêu hình ảnh chợt ập về cho người viết bài này. Chính đây là đoạn đường mà người viết thời còn bé bỏng hay men theo con con đường này đi về tận bờ sông Vĩnh Định rồi phanh mấy vạt dưa quả của người làng An Tiêm trồng ven bờ để tìm ra năm ba con rế trong mùa hè nghỉ học. Thuở đó gờ đất này là một con bờ đất cao chia cánh đồng lúa ra hai. Thỉnh thoảng mới có một cái cống đất thông nước ruộng cho cánh đồng. Giờ đây đoạn đường phía khởi đầu con đường đã không còn. May thay phía cuối cùng là ruộng không ai giành đất xây dựng mới còn một ít dấu vết.
 
Có còn hơn không; cám ơn bạn đọc Kim Nguyễn một lần nữa,  đã hào sảng thời gian không ngại khó đi ra ruộng tìm và chụp cho một tấm hình minh chứng cho một dấu vết lịch sử của thành phố Quảng Trị năm xưa.


*
bạn bè Cửa Hậu về lại Thành Xưa nay chỉ còn rêu phong tàn tích


***
  Con Đường Ngự ngày đó dài lắm, chạy thẳng về tận bờ sông Vĩnh Định có làng An Tiêm. Như người viết đã trình bày, lúc sinh ra thì đã thấy nó rồi. Thời trước 1963, từ đường Lê v Duyệt đi ra khỏi nhà ông Lâm là gần hết nhà, hai bên toàn ruộng.  Hồi đó, mùa mới cấy lúa tôi hay cùng chị Dao con Ông Lâm ra bắt cua đồng tức con đam, ốc bưu (bươu) đi vài giờ là có cả gàu đầy. 

  Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều 'người lớn'. Nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên . Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có. TÔi không cầm dây nổi, chỉ có người lớn mạnh tay mới kéo được con diều ăn gió lên cao. Diều này bay cao hơn trăm mét.  Cuộn dây gai cứ buông ra mãi, nghiêng nghiêng cao lên trời, diều chao qua lại văng vẳng tiếng sáo o o nghe thật thích. Tuy là dây gai đi mua nhưng cũng lúc diều quá no gió nên đứt dây. Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận thôn Hạnh Hoa, cả nhà phải tất tả chạy đi kiếm lại. Cậu Võ Cư tôi từng mang mấy ống sáo diều từ Gio Linh vào do ô cậu làm CA ngoài đó. Mấy ống sáo đó, cậu tôi kể phải mua từ môt người làm sáo diều mới có. Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật, hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo , hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn . Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo , thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi.


  TÔi  lại lan man nữa ! tiếp theo nhà của Hà thị bích Huờng là nhà ông Nguyễn tri Duyến. Ông Duyến là ông thân của chị Đoàn, chị Liễu và đúa em trai cùng một em gái nữa. Nhà chị Liễu có hai con chó trắng và đen làm tôi khi nào đi ngang cũng "ngán". Con chó đen nuôi sau to lớn hơn , sủa vang nhưng không "độc" bằng con chó trắng. Con chó trắng chờ tụi tôi đi ngang qua là im lặng chạy vụt ra không sủa tiếng nào để cho mình đề phòng mới đáng sợ. Phía bên tê đường , sau cái nhà ngói của Rô là nhà của chú Phan Hưu cũng cảnh sát như cậu Cư tôi. Đất nhà chú Hưu đang ở là cái hồ rộng quá đến sau nương của nhà bác Dô bên xóm kia. Phía bên kia hồ thì xe kéo của MACV từ trường NH về đổ rác. Phía cạnh hồ sát con đường Ngự này thì người ta lấy đất cày đổ thêm tạm làm cái nền cho nhà chú Hưu. Trước khi có nhà Chú, ngang đây có bụi tre càn không cao không rậm nhưng mỗi khi trời tối có việc đi sau xóm về nhà ngang đây tôi đều 'ngán' vì sợ "ma". Nhắc lại bụi tre này, tôi lại nhớ Mệ Thuần tức là mẹ của ông Thuần mệ mắc bệnh lẫn đêm đêm mệ cứ cầm cái đèn dầu lò mò đi ra tận bụi tre này. Thời này tôi và mấy đứa bạn cứ cho là mệ bị "ma nhập ". Trước kia tôi hay câu cặm ở cái hồ này. Những buị tre gần hồ chiều chiều có tiếng con chim chài màu xanh đậu chờ mồi. Đất đai phủ dần hồ thay vào đó là nền nhà chú Hưu Trong xóm chỉ có nhà chú Hưu là khổ nhất. Vợ chú sinh xong đứa trai cuối thì thím bị tâm thần. Cúc là con gái đầu , ngang tuổi tôi , thay mặt mẹ tảo tần phụ ba nuôi bầy em. Trưa hè, lúc lúc tôi lại nghe tiếng thím nói và la mắng những gì không ai hiểu nổi? Tuy thế, thím không làm phiền ai, chỉ cái bệnh là nói những lời độc thoại đầy vẻ bất mãn. Hai đứa trai đầu của chú Trung và Phùng hay bên phía nhà Hà thị Bích Huờng có mấy em trai- tôi xin lỗi- hồi này đặt cái tên là... "Chó Nậy... Chó Con". Nhà chú Chốn, thì có Cu Rô...thời này mấy đứa con nít hay có cái tên "cu ..." nằm đầu mới kỳ. Tỷ như em trai thằng Nguyễn v Bốn, bạn tôi có thằng "cu Đen" bạn thằng Đen có Cu Vân tức con Chú Vân vậy!

Con trai có tục danh, tên "cu " đi trước
      -Ê mi đi mô rứa Cu...?


Gọi mãi như rứa có lúc cái tên thật của mình cũng bị quên luôn? Tôi không biết sao trong xóm tôi lại nhiều "tên Cu " lắm vậy? 

 Thành Cổ còn đâu trơ vách đá
lối xưa ngơ ngác dọ lối về ? 

          Trước hiên nhà ngoại tôi sau 1968 có một bàn ping pong khá lớn. Cho thuê giờ kiếm thêm "mắm muối". Khách trong xóm ngoài các bậc cha chú như chú Hưu ,đánh rất hay là đối thủ với cậu tôi.  Khách chơi PingPong sau này đa phần là con nít như mấy "thằng cu" tôi kể trên. Giờ hỏi lại, mấy  em này chắc khó quên hình ảnh cái bàn ping- pong ngày đó.

    Tên tôi thì gặp may, ngoài chữ "sù sựa" do chú Trương Đá đặt cho tôi vào năm 1960, nên tôi thoát nạn phải mang tên "Cu Phúc". Tại sao chú Trương Đá đặt tôi cái tên "sù sựa"?  Tôi nhớ rất rõ, khoảng đầu 1960 lúc mẹ tôi cho em gái tôi là Đinh thị Hiệp bú, chú Đá lúc đó tới nhà thăm bạn là cậu Võ Hoa. Khi chú thấy Đinh thị Hiệp khoảng chưa đầy năm tuổi đang bị ngợp sữa, chú hỏi "cái chi rứa phúc ? Tôi lúc nhỏ nói chớt nổi tiếng trong xóm vì hai cái răng cửa bị sún hai ba năm không mọc, trả lời lắp bắp , "dạ dạ ...cái sù sựa" tức là sữa! Từ đó chú Trương Đá đặt cái biệt danh "Sù Sựa" đó cho tôi. Suốt thòi kỳ "sún răng" này mấy đứa bạn như Trương SỪng, Trần Tài, nhất là Nguyễn văn Bốn (còn gọi là thằng Vạy) gọi riết tên tôi là "sù sựa ". Chúng gọi mãi cái tên đó đến nổi tụi nó quên mất tên thật của tôi luôn.  Sau này tôi cũng quen, không cự nự gì cả; cứ cho là tên mình cũng chẳng sao.

===================== 
Theo bác Hoàng Long Hải người P Đệ Tứ viết trong bài Phường Đệ Tứ  ....Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, Trương Đá là bạn từ thơ ấu của Hùng. (Hùng Móm Nhảy Dù về tái chiếm thành cổ sau này)  Nhiệm vụ chung của trung úy Đá là lo “tiếp vận cho các đơn vị sư đoàn Dù” ở Lào, “nhiệm vụ riêng” là “tiếp vận rượu Mỹ” cho Hùng Móm. Hùng khoe với tôi: “Chưa bao giờ hành quân uống rượu đã như lần nầy”. Hồi ấy quân Mỹ còn đóng ở Ái Tử, rượu Mỹ khá rẻ. Dân cùng xóm, bà con, anh chị em gia đình tôi, ai ai cũng thương Hùng, lo gởi cho Hùng “vài chai”

    ============ 
`Tiếp theo nhà chú Phan Hưu là nhà ông Phương có người con trai đi lính không quân . Anh hay lái nguyên bộ đồ bay ghé tạt thăm ông bà.  Ông Bà Phương có chị con gái đi nữ tu nhà dòng sau lại về.  Chị ấy trắng trẻo đẹp gái và quá hiền lành . Kế là nhà vườn mới của ông Thệ( sau khi bán nhà cũ cho nhà Huỳnh Rô, ông Thệ xây nhà mới ở lô đất mới này). Sân trước trồng mấy cây trứng gà , ông không bỏ thói quen quét cái sân đổ bằng đất cày ngoài ruộng gánh vô "láng xì cón " . Cũng là cái chỗi cán dài , bộ Bà Ba trắng, và cái dáng của ông. Tôi rất thân với nhà Ông, cứ ra nhà ông chơi. Sáng sáng là ông dậy sớm chế ly cà phê sữa rồi. Tôi còn nhớ như in ba ông - ông Thệ, ông Kinh cùng cậu Cư tôi sao mà mê "tài bàn " tức là tổ tôm đến thế.  Khi nhà này, mai nhà khác ... cái thú vui của ba người là tài bàn. Có khi ba ông đánh cho đến sáng mới về. 

*
      Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có Đại Đội Vũ Trang Chiêu Hồi được thành lập. Lịch sử 
Trung Tâm  chiêu Hồi này phải trước 1967 chắc chắn có Mỹ trợ giúp. Do sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ hình như trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất khổ. Những mái nhà này nền thấp nên mỗi khi nước lụt về là tràn ngập gần nửa nhà.

     Năm 1967 là năm cổng Thành Cửa Hậu bị đánh để giải thoát tù chính trị . Phía 'bên kia' cũng giả dạng "chiêu hồi ", xong hay ra chơi phía quán truóc đường nhắm địa thế cổng thành và sau đêm đánh xong họ cũng "biến mất "? Hồi này tôi quen một anh lính chính quy người Hà Nội tên Sơn , đẹp trai , giọng Hà Nội rất hay. Sơn hay la cà từ ty Chiêu Hồi qua chơi nhà ngoại tôi , vào phòng học tôi ở mái sau.  Thấy tôi chăm học , Sơn rất thích. Anh còn mở bóp lấy tấm ảnh kỷ niệm một quán nuóc ơ Hà Nội trước ngày anh đi lính vô nam và sau đó "chiêu hồi". Sau khi cổng lao xá Cửa Hậu bị đánh (1967) , Sơn ,người bạn chiêu hồi mới quen cũng biến luôn? Hồi này còn có mấy anh CHiêu Hồi lính chính quy khác nữa mà tôi quên tên mất. Lính Mỹ có công nhiều trong việc xây dựng Trung tâm Chiêu hồi này . Xe chở đất liên tục ngày tháng để lấp đầy vạt ruộng rộng thì phải biết là bao nhiều thuớc khối đất chở từ xa về. Xe Mỹ chạy ra vô suốt ngày , đến nỗi tôi học được vài ba tiếng Anh cũng đề đầu đường vô, cạnh cái cột đèn dòng chữ trên tấm giấy carton "Children, slow down" , tôi không biết  thêm chữ please cho lịch sự như bây giờ .  Mấy ông Mỹ lái xe chở đất xong đi ra ngo ngó vào tấm bảng.

      Quân đội  Hoa Kỳ thời đó còn đem về đại đội Chiêu Hồi này ban nhạc hợp tấu giúp vui cho mấy anh VC. Bữa đó, cả xóm chạy ra nghe đội hòa nhạc Mỹ hòa tấu bản "ĐÊM ĐÔNG" nghe hay đáo để. Cậu Võ Hoa tôi lò dò lấy cái máy Cassette ra thu tiếng, làm như là phóng viên , tôi không nhớ có thu được không?

  `Từ sau thời gian thành lập Đại đội Võ trang Chiêu Hồi sau cánh đồng xóm Hậu thì phong trào xây nhà ra xa hơn. Nhưng theo hai bên con Đường Ngự mà tiến ra sau đồng ruộng. Căn bản những người cố cựu trước đường ra "lập nghiệp" ngoài này như nhà ông Thê, nhà Ông Nguyễn v Ba tức là ông thân thằng bạn tôi Nguyễn văn Bốn. Nhà ông Lâm tức là võ sĩ Bách tùng Lâm , nhà chú Vân lái xe trácion QT- Huế ,,, còn thêm người dưới làng vì tình trạng chiến tranh lên đây lấn ruộng ở hai bên con đường thật nhiều. 

 chủ những chiếc xe chở khách hiệu RENAULT giống trong hình trong xóm tôi gồm nhà Chú Thanh, chú Chốn, Chú Ba, ông Khóa Thanh ...

    Nhưng tôi phải nhắc đến nhà chú Xứng ỡ kế nhà ông Thệ . Nhà chú Xứng mới ở sau này. Có cái tôi nhớ là chú làm nghề cắt dép bằng lốp xe hơi mà đầu tiên trong đời tôi thấy. Chú làm nghể dép lốp này bán trên chợ Tỉnh . Tuy là cắt dép lốp , nhưng không có hình dáng dép lốp như bộ đội sau này, mà hình dép nó đẹp hơn, tuy cũng có những quai dép bằng ruột xe. Hết nhà chú Xứng làm nghề guốc dép mới tới nhà chú Nguyễn văn Ba tức là ba thằng Bốn bạn tôi , có nhắc trước ở phần trên . Chú Ba bán căn nhà 65 Lê văn Duyệt ngoài đường cho chú Huỳnh Chốn xong ra đây vừa có đất xây cái nhà ngói "to đùng" vừa có chỗ đậu xe và còn dư đất xây thêm nhà trên nữa. Đất đai tại sao mà rẻ? Thời này có phong trào di dân lập nghiệp trong Long Khánh. KHông phải di dân lập ấp 1973 đâu , thưa bạn đọc. Phong trào này có từ lâu. Nhà cậu tôi cũng treo bảng bán , may mà không ai mua. Nhưng cũng vì lưu luyến nên chần chừ. Do đó vì phong trào vô nam này mà đất ngoài ruộng này rẻ như bèo. THời buổi chiến tranh ai ở càng gần đường phố thì cái bụng lai yên tâm hơn. Kế cái "gia trang " của thằng Bốn là nhà của ông Lâm , thấn sinh chú Tùng ,tức là võ sĩ Bách Tùng Lâm như tôi vừa nói đoạn trên. Ông Lâm bán nhà cạnh nhà cậu tôi cho ba mẹ Hà thị Bích Huờng xong thì ra đồng. Cũng nhà gỗ nhà tranh và làm ruộng thôi. Nhà ông Lâm hay gọi cho đúng là nhà chú Tùng(làm trưởng nhóm lính gì của Mỹ gọi là xi ti gì đó?)có cái đụn rơm và mấy cây mít , um tùm cái ao rau muống. 

 chú Vân tài xế lái thuê xe tac xi  chạy Huế Quảng trị ,xe này chở 12 người khách là chật cứng

    Ngó qua đường Ngự là nhà chú Vân ba của Nguyễn thị Ba , Nguyễn thị Bốn , có một "thằng Cu " nữa hay em trai mà tôi hay gọi là Cu Vân. Giấy tờ là Quyền nhưng tôi có khi nào nghe đâu, cứ con trai là "cu" xong lắp thêm tên cha là "yên chuyện". Cái lối gọi này như một cái "luật bất thành văn " tự nhiên cho tất cả bà con trong thôn xóm. Chú Vân lái xe tắc xi thuê cho chủ , nghèo hơn . Đi về là chú không quên ghé quán mạ tôi đầu đường NGự uống một hai cốc rượu thuốc mới vô nhà. Chú làm tài xế cho người ta nên nghèo. Cái nền nhà xây xong , chỉ trơ mấy hàng táp lô năm này qua năm khác. Cũng phía này kế nhà chú là dảy trường ấp tân sinh khá dài gồm mấy lớp. QUa lại bên này đường là nhà chú Thí em rễ Chú BA. Lạ là bà nội của thằng Bốn tức mẹ của chú Ba lại thích ở với o Gái vợ chú Thí thôi. Chú Thí cũng là tài xế lái thuê nên nghèo hơn nhiều. Sát nhà chú Thí là nhà chú Ngụng làm lính trong thành. Nhà chú cũng lên ngụ cư sau này. Tôi nhớ chú Ngụng là nhớ chiếc xe Dodge Cartge khi nào chú về nhà cũng kéo một cái xe rơ -móc (remorque) đầy nước về cho nhà xài , khỏi gánh. Nhà chú Ngụng ở đằng trước , phía sau là một cái xóm  dưới các làng mới lên đây tạm cư,  người ở chen chúc.  Vì chiến tranh mà họ tạm cư lên đây. Ruộng vườn bỏ lại dưới làng , ăn theo đồng lương "lính tráng" chắc là khó khăn nhiều.  Phía cạnh xóm này là bãi tha ma lâu đời tiếp giáp với hai thôn CỔ Thành và Hạnh Hoa. Hồi này có làng Cổ Thành gần Trí Bưu và Hạnh Hoa còn Thành Cổ người ta còn gọi là Thành chứ không phải Cổ Thành như bây giờ hay gọi. Ví dụ ngày đó người dân hay nói ...lính trong Thành , có pháo kích trong Thành , khu gia binh trong Thành , Tiểu Khu sau này đóng trong Thành...

   Ra lại con đường Ngự, tiếp tuc bên phải là cái vườn ông bà Tám. Cái vườn rất rộng của bác Tám tức là ông bà thân của chị nguyễn thị Hoa , Nguyễn v Lành , Nguyễn thị Thêm (Quỳnh Ni sau này). Nhà bác Tám tôi còn nhớ trước đó, nhà bác bán tiệm tạp hóa duói Góc Bầu gần tiệm Bác Kỳ. Tiệm bác Kỳ sát bên nhà chú  Đặng Sỹ Tịnh có bút danh là Trịnh duy Nhượng. Chú Tịnh từng là bạn văn thơ với cậu tôi là Võ Hoa có bút danh là Trần giã Viên. Sau này bác Tám cũng theo phong trào "di dân" ra con đường Ngự này "khai hoang lập ấp ". Cái vườn cuối cùng trước khi chạy 1972 mới đáng nói vì bác Tám ông đã tạo dựng một vườn ổi xá- lị rất rộng. Trước cửa ngõ nhà bác là cái quán bán hàng lặt vặt, kiếm thêm lợi tức trong nhà.

      Đối với vườn bác Tám là khu vườn cuối cùng, ngó qua bên kia con đường ngự là cả chục gia đình từ dưới Triệu Phong, mấy  làng chạy lên do chiến tranh. Xóm này là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được cho đến cái mút thời gian 1972.

    Con đường NGỰ CÒN DÀI lắm, nó phải chạy mãi đến khi giáp với bờ sông Vĩnh Định giáp với thôn An Tiêm. Một thời tuổi nhỏ tôi có những "chuyền phiêu lưu" đi theo con đường đất rộng cao như con đê này về các vườn dưa gần An Tiêm kiếm rế . Tôi không quên được những cây mắm xôi , những bụi chứa dại và mấy con châu chấu voi to lớn. Hai bên là cánh ruộng loáng nước mùa cấy , cho đến lúc nước lụt với cảnh nước đục ngầu mêng mông , hay mùa khô cánh đồng trơ gốc rạ...

Tuổi dại lớn lên bên con ĐƯỜNG NGỰ cùng tình bà con làng xóm , tôi cứ nhớ mãi suốt đời. 

cây bông cợi (nàng nàng)
                                                      bông cỏ hôi
  Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên  những khóm hoa ngũ sắc, mấy bụi mâm xôi, bụi dứa dại, cây lá ngái mọc dại  bên đường;  lạ thật, qua xứ người, mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot  năng nhắc tôi nhớ về '
đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...


bông ngũ sắc

Rồi tất cả cùng chung số phận, cái tên đường Lê văn Duyệt  cùng thành phố đó mất rồi . Cũng như con ĐƯỜNG NGỰ, nó theo nhau về miền dĩ vãng. Nỗi cảm hoài u uẩn cho những gì thuộc chuyện xưa tích cũ đến khi viết lại cho thế hệ mai sau là góp nhặt cát đá dựng xây lại hình ảnh xa xưa giờ đã mất.


 

Đinh hoa Lư 17/3/2014
edition 28/2/2023

THÓI KIÊU NGẠO CỦA CỘNG SẢN THẬT ĐÁNG GHÉT

 



             Từ ngày 2/7/1976 CSVN chính thức đổi tên Thành Phố Sài Gòn thành tên Thành Phố HCM

 

chữ Lê thánh Tôn cũng sắp bị CS thành Hồ xóa sổ 


chào bạn đọc

 -Le Moi est haïssable ( Blaise Pascal)


 
Bàn về cái tôi


Chào bạn đọc,

Người viết còn nhớ và tâm đắc một câu châm ngôn của Blaise Pascal mà thầy dạy cho học trò khi còn học tại trường Trung Học Nguyễn Hoàng đó là, "Cái tôi là cái đáng ghét" (le Moi est haïssable ).

 Tiếng là tâm đắc nhưng tôi lại hay mắc vào cái khuyết điểm này? Người viết lại xin tự bào chữa khi nói về "cái tôi" của mình nhưng trong nội dung "tự thán".  Nếu không đem cái chuyện thực của cá nhân mình ra thì làm sao hầu chuyện, hay "tỉ tê" kể cho bạn bè nghe thì ai sẽ hiểu cho đây? ví dụ, tôi hay kể về  "cái tôi của nghèo nàn rách rưới "  năm xưa, hay những kinh nghiệm đời thuờng ...

Giờ tôi xin bước qua chuyện khác...


  Ngày xưa cha ông mình luôn xây dựng nếp sống, cách nghĩ khiêm cung, tự chế. Đây là những điểm đáng phải học, noi theo.  Tôi nhớ lại vào năm 1972 khi chạy giặc vào đến Đà Nẵng mới thấy được cái tên Đường Hùng Vương, quốc tổ của nước chúng ta. Vinh danh quốc tổ dân mình chỉ đặt cho một cái tên đường. Đó là ghi ơn tưởng niệm, một sự vinh danh trong chừng mực khiêm cung, một văn hóa biết chừng mực không có thứ "chủ nghĩa tôn sùng" cá nhân, lãnh tụ đến cuồng loạn như thời sau này?

Chúng ta cùng nhớ lại ngày trước, mấy thành phố của VNCH, các vị anh hùng- lắm bậc anh thư  từng có công với giang sơn tổ quốc mới có vinh hạnh được viết tên lên vài con đường phố, cơ quan, trung tâm nào đó. có vài thí dụ như: Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Vạn Kiếp,Trại Hoàng Hoa Thám , đường Lê thánh Tông, Đ Cô Giang, Cao Thắng, Nguyễn thái Học, Lê thái Tổ , Quang Trung, Trưng trắc ... Ngày đó vài con đường nhỏ bé sơ sài, lại đặt tên cho các vị có công lao giữ nước có khi chúng ta nhìn thấy, trong lòng sinh ra ái ngại?


   Đó chẳng qua văn hóa đất nước ta là văn hóa khiêm cung, tự chế của nước Việt. Cha ông ta luôn dạy cho con cháu đời sau, bao lâu nay phải biết tiết chế sự đề cao cá nhân, biết khiêm nhường là những gì căn bản phổ cập trong lòng xã hội. Chúng ta thử nhớ lại... Ngay cả Quốc tổ Hùng Vương cũng chưa ai đặt làm tên một thành phố bao giờ? Từ đó chúng ta càng buồn hơn nữa từ ngày miền nam bị xích hóa, một dãi non sông chữ S hoàn toàn bị chủ nghĩa CS 'nhuộm đỏ' , văn hóa nước nhà càng ngày càng bị phá hoại, rúc rỉa trầm trọng bởi một  thứ văn hóa quái dị do 'phe chiến thắng' trực tiếp, gián tiếp đẩy đưa xã hội đến một lối sống khoe khoang, bề ngoài nhưng trống rỗng bên trong...?


Khi đã là Phe Thắng Cuộc, Huỳnh văn Bánh,  Phan văn Kẹo...Nguyễn văn Kèo, Trần V Cột...tha hồ sánh vai với tiền nhân quốc tổ 

  
 Sau biến cố đau lòng năm 1975, mọi chuyện đều đảo ngược, "lộn tùng phèo" cả ?! Ngoài cái tên "Thành Hồ", đảng CSVN từng leo lên, còn to hơn Quốc Tổ? Nào cái tên anh xã "kèo", cô Năm "cột" ở xó xỉnh, góc rừng nào, chẳng ai hay? người dân không hề biết? "đùng" môt cái! sánh vai với Quang Trung Đại Đế, Đức Thánh Trần?!

Càng suy nghĩ chúng ta càng tức giận tại sao họ không  bao giờ cảm thấy phạm thượng, đắc tội với tiền nhân?

Có một thời kỳ, có phong trào vận động lấy lại tên thành phố Sài Gòn...nhưng việc đâu vào đó. Cường quyền thống trị, người dân chỉ là "bọt bèo" làm gì họ để vào tai? Có những cơ sở tên trường ốc, đường sá miếu mạo mang tên tiền nhân dựng nước không 'mang tội' gì với họ nhưng cũng bị xóa tên một cách ngang ngược, oan ức?


Chúng ta càng nghĩ càng thấy "cái tôi thật đáng ghét"?!


Chủ nghĩa cá nhân-tôn sùng lãnh tụ, người Cộng Sản ngoài miệng tuyên truyền dẹp bỏ giai cấp, thống trị hay 'đánh tan chủ nghĩa cá nhân' nhưng thực chất trái ngược hoàn toàn. Chế độ CS nói chung ĐỨNG ĐẦU THẾ GIỚI VỀ TÔN SÙNG LÃNH TỤ cùng thờ phụng chủ nghĩa cá nhân không ai hơn được? Chuyện họ
 dám đem một nhân vật thời đại, vô danh tiểu tốt lại ngạo mạn đặt vào vị trí còn "cao hơn" Quốc Tổ mới là cái đáng trách, đáng bàn hay đáng phỉ nhổ?

Chỉ cái tên một người lại đặt cho một thành phố to lớn,  vừa bắt dân thuộc lòng , phải chúc tụng ngày đêm, phải viết lên trên sách sử...? Một việc mà trong lịch sử hàng ngàn năm văn hiến VN chưa bao giờ muốn làm?


Việc xây tượng đài Hồ Chí Minh trăm tỉ, nghìn tỉ khắp nơi là nhằm củng cố chế độ và cũng là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, theo một số nhà phân tích.


theo BBC

w

                                                    tượng đài HCM Cần Thơ

Khoảng chục năm trở lại đây, tượng đài là một vấn đề nhức nhối ở Việt Nam. Các tỉnh khắp cả nước đua nhau đòi xây tượng đài như một cơn bệnh dịch gây bất bình và phẫn nộ trong dư luận.

Mới đây nhất là tượng đài lưu niệm hành trình cứu nước của ông Hun Sen trị giá 300 tỷ ở Bình Phước đã khánh thành, tượng đài Cụ Hồ ở Phú Quốc 353 tỷ đồng dự kiến khởi công ngày 02/9/2021, và tượng đài tập kết ở Thanh Hoá trị giá 255 tỷ đồng vừa được lựa chọn mẫu xây dựng.

Xét về mặt lịch sử văn hoá, Việt Nam không hề có truyền thống về tượng đài...

================= 

Chưa hết, suốt chiều dài đất nước bao nhiêu tượng đài 'nghìn tỷ' dựng lên nhiều 'hơn nấm' hao tốn vô tận của cải tiền bạc của dân? Cái tôi to tướng khiến họ chẳng cần nghe ai, bao tiềm lực quốc gia bị hoang phí khủng khiếp vào trong cái túi tham lam, tự tung tự tác từ 'cái tôi đáng ghét' đi ra của họ?

người dân phẫn nộ nhưng đâu vào đó? 

ai dám ngăn cản nào?

đụng đến "Bác" là cái tội 'tru di tam tộc' ...thế là tượng Bác đã thành cái khiên 'linh thiêng' che chắn mở đường cho bọn sâu dân mọt nước bày chuyện một hóa thành mười để đục khoét ăn chận làm giàu cho cái bụng tham vô đáy của lũ chúng?

 Hai vua : một dựng nước, một giữ nước , vinh dự lắm cũng chỉ là tên đường?


   Thuơng thay! trong thời gian này, những cái tên đáng kính trọng nào quốc tổ Hùng Vương, nào những đại anh hùng, anh thư dân tộc  đang âm thầm nằm ở góc đường nào đó dọc theo mảnh đất hình chữ S quê huơng.



  Thời đại hôm nay những thành phố mang tên Leningrad, Stalingrad ...nay đang thi nhau bị thiên hạ lột ra và đào thải. Hơn bốn mươi lăm năm sau, nước ta vẫn "ì ạch " nặng nề, ít tiến lên phía trước. Phải chăng cũng từ cái chủ nghĩa cá nhân, tôn sùng lãnh tụ và lòng tự tôn quá đáng hay chăng?

NẾU VẬY, THÌ CÁI TÔI QUẢ LÀ ĐÁNG GHÉT THẬT./.



ĐHL 

 

Sunday, February 26, 2023

LỤT VỀ THẠCH HÃN


Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ (Hoàng Thi Thơ)

Chào bạn đọc

      Mỗi độ nước lụt về ngang thành phố Quảng Trị là lúc mặt hồ bao quanh Thành Cổ tràn lên mấy con đường Duy Tân, Lê thái Tổ, Phan đình Phùng, Lê văn Duyệt. Thành phố QT xưa có các đồng ruộng Thạch Hãn phía nam, Quy Thiện phía đông, ruộng hai làng Hạnh Hoa, Cổ Thành phía bắc. Mỗi năm lụt tràn Thạch Hãn, nước thuờng theo nhánh sông Vĩnh Định băng qua cầu Rì Rì, đầu tiên là tràn vào đồng Cổ Thành, Hạnh Hoa.  Năm nào cũng thế, cái đập Rì Rì chẳng bao giờ ngăn được mức nước. Con đường Gia Long- còn gọi là đường Bờ Sông- chạy nắp theo bờ sông thuờng bị lụt tràn qua. Có khi nước tràn vào đến chợ tỉnh.  Cầu Ga coi vậy nhưng kiên cố, chưa bao giờ bị nước lụt cuốn trôi, nhưng chỉ sụp đổ do cuộc chiến 1972.


      Sau năm 1975 lụt thiên nhiên không còn thấy vì sông Thạch Hãn bị ngăn dòng để xây một con đập; đập đó có tên là Đập Trấm. Tuy vậy lụt vẫn xảy ra được, cũng như mọi con sông miền trung khác sau này, nếu người ta xả lũ. Đây là nạn lụt do người tạo ra mà thôi. 
Còn những trận lụt thiên nhiên do ôn 'trời làm ra' thì chỉ còn trong ký ức của người QT.

 ĐHL edit 27/2/2023 San Jose USA


                               
 
“Ông tha mà Bà chẳng tha
Làm nên cơn lụt hăm ba tháng mười”
(ca dao)

    Thời con nít tôi luôn mang một ý nghĩ 'lạ lùng' rằng câu ca dao trên chỉ dành cho quê Ngoại thôi . Sao mà 'không riêng' cho được ! khi hàng năm cứ gần cuối tháng mười âm lịch, bầu trời QTrị chỉ một màn đen xám ngắt , tối ‘sầm sập’ của mưa- gió, một thứ không khí ẩm ứơt, nặng nề.  Tất cả gom lại, báo trước dấu hiệu của cơn lụt tháng mười đến gần.  Đêm đêm tôi nằm nghe tiếng sấm từ hướng biển, phía mấy thôn Gia đẳng, Ba lăng hay Long Quang vọng lên...

   Ùng ục, ùng ục ...

 Tiếng sấm nghe sao lạ tai, mệ ngoại tôi hay gọi là "sấm đất":

      -Ôn Trời có sấm đất chắc sắp mần lụt rồi!   

    Tuổi nhỏ hay thắc mắc, tôi cứ la cà bên ngoại để hỏi hoài. Đêm về, tôi tuy nằm nhưng lại cố lắng tai nghe tiếng "sấm đất" đầy bí ẩn đó ra sao? Sao lại gọi 'sấm đất' hỉ? Đố ai biết? có thể nó vọng lên từ huớng biển chăng? có khi tôi nghe như dưới lòng biển dội lên chân trời hướng đông, nghe như xa lắm. Tôi gắng ghé mắt nhìn ra khe hở cửa sổ, bao tia chớp chốc chốc lóe lên trên nền trời đen thẩm. 

    Lại cũng tiếng "ùng ục... ùng ục" từng hồi. Chớp lóe liên tục huớng biển- mưa dội đầu nguồn; bầu trời QT như muốn 'trở mình', giăng giăng bao màn mây, mưa u ám.

        -Rứa là lụt về!













            lụt về Thạch Hãn


    Chớp bể mưa nguồn" là kinh nghiệm lâu đời của miền trung. Ban ngày hướng mắt lên Trường Sơn, tôi chẳng còn thấy màu xanh núi rừng nữa thay vào đó chỉ là một màn trời đen nghịt. 


        -Mưa nguồn!

     Mưa không còn là tiếng rả rích, tôi hay nghe trên bụi chuối sau nhà ngoại mỗi khi đông về, tháng chạp gần tết. Mưa giờ là mưa to xám xịt trên nguồn. Hướng núi xa xa-dãy Trường Sơn nay là một 'cõi trời' riêng, huyền bí và ầm ỉ. Tuổi nhỏ chỉ dám tưởng tượng mà thôi. Mưa trên kia chắc đang gầm thét, che núi, phủ rừng. Cứ thế, suốt một tuần chỉ một màu đen.
 Mưa! mưa lớn lắm, những màn mưa khổng lồ trên đó che luôn cả ngọn núi cao, không còn thấy dạng. Tôi còn nghe tiếng sấm- sét trên đó vọng về. Rồi "cái sự kiện vĩ đại"nhất, tuổi thơ bọn tôi trong xóm mong đợi, trước sau gì cũng đến. Tiếng bọn tôi nghe như mừng rỡ kêu nhau, phá tan sự tĩnh lặng trong cái xóm thân yêu:



            Lụt!, lụt! bây ơi đi coi lụt!

    Tiếng mấy thằng bạn í- ới kêu nhau ngòai ngõ.

    Có gì thích cho bằng mỗi năm lũ bạn chúng tôi được dịp cùng nhau chạy về hướng bờ sông coi lụt.  Bọn chúng tôi sẽ được lội nước , được chứng kiến thỏa thích những gì ‘dữ tợn  nhất' của ‘ôn Trời ' dành cho một dòng sông và một thành phố nhỏ bé .

                                                     *

   

    Con đường Lê v Duyệt chẳng bao xa là đến giáp với đường bờ sông ngang cống của trại Quân Cụ là thông ra sông. Người đi coi lut khá đông. Dù mưa gió, ướt át nhưng người lớn con nít chi cũng ưa đi coi lụt. Thú vui với thiên nhiên không là cảnh nắng xuân hoa nở mà là cảnh mưa gió bão bùng. Thế mà ai cũng chạy ra khỏi nhà. Lụt về thì nước dâng, con sông thân yêu lại một lần nước lên cao.

 Giữa đường người ta râm ran hỏi nhau:

        - Lụt năm ni to hơn năm ngoái khôn hè?

       -To hơn chơ nị !

   Riêng bọn tôi cứ "cắm đầu, cắm cổ', cố chạy cho mau đến tận bờ sông, phía gần chùa Tỉnh Hội.

        -Ôi chao ơi! 

     Mới mấy tuần núp trong nhà 'tránh mưa, trốn gió' , giờ ra đây mới thấy giòng sông hiền lành đã biến đổi không biết lúc mô? Con sông nhỏ bé giờ đã hóa thành một biển nước đỏ ngầu? Nước 'mô trên rừng trên núi', từ Trường Sơn trùng trùng -điệp điệp, đổ về...

  Dòng nước rộng lớn, ùn ùn chảy về như vây khắp chốn.  Nước đỏ chảy xiết không bến, chẳng bờ. Bãi cát Nhan Biều bên tê, không còn dấu vết. Nước trên nguồn tràn về,  ‘hùng hổ', đỏ ngầu băng băng chảy. Lụt đã về. Nước chẳng cần biết bao nỗi âu lo của người hay ngay cả thú vui vô tư tuổi nhỏ là chi. Nước vẫn ‘cắm đầu, cắm cổ'  trôi nhanh về biển. Giữa dòng vô số xoáy nước, to nhỏ, quay cuồng xoắn tít. Rồi vô số lau lách, củi gỗ cứ thế mặc sức đua trôi theo dòng. Tôi ngẩn người ra coi, xem chừng dòng nước đục ngầu như chen chúc với rác củi, đua nhau trôi thật mau về với biển cả. Theo làn nước dữ, nhấp nhô mấy cấy gỗ mục. Nhà ai thật gan, dám vớt được cả đống củi “trời cho". Thuở này thiên hạ còn nấu ăn bằng củi. Gỗ rừng trôi về tấp cho một mớ vào bờ làm họ "mừng ơi là mừng".


    









Hướng lên Cầu Ga, tôi vẫn thấy hình ảnh chiếc cầu màu đen quen thuộc. Cầu vẫn đứng vững, nối nhịp hai bờ.

   -“ năm ni, chắc nước khôn vô chùa mô hè?"

    Một ông già đứng cất rớ, kiếm mớ cá nước lụt, ôn lo ngại nói với bọn tôi.  
  
   Tôi ngoảnh nhìn hướng cống chùa Tỉnh Hội QT, nước còn một chút nữa là đến cổng ‘Tam Quan’.  Bãi cát trước chùa thì hoàn toàn mất hẳn, nước đang mấp mé bờ đường. Cái Miệu Đôi tuy ngó ra sông nhưng cao hơn, nên chưa hề gì. Phía đâp “Rì Rì’ thì không còn thấy nữa, giòng lụt cắt ngang. Hướng Sải nay chỉ còn thấy hình dáng lũy tre mờ mờ, cong cong ...

    - biết tin chi dưới ‘nớ’ khôn? 

    Chẳng ai biết do lụt chặn. Chẳng ai dám liều băng mình qua giòng nước đang xé con đập, tràn vào nhánh con sông nhỏ chảy vào Vĩnh Định. Không ai qua được đoạn đập dài non cây số bị nước cắt ngang. Bờ tre phía Sải xa xa, như đang ' rướn mình chịu đựng, oằn oại, cố sức ngăn cản' giòng nước dữ đang xô đẩy, hất tung tất cả để xoáy vô làng.  Tuy biết lụt sẽ hết, nước sẽ rút dần, thế mà khoảng thời gian đó, không về được làng, không lên được Tỉnh, người ta xem chừng lâu quá, như "cả cuộc đời'. 

    Hai bờ lóng ngóng, những người kẹt lại trên này nhấp nhỏm chờ nước rút. Ai không liên can thì đi kiếm củi, rớ cá , hay mang 'tơi' đi xem lụt.  Riêng bọn nhỏ chúng tôi đi xem lụt mà không bị cấm thì cũng thật may, không gì 'khoái chí' cho bằng.   Tôi thích thú nhìn mấy con cá trắng nhảy long chong trong cái ‘rớ' ông già vừa cất lên. Ông rung rung cho mấy cọng rều rớt xuống nước, đùn mấy mấy chú cá trắng xuống tận đáy lưới. Buổi cất rớ của ông phần nhiều là cá 'lòng tong' nếu không muốn nói lái lại là  'long hội' ! Đôi lúc ông may mắn có vài con diếc 'ngu ngơ' đâu theo nước lụt trôi về, lọt vào lưới ông . Mùa lụt, cá diếc có trứng càng hay. Ông già vội hắt hết vào cái vợt nhỏ, xong ông bỏ cá vô cái oi bên thắt lưng. Tôi nhớ đến tô cháo cá diếc, trứng vàng hươm béo ngậy, mạ tôi thường nấu vào mùa này. Hình như mùa lũ cá diếc cũng tức trứng đi tìm nơi đẻ giống cá gáy. Tôi không hiểu lắm, nhưng con cá diếc mà to ra thì trông hơi giống con cá gáy. Đó là ý nghĩ của tôi ngày đó, chưa hẳn là đúng.


     cá diếc mùa lụt

    Xem chừng nước càng lúc càng dâng. Tôi nghe phía sau tiếng người kêu nhau í ới. Mấy con đường nhỏ trong xóm Heo. Người trong xóm bắt đầu lội nước.  Xóm Heo thấp hơn mặt đường nên nước lên mau, có nơi sâu ngang ngực. Xế trưa nước tràn lên đường.  Cống Quân Cụ trước mặt Ty Thú Y, giờ này nước đã tràn qua thật rồi. Vài con cá từ trong hồ, tôi không biết cá gì, như “bon chen” trườn mình theo làn nưóc lấp xấp trên mặt đường băng ngang để ra với sông.

  Thằng Mẹo, một đứa trong bọn tôi vắng đi một hồi không thấy hắn đâu? thì ra hắn đang hì hục kéo một nhánh phượng gãy thật to đem về nhà làm củi.

Cái thằng ! Ngó rứa’ mà thương nhà hắn dữ thiệt a , thật là thằng con có hiếu , đi chơi lụt hắn cũng không quên chuyện kiếm củi về cho mạ hắn.

   Bao thân cây rừng thật to đang nhấp nhô trôi giữa dòng nước chảy băng băng . Người ta xuýt xoa chỉ trỏ, ước chi nó tấp được vào bờ . Riêng tôi chẳng màng chi thứ viêc 'người lớn'; con nít chỉ một 'cái thú', đó là lội qua xong lội lại trên làn nước đang băng qua hai cái cống trước mặt Trại quân cụ và Ty Thú Y. Nước tràn qua mặt cống khá mạnh, vừa lội tôi vừa hồi hộp, tim đánh liên hồi sợ nước cuốn tôi về biển mất thôi?

     Lụt về đến đồng bằng thì trời lại ngưng mưa. Nhưng bao nhiêu nước trên nguồn dồn hết về đây. Bốn mặt hồ bao quanh thành, nước dâng cao tràn lên bốn con đường bao quanh. Nước tràn vào sông Vĩnh Định, ngập đồng ruộng An tiêm, Hạnh Hoa và luôn cả cánh đồng sau xóm Cửa Hậu.

một cảnh nơm cá ngoài đồng mùa lụt



   Đây cũng là dịp trong xóm tôi nghe chừng rộn ràng, ‘bát nháo’ vì cái chuyện đi ‘ nơm’ cá ngòai đồng. Hàng năm vào lúc lụt như thế, rất nhiều cá gáy theo cơn nước lên đồng tìm chổ đẻ trứng. Thỉnh thoảng chúng ‘tức trứng’ thi nhau quẫy cạnh mấy bụi cây còn nhô lên làn nước đục. Đứng xa thấy cá quẫy, dân trong xóm đua nhau cầm nơm, bươn bả nhào tới, tiếng la tiếng hét ôi 'loạn xị ngầu' vui quá đi thôi. Trên cánh đồng ngập nước phía sau phường Đệ Tứ, lúc này người ra nơm cá rất đông. Nước ngập quá bụng mà chẳng ai lo chi chuyện ướt lạnh. Thú vui 'trời cho', hào hứng trong mùa nước dâng, làm người nào cũng không còn biết lạnh.  Phía xa có ai dùng rựa chém một con gáy thật to; đằng kia có người  nơm được một con, mừng quá la toáng lên, bà con lao tới phụ bắt.


                                          
                          chèo bè chuối  

  Thằng Mẹo xóm trên, cái thằng coi bộ việc chi cũng rành. Hắn kết xong từ lúc nào cái bè chuối thật to. Vừa chống bè, hắn khoái chí kêu tôi cùng lên bè đi chơi với hắn. Tôi là thằng “nhát gan, thằng thỏ dế” làm chi dám nghĩ tới chuyện lên bè với hắn.

   Nghĩ cũng “tội ” cho cái xóm mới 'mọc lên' sau. Nhà họ sát cánh đồng, bìa ngoài xóm Hậu của tôi. Họ đang bị cái họa “ách nước tai trời” đày đọa .  Bà con phải đi tránh lụt, phải đi xin “ăn nhờ ở đậu” ít ngày tận xóm ngoài, tức mấy chục nóc nhà “ cố cựu” cạnh con đường nhựa, con đường Lê v Duyệt trước Cửa Lao Xá. Xóm ngoài này may mắn không bị nước lụt 'xâm lăng'. Dĩ nhiên, không ai nỡ lòng từ chối.

             Ai chà ! 

     Răng lại mong cái cảnh lụt lội như thế này mãi để chạy đi xem, đi chơi, đi lôi lụt trong lúc bà con sau xóm lại đang vất vả ngược xuôi khổ sở trăm bề? Thật ra thì chính “Ôn Trời” gây họa chứ ai vô đây? lũ con nít bọn tôi chỉ là '
vui  ké’ mà thôi. Cái nhà thằng Bốn bạn cùng lứa với tôi, ba hắn có xe đò QTrị- Huế. Năm trước, chú Ba -tức ba hắn- mới xây xong cái nhà ngói thật to sau xóm. Ba hắn bán nhà cũ ngoài đường mua đất sau đồng này có vườn tược rộng rãi vui thú tuổi già. Nền nhà thằng bạn ‘nối khố’ này xây lắm công phu và tốn kém rất ‘hung’ (nhiều). Cát đổ nền, ba hắn (xin lỗi, tức là chú hắn) thuê xe lấy tận bờ sông chở về, mất cả tháng trời mới xong. Nội cái nền không thôi đã cao hơn một mét thế thì làm chi có chuyện nước lụt làm ướt đồ đạc trong nhà hắn được. Xóm Hậu “Mới” này chỉ có nhà thằng Bốn không lo lụt thôi, chiếc xe hàng (xe khách) ba hắn (tôi lại quên nữa! của chú hắn) thì tạm thời ‘lánh nạn’ ngoài đường ‘quan’ tức là con đường nhựa Lê v Duyệt. Còn lại, đa số bà con ngoài này phần nhiều chạy giặc từ dưới làng lên ở tạm,  bởi thế nhà cửa mới tạm bợ, bấp bênh. Bà con dưới làng, mấy năm chạy lên, chạy về, tránh bom đạn.  Riết một hồi không biết làm chi ăn nên đành phải ở lại luôn.  Nhà cửa tạm bợ:  cái lợp tranh, cái lợp tôn, “lỏng chỏng, le te”. Vợ con gia đình, ăn theo đồng lương 'lính tráng', kiếm được đồng nào “xào đồng đó” nên vách nhà của họ thì tôn , ván ép Mỹ lung tung , tạm che gió lánh mưa mà thôi, cần chi cho đẹp. Nhà tạm dung thân, nên 'dựng vội - xây vàng' bên mé ruộng, bờ ao. Thế là những cái nền đất thấp lè tè; cơn lụt mới lên, nước đã 'liếm' tận vạt giường khiến bà con mất ăn bỏ ngủ...

   Lội bì bõm dò theo con ĐƯỜNG NGỰ, tôi thấy cánh đồng thân yêu giờ đã loang loáng nước. Nước phủ tràn trề, từ con sông Vĩnh Định chặng thôn An Tiêm mênh mông lan đến xóm Tiêu, xóm thằng Hiệp vươn đến xóm Hậu của bọn tôi rồi lan qua đến tận thôn Hạnh Hoa. Đứng mé xóm sau tôi thấy giờ tất cả chỉ là một màn nước đục giống một cái đầm vĩ đại mà Ôn Trời sau một đêm đã tạo một “ cảnh biển dâu” như thế.

hình ảnh năm 2012 cho thấy ĐƯỜNG NGỰ nhà đã xây lấp mất--có chỉ mũi tên thẳng đứng  --nền nhà của DHL ở cho đến 1972 là địa điểm nay la` cái nhà lầu 3 tầng- cạnh mũi tên  
từ cổng thành ngó ra này đã bị cư dân mới xây nhà cửa bít hết không còn nhìn ra được nữa  


cổng thành CỬA HẬU tức cửa Lao Xá còn được một tàn tích ở giữa còn hai bên và cống đi vô đều được xây lại mới sau 1975 (hình chụp năm 2012)

  Những làn sóng trên cánh đồng sau xóm chúng tôi chỉ nhỏ lao xao, nước đục ngầu. Theo làn gió nhẹ văng vẳng tiếng bà con đi nơm cá kêu nhau, loáng thoáng vài con chim nhạn bay lướt qua mặt nước. Thạch Hãn lụt về, cái vòng mưa lụt vẫn trở lại hàng năm đã an bài lên đôi vai gầy người dân Quảng Trị. Đông về gió thét mưa gầm, bao con đò bập bềnh bên con nước lũ.

 Người đi để lại phía sau, hình ảnh quê hương của nắng cháy da người, mưa dầm thối đất. Nhưng cứ độ lụt về Quảng Trị, ai ở xa chi mấy cũng hỏi thăm quê cũ vài câu. Bao kỷ niệm nhạt nhòa của người xa xứ; nhưng người xa quê lòng luôn nhớ về dòng sông kỷ niệm. Thương quá ngày xưa, một quá khứ êm đềm nay mãi ra đi không còn trở lại ./.

ĐHL 
edition 26/2/2023 

CHÚ NGHẸC BÊN CHÙA SẮC TỨ



=

lạ thật, mỗi khi qua Chùa Sắc Tứ thăm mệ ngoại, tôi hay thấy chú Nghẹc? Thầy trụ trì Thích Ân Cần, mấy chú tiểu tu cùng bà ngoại tôi kêu chú cái tên là Nghẹc nên người viết mới nhớ hoài cái tên đó.


Bỗng nhiên hôm nay trên trang Facebook có người còn nhắc đến một người có tên Ngạc khiến tôi phải nhắc đôi ba dòng về chú Nghẹc để người đọc khỏi lầm chú Ngạc với chú Nghẹc. Tôi khó quên cái tên Nghẹc do nó vừa nghe 'ngồ ngộ'mỗi lúc có dịp qua Chùa.


di ảnh bà ngoại tác giả lúc làm bà vãi tại chùa Sắc Tứ trước 1972


Không biết Nghẹc giữ bò nhà hay bò nhà ai sau Thôn Ái Tử? Một con bê hay hai ba con bò to vừa là bầy bò của chú Nghẹc hàng ngày chú giữ. Chú bị tật nguyền từ thưở lọt lòng chứ không thương tật gì? Hai cánh tay co quắp. Đầu chú luôn nhúc nhích, ngoẹo qua một bên. Điều khó quên nhất, do miệng chú luôn luôn sùi nước bọt. Từ cổ họng luôn phát ra tiếng nói nhưng chẳng ra tiếng gì?


    Tội cho chú, có thể Nghẹc muốn nói nhiều lắm. Nhưng oan nghiệt thay cho số phận. Đó là lý do chú luôn ọ ẹ và phun phì phì. Nước dãi cứ ra liên tục đó là nguyên nhân làm miệng chú luôn lỡ lói trông quá tội nghiệp. Nỗi thống khổ của Nghẹc nếu muốn nói ra cho tỉ mỉ thì chúng ta có thể nghe bạn đồng môn cùng phường cùng thôn là Bảo Lâm. 


Bạn Bảo Lâm diễn tả như sau, đọc mới thương xót cho chú biết chừng nào...


"Cứ mỗi khi chùa tỉnh hội có lễ lớn là thấy chú Nghẹc ( Hai Lua Đinh viết đúng rồi ). Chú đi rất khó khăn, hai bàn chân xòe ra kiểu Charlot, còn tay cũng nâng lên hở nách , bàn tay ngón tay cong cứng , đầu nghẹo qua một bên , lưỡi hay lè ra , nói ú ớ nước dãi chảy cả khóe môi , nhìn thấy rất tội , có khi chú mặc cả bộ đồ lam của những người hay đi chùa!"



một quân nhân Mỹ ngoài căn cứ Ái tử vào thăm chùa 


Tội nghiệp cho Chú Nghẹc thật ! 


    Ngó vậy nhưng chú năng vào chùa. Chú chự bò, nghĩa là cơ hội cho chú qua “tu” với Chùa Sắc Tứ. Không những người viết mà nhiều đạo hữu đều thấy và nhớ hình ảnh Chú vào ngồi bên cái Đại Hồng Chung đánh chuông giúp chùa. Tiếng chuông công phu của Chú ai nghe trong lòng đều cảm động. Chú Nghẹc không nói được nhưng đánh chuông đều đặn lắm. Tiếng chuông chùa lúc này tôi nghe sao trầm buồn lan xa khắp lan tỏa ra một vùng thôn làng vắng vẻ. Có cơ hội viếng Chùa Sắc Tứ, có dịp nghe chuông công phu của kẻ tật nguyền đó là lúc lòng người trầm lắng và thương cảm. Trong chánh điện, pho tượng Phật bằng đồng, tọa vị trên cao như đồng cảm cho một số phận không may.


 Bà Ngoại tôi và mấy chú tu trong chùa, ai cũng thương Chú. Không ai hẹp hòi gì khi Chú vào nhà trai kiếm vài chút cơm chay. Có cái hay Nghẹc chẳng phá phách hay làm mất lòng ai. Chú không nói nên lời nào cả, ngoại trừ ba cái điệu bộ ngúc ngoắc một cách tật nguyền. Khách thập phương, ai qua thăm Sắc Tứ Tịnh Quang Tự  đều nhớ đến Chú.




Có khi Nghẹc ra ngồi gần Đài Quan Thế Âm, ngôi tượng mới xây xong. Chú ngồi đó cạnh cái hồ bông sen bông sún; vài con cá rô phi lượn lờ dưới mặt nước cạn trong veo. Chú nhìn cuộc đời trôi dần bên ngôi chùa và một thôn làng đìu hiu. Tôi không biết luc này Nghẹc vui hay buồn? Đố ai biết chú có biết cảm giác vui buồn nào chăng? Nhưng tôi mong rằng những bãi cát trắng trước Chùa, tiếng hàng dương vi vu theo gió ban trưa xen lẫn những hồi sơn ca lảnh lót có thể là niềm vui cho một kiếp người bất hạnh có tên là Nghẹc cũng nên?


Thế rồi khói lửa chiến tranh năm 1972 ập đến, người Quảng Trị tứ tán khắp nơi. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang đổ nát. Từ đó kẻ ra đi không ai còn nhớ còn nghe lại cái tên Chú Ngẹc nữa./.


ĐHL 13/3/2019


DOMINO SỤP ĐỔ KINH TẾ CSVN TỪ BONG BÓNG BẤT ĐỘNG SẢN

THẤT NGHIỆP LAN TRÀN  SỰ ĐAU KHỔ TỘT CÙNG ĐỐI VỚI LỚP CÔNG NHÂN THẤT NGHIỆP THÀNH PHỐ -TIỀN NHÀ -CON CÁI ĐANG ĐI HỌC -TIỀN ĂN  KHÔNG PHẢI AI...