Thursday, April 27, 2023

MỘT LẦN MẠ RA THĂM CON TRONG TÙ



Hồi Ký

nhớ công ơn và hương hồn Mạ

ĐHL


    Trại  4 Ái Tử  có Căn nhà THĂM NUÔI vách bằng phên đất, liền vách với cái TRẠM XÁ tức là nơi chữa bệnh cho tù. Hai cái nhà tranh này nằm ngoài Trại cách nhau cái hàng kẽm gai sơ sài thôi và chẳng kỹ càng gì cho lắm. Con đường mòn dẫn vào Nhà Cán Bộ phía bên này là Trại 4. Trại nằm sát con sông nhỏ ngó qua bên kia là thôn Xuân Khê. Dân mới về lại nên thôn đó chỉ có lác đác  một số ít nhà. Sau đó có một cái cầu do tù kiếm  nhiều tấm sắt ri đào từ căn cứ Ái Tử bắc qua con sông nhỏ. Con sông đó có  trên bản đồ Bộ TTM nó phát nguồn từ sông Rào Vịnh hướng nguồn Ba Lòng chảy về tận Ái Tử... 


                                          hình: Lá thư nhận trong tù 


   Mạ tôi và đứa con  trai út có tên Trực được vào trại thăm tôi lần đầu sau khi nghe tin tôi còn sống và ở tù tại trại 4. Tôi nhớ thời gian đó vào khoảng cuối năm 1975, đứa em út lúc đó mới tám tuổi.  Mạ và em tôi được ở lại cái nhà thân nhân của trại. Căn nhà thân nhân đó nằm mé triền đất gần mấy trãng đồi đất pha sỏi. Phía sau lưng trãng đồi đó là Nại Cửu Phường một nhánh của Làng Nại Cửu lên đây khai phá không biết mấy đời rồi? Có dịp đi củi tôi mới biết có nhà Ô Ổn và một người dì tên HỒng còn ở đó. Có lần đi củi tôi tạt vào thăm nhà Ô Ổn. Ông Võ Ổn trước 1972 là thợ thổi kèn cho các đám tang. Tôi còn nhớ ngày ông gặp nạn là lúc ông đạp xe đạp đi kỵ  bên nhà Ngoại tôi về. Nhưng lần cuối cùng này ông gặp rủi. Chiếc xe đạp của ông  ngang Nhan Biều bị xe quân xa Mỹ đụng.  Tuy không chết nhưng tội cho Ông bị mất trí nhớ từ đó. Dì Hồng tôi, có thời qua làm cho mạ và dì tôi lúc đang bán hàng tại cái tiệm thuê lại của bà Lê thị Trọng sát Lido Ảnh Quán. Đó là thời gian sau 1968 và trước khi chạy loạn 1972. 


TRẠI TÙ SỐ 4 CÙNG  TRONG HÌNH LỤC GIÁC  CÙNG 4 TRẠI KHÁC NẰM THEO CON SÔNG RÀO VỊNH CHẢY VỀ PHÍA ÁI TỬ


   Tôi từ trại 4 nhờ đi củi cho  nên có cơ hội ghé vào một cái làng  Nại Cửu Phường nói trên.  Tôi gặp Dì Hồng vừa đi củi về, gánh củi sim những cành nhỏ leo teo, bó thật to gọi là củi chồm chồm nhưng nhẹ hều, cháy mau. Hai dì cháu nói chuyện một ít thôi, dỉ nhiên dì là du kích trong thôn và tôi là đứa tù binh thì làm gì nấn ná cho lâu?

 

ngoài tăng gia sản xuất trại 4 còn cắt tranh về bán cho ngoài và còn đi làm muối ở Cửa Việt khoảng năm 1976

   Biết mình là tù nên không thể cấn ná lâu, liên hệ đến bà con nên tôi vội vã chào Dì Hồng ra về. Về thì không phải là về hẳn. Tôi ra lại vạt đồi lấy triêng củi dấu trong bụi rồi gánh về Trại. Trên con đường mòn, ẩn mình sau mấy vạt tranh, tôi vừa gánh củi về nhưng đầu óc vẫn lởn vởn hình ảnh Ông Ổn ngồi im lìm trên chiếc giường tre, mù lòa lú lẫn. Rồi một bà dì này là du kích trong thôn...


   Miên man, tôi phải trở lại chuyện mạ và em trai út ra thăm tôi. Chuyến ra thăm đầu tiên này như đã kể trong những câu chuyện trước là nhờ đi lấy kẽm gai và ri sắt ngoài căn cứ Ái Tử trước chùa Sắc Tứ nên có người gặp bạn tù cùng lán (nhà tù ) là Lê Cảnh Thu người Bích La nói có tôi ở cùng trại và họ làm cách sao đó làm cho gia đình tôi trong Bình Tuy biết được. Theo lời em trai Đinh trọng Thịnh thì mạ tôi tức tốc ra QT nhưng không có giấy ĐI LẠI nên Trại 4 không cho gặp. Tội nghiệp chuyện đau lòng này tôi không hề biết? Mạ tôi về lại Bình Tuy tốn tiền tốn bạc lại vay mượn tiền đi ra chuyến này mới gặp tôi. Có thể thời gian này là cuối 1975 rồi.


   Một đêm ở lại nhà Thăm Nuôi như đã tả trên. Mạ tôi và thằng Trực em út được vô ngay tại lán thăm tất cả hai chục anh em cả 4 tổ trong giờ sinh hoạt ban đêm. Tôi nhớ rõ là Nguyễn Danh Huấn (Gio Mỵ , Gio Linh) làm Lán trưởng. Trần đình Côn cũng người Gio Linh làm tổ trưởng. Non hai năm sau thì Côn và Huấn lần lượt ra trại trước tôi vì có thân nhân CM. Hai người này về địa chỉ Động Đền Hàm Tân kể cả Sơn Mỹ các em tôi đều biết. Một đêm mạ và em tôi trong giờ sinh hoạt nói trên vào thăm trong lán. Một đêm rất lạ do một không khí ấm cúng, mang hơi hám gia đình trong ánh đèn dầu của một lán tù trong giờ “phê bình kiểm điểm” công tác hàng đêm. Một người mẹ và một đứa con nít có mặt trong buổi sinh hoạt này. Ai nấy đều cảm động, thâ ái ra mặt. Từ người cán bộ coi tù, các tổ trưởng, lán trưởng và trại viên như chúng tôi đều cảm động vui vẻ. Thứ tình cảm gia đình đến rất đột ngột, không mong mà có như từ ‘trên trời’ hiện xuống giữa một trại tù. 



   Mạ và em tôi đem củ KHOAI to nhất  của xứ Động Đền (xã Tân Mỹ lúc đó) ra khoe. Có thể trong nhà muốn nói về đất đai và lao động trong Bình Tuy với anh em trong lán.  Tôi còn nhớ trong đêm đó ông Cán Bộ QUản Giáo người Nghệ An thì phải..ai cũng tủm tỉm cười nhất là đứa em tôi khoe củ Khoai To.  Sau đó mạ và em tôi phải ra lại ngoài Trại tức là ở lại Nhà thăm Nuôi (vãng lai) đó một đêm để ngày mai vô lại trong nam ...Quà ra thăm tôi gồm khoai luộc, đường cục, thịt kho bỏ trong gô do mạ tôi có ghé Tây Lộc ở lại và kho đồ ăn và cơm vắt cho tôi cùng vài thứ khác như thuốc rê này nọ những thứ mà vào lúc này tôi quý như vàng.


    Sáng lại tôi đinh ninh là không còn gặp được mạ và em tôi để từ  giã. Nhưng một DỊP MAY lại tới:


   Trại 4 sáng đó có công tác đem bán mấy trăm gánh tranh cho Hợp Tác Xã Triệu Long phía ngoài đường 1 hướng Chùa Ái Tử ngó ra. Tức là gần Chợ Hôm và sông Thạch Hãn. Lán 2 của tôi tức lán hồi hôm mạ tôi được vào thăm cũng gánh tranh ra Triệu Long. Cả đoàn tranh lũ lượt gánh ra gặp lúc mạ và em tôi cũng trên đường ra ngoài đó. Quả là một dịp may. Thật vậy hai mẹ con không có gì mừng hơn. Mạ và em tôi bươn bả đi nhanh theo đoàn người. Cả trăm gánh tranh nhấp nhô lên xuống theo con đường đất đỏ của căn cứ Mỹ trước đây, lúp xúp chạy theo là mạ và em tôi cố gắng chạy theo ở giữa đoàn tù đang gánh gồng.


   Tôi thì quen rồi gánh gồng hai năm nay rồi. Được dịp may gánh tranh ra hướng Quốc Lộ để đi với mạ mình một đoạn đường như vậy thì không gì mừng hơn. Nhưng mạ tôi một tay dắt con trai út, vừa bám theo tôi nhưng tôi thoáng thấy trên mặt mạ mình sao quá nhiều ĐAU XÓT. Tôi hiểu từ ngày giã từ thời học sinh cho đến lúc vào lính ra trường ‘lon lá’ đàng hoàng oai phong tề chỉnh, có khi nào mà mạ tôi lại thấy và đây là lần đầu tiên trong đời người mẹ thấy đứa con trong bộ đồ tù rách rưới, gầy gò và gánh hai bó tranh to chạy lúp xúp như thế này đâu? Tôi lại nghĩ chắc mạ tôi đang đau xót cho tôi đang đau vai và mệt lắm chăng? Mạ tôi đâu có biết rằng tôi đã quen rồi với những ngày lao động. Cả cây gỗ nặng, lội trong rừng, ra đến rừng bụng đói còn vác được mười mấy cây số về trại. Huống gì giờ đây là gánh tranh khô khốc, và được gánh chạy bên mẹ và em mình thì chẳng có gì là khổ.

   Đoàn tù gánh tranh đang qua chiếc cầu vượn bắc qua con suối, đoạn này đã đến thôn Ái Tử.

   Chợt mạ tôi lên tiếng:

            -ĐỂ MẠ  GÁNH  CHO  CON ?

           -Thôi mạ,  con không mệt, ăn thua chi mô, con quen rồi mạ đừng lo.


    Nét mặt mạ tôi vẫn không hết âu lo áy náy. Tôi không có thì giờ và thật sự chẳng có điều kiện nào để dừng lại nói cho mạ tôi hiểu, để người bớt lo buồn. Cán bộ dẫn tù cho mạ và em tôi đi bám theo đoàn tù như hôm nay thật sự mà nói họ quá tử tế rồi.  Dỉ nhiên không ai nỡ lòng đành đoạn cản ngăn chuyện này. Mạ tôi và em tôi cũng là hình ảnh gia đình của họ ngoài kia. Và người chiến thắng họ chẳng cần gì làm chuyện khó dễ làm chi.


   Mấy cây số ba mẹ con gần nhau, trên đoạn đường quê hương của một miền rú càn gần chùa Sắc Tử. Ngoài chùa Sắc Tử còn có mộ phần của những người thân, một ngôi chùa thân quen với bà ngoại tôi từng là bà Vãi và tôi với những kỷ niệm ra chùa thăm. Sau lưng tôi là Nại Cửu Phường cũng là bà con làng ngoại lên đó lập nghiệp. Những con đường quê hương đầy mùa sim chín đầu tiên của tháng tám năm 1975 là năm đầu tiên xây trại tù Ái Tử…từ lúc ở Ba Lòng chuyển tù về đây.


   Cho đến hôm đó một lần mạ tôi ra thăm đứa con trai lần đầu. Cũng là lần đầu mạ tôi thấy tôi lam lũ, mồ hôi ướt đẫm bên gánh tranh vẫy nhịp chạy với cả đoàn tù gánh tranh đi bán dài lê thê như thế. 


   Trong niềm sung sướng vô bờ khi biết tin con trai còn sống, còn ở tù ở đây và cũng kèm theo những quặn thắt đau trong lòng mạ tôi khi nhìn hình ảnh tôi tiều tụy thảm não như hôm đó?


   Đoàn tranh đi bán chúng tôi đã ra đến Quốc Lộ 1. Mạ và em tôi đứng lại bên đường chờ xe hàng ngoài hướng Đông Hà vô…Tôi không được phép dừng lại tiễn mạ và tôi vô nam, chẳng được thì giờ dừng lại nhắn nhe điều gì…Tôi phải gánh chạy theo kịp đoàn tù vượt qua bên tê đường vào giao tranh cho Hợp Tác Xã Triệu Long. 


   Tôi cố gắng ngoái lại nhìn hình dáng hai người mạ và em tôi đứng đợi xe chơ vơ bên đường Lộ một. Hình bóng hai mẹ con nhỏ dần và khuất hẳn tôi tiếp tục chạy theo đoàn tù lòng nguyện cầu mong cho mạ và em tôi mau đón được chuyến xe nào vô nam ./.


TỜ GIẤY PHÉP ĐI LẠI  CUỐI CÙNG NGÀY 17.7.1980 MẠ TÔI XIN ĐI THĂM  TÔI LẦN NỮA, NHƯNG CHƯA ĐI RA TRUNG  THÌ TÔI Đà ĐƯỢC THA VỀ 


ĐHL 


NHỚ MẠ TÔI RA THĂM  Con Trong TÙ CUỐI NĂM 1975

 



Wednesday, April 26, 2023

HỒI KÝ ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN- QUYẾT ĐỊNH CUỐI CÙNG CỦA TT NGUYỄN VĂN THIỆU

 

MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH MỆNH CỦA TT NGUYỄN VĂN THIỆU


Đại Tướng Cao văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1921-2008)

***

                        Trong hai tháng đầu tiên của năm 1975 một số dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đến Việt Nam quan sát tình hình. Đối diện với tình hình quân sự không được khả quan và trông chờ sự biểu quyết ngân quỹ phụ trội cho Việt Nam của quốc hội Hoa kỳ trong vài tháng tới, chánh phủ VNCH tiếp đón những nhà lập pháp đồng minh rất ân cần và nhiệt tình. Các dân biểu, nghị sĩ được khuyến khích đi quan sát tình hình quân sự, kinh tế, chính trị, để họ thông qua cho VNCH ngân khoản đã yêu cầu. Chánh phủ VNCH chờ đón cuộc viếng thăm với nhiều hy vọng và lạc quan.

                        Thượng nghị sĩ Sam Nunn đến VN trước, theo sau là dân biểu Paul N. “Pete” McCloskey và nghị sĩ Dewey Berlett. Tiếp đến là một phái đoàn hỗn hợp lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Bộ Tổng Tham Mưu thuyết trình cho những quan khách đầu tiên về tình hình chung của miền Nam. Trọng tâm của những buổi thuyết trình là tình trạng kiệt quệ về quân cụ, vũ khí của quân lực VNCH. Các nhà lập pháp Mỹ được thông báo tình trạng nguy hiểm sẽ xảy ra nếu số ngân khoản phụ trội 300 triệu mỹ kim không được chấp thuận và sự nguy hiểm đó xảy ra như các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang chứng kiến. Một số dân biểu nghị sĩ đến VN lượt sau không được nghe thuyết trình, nhưng họ có đến  BTTM quan sát số vũ khí tịch thu của CSBV đang được trưng bày ở đó.



            TNS Sam Nunn (Dân Chủ Tb Georgia)
Chức vụ
Nhiệm kỳ3 tháng 1 năm 1987 – 3 tháng 1 năm 1995
8 năm, 0 ngày
(wikipedia)

                        Quá trình hoạt động và quan điểm chính trị của các nhà lập pháp Mỹ viếng thăm VN hoàn toàn khác nhau. Có người ủng hộ VNCH; có người chống đối. Có người đến với một tinh thần cởi mở; có người đến với đầu óc thiên vị, định kiến có sẵn. Người thì lịch sự, khiêm nhường; một số khác thiếu sự tế nhị và lễ độ. Phần còn lại thì đến với sự thờ ơ, vô tư về một cuộc chiến. Nhưng dù có thành kiến hay thái độ nào trong thời gian có mặt ở VN, họ được chánh phủ chào đón nhiệt tình. Mọi người được khuyến khích quan sát, cho phép thăm viếng mọi nơi, tiếp xúc với tất cả. Họ có quyền đối thoại với bất cứ người nào họ muốn—từ một công chức cho đến những tổ chức, đảng phái đối lập với chính phủ.

            Miền Nam, kể cả những người cộng sản, nghe ngóng và theo dõi cuộc viếng thăm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ từng bước từng biến chuyển.  Nhiều lời đồn lan truyền từ chuyến viếng thăm đó; hy vọng và thất vọng lên xuống theo từng giai đoạn, từng thay đổi. Những thành phần chống chánh phủ và muốn thấy một chánh phủ liên hiệp với cộng sản, hy vọng Hoa Kỳ làm áp lực với VNCH để chánh phủ nhân nhượng theo ý muốn của họ. Phía ôn hòa thì hi vọng các nhà lập pháp Mỹ suy xét lại tình hình miền Nam, cung cấp vũ khí, quân viện, để dân miền Nam tự bảo vệ và chống lại cuộc xâm lăng lộ liễu của cộng sản miền Bắc. Về phía cộng sản, dĩ nhiên, họ muốn thấy các nhà lập pháp Mỹ cắt đứt viện trợ để làm tê liệt khả năng chiến đấu của quân đội VNCH.

            Nhưng nói một cách tổng quát, phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ để lại một không khí thất vọng khi rời VN. Từ bầu không khí đó, nhiều lời đồn, tuyên truyền lan ra, làm hại cho tinh thần chiến đấu của quốc gia. Sau chuyến viếng thăm, giới lãnh đạo của chúng ta nghĩ dân Hoa Kỳ nhìn VNCH như một chánh phủ tham nhũng, đàn áp độc tài. Với những khủng hoảng về kinh tế và chính trị nội bộ đang xảy ra trong lãnh thổ họ, Hoa Kỳ không còn khả năng tiếp tục tham gia vào cuộc chiến. Vấn đề viện trợ thêm cho VN không còn nhiều hi vọng. Ngược lại, ngân sách viện trợ có thể bị cắt thêm vì Hoa Kỳ đang chuyển mục tiêu quân sự, chính trị của họ về các vấn đề Trung  Đông.

            Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời VN, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hi vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn—và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được.

            Cuộc tấn công của CSBV vào Ban Mê Thuột và những phản công vô hiệu của quân đoàn II có tác dụng vào tâm trí  của tổng thống Thiệu—người duy nhất có quyết định tối hậu về chiến lược, chiến thuật của cuộc chiến. Khi quân đội đồng minh rời VN, quân đội VNCH phải đương đầu với một đối phương đông quân hơn. Phải phân tán mỏng các lực lượng trừ bị cuối cùng để cố gắng bảo vệ lãnh thổ, quân đội chúng ta không bao giờ có được ưu điểm về quân số. Thêm vào đó, những cắt giảm quân viện đã làm suy yếu khả năng chiến đấu và tinh thần của quân đội ngoài mặt trận—một sự kiện mà chúng ta từ chối chấp nhận. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, phải có sự thay đổi nếu chúng ta muốn VNCH tồn tại.

            Trong vai trò cố vấn quân sự cho tổng thống, BTTM có lúc nghĩ quân đội VNCH có cơ may nếu lãnh thổ được phòng thủ tương xứng khả năng. Nhìn từ quan điểm quân sự, lối suy luận của BTTM không phải hoàn toàn vô lý—nhưng đi ngược lại chính sách “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” mà tổng thống Thiệu tuyên bố nhiều lần từ sau hiệp định Paris 1973 Với tình hình chiến sự nguy ngập—chỉ trong vòng hai tháng, chúng ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột—và việc gì sẽ xảy ra nữa đây? Dư vị cay đắng của nhà lập pháp Mỹ để lại sau chuyến viếng thăm vẫn còn. Có lẽ trong một phút riêng tư nào đó, Tổng thống Thiệu bắt buộc phải suy nghĩ lại.



            Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975—một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công—tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng văn Quang và tác giả  đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ.” Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.

            Quyết định của tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ chỉ thố lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng. Tổng thống Thiệu phác họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần chiếm lại là nơi đông dân ,trù phú có giá trị về lâm sản, nông sản và kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon, các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long.

            Tổng thống Thiệu bình thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của miền Nam, nhưng khi nói đến Vùng I và II, ông không vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng cao nguyên trung phần, tổng thống Thiệu nói về Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên  và dân số của Ban Mê Thuột. Miền duyên hải của Vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của tổng thống Thiệu là “giữ được phần nào thì giữ.” Ông phát họa kế hoạch  phòng thủ ở Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ bắc xuống nam. Nếu chúng ta có đủ lực lượng, tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở Chu Lai, ha thấp hơn là Tuy Hòa. Kế hoạch này, tổng thống Thiệu nói tiếp, cho chúng ta sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như một quốc gia vững mạnh.

            Như vậy chỉ sau vài lời sơ thảo, tổng thống Thiệu đi đến một quyết định quan trọng. Hậu quả của quyết định đó như thế nào thì chưa biết được, nhưng nhìn từ quan điểm quân sự, quyết định của tổng thống Thiệu có nhiều vấn đề. Là cố vấn quân sự cho tổng thống, tác giả bắt buộc phải có ý kiến về quyết định của tổng thống Thiệu. Tác giả cho sự tái phối trí là cần thiết  và có ý tưởng đó từ lâu Nhưng tác giả không tiện nói ra vì hai lý do: một, đề nghị tái phối trí quân sự đi ngược lại chính sách quốc gia; hai, lời đề nghị đó có thể bị hiểu lầm là thái độ chủ bại. Tác giả tránh phát biểu thêm là sự tái phối trí có tầm vóc qui mô như vậy đã quá trễ. Ngoài ra, tác giả thấy tổng thống Thiệu đã quyết định, nên ông không muốn nghe thêm những ý kiến ngược lại. Đã là tổng thống, ông Thiệu có thẩm quyền và trách nhiệm chỉ đạo cuộc chiến: ông phải biết ông đang làm gì.

            Dù quyết định trên là một sự thay đổi toàn diện từ chiến lược  “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” đang áp dụng sang “bảo vệ lãnh thổ theo khả năng”, quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm. Vào buổi sáng hôm đó, tổng thống Thiệu không giải thích hay đề cập đến lý do nào đưa ông đến những quyết định ông trình bày; quyết định của ông hình như phản ảnh những thực tế đang diễn ra. Từ trước, tổng thống Thiệu hy vọng chúng ta có khả năng bảo vệ những tiền đồn và địa giới thưa thớt. Và nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp ước ngưng bắn, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và thế giới chắc chắn biết ai là kẻ gây hấn. Nếu CSBV tiếp tục vi phạm một cách trắng trợn, tổng thống Thiệu hy vọng –hy vọng vào những hứa hẹn—Hoa kỳ sẽ có lý do trừng phạt Bắc Việt mạnh mẽ như tổng thống Nixon đã hứa  với tổng thống Thiệu.

            Trong hai năm, cộng sản gia tăng vi phạm và cường độ của những sự vi phạm, để dò xét thái độ của Hoa Kỳ, coi họ có sẵn sàng trả đũa không. Lúc tổng thống Nixon chưa từ chức, thỉnh thoảng ông có cảnh giác CSBV về những vi phạm của họ. Nhưng sau khi tổng thống Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8 năm 1974, những hứa hẹn “phản ứng mạnh mẽ” của Hoa Kỳ chỉ là những lời hứa suông. Ngay sau khi Phước Long bị  tấn công, Hoa kỳ không có một phản ứng nào. Kế tiếp là thái độ bất lợi của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm. Từ thái độ đó, VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết  viện trợ để VNCH tiếp đánh là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc.


cuộc triệt thoái quân khu II làm một quân đoàn mất trắng trọn bộ 


            Tổng thống Thiệu không còn một chọn lựa nào để cứu vãn tình thế trừ quyết định tái phối trí quân đội như đã nói trên—còn nước còn tát. Nhưng quyết định của ông quá trễ. Kế hoạch tái phối trí lẽ ra phải được thực hiện từ giữa năm 1974. Hay ít nhất phải thực hiện ngay khi tổng thống Nixon từ chức Là tác giả của kế hoạch Việt Nam Hóa và Hiệp Định Ba Lê, tổng thống Nixon là người Mỹ duy nhất có trách nhiệm tâm lý để bảo vệ bản văn kiện đình chiến. Nixon là người đáng tin cậy,có can đảm xử dụng những biện pháp mạnh khi cần thiết. Chậm nhất, kế hoạch tái phối trí quân sự theo khả năng của quân đội phải được thực hiện ngay lúc đó.

            Dĩ nhiên cộng sản sẽ sẵn sàng tiến chiếm những vùng đất chúng ta không có khả năng  bảo vệ. Hai bên sẽ thương lượng với nhau một ranh giới mới. Nhưng chúng ta có được  ưu thế trong chiến lược này: lãnh thổ được thu hẹp lại và nội tình an ninh hơn. Kế hoạch tái phối trí tương tự như một hiệp định Geneve 1954 thứ hai: một ranh tuyến mới, quân đội hai bên tập hợp lại vùng riêng biệt của họ…hai lãnh thổ rõ ràng chứ không là vùng ‘da beo” lẫn lộn. Chiến lược này lý tưởng cho sự tồn tại của VNCH. Nhưng dù ta có theo chiến lược này, chưa chắc người cộng sản chấp nhận. Nếu họ đã ký hiệp định Geneve  1954 rồi, và cho đó là một sự lầm lẫn, thì chắc gì họ chấp nhận giải pháp này lần nữa? Không thể nào họ hy sinh xương máu trong 20 năm mà không được gì.

            Quyết định tái phối trí đã quá trễ sau khi Ban Mê Thuột mất. Cộng Sản thắng liền hai trận, và sau hai trận, với sự hao tổn của VNCH, họ có luôn thế thượng phong về quân số. Phía bên ta, đã trải quân ra quá mỏng, chúng ta không thể nào rút quân một nơi để lấp vào chỗ khác mà không bị tấn công và đe dọa bởi số quân đông gấp hai của địch.

            Một vấn nạn khác chúng ta đối diện là thường dân và thân nhân binh sĩ: di tản hay không di tản những người này cũng là một yếu tố thành công hay thất bại trong cuộc chiến. Không nhà lãnh đạo nào với một lương tâm có thể bỏ dân mình vào tay địch. Nhưng trong trường hợp phải chọn lựa, người lãnh tụ hy sinh  dân để giữ quân. Kinh nghiệm cho thấy người dân miền Nam tránh xa vùng kiểm soát của cộng sản nếu họ có cơ hội chọn lựa. Người dân trong nghĩa này cũng là thân nhân binh sĩ—những người họ chiến đấu để bảo vệ và những người nâng cao tinh thần họ. Chúng ta không thể tách rời binh sĩ và thân nhân ra. Tinh thần khắng khít trong truyền thống gia đình VN khó cho chúng ta tách họ ra dù trong một thời gian ngắn.



            Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam còn nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23BB, nhưng tất cả đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được Ban Mê Thuột cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở  một mặt trận mới ở Vùng II. Vùng II vẫn còn sư đoàn 22BB, công thêm một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh, và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ cộng sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm nhiều đất được như họ đã làm ở Vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp các khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quân viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện.

            Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn.Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có một chính phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nổi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không? Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.

Cao văn Viên

 

ĐHL trích 16/1/2022


sách

Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 125-136.

NHỮNG CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI QUÊ NHÀ

 Chiều mưa biên giới anh đi về đâu

Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu

Kìa rừng chiều âm u rét mướt Chờ người về vui trong giá buốt  Người về bơ vơ ...

(nhạc sĩ Nguyễn văn Đông)
*         
lính gác chiều mưa

CÓ CẦM SÚNG CANH GÁC trong những cơn mưa rừng rơi mãi mới thấy thấm thía từng lời trong bài hát của người nhạc sĩ Nguyễn v Đông.  Thật vậy, màn mưa  biên giới vẫn một màu xám ngắt chẳng khác chi một bức màn màu xám che khuất biết bao nhiêu chốt của đại đội khác trên vùng núi Ông Do. Trong căn hầm ẩm thấp đợi thời gian qua - ngày lại ngày nó như vô nghĩa. Tiếng "sè sè" của chiếc máy truyền tin PRC 25 mà người trung đội trưởng như tôi chẳng bao giờ dám ra lệnh tắt. Lệnh nhà binh là vậy. Máy truyền tin là mạch sống của đơn vị, phải mở suốt ngày đêm. Những chiếc máy truyền tin như mãi đợi tiếng nói giữa người và người để biết rằng chúng tôi chẳng hề cô độc. Dù mưa rừng gào thét, nguồn liên lạc vẫn kết nối với nhau.

Tình anh theo đám mây trôi chiều hoang
Trăng còn khuyết mấy hoa không tàn
Cờ về chiều tung bay phất phới
Gợi lòng này thương thương nhớ nhớ
Bầu trời xanh lơ...


Trong cơn mưa rừng, có những chiếc poncho, người lính gác đang làm nhiệm vụ đang im lìm trong màn mưa. Trong những căn hầm chìm, ẩn trong làn mưa rạt rào qua bao rặng núi bao quanh, mấy giòng nước len qua vách đất, thi nhau chảy vào hầm. Sấm chớp giăng giăng, cả không gian như chìm lỉm, tối mịt trong của màn mưa nặng nề, hung hãn...

Đêm đêm chiếc bóng bên trời
Vầng trăng xẻ đôi
Vẫn in hình bóng một người
Xa xôi cánh chim tung trời
Một vùng mây nước
Cho lòng ai thương nhớ ai...

Mưa ngơi dần, nhưng tiếng tí tách của những giọt nước vẫn còn rơi rớt trên vành nón sắt. Người lính giữ chốt đang lắng nghe động tĩnh của rừng thiêng. Anh cố căng mắt nhìn xuyên qua màn mưa sâu thẳm. Sấm sét vọng vang, lan qua bao rặng núi.  Nơi đây vẫn còn bao người trai lòng sâu lắng nhớ nhung trong màn mưa biên giới.

Đêm đêm chiếc bóng bên trời
Vầng trăng xẻ đôi
Vẫn in hình bóng một người
Xa xôi cánh chim tung trời
Một vùng mây nước
Cho lòng ai thương nhớ ai...

Mưa rừng, người lính chẳng còn cơ hội ngắm nhiều đám mây bềnh bồng trôi về miệt biển. Dưới xa kia là một khoảng đồng bằng. Quê hương lãng đãng hiện ra dưới những màn mưa lướt thướt trong gió rừng. Khoảng cách của nhớ thương ôm ấp bao kỷ niệm một thời học sinh nay xa dần trong vùng dĩ vãng. 

***

Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay
Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng
Đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng
người tìm về trong hơi áo ấm
Gợi niềm xa xăm...


 Giã từ áo trắng học trò để chấp nhận những gì khi quê hương lên tiếng gọi. Tuổi đến trường đã đi xa mang theo bao ước mơ hoa gấm. Thực tại hôm nay là đời người lính trẻ với bao cảm giác nôn nao bỡ ngỡ, thời gian ba năm từ ngày về đơn vị mới. Rồi cảm giác hôm nay là chốn rừng thiêng, dãy Trường Sơn trùng điệp cùng bao màn mưa xối xả, mịt mù. 


    Đời lính của tôi có thật nhiều kỷ niệm với những ngày trên đỉnh cao hay ven bờ đại dương xanh ngắt khi tôi chọn trở về để giữ đất quê nhà. Ra đơn vị chỉ  ngần ấy ba năm nhưng đôi lúc trong lòng  lính chiến chợt phát sinh tình cảm yêu quê hương đất nước chân thành, mộc mạc. Có những lúc tôi ngồi ngắm sóng biển vỗ bờ hay lên đây có dịp đứng trên đỉnh cao vào lúc trời quang mây tạnh rồi có được những phút giây lắng lòng nhìn ngắm non sông. Năm 1974, chính xác hơn là hè 1974 khi TIỂU ĐOÀN 105  rời Ba Bến, chuyển quân về mạn biển hoán đổi cho Tiểu Đoàn 120. Mấy tháng đóng ở đây, khi lắng tai nghe sóng trùng dương dội vào bờ cát hoang vu cùng ngắm biển trời bao la, tôi cảm thấy tình cảm đối với quê hương dâng trào trong gió lộng. Sau hè,  đơn vị chúng tôi lại hoán chuyển lên vùng núi Ông Do. Tôi hay đứng trên đỉnh cao, trông xuống một dòng sông nhỏ đang lượn lờ uốn khúc. Chính lúc này, tôi mới nhận chân ra quê hương sao đẹp quá, hồn thiêng sông núi ngàn đời mãi xanh.

KHÔNG ẢNH QT CHỤP TỪ CAO ĐỘ TẠI VÙNG NÚI NHÌN VỀ MẠN BIỂN 

Người đi khu chiến thương người hậu phương
Thương màu áo gởi ra sa trường
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi

 Xuân 1975 sắp tới rồi, chỉ hai ba hôm nữa thôi. Một buổi trưa im vắng, tôi lại đứng trên đồi cao.  Quanh tôi toàn là những đám  rừng tranh bạt ngàn. Xuân đơn vị không một sắc hoa đó là điều chắc chắn. Màu xanh của lá màu áo ô liu thay hoa màu tết. Quà tết hậu phương, bánh chưng , bánh ú của đồng bào từ Diên Sanh, hậu cứ Tiểu Khu đã gửi lên hai hôm rồi.  
Ngót nghét năm mươi mùa xuân qua nhanh như gió thoảng, nhưng lòng tôi vẫn nhớ mãi mùa xuân của một chín bảy lăm. Từ mùa xuân đó, tôi vĩnh viễn chẳng còn cơ hội nào đứng lại trên đỉnh núi quê nhà  để chiêm ngưỡng cảnh đẹp non sông và rừng thiêng hùng vĩ. Dù rằng những mùa xuân biên giới hay "mùa xuân lá khô" đã thật sự trôi nhanh về miền dĩ vãng; nhưng đoá hoa QUÊ HƯƠNG vẫn thắm mãi trong lòng người bao người con xa xứ. Cứ độ tết đến xuân về nơi chân trời góc bể, vẫn còn nhiều người lính già xa quê còn ngồi vọng tưởng đến một thời cống hiến, bên chiến hào xưa cùng dâng lên nỗi hoang lạnh tâm hồn./.


ĐHL edit 26.4.2023

Monday, April 24, 2023

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA ĐƠN VỊ TUYẾN ĐẦU QUẢNG TRỊ



Lời dẫn:

Qua INTERNET tác giả bài viết đã tìm trong cuốn phim tư liệu cũ " Con Đường GP Huế 26.3.1975" của phía CSVN và đã tìm ra được hình ảnh toán tù binh VNCH đầu tiên bị đưa ra Đông Hà. Trong đoàn tù binh đó trong đó có bản thân người viết. Toán tù binh này đang đi trên đoạn Bến Đá đến Cầu Dài gồm 17 người thuộc đại đội 2/TĐ 105 bị vỡ trận vào trưa 23/3/1975 tại làng Trach Phổ xã Phong Bình. Thật lòng nói ra, tác giả quả xúc động khi nhìn lại hình ảnh anh em trong đơn vị một ngày thua trận gần năm mươi năm trước 

Đinh hoa Lư

***

Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn
Anh chẳng còn chi
Chẳng còn chi ngoài con tim héo, em ơi


TOÁN TÙ BINH VNCH BỊ DẪN RA ĐÔNG HÀ LẦN ĐẦU TIÊN NGÀY 24/3/1975

(đại đội 2/ tiểu đoàn 105 Địa Phương QUân Tiểu khu Quảng Trị)
Người viết bị bắt làm tù binh sau khi tuyến Mỹ chánh bắt đầu "tan hàng" trưa 23 tháng 3 1975. Tác giả cũng là một trong 17 tù binh bị dẫn qua sông Thạch Hãn trưa ngày 24 tháng 3 năm 1975 lúc Huế chưa mất. Số tù binh đầu tiên này bị giam ở thôn An Lạc đông hà những ngày Huế và Đà nẵng trong cơn "hấp hối".

Sự thật những gì trong ký ức, người viết nhằm ghi lại những nốt thời gian kỷ niệm của đời hay rất đông người của miền nam cùng cảnh ngộ một ngày THÁNG TƯ


Hôm nay nhờ vào Internet, và tìm kiếm lại trên cuốn phim Đường Về Huế cũ tôi đã tìm ra hình ảnh của mình và đồng đội trong cuốn phim này
Thú thật với bạn đọc, trong tâm tư người viết có phần nào bồi hồi xúc động. Buổi can qua và thế gian vật đổi sao dời mới đó mà gần đúng nửa thế kỷ rồi .

===================
10 THÁNG BA 1975

Động Tiên 295 m, : Ban mê thuột MẤT tình hình chiến sự sôi động trở lại , tin tức tôi theo dõi nhờ chiếc radio nhỏ xíu nghe BBC hàng đêm

Chốt Đai Đội 2, đại úy Lê Kim Chung làm đại đội trưởng thuộc tiểu đoàn 105 Địa Phương Quân QT đang án ngữ mặt trước Tiểu Đoàn 105 mà Ban Chỉ Huy đang đóng trên chóp Ông Đô cao độ 275 m.

Trung đội 3 của tôi thì nằm tiền đồn cho đại đội 2. Chốt trung đội tôi nằm chốt ngoài cho D9D92 sát khe Trai. Bên kia Khe Trai là động Tiên.
Hàng ngày bên kia động Tiên vc núp trong lùm cây gọi qua ơi ới như thách thức như trêu chọc:
- Mấy anh bảo an ơi !....
Tôi cũng xin giải thích thêm vào lúc đó chốt bên nào thì ở yên đó theo Thỏa thuận Ngưng bắn Paris
CS miền bắc chỉ vi phạm cách khác, chứ chạm tuyến hai phe chúng làm như tôn trọng Hiệp Định. Ban đêm tôi vẫn nghe phía bên kia tức sau Động Tiên 295 m (của vc) tiếng quân xa rú và đèn dọi lên tầng mây, chứng tỏ vc di chuyển ào ạt.

Tiếng xe và đèn bên kia rặng động Tiên, ánh đèn hắt lên tầng mây thấy rất rõ, tôi có báo lên đai đội 2 và tiểu đoàn 105 nhưng phản ứng thật yếu ớt , chỉ một lần trong một đêm từ tiểu khu bắn lên vài quả pháo binh chiếu lệ cho có rồi thôi
Tiểu đoàn phó, đại úy Nguyễn Đôn hay liên lạc và tiếng anh vẫn trực tiếp với tôi:
-Phú Lộc còn "gà cồ" đang gáy chuẩn bị
Ý anh nói pháo binh dưới Diên sanh bắn lên
Tiếng vài viên đạn pháo binh bắt đầu xé gió qua chốt tôi, trong đêm nghe xèn xẹt
vài tiếng nổ vu vơ bên kia rặng núi trước mặt tôi và rồi lặng yên
15/3/1975
tiếng của đại úy Nguyễn Đôn tiểu doàn phó 105 TKQT bên đầu dây PRC 25
-Phú lộc nghe rõ trả lời
Phú lộc là ám danh của tôi
-Phú Lộc nghe Đà Lạt 5/5 ...tôi trả lời anh Đôn
(tưởng cũng cần nói rõ anh Nguyễn Đôn hiện định cư tại San Jose)
- Phú lộc yên tâm khi nào đà lạt( tức anh Đôn) cũng sẵn sàng sau lưng phú lộc nghe , nghe rõ trả lòi...
-Phú lộc nhận rõ.
Quái, chuyện gì đây- Tôi phân vân lo lắng trong lòng
Chốt trung đội 3 của tôi nằm ngoài cùng của đại đội 2 của cố Đại Úy Lê Kim Chung. ĐĐ 2 là nằm trước Động ô Do BCH của Tiểu Đoàn 105 như thế xem như là chốt của tôi nằm ngoài cùng ngó lên là Động Tiên 295 m, phía đó là của VC bên kia rặng Động Tiên theo bản đồ chính bắt đầu hướng Ba Lòng

17 tháng 3/1975 CÁI GÌ ĐẾN ĐANG ĐẾN

TÔI RẤT BẤT NGỜ NHẬN LỆNH TỪ ĐĐ 2

trung đội được lệnh nghi binh, có nghĩa giả sinh hoạt , đứng gác, đồ đạc như thế một lúc trong sáng đó như không có gì xảy ra
Rồi yên lặng rút xuống chốt, men theo giữa rừng tranh rậm để về tập trung tại đỉnh ông Đô. Chúng tôi hi vọng Những đồi tranh chập chùng hi vọng lính chúng tôi rút VC bên kia rặng động Tiên không thấy
BCH tiểu đoàn 105 khui tất cả kho lương thực dự trữ tại BCH tiểu đoàn tại đỉnh ông Đô đa số là gạo sấy phát hết cho lính
-Tất cả di chuyển bộ theo con đường sơn đạo duy nhất đi ngay và sẽ di chuyển cả trong đêm
-Trong đêm 17/3/1975 cả tiểu đoàn tạm nghỉ khoảng giữa đường
Tôi có gặp đượcThiếu tá Lê văn Quang tiểu đoàn trưởng TĐ 122. Hai tiểu đoàn 105 và 122 không ngờ cùng có lệnh rút lui và gặp nhau ở điểm này.

Anh Quang là người anh người anh trong xóm Cửa Hậu Phường Đệ Tứ .Nhà mệ Tý, thân mẫu của anh làm nghề chằm nón. Anh Quang còn có người anh tên Vinh và hai người em gái nữa. Nhà anh cùng xóm với Trần Tài bạn tôi, hắn ra trường thuộc tiểu doàn 126 đang đóng ở mạn biển, chúng tôi thì lên núi.

Tôi sinh ra lớn lên tại xóm Cửa Hậu, đường Lê v Duyệt thuộc xóm nhà anh Quang. Anh thời học sinh rất mến tôi. Tôi không ngờ đây là lần cuối cùng hai anh em gặp nhau do sau này tôi nghe anh chạy vào được Quảng Ngãi thì bị bắn chết trong đó.
Hai tiểu đoàn gặp nhau lại nghe xôn xao có một số bên tiểu đoàn 122 phải bỏ xác lại trên chốt do biết đem về đâu lúc di tản thế này?
-Mẹ cha ơi, thật rủi có con bò cạp từ bụi cỏ tranh nào đó leo lên ba lô làm một phát vào ngón trỏ của tôi đau điếng. Con bò cạp đớp ngay vào ngón tay bóp cò súng làm ngón tay sưng bắt đầu sưng lên nếu đụng trận lúc đó thì làm sao bóp cò súng được?
Nhưng may, cả đơn vị rút lui trong im lặng và an toàn chẳng có gì xảy ra.
-Đơn vị đã di chuyển về gần tiểu khu Quảng trị (cầu dài Hải lăng) vài ụ pháo binh dấu hiệu vừa rút, đất còn mới toanh. Thỉnh thoảng tôi nghe rời rạc vài tiếng pháo VC bắn theo vu vơ đâu đó.
Đã đến tiểu khu QT tại Hải Lăng.

Gặp được Quốc lộ 1, chúng tôi không về huớng Tiểu Khu mà quẹo phải di hành theo QL vào huớng Mỹ Chánh...
TKQT đã di tản. Trên đường có nhiều đồ đạc đồng bào vứt lại...chứng tỏ di tản gấp thiếu phương tiện, tôi cảm nhận một không khí ngột ngạt im lặng

Qua khỏi cầu Mỹ Chánh chúng tôi được lệnh quẹo trái men theo bờ sông về Huớng Ưu Điềm

Tất cả các tiểu đoàn Đia phương Quân TKQT 105-110-122-119-126 đều dàn theo tuyến Mỹ Chánh từ núi đến biển.
Dọc đường từ chợ Mỹ Chánh về ngang Ưu Điềm Trạch Phổ ...đồng bào ai còn ở lại đổ xô ra ngó lính chúng tôi đi qua. Người viết còn nhớ có người còn đem con gà ôm bên người đứng bên đường ra bán cho lính hi vọng có ít tiền
Bà con đâu có hay lính chúng tôi chưa hề nhận lương tháng 3 / 1975. Tiểu khu rút từ Diên Sanh vào Huế cả tuần rồi mới cho chúng tôi trên núi RÚT? và họ còn đem cả lương hướng vào Huế (Mang Cá) rồi thì ai đem lương tháng 3 lên NÚI phát cho lính? Không biết các tiểu đoàn như 126 đóng ở mạn biển có nhận lương tháng 3/1975 không?
trọn bộ số lương tháng 3/1975 nằm trong bí mật của SĨ QUAN TÀI CHÍNH TIỂU KHU QT BIẾT? Thông thường mồng 10 hàng tháng là Tiểu KHu đã vào Quân KHu nhận Lương từ Đà Nẵng ra rồi...
Đó là lý do lính từ núi về toàn bộ không ai có đồng nào để mua bán với dân
19 tháng 3/1975
Tiểu đoàn 105 có lệnh đóng tại Làng Siêu QUần + đại đội 2
Đúng là địa danh "MUỖI SIÊU QUẦN" thành ngữ này ai đặt mà đúng dữ a?
Ruộng dân mới cấy , muỗi làng Siêu Quần này nhiều đến nỗi ban ngày đi "cầu" giữa đồng bầy muỗi nó tấn công tới tấp
- Nghe chợ Đông Ba cháy , ai đốt chẳng biết , trong Huế hoảng loạn quân nhu tiểu đoàn không mua được thức ăn tiếp tế
-tất cả lực lượng ĐPQ của TKQT đang nằm theo tuyến này chắc đói "phơi râu "
-phòng tuyến 2 tại Phò Trạch nhắm không cho ai rút qua tuyến này để vào phía nam?
-thế là tụi này chắc hi sinh hết ngoài này
-tiếng pháo binh từ Phong Điền dội ra vẫn nghe hàng ngày pháo binh đang rót qua bên bờ bắc sông Mỹ chánh , thế là sông Mỹ Chánh trở thành sông Thạch Hãn 1973 rồi , tôi thở dài.
NGÀY 23/3/1975
sáng sớm đại đội 2 được lệnh di chuyển , cả đại đội vượt qua cánh đồng mới cấy trơn trợt đi ngược ra huớng bắc ra huớng Trạch Phổ gần Uu Điềm xã Hải Văn
đến trưa mới trám được cho vị trí của 1 đại đội của tiểu đoàn 110 nghe đâu bị "lũng' hồi đêm
công sông Mỹ chánh nhìn rõ qua bên kia , im lìm nhưng chứa đựng bao bí ẩn sau những bờ tre kia
-ban chỉ huy đại đội đóng trong cái nhà thờ , dân đã bỏ chạy hồi hôm không thấy ai
-khoảng 2 giờ chiều lính trung đội hoảng hốt báo
-tụi nó vượt sông rồi
- nó thổi súp lê nữa ôn ơi(gọi tôi)
xạ thủ trung liên lại xách khẩu súng đó vừa nói vừa "dze" lui?!
Tôi còn nhớ một sự tức giận đến bất ngờ, như một phản xạ, ngón tay tôi như muốn 'bóp cò' cho sự rút lui vô lý như vậy... đột nhiên ngón tay tôi buông ra

Chỉ một khoảng thời gian ngắn mà cả đại đội bị dồn ra giữa đồng
Trung sĩ Hài THƯỜNG VỤ ĐẠI ĐỘI cũng vừa rút ra khỏi vị trí
Thôi rồi, tan hàng mau quá. Bắc quân hình như đã được biết trước cuộc chiến đang đến hồi CÁO CHUNG. Họ hí hửng thổi còi vượt sông Ô Lâu bắt đầu vào hơi xế trưa ngày hôm đó.

LÀNG TRẠCH PHỔ ƯU ĐIỀM BỜ SÔNG Ô LÂU
Hậu quả không tránh được khi liên đoàn ĐPQ chịu ở lại tuyến Mỹ Chánh, hi sinh cho 2 sư đoàn tổng trừ bị rút về bảo vệ SG. Tiểu Khu QT thì đang ở trong Huế. Thêm tin chợ Đông Ba cháy, cái tin này mới choáng do không có gì tiếp tế cho chúng tôi ngoài này cả. Tôi nhớ chuyến xe tiếp tế cuối cùng men theo đường biển về tới Làng Siêu Quần chẳng mua được gì cho lính? Những ngày đó tôi không còn nhớ lính ăn uống những gì? Làng mạc, đồng bào chạy hết, không ai ở lại...

Lương tháng 3 chúng tôi cũng chưa nhận được xu nào?
Tôi còn nhớ trong ví chỉ còn 500 tháng 2 sót lại. Mấy ngày trước hành quân về vùng này, dân bên đường bán con gà còn lại tôi chẳng có đủ tiền mua.


TRẠCH PHỔ CHIỀU ĐỊNH MẠNG 23 - 3 - 1975

Từ rú Uu điềm bị trói tay dẫn về lại sông Mỹ Chánh , tôi bị té mấy lần , tay bi trói nên không gượng lên được. Tên VC hình như lính chính quy lôi tôi dậy
Tội nghiệp cái chân lính quen mang giày, nay giày không có, qua mấy đám cây mắc cở đầy gai đau điếng
Giữa đường có mấy du kích đang cáng người bị thuơng đi ngược hướng với tôi. Có người bảo người lính miền bắc đang dẫn tôi, bảo bắn mẹ nó đi dẫn gì cho mệt.
Số tôi hên , người lính miền bắc vẫn chấp hành lệnh bắt giữ tù binh nên tôi vẫn được dẫn lui phía sau tức hướng sông Ô Lâu
Dọc đường tôi nghe vài tiếng pháo binh vu vơ từ Phong điền tiếp tục bắn ra, tiếng xé gió vun vút nổ đâu đó. Nhưng pháo binh bắn cho có lệ một vài quả mà thôi chẳng có gì dử dội cả.
Tôi nói thầm trong bụng
-mẹ, đại đội tan hàng từ lâu rồi bắn làm gì nữa?
Tôi đâu biết rằng phía dưới Siêu Quần cả Tiểu đoàn 105 cũng bắt đầu ...rút
TỐI 23.3/75 CHÚNG TÔI ĐƯỢC DẪN RA ĐÔNG HÀ







THÌ RA ra đám tù binh toàn đại đội 2 chúng tôi , 17 người tất cả : 2 sĩ quan duy nhất là tôi và Ngọc hai trung đội trưởng , không có tiểu đội trưởng nào
hình ảnh trước mắt chúng tôi trong văn phòng xã Hải văn
đồ đạc tung tóe , ảnh TTthiệu thì bị xé và vứt trên nền nhà
-một người xưng là Lộc , 27 tuổi xưng là tiểu đoàn trưởng "lên lớp" chúng tôi xong một người khác xưng là chính trị viên tiểu đoàn tiếp tục" lên lớp và kể tội" chúng tôi
Tôi còn nhớ mãi tiếng nói của tiểu đoàn trưởng LỘC:

-TÔI LÀ LỘC, 27 TUỔI TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG...
CHÚNG TÔI NHẬN LỆNH MANG QUÂN TƯ TRANG GỌN NHẸ NHẤT ĐỂ ĐUỔI THEO TRÁM VÀO CHỖ CÁC ANH VỪA RÚT NHƯNG CÁC ANH RÚT ...NHANH QUÁ
Đây là những gì tôi chẳng cần phải thêm hay bớt: người Tiểu đoàn Trưởng VC tên Lộc nói đúng

Tôi đã nhận ra mặt các người quen trong đại đội 2:

Hạ sĩ Con người lo nấu ăn cho đại đội trưởng



chuẩn úy Ngọc người Huế cùng đại đội 2 với người viết sau này cùng ở chung lán trại tù
***

Một sự rút lui ồ ạt không phải MỘT ĐƠN VỊ MỘT TIỂU KHU MÀ CẢ QUÂN KHU cả một THẤT BẠI CHIẾN LƯỢC SAU KHI VÀO TÙ HAY VNCH MẤT RỒI MỚI THẤY NÓ ĐÚNG
MỘT LỆNH RÚT TỪ SÀI GÒN NHANH VÀ VÔ TRÁCH NHIỆM ĐẾN NỖI AI CŨNG NGỠ NGÀNG NHƯ NẰM MƠ
***
TOÁN TÙ BINH ĐẦU TIÊN QUA SÔNG THẠCH HÃN
Trưa 24 /3/1975 chúng tôi 17 người, là toán TÙ BINH ĐẦU TIÊN BỊ ĐƯA QUA SÔNG THẠCH HÃN
-tối đó được ăn uống , có mấy trái bính ngô đám tù binh nấu ăn xong tối được dẫn đi ngay
qua mấy khúc sông cạn người lính VC thản nhiên" trut quần" lội qua , vai vẫn đeo xuống , qua sông bận quần lại "khỏe re" thật đơn giản như du kích.
tối đó chúng tôi được dẫn ra phía Bến Đá đường lộ 1
sa’ng 24 tháng 3/75
cả toán tù binh đại đội 2 chúng tôi 17 người đang bị dẫn ra huớng Đông hà ,khoảng 2 vệ binh VC đi theo . Chặng Cầu Dài. ( trong thời gian tù chúng tôi được biết phía bên VC lính trơn tức binh nhì họ gọi là "VỆ BINH")

Từng toán du kích đi ngược huớng chúng tôi họ theo đường lộ tiến vô huớng Huế. Đồng bào lại một lần nữa chạy lui do QT đã mất .
Du kích ai cũng đeo ba lô bộ đội màu xanh đầy cứng
Chúng tôi là đám tù binh đầu tiên đang bị dẫn ra huớng Bắc sau khi Quảng trị di tản

Thế là tuyến Mỹ chánh lũng rồi , tuyến Sông BỒ chắc đang nao núng thậm tệ
-Ngang khoảng gần Cầu Dài chúng tôi được lệnh nghỉ chân ,kiếm gì ăn bên các nhà hoang bên đường
-vài du kích tò mò hỏi thăm chúng tôi , có một số cho lương khô 701
họ nói:
-mừng cho mấy eng rứa là sống rồi...
-Ba Lô họ mang nặng chịch, chúng tôi được biết toàn là cờ "giải phóng "
-lần đầu tiên tôi thấy mấy o du kích to con lục lưỡng người chắc nịch , ba lô sau vai toàn đi bộ họ ở đâu giờ đây xuất hiện lại đông thế?

Có hai vệ binh VC tiếp tục dẫn chúng tôi ra huớng Đông Hà. Có thể ngang đoạn này toán quay phim ghi lại hình ảnh chúng tôi đang đi bộ tiến ra lại hướng Quảng Trị và sông Thạch Hãn. Thật may, 2 người vệ binh dẫn tù đón được chiếc xe Molotova đang chạy không về lại đơn vị liền ngoắc lại xin quá giang và khỏi đi bộ. Người tài xế bộ đội đang chạy ra không, thấy dẫn tù cũng ra tay hào hiệp chịu chở chúng tôi ra Đông Hà.

-Đến sông Thạch Hãn lần đầu tiên chúng tôi thấy chiếc cầu phà do công binh VC lắp nhanh để quân họ tiến vô nam.

- Quá trưa 24/3/75, chiếc xe molotova thả chúng tôi gần chợ Đông hà.

TẠI SAO RẤT ĐÔNG NGƯỜI TRONG CHỢ ĐÔNG HÀ CHẠY RA XEM TÙ BINH TRONG NAM RA

Sau này chúng tôi dễ hiểu, do họ là người Triệu Phong và Quảng Trị bị kẹt lại vào năm 1972 đến nay, bà con QT đang ở Chợ Đông Hà đây là lần đầu tiên nghe tin Có lính VNCH bị bắt và đang bị đưa ra đây. Lính TKQT đa số là Triệu Phong và Hải Lăng , bà con kẹt lại biết có bà con mình trong số đó nên chạy ra đứng đầy hai bên để coi.
Quả đúng, trong số anh em tù binh này có người nhận được bà con, họ cho luôn tờ bạc bắc 10 đồng lớn màu đỏ . Sau này tôi biết được tờ bạc này lớn nhất tại miền bắc lúc đó.



tối 24 tháng 3/75

chúng tôi bị đưa về thôn An Lạc Đông hà tạm giữ tại đây. Khoảng một tuần lễ tại đây lưu trú trong mấy xóm nhà dân bỏ hoang cạnh sông đông hà. TÔi và Ngọc là hai trung đội trưởng nhưng lại là hai sĩ quan duy nhất trong số tù binh dẫn ra đầu tiên tại đây. Hàng ngày hai tôi và Ngọc phải lên gặp cán bộ. Họ theo dõi tình hình chiến sự hàng ngày , Huế đang thất thủ , đang có rối loạn ở Thuận An.

Mấy cán bộ ở đây bảo tôi vào Ngọc thu băng cassette kêu gọi anh em trong Huế buông súng theo tờ giấy họ viết sẵn. Tôi còn nhớ họ bảo tôi phải sửa lại một vài chữ thí dụ họ bảo xóa những chữ ...ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO THEO CÔNG ƯỚC GENEVA TÙ BINH QUỐC TẾ mà họ bảo nói lại...ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO THEO CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG VÀ NHÂN ĐẠO 12 ĐIỂM CỦA CÁCH MẠNG

Mấy người chính trị viên làm rất gấp vấn đề trên. Thời gian này là Thuận An đang khủng hoảng vấn đề giải tỏa số quân đang tập trung tại đó rất đông. Đủ thứ binh chủng nhất là dù và TQLC. Đèo Hải Vân đã bị chận.

26 tháng 3

tôi nghe tin Huế mất
cán bộ VC theo tình hình từng giờ
tôi nghe tin Thuận An quá rộn.
Sau này tôi mới biết có một số của Tiểu Đoàn 105 TKQT chạy vào Thuận An nhưng trước sau gì cũng bị bắt và bị dẫn ra lại QT lên đến Khe Sanh, Tà Cơn đi bộ xa xôi tơi tả hơn chúng tôi nhiều lần. Chúng tôi bị bắt sớm nhất nhưng lại đi bộ ít hơn do từ Mỹ Chánh ra mà thôi.

29 tháng 3
tôi nghe tin Đà nẵng mất
Những tin chiến thắng như thế các chính trị viên đều cho tù binh hay vừa khoe thành tích của họ vừa lung lạc tinh thần chúng tôi

Đầu tháng 4/1975

chúng tôi được cho di chuyển về trường Tiểu Học Lai phước. Trường này khá nhiều dãy lớp, gần sông. Lai phước từ Đông hà đi vô hướng Quảng Trị.
Trường gần ngay sông Lai Phước cách cầu khoảng vài trăm mét.
Thời gian trú ngụ khoảng một tuần
-Tù binh trong Huế bắt đầu ra đông, chuyện ăn ở càng lúng túng, nhờ con sông Lai phước chúng tôi ra giặt giủ tắm rửa và ngủ trong trường này.

LÊN BA LÒNG
Qua Đèo Ba Lòng

15/4/1975

Sau khi ngủ qua đêm trong một đơn vị lán trại bộ đội bỏ trống tại Cùa, đoàn tù binh chúng tôi được dẫn bộ theo một sơn lộ đi về hướng Ba Lòng. Con đường đất đỏ quanh co, hai bên còn loang lổ hố bom, đi xuyên qua mấy trãng đồi tranh xanh ngắt. Đi từ sáng tinh mơ khoảng xế trưa thì đoàn tù binh bắt đầu qua Đèo Ba Lòng.



Theo lời cán bộ dẫn tù cho biết: độ dài của đèo Ba Lòng phải tới bảy tám cây số. Đường đèo thì leo dốc, do vậy thỉnh thoảng chúng tôi được nghỉ giải lao. Họ là bộ đội nên áp dụng “luật quân hành”có nghĩa đi  bộ một giờ được nghỉ giải lao mười lăm phút. Ngang lưng chừng đèo, chúng tôi được dừng nghỉ sức theo quy định. 
Được nghỉ, tôi để nguyên cái ba lô dựa vào vách núi.  Vài ngọn đót, mấy vòi mây nước từ trên cao buông vu vơ trước mắt tôi. Tôi lại nghe xa xa tiếng ve núi bắt đầu 'ca vang' đón hè. Trời tháng Tư khí hậu Quảng Trị bắt đầu nóng. Cái áo ka ki của tôi giờ đã thấm ướt mồ hôi. Gần ba tuần , tù binh bị giam tại trường Lai Phước chưa có gì cả? Ai có gì bận đó; đa số còn bận áo lính, chân mang đủ thứ dép. Có điều đặc biệt không ai được mang giày lính?

Có mấy ông cán bộ vc, có thể là cấp úy, họ có bình thủy nước trà mang theo uống dọc đường. Tôi chưa quên một kinh nghiệm khá 'lạ lùng'  do những người này chỉ cho tù binh khi lên dốc nên mang ba lô ngược trước ngực, sức nặng sẽ kéo giúp đi lên mạnh hơn. Trái lại lúc xuống  đèo, thì đưa ba lô  trở lại phía lưng- nó sẽ kéo người lui sau, khỏi chúi người. Thật là thứ kinh nghiệm 'vượt đèo'  lạ lùng, lần đầu tiên trong đời chúng tôi nghe được.
 Quy định dừng chân tạm nghỉ là mười lăm phút cho một giờ đi, nhưng thời gian nghỉ có khi khá lâu. Mấy người bộ đội này cho biết lên tới đỉnh đèo đổ xuống bên kia là thung lũng Ba Lòng. Sắp tới rồi hay sao? Như thế là đoàn tù này sẽ tới Ba Lòng, cái đích của chuyến đi này.

 Tôi tiếp tục dựa lưng vào vách núi ngắm cái hẽm núi trước mắt mình. Vài bóng mây nhàn nhạt  đang la đà dưới đó. Những làn mây mỏng không che hết màu xanh của lá cây. Tiếng ve thỉnh thoảng ngưng kêu, trả lại sự im lặng cho núi rừng.


Mới hôm qua,  lần đầu tiên chúng tôi ăn củ cây bông chuối (trước tôi gọi là chuối tây), ngày xưa người mình hay trồng làm cảnh. Họ cho  tù binh nhổ lên, nấu ăn tối. Té ra chuối tây phần củ của nó khi nấu chín ăn chẳng khác gì củ hoành tinh. Họ bảo đó là cây "cứu đói". Bộ đội ăn rồi trồng lại ngay để bộ đội tới sau có "cái ăn". Đất Cùa quả thật tốt. Những bụi cây bông chuối cao ngang đầu người, rậm rịt, chúng che mất mấy "cái lán" nho nhỏ. Một đơn vị bộ đội nào đó từng ở đây giờ họ đi đâu, chỉ còn lại những túp lều vách đất, trống không?

Bao nhiêu hình ảnh xáo trộn trong đầu...thế mà ba tuần rồi tính từ lúc đại đội chúng tôi tan hàng tại Mỹ Chánh. Mười bảy người được dẫn bộ ra múi cầu Đông Hà trú một tuần tại Thôn An Lạc. Thời gian này chúng tôi nghe tin Thuận An náo loạn? Tiếp đó Đà Nẵng ...Sau đó họ dẫn chúng tôi lên tại một trường học Lai Phước đóng tạm tại đây. Tù binh trong Huế ra càng lúc càng đông.  Ngày ngày ra tắm giặt bên con sông. Sau hai tuần, đoàn tù có lệnh di chuyển. Chúng tôi được dẫn bộ theo đường số Chín lên đến Cam Lộ thì rẽ lên hướng Cùa. Tối qua và đi đến trưa nay thì cả đoàn tù được dừng  nghỉ tại đây.

Từ độ cao này tôi định hướng nhìn về hướng dưới kia- Đông Hà hay Quảng Trị một đường ngang của một dãi đồng bằng hẹp, bằng phẳng. Hướng nam trong kia xa hơn. Giờ này thì Huế và Đà Nẵng mất rồi. Hai tuần tù binh trú tạm tại trường học Lai Phước cạnh con sông, tù từ trong đó ra càng lúc càng đông: nhiều thứ lính: từ áo ô liu cho đến rằn ri.  Giờ trong nam ra sao? Bình Tuy ra sao? Người ta đồn ranh giới hai bên có thể là Phan Rang? Tôi mong sao được như thế. Nếu được thế Bình Tuy, bà con tôi bà con QT còn thuộc VNCH còn lại...hình ảnh ngày cuối cùng tôi bị bắt. Ruộng Ưu Điềm mới cấy, Làng Siêu Quần- cái làng có đàn muỗi vo ve đến 'chóng mặt'. Về ngược lại Trạch Phổ gần Ưu Điềm bên này sông Ô Lâu nơi nào đồng bào cũng chạy sạch? Chuyến xe tiếp tế cuối cùng và tin chợ Đông Ba cháy đó là những tin tức sau cùng trong đời quân ngũ. Cho đến ngày 23 tháng 3- cái ngày tôi và mười mấy người trong đại đội trở thành tù binh bên sông Mỹ Chánh.  Đám ruộng làng Trạch Phổ, Ưu Điềm thuộc Xã Phong Bình có tên trên tấm bản đồ mà người trung đội trưởng như tôi luôn nhét trong ngực. Tấm bản đồ cùng quả lựu đạn mini nhỏ xíu- quà kỷ niệm của cậu tôi cho ngày ra phép cuối năm 1974 tôi ghé tạt qua Sơn Trà, một đơn vị Lôi Hổ- tất cả đều vứt lại tại cánh ruộng mới cấy đó...

***
       nguồn Thạch Hãn (Ba Lòng)

Dòng suy nghĩ của tôi dừng lại khi toán ‘quân’ nói đúng hơn là toán tù được lệnh tiếp tục đi. Có vài người  kiếm đâu ra thanh cây lụi làm que chống để lên đèo, riêng tôi thì không. Tôi và Ngọc do là hai sĩ quan trung đội nên cùng có nhau trên chuyến đi Ba Lòng này. Có một số khác đều từ Huế ra: Bãi Thuận An, Phú Bài, Trung đoàn 54...chúng tôi chưa biết nhau.

Hơn hai tiếng đồng hồ, toán tù binh đã lên đến đỉnh và tiếp tục đổ đèo. Tầm nhìn bên kia bắt đầu mở rộng trước mắt chúng tôi. Một phong cảnh hoàn toàn khác lạ. Bắt đầu xuống đèo...dưới kia thấp thoáng ánh nước một dòng sông. Thạch Hãn và Thung Lũng Ba Lòng đó rồi chăng?!

                Thung Lũng Ba Lòng hôm nay

***
Khoảng năm 1960, tôi có theo ba tôi lên Ba Lòng. Nhưng lúc đó ba tôi theo đò chèo ngược dòng Thạch Hãn để lên quận này. Thời gian đó, Quận Ba Lòng vẫn còn. Quận và Chi CA  còn đóng trên này.  Tôi mới sáu, bảy tuổi nên trí nhớ không rõ ràng lắm. Giờ này, dù ai có giải thích hay nói một tên khác nhưng tôi từng tới vùng đất dưới kia từ thưở bé thơ. Đó là một ngày có con đò chèo từ thành phố thân yêu đi ngược Thạch Hãn, tận một thung lũng có tên Ba Lòng. Một nơi có làng mạc có dân cư hiền hòa cùng những đồng bắp tốt tươi. Riêng tôi, tất cả hình ảnh nằm trong kỷ niệm như thôi thúc chân tôi bước nhanh hơn để xuống đèo xem tận mắt giờ cái vùng kỷ niệm nay ra sao.

Chúng tôi cố bước theo nhau- những bước chân đi như không định hướng. Sự sụp đổ lan nhanh không ai ngờ mà chẳng ai chống lại được? Tôi vừa đi vừa thả hồn về hình ảnh cũ: Rà Vịnh- Ba Lòng- Bến Đá Nổi, có thể người bên kia chiến tuyến chưa ai từng nghe qua. Đối tôi vẫn giữ mãi trong lòng những cái tên đó...Một ngày xưa có tiếng chèo của người trạo phu khua nước trong đêm, có thằng bé theo cha ngược dòng Thạch Giang lên tận một nơi được người viết xem như là một "thung lũng thần tiên".  

Gần hai mươi năm sau, đứa bé kia lại được về lại cái thung lũng "thần tiên" đó nhưng trong thân phận của người tù binh chiến bại. Ngoái về hướng nam, người tù bình biết chắc một điều là Xuân Này Con Không Về, mẹ và người thân yêu xin đừng đợi nữa./.


BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...