Saturday, June 17, 2023

KHÓM MÍA SAU HÈ


bà xã và khóm mía hôm nay xứ Mỹ 2017

                                                                          *

   Bạn đọc ắt sẽ phì cười khi thấy tôi qua xứ Mỹ rồi sao lại trồng mía làm chi? Ấy thế khi tôi trồng mía lớn rồi tôi vẫn ép mía ra uống chơi. Con trai tôi lại sắm cho cái máy ép hẳn hoi. Chuyện này ai nghe cũng thích do câu chuyện ngồ ngộ vui tai làm sao. Lý do ở đây ăn uống đồ ngọt nhiều ai cũng sợ chứng "cao đường".

 Người viết có lý do khá riêng để trồng khóm mía lau này. Trồng khóm mía sau hè đôi lúc tôi có những ý thích tự lý thú cho mình. Thưa bạn, có khi trở mình trong đêm những lúc cửa sổ còn hé, tôi nghe tiếng lá mía xào xạc, âm thanh trong đêm đưa tôi nhớ về mái tranh nghèo năm cũ.  Hơn hai mươi lăm năm xa quê, xa miền thôn dã rẫy nương. Tiếng mưa trong đêm, tiếng gió hú, ngàn cây nội cỏ âm vang mái thảo trang rung rinh trong giông tố bão bùng...ôi bao âm thanh đó làm sao tôi quên được...



     Ra tù, tôi được cho về Hàm Tân. Cái tên Động Đền người Quảng trị "Di DÂn Lập Ấp" Bình Tuy 1973 ai cũng biết. Động Đền là một địa danh , không là tên của thôn hay xã nào cả.

  Những mái nhà tranh nằm gọn giữa những vồng khoai, sắn. Những khoảng cát trắng, vài miếng ruộng hiếm hoi. Họa hoằn có vài mái nhà tôn xi măng [*]; đó là hình ảnh của một 'Động Đền'   sau 1975.


một tấm tôn XI MĂNG từ thời 'di dân lập ấp 1973' sót lại này thưng che gió nấu bếp

  Nhà tôi có thêm 'lợi tức'. Hai chữ "lợi tức"  nghe sao lớn? thật ra là kiếm được thêm vài đồng bạc 'mắm muối' nhờ vào vạt mía lau sau hè.



   Khi tôi ra trại về nhà thì vạt mía lau này đã rậm rồi. Mấy đứa em tôi trồng vào thuở 'thanh niên xung phong'[**]  Vạt mía mọc chi chít. Những thân mía sao "ốm o", dài cong queo , nằm xen trong bao lá khô, rậm.

Thế mà mạ tôi kiếm ra tiền mới lạ?


 Trước kia người mình ăn mía, nhai mía; nhưng là mía mừng chứ đâu phải mía lau. Những đốt mía mừng to, bậm, róc vỏ xong, nhai mềm ngọt lịm. Nước mía thơm ứa ra trong từng kẻ răng cho người ăn đỡ cơn khát, mùa hè Quảng trị một thời. 


Giờ về đây, Động Đền, dân mình mua từng đốt mía lau, cứng ngắt, nhai đỡ 'thèm chất ngọt'. Mía lau rất cứng, chỉ để ép ra nấu đường thôi. Cứng, mẻ răng, đứt lưỡi làm sao ăn được? Nhưng tất cả đều là tiền, là chút lợi tức chắt chiu như từng bó rau heo, mớ khoai vụn một thời khốn khó cho bà con ở đây , hình ảnh nay tôi vẫn còn nhớ mãi.   



                                           mía mừng

   Mà lạ, tại sao người ta không trồng mía mừng vào lúc này? theo tôi do đất đai hiếm hoi khi nhìn những miếng ruộng cỏn con như trồng 'làm cảnh' thì đất đai trồng mía ăn chơi, 'phí' quá thôi. 

  Một thời sắn khoai thay gạo. Bột khoai , bột sắn là những 'dinh dưỡng cao cấp' . Vạt mía lau sau nhà, dùng để giữ làn nước dữ sau cái đê cát thủy lợi. Tôi nhớ sao hình ảnh những trận mưa xối xả trong màn trời giông tố. Bao làn nước từ dốc Sơn Mỹ 'hồng hộc' tràn về thôn tôi, ập vào nhà tôi, tràn vào nền đất, xô rào rạo cái vách lá...




  Những đồng bạc hiếm hoi kiếm được từ những đốt mía lau, 'ốm o' khô đét như nhánh nè , nằm cạnh gánh hàng của mạ tôi trong buổi chợ quê.  Mạ tôi chắt chiu mua thêm con cá, hay lon gạo đó là những gì nâng niu trân quý cho từng tấc vườn, từng gốc cây ổi, cây xoài.  Ngay bụi mía lau sau hè tưởng chừng hoang dại; nhưng lại là từng đồng bạc, từng lon gạo kiếm thêm.


Tôi thuơng về kỷ niệm Động Đền, một thời khốn khó. Hình ảnh mãi ghi trong tim tôi là hình ảnh một mái nhà những mái lá lưu dân Quảng tri trong đó có nhà tôi. Tôi còn thuơng sự dễ dãi, xuề xòa người xóm tôi, ăn mía lau mà quên đi đốt mía mừng ngọt mềm, ngày trước.


  Ôi thời gian! mới đó mà mấy mươi năm lao qua nhanh lúc nào chẳng hay? Con đường thôn xưa um tùm cỏ dại cùng bao vạt mía lau của xứ Động Đền nay đà mất dấu. Mấy đám mía trong xóm nhà tôi nay biến thành những vườn điều cùng những ngôi nhà xây mới. Thời này, lò ép đường thô sơ các xã lân cận nay cũng không còn. Đời sống vật chất thời nay đã thay đổi rất nhiều. Những loại đường trắng tinh khôi nhập từ nước ngoài đã thay thế phần nhiều những bánh đường đen thô sơ mộc mạc. Dù sao chăng nữa, có thể nơi nào đó còn trồng mía lau đễ cung cấp cho những xe nước mía thành phố. Đất đai bây giờ tiền muôn bạc tỷ chắc không còn thừa mứa để trồng những loại cây như vậy.


                 lối xóm cạnh nhà mẹ tôi hôm nay (tết Đinh Dậu 2017)

Hôm nay vợ chồng tôi về, đường sá thênh thang, phố phường mở rộng. Lối cát nay mất dấu chân xưa. Lồng lộng trong gió biển Hàm Tân một thời phi lao vi vu hát, làm tôi nhớ thuơng đám mía lau mộc mạc ngày đó biết bao./.


ĐHL 1/8/2015 

27/11/2022

====================== 


BÔ BÔ đứa cháu ngoại sau vườn nhà tôi  
Toyon Avenue San Jose 
 2018




=========================













nước mía tự tay tôi ép


tại nhà Ngoại VN (2017) tôn xi măng thời di dân vào Bình Tuy chỉ còn dấu vết vài miếng dùng làm ngăn gió nấu bếp sau nhà


tôn xi măng: là loại tôn ép cấp phát cho hàng ngàn gia đình QT DI DÂN LẬP ẤP 1973. Sau 1975 chính quyền mới quyết định cho dân QT tại Bình Tuy Động đền đi Kinh Tế Mới 1977 vào Bạc Liêu hay những nơi khác , được tháo dỡ nhà cửa đi theo , nên số nhà tôn xi măng này ít đi . Vào thập niên 1980 ở vùng Động Đền hay trên dốc Sơn Mỹ Tân thắng, những gia đình có lợp tôn xi măng, sườn nhà gỗ , vách ván thuộc loại khá giả, nếu có thêm con bò kéo thì lại là 'giàu' ...

[**]: sau này lập gia đình, vợ tôi kể lại giống mía lau xuất xứ từ nhà vợ tôi bên xóm, các em tôi qua xin về làm giống.

Friday, June 16, 2023

QUẢNG TRỊ MÙA HÈ RA ĐI



RA ĐI

Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.
Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi. 

Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.

Thôi đành phải ra đi!




Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

Người Phố Quảng dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.

Huế dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?


Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê nhà ai mà không đứt từng khúc ruột.



học trò chiến nạn Quảng Trị tại Đà Nẵng 1973


 Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm  thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại? Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.


                            NGƯỜI QT RA ĐI KHẨN HOANG LẬP ẤP BÌNH TUY 1973


Những thanh âm, tiếng nói, người ra đi mang theo hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương thứ hai. Lạ thật? người Quảng Trị vẫn giữ được những phong cách cùng bản ngữ nghe sao tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể góc hai kẻ xa lạ chợt nhận ra nhau thoáng nghe qua giọng nói. Ấm nồng quê hương tìm lại, bất chợt trong phút giây qua một thoáng âm thanh, tuy ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.

Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.

Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối tiếp thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn tiếp nối hoài bão của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.

ĐHL  EDIT 

2/10/2021

Thursday, June 15, 2023

BÁNH KHOÁI CỬA THƯỢNG TỨ MỘT NGÀY XƯA RẤT HUẾ

 

BÁNH KHOÁI THUỢNG TỨ 


Chào bạn đọc
Người viết muốn dùng và đặt tên lại tiêu đề bài viết đã lâu về Bánh Khoái Thượng Tứ "MỘT NGÀY XƯA RẤT HUẾ"  do chủ ý về rất Huế ngày xưa, thực sự lâu rồi. Bạn đọc có thể thắc mắc tại sao ngày đó "rất Huế" là ở chỗ nào?
Đó là lúc sự pha trộn 3 miền chưa hỗn độn như hôm nay. Người ta có thể đem món ăn ngày xưa ghép vào món ăn hôm nay và gán cho nó cái tên một thuở xa xưa là "BÁNH KHOÁI THƯỢNG TỨ" nhưng nếu không lầm thì nếu ai đã từng ăn bánh khoái ngày xưa ngay tại địa điểm này thì mới thấy thời gian và cuộc thế thay đổi đã làm biến đổi rất nhiều thứ chứ không riêng gì một "bánh khoái" không thôi.



Chiều nay mưa trên phố Huế
Kiếp giang hồ không bến đợi
Mà mưa sao vẫn rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai! 
(nhạc)


  Trước khi vô cửa Thượng Tứ,(thời gian tui kể thuộc đầu thập niên 1970) bên tay phải tui nhớ có tiệm bánh khoái Lạc Thiện mà người ta muốn chắc địa chỉ nên gọi là bánh khoái cửa Thượng Tứ hay gọn lại là "Bánh Khoái Thượng Tứ". Thiên hạ gọi riết thành quen miệng nên quán Lạc Thiện đành chịu cái tên đó luôn.


           Cửa Thượng Tứ thời xưa Pháp thuộc

   Trong Nam người ta gọi bánh xèo (có lẽ vì đổ bột lên khuôn kêu cái "xèo" thì phải?). Có những chuyện tui ưa nhắc lại khi xưa đi ăn bánh khoái Thượng Tứ. Còn chữ khoái có người nói nguyên thủy là "khói" nhưng giọng Huế đọc trại đi là "khoái" ,gọi riết thì thành viết ra cũng như nói tức là khoái, nhưng chuyện này không có bằng chứng vì biết đâu do bánh ăn ngon quá, khoái miệng quá nên "khoái" cũng nên. Ai mà biết nguồn cơn cái tên nhưng dù sao Bánh Khoái Thượng Tứ  một thời gian trước 1975 khách rành ăn từ Quảng Trị vô đến Huế, ít người mà không biết.

     bước  lang thang chiều mưa phố Huế,  những đôi tình nhân  nếu có vô cửa Thuợng Tứ bạn đừng quên ghé quán bánh khoái Lạc Thiện
 
Bây giờ tui bắt đầu kể chuyện ăn "bánh Khoái" ra răng. Người kể cũng xin thưa rằng vô Huế coi phim hay ở lại Tây Lộc. Ra Cửa Thượng Tứ hay từ rạp xi nê Hưng Đạo trước khi vô cửa Thượng Tứ đều có ghé Lạc Thiện ăn hai ba cái mới có cơ hội kể lại cho bạn đọc "ăn hàm thụ" chơi đỡ buồn...

  Bánh khoái Thượng Tứ khách vô ăn kêu từng cái một, nhiều lắm là hai cái cho khỏi mất công đợi. Mấy cái lò than luôn hừng hực nóng. O đổ bánh đổ bột lên cái khuôn, nói đúng là cái chảo nhỏ đường kính khoảng gang tay và bằng phần đáy. Vài con tôm sông không lột vỏ, chỉ cắt phần đầu cùng chân thôi. Tôm sông chưa lột vỏ nó có cái đặc biệt còn giữ mãi vị ngọt của nó, hơn nữa vỏ nó mềm hơn tôm biển. Một ít lát thịt heo ba chỉ nửa nạc nửa mỡ , một nhúm giá còn "mum múp" , nghĩa là chưa mọc dài quá. Bột đổ bánh thì bằng bột gạo ruộng không pha, có một ít bột nghệ cho vàng hay phẩm vàng cho đẹp mắt cùng hấp dẩn hơn.

  Chảo nhỏ đổ bánh phải thật nóng mới đổ bánh. Một loạt sáu bảy cái lò than thế mà O đổ bánh làm thiệt nhịp nhàng không sai sót, không lộn hướng chút mô. O nhớ lần lượt theo từng khách gọi mới hay chớ !

   Coi bộ cái bánh khoái đã vàng tới, O giở nắp , O lật úp cái bánh theo dạng gấp đôi gọn gàng vào cái dĩa cũng không lớn lắm. Dĩ nhiên tui kêu 2 cái cũng được , nhưng vì muốn bánh khi nào cũng nóng nên tui kêu từ từ thôi.

   Chừ tui nói đến món rau sống. Người Huế không ưa xà lách cắt nhỏ ra mô! Rau sống phải là cải non mới vài ba lá , loại cải cay con .  Hương cải cay này nếu lớn thì làm dưa chua thì hết sẩy đó nghe ! Rau sống thì phải có khế chua không xanh quá cắt mỏng. Đặc biệt khi mô cũng có mấy lát vả. 

  
    Dân Huế ưa trồng cây vả lắm. Thứ vả này trên chùa Linh mụ , bên hông chùa có mấy cây sum xuê trái , không biết chừ còn không? A , còn ít rau thơm nhưng không phải rau húng lủi mô. Còn chi nữa hè? Một ít băp chuối sứ cắt mỏng nữa chớ nhưng thứ này không bắt buộc (ngoại trừ tiết canh ). Chỉ có trong Nam hay trộn giá nhưng rau sống ở đây không trộn giá mô vì có ở trong bánh rồi, hơn nữa giá làm cho vị nó thêm lạt( vì giá có nhiều nước ). Người Huế hay dùng giá làm dưa chua ăn kẹp thịt heo ba chỉ luộc chắm nước mắm thôi.

   Tiếp tục tui xin nói về nước chắm tức là "nước lèo". Trong Nam lại kêu nước súp phở thì là nước lèo. Nước lèo ăn bánh khoái không phải nước mắm chua ngọt như ăn bánh xèo trong Nam. Nước lèo này làm bằng đậu phụng xay ra kho lại với đường mỡ gia vị tạo thành nước chắm sền sệt.

   Bỏ một nhúm rau sống vào chén, tui lấy đũa chắn một miếng bánh khoái đang còn giòn vào  xong tui chan một chút nước lèo . Khi đang nhai "nhồm nhòam ", tui không quên cắn một miếng ớt chìa vôi còn xanh vỏ , một chút tỏi từ cái dĩa nhỏ xíu cạnh bên.

   Hồi ni tui có thể kêu bia "la dze" [La Rue] con cọp hay bia 33 con cọp nhỏ và ngon hơn. Sau này có Mỹ qua tui có thể kêu 1 lon bia bông trắng tức là Budweiser hay bia HAM. Nhưng nhìn quanh tui thấy thiên hạ ưng bia "la dze" con cọp "made in Cholon" hơn nhiều hơn  mới lạ chớ !


     - O..o .cho thêm một cái nữa O ơi !


Dạ..

(ham kể chuyện tui quên kêu thêm !!!)

    Tui còn nhớ hồi đó có hai vợ chồng ông Tây nào đó ghiền bánh khoái Thượng Tứ ni lắm , khi nào tui vô ăn cũng gặp. Quán Lạc Thiện nhỏ bé khi mô cũng chật ních người. Thường thường giấc chiều là đông khách hơn hết. Có lẽ ban sáng dân phố Huế có ăn bún gánh , buổi chiều xem phim rạp Hưng Đạo gần đó khách vô ăn tiện hơn chăng?

Bánh của tui có chưa O?


Dạ có đây chú...

   Tiếng O đổ bánh khoái nhanh nhảu trả lời.



                         Quán Lạc Thiện hôm nay

   Đó là âm thanh và hình ảnh ngày xưa. Giờ nó nằm trong ký ức xa xôi. Bữa ni tui nghe quán bánh khoái đó vẫn còn , thời gian phôi pha không biết người chủ cũ còn không và có thể thiên hạ quen "biên chế" quá nhiều nên tui sợ hương vị bánh khoái Thượng Tứ có phần khác xưa chăng?

ĐINH HOA LƯ
21/7/2010

Wednesday, June 14, 2023

QUÁN TIẾT CANH MỤ THẦY CỬA TẢ QUẢNG TRỊ

 thưa bạn đọc nhất là bạn ghiền tiết canh 

Chuyện tô tiết canh có gì lạ đâu sao mà nhắc mãi, nhưng thưa bạn đây là tô tiết canh Cửa Tả ngày xưa. Quán tiết canh này nằm cạnh bờ hồ con đường Duy Tân gần Cửa Tả (thành cổ) có thể quán ngó qua đường là Cột Điện số 192 cũng nên. Cái quán có cái tên là "Tiết canh Mụ Thầy". Dĩ nhiên đây là cái tên truyền miệng cho nhau cho thực khách vào thuở đó chứ đâu có bảng hiệu gì cả.

Lâu nay, người viết hay kể về chuyện “ăn hàng” ngày xưa, nhưng xin bạn đọc hiểu cho qua chuyện “ăn hàng” là một dịp cho người viết nhắc chuyện xưa. Có bạn đọc trước đây có chút hài hước khi cho rằng tôi nhờ có một "tâm hồn ăn uống" nên hay kể lại chuyện ẩm thực ngày trước? Từ Phở Gánh, Bánh Khoái, Bún Xáo, chè cháo gì người viết từng có dịp nhắc lại...

 Khách quan so sánh với bây giờ, thì hàng ăn thời này phong phú hơn xưa nhiều lắm.  Thế nhưng người viết lại nghĩ rằng khó lòng tìm lại huơng vị y ngày xưa? Rồi cũng vì cái lý do “ khó lòng tìm lại huơng vị  y ngày xưa” nên tác giả mới viết lại năm ba câu chuyện ăn hàng Quảng Trị ngày trước để bạn đọc lần lượt xem chơi...

THỜI NAY ĂN HÀNG TUY  THỪA MÀ 'THIẾU

Quý bạn sẽ hỏi tại sao vậy?

Món ăn thời nay có thể do hoàn cảnh thông thương nên ba miền đi lại quá  dễ dàng và nhanh chóng. Người từ đâu tới cũng 'vỗ ngực' xưng danh là món ăn "đặc sản địa phương". Đối tượng của chủ hàng là số lượng khách hàng và họ chẳng cần tìm tòi nguồn gốc hỏi các mệ các o công thức và gia liệu ra sao? Đó là nguồn gốc của các món ăn hàng 'truyền thống' bị 'lai căng'  bị pha chế, khó có tính đặc thù từng nơi. Đó là chưa kể thời nay, tính thuơng mãi, cạnh tranh, chụp giựt hay  vì lợi nhuận đã pha trộn, nhầm lẫn khá nhiều nét bản sắc từng món ăn địa phương hay vùng.

    Viết như thế, người viết e rằng quá dài dòng và đi xa chủ đề của bài ký ức hôm nay chăng? Thế nên tác giả xin trở lại tiêu đề là  TIẾT CANH CỦA "MỤ THẦY" CỬA TẢ hơn nửa thế kỷ trước bên con đường Duy Tân kế cận Cửa Tả Thành Cổ QT xưa.


ĐHL 

 


TÔ TIẾT CANH “MỤ THẦY”

 

           *            

                  

   Tôi hay nhắc về Quảng Trị,  bao "đường xưa lối cũ"  từ phường Đệ Nhất đến phường Đệ Tứ,  nơi 'chôn nhau cắt rốn' của tôi (và bạn bè khác). Con đường Lê văn Duyệt và xóm Cửa Hậu yêu dấu. Có thể bạn bè tôi có đứa 'hơi buồn'  sao vắng thấy con đường Duy Tân ngày ngày bạn bè cắp vở đi ngang.

                 KHÔNG ẢNH THỊ XÃ QUẢNG TRỊ 1968 

  Hết đường Lê văn Duyệt, ngã Ba về Trí Bưu- Ba Bến. Nhưng nếu quý bạn quẹo phải thì là bắt đầu con đường Duy Tân đó rồi. Ngả ba này có gì đặc biệt ? Đó là nhà Hộ sinh O Hóa kèm theo là Viện Mồ Côi sát Trại Tế Bần. Nơi đây sát mé hồ Thành  có có một lò rèn của Ông Xạo bị thương tật ở lỗ mũi nền nhà thấp sâu so với con đường. Ở xóm này có bác Hoàng Lem (phía đường Lê v Duyệt thì có lò rèn ông Hoàng Kiểu, cùng họ Hoàng cả). Nhưng ngay Ngả ba Trí Bưu này có nhà ông Quản Hiệt, ngó về Đường Lê V Duyệt. Chức Quản thì phải là thuợng sĩ thời Pháp. 

Tạm coi đây là múi đường Duy Tân cũng là Phường Đệ Tam. Phường Đệ Tam nay phải kể từ nhà Hộ Sinh O Hóa đi về hướng trường Nguyễn Hoàng. Tại sao Nhà O Hóa thuộc về Đệ Tam: lý do trong giấy khai sinh của tôi tờ khai sinh chính gốc VNCH đề nơi sinh của tôi tại Nhà O Hóa là PHƯỜNG ĐỆ TAM.  Ngay ngã ba này có một quán tạp hóa thật lớn nhưng mở sau cùng, người ở Góc Bầu  ngày đó khó lòng quên được. Từ Ba Bến hay hướng Triệu Tài Ngô Xá hay lên lấy hàng ở mấy quán tạp hóa này.

 

   Tôi 'có tật' hay miên man lạc đề mãi?

  Nói "Tiết canh Mụ Thầy" sao chẳng thấy? nhập đề lung tung? xin bạn đọc khoan vội trách. Rạch ròi, phải có đầu- đuôi, nghĩa là người viết mong 'một công hai chuyện' nhắc lại con đường Duy Tân cũ hi vọng các bạn đường Duy Tân khỏi buồn lòng  sao hay 'thiên vị' chỉ ưu tiên cho con đường Lê v Duyệt đó thôi. Từ ngã ba Duy Tân -Lê v Duyệt- Trí Bưu này đi lên huớng trường Nguyễn Hoàng một đổi, khúc đây tới nhà Lê Bảo Lâm, chủ trang mạng Đông Môn Nguyễn Hoàng khá gần. Vượt qua nhà thợ rèn ông Hoàng Lem bên trái, và quán tạp hoá Mụ Kỳ bên phải, kế mụ Kỳ là chú Trịnh ,theo mé phải nàytức men theo bờ hồ  lên vài ba nhà nữa sẽ tới nhà Mụ Thầy mà người viết sắp kể.


    Đây là dãy nhà phía bờ hồ còn phía bên kia đường còn nhiều điểm đặc biệt như lò rèn họ Hoàng lập nghiệp  khá lâu. Lên một đoạn nữa mới tới xóm nhà Võ văn Khiến, a Võ Lưu, Võ Nhơn, Lê Mỹ Tín...Mỹ Tín còn có cái tên 'cúng cơm' là mệ Lợi. Từ xóm nhà các bạn học đó  kiệt ngó qua đường là Tiết Canh Mụ Thầy. 


   Người viết cũng xin mở ngoặc một ít ở đây rằng tại sao gọi là Mụ Thầy? Bác ông không làm thầy dạy học mà làm nghề thầy cúng, còn gọi là thầy tụng kinh, tạm gọi bác là 'tu tại gia' nên bác mụ mới được bà con gọi là Mụ Thầy. Hồi này Quảng trị cũng có vài ba vị tu tại gia vừa làm nghề thầy tụng nữa chứ không riêng gì bác ông đây. Người viết còn nhớ dưới Sãi (hay An Tiêm) có thầy Mè cũng tu tại gia hay đi tụng kinh gỏ mõ khi gia đình nào cần cầu an cầu siêu.  thầy cũng bận áo đà, cạo đầu nhưng tu tại gia thôi. Người QT gọi tiếng Mụ là ý thân quen, tôn xưng chứ không dám coi thuờng. Chữ Mụ vào nam hay ngay cả Huế thì người ta không ưa. Người QT nếu tôi không lầm, ngang hàng với mệ mình thì gọi là tiếng mụ chứ không gọi là mệ. Còn người Huế tiếng mệ- các mệ lại khác nữa.


 Khoảng từ hai giờ chiều là bắt đầu có tiết canh. Tại sao hai giờ chiều mới có ? Bữa sáng bác mụ đi lấy lòng huyết và những thứ khác về; làm đến trưa, khoảng hai giờ chiều tiết canh mới đông và khách ăn chiều cũng vừa lục tục tới. Khách đa phần là công chức, bữa chiều bắt đầu rãnh việc. Tôi là đứa học trò thuộc loại 'ăn hàng' nên mới có cơ hội mục kích để giờ đây 'cà kê dê ngỗng' online với thân hữu. Nói về tiết canh, thì người ta kêu 'dĩa tiết canh', nhưng ở đây bác mụ làm tiết canh vào tô tức là 'tô tiết canh'. Những cái tô ngày xưa, miệng rộng, đáy hẹp được đặt từng hàng trong cái tủ gác măng giê (guard manger) có lưới hẳn hòi. Những lát gan béo ngậy bác mụ sắp sẵn trên mặt tô. Có khách kêu, mặt tô mới được rắc thêm đậu phụng rang. Bánh tráng gạo giòn rụm, chén nước lèo gừng nho nhỏ bên cạnh, đặc biệt dĩa rau sống tươi mát đủ loại, nhất là rau thơm và báp chuối không bao giờ bác thiếu. 


  Xin đừng cho tiết canh chỉ 'ròng huyết'; khách ăn sẽ thấy dưới mấy lát gan vừa luộc xong , cắt mỏng , là hỗn hợp lòng ngon cắt mịn', rau màu , gia vị đậm đà xen lẫn với những sợi huyết đang đúc kết, quyện dính lại nhau để cho thực khách một tô tiết cạnh ngon 'ngậm mà nghe' đúng với tiếng khen của người Quảng trị. Đó là kết quả của tài sự khéo léo riêng nếu không thì tiết canh 'không đông' nhưng khi 'không đông' thì xem như hỏng việc, không thể gọi nó là món tiết canh được nữa . Người làm chú trọng tiết canh không phải là nhiều hay ít huyết,  mà là cách thức pha chế huyết sao cho đông, huyết chỉ là một chất đệm hay chất xúc tác thôi. 

   Phong cách ăn tiết canh ngày đó khác xa giờ. Người QT hồi đó ăn tiết canh không cầm tô tiết canh lên lấy muỗng múc ăn như 'ăn cháo' mà cách ăn hồi đó tôi xin được vô hai chữ "thuởng thức"!

Tại sao mà "thưởng thức"?

 Tô tiết canh kêu xong, chờ đầy đủ mọi thứ, khách sẽ xắn được từng miếng bỏ vào chén rau sống, bóp ít bánh tráng, chan thêm góc muỗng cà phê nước lèo gừng mới 'thấm'... 


   Sự quyện lẫn giữa thanh tao tươi mát- huơng thơm các loại rau - với vị bùi, béo, ngọt đậm đà của miếng tiết canh thêm vào đó là vị cay thơm của tỏi ớt, trồng trên đất QT. Khách ăn còn phân biệt được  cảm giác 'giòn giòn' của bánh tráng cùng vị béo đậm của hạt đậu phụng vừa nát. Đó rõ ràng là một 'tập hợp' giữa hương vị và cái ngon của tô tiết canh, nó sẽ cho thực khách thuởng thức  phân biệt thế nào là 'tiết canh Mụ Thầy'. Khách thưởng thức chớ bao giờ quên cái dĩa nhỏ ớt tươi, tỏi cùng gừng rong nhỏ. Tuy nhỏ nhặt nhưng thực khách rất cần nó.


                                     ***


     Người ta kêu bia lon của Mỹ cũng có, nhưng Mụ Thầy có bán thêm  rượu thuốc , rượu trắng . Các bác, các chú ăn hàng chiều thuờng tới quán này để thuởng thức tiết canh là chính. Cảnh ngồi nhậu 'tới bến' như sau này thì người viết không bao giờ thấy.

  Thuởng thức xong tiết canh, khách ít khi quên gọi thêm tô cháo lòng. Hai thứ này như một menu 'dính liền' với nhau. Thật vậy, ăn tiết canh xong mà thiếu tô cháo lòng thì xem như 'ăn thiếu' hay 'thuởng thức' chưa đủ? Miếng tiết canh cuối cùng và vào miệng xong là vừa lúc cháo được bưng lên. Tô cháo lòng, nóng hổi thơm ngát mũi. Gạo bác mụ nấu không nhừ, vài miếng lòng, huyết, bập bềnh, chen lẫn ít mẩu hành phi xam xám. Miếng cháo nóng hổi thơm ngon sẽ làm thực khách vững dạ thêm trước khi ra về.


  Dĩ nhiên, món tiết canh bao giờ cũng hết trước tiên, độ bốn năm giờ chiều thì xong. Số lượng tô của bác mụ làm ra tiết canh có hạn định , ai đi trễ thì hết. Giờ đây, khách vào sau có thể ăn tạm cháo lòng. Thỉnh thoảng cũng có người xách gamen tới mua cháo về nhà. Căn nhà vừa ở vừa làm chỗ bán hàng nên chật hẹp. Chỗ đậu honda chẳng có vì nhà bác ở phía bờ hồ đâu có sân trước. Nhà bạn cùng lớp của người viết là Nguyễn Kim Long sát cạnh quán Mụ Thầy nên chứng kiến cái cảnh 'ngựa xe tấp nập' đi ăn tiết canh hàng ngày. Chòm xóm thân thiết với nhau nên không ai nề hà chi khi có khách đậu nhờ.  Khách quen thường cuốc bộ tới ăn là 'thuợng sách'.




KHÔNG ẢNH CỔ THÀNH VÀ THÀNH PHỐ QUẢNG TRỊ TRƯỚC 1972


Quán tiết canh này nổi tiếng; tuy nhiên theo trí nhớ người viết, Quán Mụ Thầy 'mọc' lên sau này.  Người Phường Đệ Tam hay Đường Duy Tân có thể còn nhớ  một quán phở khá "âm thầm" bán "tại gia" đã lâu năm. Từ Tiệm xe đạp Hoành Sơn, trước mặt Cửa Tiền (đóng từ lâu) ngó về  QUY THIỆN. Quán phở này có cái xe Phở Ô Vọi lâu năm không còn đi bán để ở đằng trước hiên và khách ngồi ở trong nhà. Từ ngả ba về Quy Thiện này, quán nằm bên tay trái. Phở bán lâu năm, nhưng không ai đặt cho cái tên nào, có thể bà con trong xóm biết tên mà thôi...

THAY CHO PHẦN  KẾT


 Trở lại chuyện Quán Tiết Canh, sinh nhai đủ sống hay không là chuyện riêng gia đình Mụ Thầy, chứ cái tiếng "Tiết Canh Mụ Thầy' thời này nổi tiếng từ con đường Duy Tân lan qua Lê văn Duyệt lên tới trên phố. Khách càng lúc càng đông. Đông thì đông, số tô Tiết Canh của Mụ Thầy có hạn định, ai chậm thì hết? Cũng vì thế giới 'ghiền' tiết canh  cứ 'thòm thèm' mốn đi ăn mãi. Người viết tin rằng nhờ thế quán Tiết Canh mới nổi tiếng  lâu dài, giúp thêm lợi tức cho hai Bác Thầy lúc tuổi về già./.

 

ĐHL  MỒNG 5 THÁNG 5, 2015

edit 14.6.2023


BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...