Monday, January 16, 2023

TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH GIỮ NÚI

ĐỘNG ÔNG DO XUÂN 1975

    Quà cho lính tiền phương chỉ đơn sơ, vài cặp bánh chưng, vài chiếc bánh ú tượng trưng cho hương vị xuân dân tộc nhưng tụi mình cảm động biết bao! Dân hồi cư, không còn trợ cấp, đa số sống nhờ vào đồng lương ít ỏi, chật-vật khó khăn chỉ vài ba miếng ruộng chưa bao giờ 'thẳng cánh cò bay ' thôi nhưng tấm lòng hậu phương, tình cho người lính chiến bà con không bao giờ phai lạt. 
Nhớ làm sao hình ảnh mấy cặp bánh ú mộc mạc đơn sơ, nhưng lại đầy ắp tình cảm. Chút quà lên núi đã sưởi ấm lòng người lính tiền phương.  Cạnh miệng hầm chiến đấu, mấy miếng lá chuối ăn xong còn đó. Không ai vứt đi do muốn giữ lại chút hình ảnh của gia đình, để biết rằng mình không bị lãng quên.


Bếp lửa hồng, nồi bánh chưng xanh trong đêm trừ tịch của khung trời kỷ niệm ngày nào gợi lại trong tâm tưởng mình qua mấy cái bánh ú đơn sơ từ hậu phương gởi tặng. Xin cám ơn những tấm lòng vàng, xin cám ơn cám ơn tình cảm thắm thiết hậu phương thương mến. Trên đỉnh quê hương dù người lính  đón Tết bằng những túi gạo sấy, ít lon thịt heo nấu loãng thế mà tụi mình vẫn khắng khít bên nhau. Đời lính chiến, chốn núi rừng chia nhau từng điếu thuốc. Phần gạo hay lương khô tằn tiện qua ngày. Chiều ba mươi Tết có vài đứa bò lên chóp cao kiếm ra một bao đầy rau má, về chốt chia nhau để có thêm chút nào đó chất tươi. Tụi mình quen rồi, không kêu than, không buồn phiền chấp nhận tất cả. Đời lính tiền đồn, lâu rồi vẫn thế - đơn sơ bình dị.  
Những chiều mưa biên giới, chiếc poncho mòn theo gió núi; cái mũ sắt bao ngày cùng rỉ sét với mưa rừng. Căn hầm ẩm ướt hay giao thông hào bùn sình đất đỏ. Đôi giày saut sờn gót lâu ngày, chưa bao giờ thay mới...
Lính kêu ca ai? thôi đành chấp nhận.
*
Xuân về rồi. Làm sao quên được phút giây trừ tịch của năm Một Chín Bảy Lăm. Giây phút chuyển mình năm cũ và mới; nhưng phút giây đó ai có ngờ đâu là đó là lần trừ tịch cuối cùng của đời lính chiến VNCH và rồi sẽ không bao giờ có lại trên đỉnh cao quê hương một lần nào nữa. 
Xuân Một Chín Bảy Lăm đang về trên mọi nẻo đường đất nước. Không riêng một ai mà cho cả miền nam có một trừ tịch cuối cùng để rồi tức tưởi chia tay tiễn đưa một MÙA XUÂN CỘNG HÒA về miền dĩ vãng. 
 Riêng trên đỉnh cao này, cũng như nhấp nhô những đỉnh cao bè bạn có những đứa như mình vẫn còn đang đối diện với những đồi tranh trải dài bất tận về tận phía đồng bằng.  Chiều về lắng tai nghe tiếng bìm bịp kêu tiễn ngày đi. Hàng đêm, mình cố căng mắt hướng về bóng tối sâu thăm thẳm lắng nghe tiếng chim Từ Quy gọi đàn, ngóng đợi ánh dương lên để biết mình đã qua một đêm vô sự. Mùa xuân đang về trên muôn vật- chúng mình biết thế, nhưng mùa xuân chưa về nơi đây- chốn núi rừng, vẫn chưa ai nghĩ đến một mùa xuân.


Đối diện Động Tiên (295 met) -những ngày cuối cùng
vòng tròn đánh dấu điểm đóng quân cuối cùng của tác giả trong nghiệp lính ngày 17/3/1975

dấu vòng tròn là chốt cuối cùng đối diện Động Tiên 295 mét, ngày cuối cùng là ngày 17/3/1975

Xuân 1975 - mùa xuân cuối cùng của người lính VNCH 

Sau Tết đơn vị mình lại được lệnh di chuyển xa thêm, mặt trước động Ông Do, đối diện với Động Tiên, trong bản đồ cao hơn đỉnh Tiểu đoàn 105 hai mươi mét. Trung đội mình là tiền đồn cho đại đội 2, xem như là chốt xa nhất, giáp với phía bên kia. Những ngày này nghe tin Ban Mê Thuột đã mất (10/3/1975), không khí càng căng thẳng thêm!

Ngày nào trời quang đãng, đứng dưới giao thông hào, mình ló đầu ngó về dưới kia qua khe Trai. Dòng Thạch Hãn lượn vòng qua Trấm, tạo thành khúc sông hình chữ U rồi  xuôi về An Đôn, Như Lệ.

Sông sẽ trôi qua chiếc cầu sụp đổ, lặng lẽ men qua phố xưa đổ nát, lau lách đìu hiu.

cổng trường Trung Học Nguyễn Hoàng

Sông có hỏi bao người xưa nay biền biệt phương nào? Sông thương cho mái trường xưa hay khóc cho những mẫu đời truân chuyên của người dân Quảng trị, "đất cày lên sỏi đá".  Máu và nước mắt quê hương như quyện vào nhau, dệt nên khúc sử bi ai, thống khổ! Thạch Giang như người cô đơn về ngang bến cũ, nay vắng chuyến đò ngang. Sông khóc cho phố xưa đổ nát. Ôi bao gạch đá hòa xen lau lách đìu hiu; tất cả như cúi mặc niệm tiễn dòng sông xuôi về hạ lưu để âm thầm về với mẹ biển Thái Bình.

17/3/1975
Ai ngờ đâu! đây là ngày cuối cùng trên rặng Trường Sơn. Những toán lính âm thầm bỏ núi. Những toán quân mất dạng, khuất hút trong những mảng rừng tranh. Một không gian lặng phắt, mọi vật đều im lìm đến rợn người.
Rút lui thì xem như thua trận. Một mệnh lệnh đau đớn, điếng người. Ngổn ngang trăm thứ, bất ngờ đến nghẹt thở. Chỉ thoáng giây thôi, tất cả phải dứt lìa mà đi, vĩnh biệt miệng hầm ẩm thấp, xa rồi bao ngọn cỏ và lau lách đìu hiu. Một buổi sáng chia tay với lau rừng vách núi...những người bạn âm thầm và vô tri.

 Đó là một ngày không nghe được tiếng chim, trời không gió, chẳng mây, khô cứng và nghẹn lơi. chẳng biết đến những gì đang xảy ra phía đồng bằng, những nơi mà người lính giữ núi sắp về?!
 
Ngoái nhìn lại chóp núi phía sau, người lính VNCH bỗng thốt lên:

TRƯỜNG SƠN ƠI, THÔI TA XIN CHÀO VĨNH BIỆT!

ĐHL

nhớ ngày vĩnh biệt Động Ông Do 17/3/ 1975 

Quân Bắc Việt chiếm đỉnh Ông Đô sau khi VNCH rút lui 

ĐHL edition

xuân nhớ Trường Sơn 

Saturday, January 14, 2023

ĐI CHIẾN DỊCH- TƯỞNG NIỆM 50 NĂM NGÀY KÝ THỎA ƯỚC 'CỘT TAY' BA LÊ 27/1/1973- 2023

ĐI CHIẾN DỊCH
















  






những 'con cá vàng'  Khoa' 8/72

Hôm nay có anh miền chiến dịch, ôm súng mơ ngày về quang vinh  (Phạm đình Chương )

***


ĐI CHIẾN DỊCH RA SAO ?

Thưa bạn đọc

27/1/1973 một ngày đáng nhớ không những trong lịch sử kháng cộng của VNCH nhưng lại khó quên riêng đối với một số khá đông sinh viên sĩ quan từng "xếp bút nghiên"  sau chiến sự 1972 hay còn gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa. Lý do: lớp người này từng được lệnh đi giải thích, tuyên truyền cho một hiệp định vừa được ký kết tại thủ đô Paris nước Pháp. Tất cả SVSQ đang thụ huấn tại các quân trường Thủ đức, Quang trung, Võ Bị, Chiến Tranh chính trị đều được tạm thời ngưng thụ huấn để tung ra các miền đất nước về tận các xã thôn dù hẻo lánh để giải thích về Thỏa Ước đó nói gì. Lệnh rất gấp, nên người viết nhớ lại không có thì giờ được giảng dạy về nội dung và cách thức giải thích cho dân trong công tác khẩn cấp đó. Hạ hồi phân giải, lớp thụ huấn đã gắn Alpha và ngay cả chưa gắn Alpha cũng "tạm gắn Alpha" cùng nhau lên xe GMC của các quân trường tới tận các địa điểm công tác rồi hẳn tính sau. Tác giả nhớ lại, các svsq đi chiến dịch về tới các tiểu khu-chi khu đều được các sĩ quan chiến tranh chính trị lược giải và ban bố trách nhiệm. 
Nói đúng ra, với trình độ SVSQ  thì đa số không tệ đến nổi không hiểu hay 'mù tịt' về nội dung Thỏa Ước 1973. Chỉ quan trọng một điều vùng công tác có an ninh để các toán đi giải thích-tuyên truyền làm được việc? Thứ hai nữa, điều kiện nơi công tác có khả thi và tới tai người dân hay chăng? Người viết có may mắn lọt vào trong thời điểm này. Những sĩ quan đàn anh ra trường trước, phục vụ trước đôi lúc đọc lại bài này có thể hình dung hình ảnh đúng năm mươi năm trước có những toán svsq đàn em mang "con cá vàng" trên cổ áo, ngơ ngác về nhận nhiệm vụ ngắn hạn nơi vùng mình.
Năm mươi năm rồi, nửa thế kỷ qua nhanh. Những hình ảnh xa xưa chợt trở về dưới phím bút người kể chuyện. Bao đứa bạn, đồng môn- đồng khóa chắc vẫn còn nhiều hơn lớp đàn anh đi trước. Kể chuyện xưa để hồi tưởng, nhắc ngày cũ, nhớ bạn thương bè. 
Thỏa Ước Ba lê 1973, rồi tháng TƯ Đen 1975 cách nhau không mấy. Khoảng thời gian chỉ có HAI NĂM nhưng chính đó là SỐ PHẬN cuối cùng, chấm dứt một chính thể, một miền nam chiến đấu cho lý tưởng tự do, dân chủ,  nhân quyền, nhân vị và nhân bản nhưng phải chết một cách đau thương, tức tưởi do họng súng xâm lăng của Cộng Sản bạo tàn và sự "thay lòng đổi dạ" của Thế Giới Tự Do.
ĐHL 
15/1/2023

*

Đi Chiến Dịch - Nghe ra có vẻ 'quan trọng'! nhưng người viết xin thưa rằng thật ra không phải một 'trận đánh lớn' nào cả, chỉ một việc duy nhất đi giải thích về Hòa Ước Ngưng Bắn Paris 27/1/1973 cho VNCH thôi.  Đồng thời chúng tôi tự cho thời gian đi chiến dịch đó là một dịp  'nghỉ phép dài hạn' từ mấy quân trường tản ra khắp Bốn Vùng, chia nhau đi tận mọi ngỏ ngách, thôn làng nói cho dân nghe 'ngưng bắn rồi'ai đâu ở đó không xâm phạm vào nhau ? Đó là chuyện trên giấy tờ, mấy ông lính quân trường nghe sao nói vậy, cho dân hiểu cho dân nghe, tuy thực tế có thể khác.

  Năm mươi năm, đúng nửa thế kỷ rồi; ai còn ai mất? Lớp đi chiến dịch hồi đó trẻ lắm thì năm nay lại đúng bảy mươi "thất thập cổ lai hi". Người viết lần này có mục chính là nhắc về thời son trẻ, mới rời ghế nhà trường, tuổi thanh niên yêu đời lắm mộng mơ. 
            đêm gắn Alpha, Đống Đế Nha Trang
   Sau Hòa Ước, hàng ngàn SVSQ  những 'con cá vàng tung tăng' đi khắp nơi, ra trung hay vào tận miền nam lục tỉnh. 'Con cá vàng' nghĩa là Alpha, đó là sinh viên sĩ quan dù Đống Đế hay Thủ Đức hay hiện dịch như Võ Bị Đà Lạt, Chiến tranh Chính Trị gì đều được lệnh tạm ngưng học, có công tác phí, vẫn ăn lương, được "hồi tố"[1] đi thông tin tuyên truyền ráo trọi. Có người chưa gắn được 'con cá vàng' cũng được gắn tạm, gắn trước giai đoạn Hai tạm xa quân trường trong vài chục ngày cho kịp nhu cầu Chiến Dịch.



NHỮNG LỨA NGUYỄN HOÀNG 65-72  KHÔNG NGỜ 1 NĂM SAU PHẦN NHIỀU ĐI VÀO NGHIỆP LÍNH ( Võ Văn Khiến ngoài cùng trái ảnh - Trần Túy Huệ bím tóc ngoài phải)


  Mấy đứa số hên, vừa rời Nguyễn Hoàng, vừa xa quê Quảng Trị, hay vừa may mắn thoát nạn Đại Lộ kinh Hoàng, cổ áo đeo 'con cá vàng, bận bộ ka ki xanh chiến dịch, chân đôi giày đen bóng loáng về lại Trạm cư Hòa Khánh, Non Nước tại Đà Nẵng giữa năm 1973 công tác cho Chiến Dịch. Một công hai chuyện, khi không về lại giữa lòng quê hương dù bà con đang tạm trú tại Đà Nẵng. Mấy anh chàng SVSQ hay đi dọc theo mấy quán cà phê 'mái tranh vách lá' dọc theo con đường tạm cư Hòa Khánh, sát cái chợ tranh và lá Hòa Khánh tán gẫu gì đó... Có đứa cựu HS Nguyễn Hoàng nay là lính, trở về hay đón đầu cô giáo cũng cựu nữ sinh NH ngày cũ hiện đi dạy giờ  sống tạm qua ngày. Cô nàng vừa ra khỏi cái trường xiêu- đổ của Trại tỵ nạn Hòa Khánh. 

chợ tạm cư mái tranh vách lá cho đồng bào QT 1973 tại Hòa Khánh Đà Nẵng

Nhắc lại đám cựu học sinh Nguyễn Hoàng trong đám tòng quân sau Mùa Hè 1972 chán khối. Mặt tụi nó hết 'búng ra sữa', khá xạm đen theo nắng thao trường một ít thôi. Nhất là đầu tóc hai 'xăng ti mét', cái mũ bê- rêt đội nghiêng trên đầu, hai 'con cá vàng' trên cổ áo, đôi giày lính đánh 'xi ra' đen bóng. Tất cả gom lại, trông thật oai vệ. Chỉ hơn nửa năm trời, nhưng đố ai nhìn ra?
 

   Cô giáo trại tạm cư, vừa cất cái kính đen mặt rộng ra, Võ văn Khiến, chàng SVSQ [*] bất ngờ muốn 'té ngữa':

   -Ôi! ôi! té ra 'Mộng Đỡ' tề ?![**]

Biệt hiệu cô nàng Túy Huệ , 'nhất quỷ nhì ma' trong lớp Tam C2 Nguyễn Hoàng biết với nhau mà thôi. Đó là chưa kể 'Mộng Cời', " giờ này "em ở đâu" không còn thấy xuất hiện trên khung trời "chiến nạn Hòa Khánh 1972" nữa? Dĩ nhiên những cái tên khá 'đặc biệt' này trong lớp 10 C2, dân NH mới biết. Xếp bút nghiên, trai tòng quân theo nghiệp 'ka ki', gái thì lo đi dạy hay kiếm nghề nào sống. Một thuở chạy Nạn Cầu Dài, người QT chết chóc, khổ cực. Thành phố đó mất rồi, trường ốc mất rồi nên ít ai tiếp tục nối dài sự nghiệp học hành, khoa bảng.



Đó là câu chuyện cũng là SVSQ đi chiến dịch sau Hòa Đàm Ba Lê. Nhưng có đứa may, đứa rủi.  Số học sinh Nguyễn Hoàng này khoác chiến y nhưng còn an ủi được về lại Đà Nẵng để còn gặp lại những người thương mến...bà con cô bác hay bạn cũ cùng trường chung lớp. Chỉ non một năm xa cách nay đã là những hoàn cảnh đổi thay toàn diện.

*
CÓ MẤY ĐỨA KHÔNG CÓ SỐ HÊN PHẢI ĐI CHIẾN DỊCH NHỮNG NƠI LẠ HOẮC  TỪ GIỌNG NÓI CHO ĐẾN PHONG TỤC THÍCH NGHI 

  Những toán SVSQ Chiến Dịch, đến từ nhiều quân trường khác nhau, mấy đứa về lại với bà con làng nước tuy lưu lạc trên quê huơng Đà Nẵng, dang tay ưu ái tiếp nhận cũng thấy ấm lòng. Một năm, hai năm Quảng trị cũng là Đà nẵng, hai khoảnh trời hoàn cảnh tạo thành êm ái thân quen. Sự kiện này do trời sắp đặt đố ai biết trước được nỗi này?

   Đó là chuyện mấy đứa bạn may mắn, phép quân trường làm gì có? khi không, 'trên trời rơi xuống' cho năm 'mươi ngày CHIẾN DỊCH' về ngay lòng quê huơng, vào tâm điểm đồng bào chiến nạn QT đang trú tại Đà nẵng; sao không may mắn được?

   Quân trường nào- 'bò- lê, một -hai- ba -bốn', hai tuần mệt bở hơi tai; nào hít đất nào bị phạt 'dã chiến', khá lắm có nửa ngày phép , đi lòng vòng Nha Trang rồi về ngay. Hoặc Thủ Đức hai tuần có 1 ngày phép luân lưu là lâu dài nhất . Có thể nói trận CHIẾN DỊCH cho Hòa Đàm Ba- lê là dịp "phép xả hơi trên trời rơi xuống" lâu nhất cho tất cả người lính quân trường.

  Số người viết chẳng hên bằng tụi bạn khác. Tác giả được phái đi tới  Quận Củ Chi tỉnh Hậu Nghĩa. Chẳng ai quen biết, xóm làng lạ hoắc, thật lẻ loi, chán nản. Cả toán, dĩ nhiên trong đó có tác giả được phái về Xã Phước Hiệp. Giờ ngồi nhớ lại, cả toán hết tám, chín đứa đứa người trong nam, một mình người viết lại nói giọng Quảng Trị 'nặng ơi là năng!' khi nói ra ít  đứa hiểu?  Thế là giải thích làm gì, ở nhà quách lo việc nấu ăn - đi chợ. Chuyện đi "tuyên truyền, giải thích" Hòa Ước có mấy đứa kia lo...

   Xã Phước Hiệp, mấy ông chú ông anh này cũng người trong xã. Họ rất hiền lành dễ chịu và có tình cảm với lớp thanh niên mới về như chúng tôi. Họ giao cho cả toán svsq một căn nhà trống trước mặt ngôi chợ cũng mang tên Phước Hiệp. Hàng ngày tôi lo phận sự khỏe ru là ngồi giữ đồ cho bạn. Lương lính ít ỏi nhưng còn may mắn do ngôi chợ xã sát trước cửa. Tôi hay nấu cho tụi bạn ăn món ăn theo kiểu Quảng Trị thì tụi nó hay 'khóc', hỏi sao? Chẳng qua vì quá cay. Cay quá, tụi nó đặt tên là "món 'Quảng'"! Đến nay tui vẫn nhớ hình ảnh mấy thằng bạn hít hà, nước mắt ràn rụa như khóc như than? Tụi nó 'phản đối', tụi nó 'biểu tình'! A! nhưng tao là người Quảng mà là Quảng Trị thì phải ăn cay, thế thôi-  chấm hết, nghe chưa?


 

Thằng Tiến người nam, hôm đó liền ở nhà. Hắn ra tay, trổ tài nấu món canh chua. Quả thật, hắn nấu canh chua cá lóc ngon "nhớ đời".  Nhờ hắn, đến nay tôi vẫn chưa quên cách nấu canh chua. Tôi còn khoái về cách thức mua bán ở cái chợ nhà quê này. Mua xong con cá lóc, mấy má cạo vảy, cắt khúc giùm cho. Chúng tôi chỉ việc vô nhà cách đó vài bước, là nấu canh thôi. Xứ Củ Chi đất khô, trồng đậu phụng, lại lắm cây me cho món canh chua cá lóc. Tôi thầm cám ơn thằng Tiến người nam.  Sau ngày ra trường mỗi đứa mỗi nơi , "bóng chim tăm cá" biết tìm ở đâu?

  Ôi, gần hai tháng trời chán ngắt. Tối lại 'cái màn' mười anh em phải vào xã, tự xưng tên, danh số qua máy truyền tin về Chi Khu Củ Chi tức là quận điểm danh vì sợ mấy đứa tôi 'chuồn'[3].




Quận Trảng Bàng nằm về hướng Tây Bắc Sài Gòn vào khoảng 40 kilômét. Xóm Đạo Tha La, thuộc Xã An Hòa, cách Chi Khu Trảng Bàng chừng 4 kilômét về hướng Tây. (blog kontumquetoi)

Đây “Tha La xóm đạo”
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh...


...

  Vùng tôi ở gần xã Trảng Bàng, "Tha La Xóm Đạo' cái bài hát nào đó nghe thơ mộng, nhưng tui chẳng dám mò qua, du kích đầy dãy bên đó, thế là 'mù trớt' tôi gần mà chẳng biết 'người em xóm đạo' là gì? . Vùng 'xôi đậu' Củ Chi có tiếng. Đi ra đường là ánh mắt canh chừng, 'ngày mình- đêm họ', đây là sự thật. Sự dằng co càng nhiều khi hòa bình tạm thời đã ký. Nhưng lằn ranh có phân định rõ ràng đâu, thế là càng thêm rắc rối cho dân. Tôi làm gì được 'tung tăng' đi chơi như mấy đứa bạn tôi kể đoạn trên tức là ngoài trung, hay cụ thể hơn là vùng hoạt động tại Trung Tâm Hòa Khánh 1973 trong thời gian Chiến Dịch. Ở đây vùng không an ninh , ngày tôi bó gối trong căn nhà trống, công tác ít ỏi, chẳng dám đi xa.

  Sau này về lại quân trường, mới hay sau mùa Chiến Dịch, những 'con cá vàng' còn mang theo nhiều mối tình rất ư là "mới' !  Riêng tôi chia tay Hậu Nghĩa, tôi chỉ nhớ (cho đến bây giờ) chỉ cái tên tỉnh lỵ nghe khá hay - Khiêm Cương- một thành phố nhỏ bé lạ lẫm ít ai để ý. Tôi còn nhớ  nồi canh chua thằng Tiến chỉ cho.  Kỷ niệm một lần Chiến Dịch chỉ ngần ấy thôi, ngoài ra tôi chẳng có một mãnh tình nho nhỏ nào 'vắt vai ' nên nghĩ lại hơi buồn.



Ký vào cái gọi là Hòa Ước  Ba lê là hợp thức hóa những vùng 'trái độn' để sự hỗn mang càng chồng chất thêm hai vai người lính miền VNCH. (hình phe MTGPMN bà Bình đang ký)

 Sự tạm bợ mập mờ rõ ràng trước mắt. Giải thích Hiệp Định để được gì khi sự hình thành 'trái độn, da beo' 'rối như canh hẹ' . Cuộc thế tạm bợ đã đành,  Chiến Dịch cũng là tạm bợ . Người dân than vãn, họ không đậm đà gì với chuyện hòa đàm, có vùng phải sống dưới 'hai chính quyền' : một ban ngày , một ban đêm, họ không biết chọn ai ? chỉ mong được an toàn tánh mạng để cày đất, trồng đậu phụng hay làm lụng sinh nhai thôi. Ký vào Thỏa Thuận Ba lê là hợp thức hóa những vùng 'trái độn' để sự hỗn mang càng chồng chất thêm hai vai người lính miền nam. Hậu quả đương nhiên phải đến, không thể nào cưỡng lại.  Ra đi "Chiến Dịch 1973' chẳng khác chi 'khóc trước' một tháng Tư Bi Hận 1975, hơn là những gì háo hức giá như chúng tôi giải thích cho một Hiệp Định hàm chứa chiến thắng bên trong?



  Những thằng mang "
con cá'" trên cổ áo năm nào, những tờ giấy in nội dung của một Hiệp Định thua thiệt đầy tủi hờn, thì làm gì có những niềm vui trong lòng. Bên nào giữ nguyên lằn ranh bên đó, có nghĩa là chúng tôi tự  nhận mất đất cho phía bên kia, và cứ 'đưa lưng cho người ta đấm' cho đến khi nào 'không còn chịu nổi'.

Đúng thật, khi cùng một lúc bị 'cột tay', giảm hết lương thực, súng đạn, cùng nằm 'chịu trận'  thì cái giá trị bi thảm đến rất gần.

 Thôi! nói chi chuyện quá khứ thêm rầu. Chỉ nhớ, vui, hay thương cảm về nhiều kỷ niệm xa xăm ngày đó. Những kỷ niệm một thời son trẻ trong đó có hình ảnh những 'con cá vàng' trong mùa CHIẾN DỊCH HÒA ĐÀM BA LÊ 27 THÁNG GIÊNG 1973 mà thuơng  bao đứa bạn đứa còn, đứa mất ./.

Đinh Hoa Lư

[*]:Võ văn Khiến học sinh trung học Nguyễn Hoàng, ở đường Duy Tân QT- đã qua đời sau 1975

[**}:Mộng Đỡ và Mộng Cời là  2 nữ sinh 11 C2  trường Trung Học Nguyễn Hoàng: Trần Tuý Huệ và  Lê Mỹ Tín 

[1]: Hồi tố có nghĩa thời gian đi chiến dịch cũng được tính gộp vào để sớm lên cấp bậc [2]: người viết đang học cuối giai đoạn 1 tại Quang Trung lại đựơc gắn alpha giả định để đi Chiến Dịch[3]:chuồn; không có phép nhưng rời khỏi đơn vị 

MARTIN LUTHER KING JR. . - NGƯỜI PHẢN CHIẾN BẬC NHẤT TẠI HOA KỲ TRONG CHIẾN TRANH VN (tài liệu Đại Học Stanford Mỹ)


STANFORD UNIVERSITY RESEARCH: DR. LUTHER KING Jr. LÃNH ĐẠO PHẢN CHIẾN TẠI HOA KỲ

 lời bạt: bài dịch này mục đích người dịch cung cấp thêm cho độc giả biết thêm một số thông tin về Dr. King Jr, và phần phẩm bình thuộc độc giả

ĐHL

***

Martin Luther King Jr. speaks at U.C. Berkeley on May 17, 1967. The Upper Sproul Plaza speech about the Vietnam War drew thousands of students.Art Frisch/The Chronicle
ngày 17/5/1967 MS King diễn thuyết chống chiến tranh VN tại đại học Berkeley nơi phản chiến số 1 tại Mỹ 

Sau khi cố tổng thống John F. Kenned ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ lần đầu vào cuộc chiến VN, mục sư Luther King, Jr đã công khai tuyên bố về cuộc chiến VN. Tại Đại Học Howard vào ngày 2/3/1965, mục sư King khẳng định cuộc chiến VN chẳng có kết quả gì và kêu gọi thương lượng.

Khi phản đối nhưng ông lại lo ngại sự phản đối cuộc chiến của ông sẽ gây hại cho quan hệ của ông với TT Johnson người đã có công thông qua Luật Dân Quyền (Civil Rights Act) vào 4/1965. Mặc dù tránh lên án thẳng thừng cuộc chiến VN vào tháng 8 năm 1965 tại hội nghị thường niên  của Hiệp Hội Lãnh Đạo Cơ Đốc Giáo miền Nam (SCLC) Ông King kêu gọi ngưng ném bom miền Bắc VN và kêu gọi Liên Hiệp Quốc (LHQ) có quyền hạn để chấm dứt xung đột. 


Credit...Universal History Archive/Getty Images


Ông ủng hộ TT Johnson về các cuộc đàm phán ngoại giao và phát triển kinh tế như là khởi đầu của hòa giải. Cuối năm 1965 MS King coi vấn đề chiến tranh VN là vấn đề đạo đức. Ông nói “với tư cách là người thuyết giảng phúc âm tôi coi chiến tranh là một tệ nạn. Bất cứ lúc nào Tôi phải nói lên khi chiến tranh leo thang ,..(Phản Đối Chiến Tranh VN)


Các thành viên quốc hội Mỹ, ngay cả báo chí và đồng vụ về dân quyền của ông vào lúc này đã chỉ trích ông, do mục sư King đã với tay quá nhiều qua thông điệp và dân quyền của ông sẽ tổn hại cho công trình tranh đấu  cho người da đen tại nội địa Hoa Kỳ. Sự lo ngại bị gán cho là cộng sản sẽ tác động cho tranh đấu dân quyền của mình nên từ năm 1965-1966  MS King đã từ từ giảm bớt chỉ trích đối với cuộc chiến VN. Vợ của MS King là Coretta Scott King lại đóng vai tích cực hơn trong công việc phản chiến. Bà cùng với Benjamion Spock một bác sĩ nhi khoa nổi tiếng đã phát biểu phản chiến rất tích cực trước Đài tưởng niệm Washington vào ngày 27/11/1965 và cùng các cuộc biểu tình phản chiến khác.

Khi được QH Mỹ cho ra cung khai trước tiểu ban QH về ưu tiên ngân sách vào tháng 12 năm 1966, Ms King cho rằng nên hỗ trợ nhiều hơn cho các chương trình chống đói nghèo tại Mỹ nhằm tái cân bằng và tránh ‘nỗi ám ảnh’ của Mỹ đối với cuộc chiến VN.


Chicago 1968, Dr. Martin Luther King, Jr. marches against the Vietnam War. Ms King Dẫn Đầu tuần hành chống chiến tranh VN tại  Chicago 1968


MS King dẫn đầu cuộc tuần hành phản chiến tại Chicago vào ngày 25/3/1967. Ông cho rằng, “Những quả bom tại VN chính chúng nổ ngay tại nội địa Mỹ sẽ phá hủy đi giấc mơ và khả năng của một nước Mỹ tốt đẹp…(Dr. King Leads Chicago). Sau vài ngày ông cho rằng ông không tranh đấu dưới tư cách là lãnh đạo SCLC mà  là “tư cách cá nhân hay giáo sĩ  và quan tâm đến hòa bình”.


At Riverside Church in Harlem on April 4, 1967, exactly one year before his assassination, Martin Luther King, Jr. delivered a blistering and sophisticated critique of U. S. intervention in Vietnam. His “Beyond Vietnam” speech was prescient in ways that continue to haunt our society into the present day.

Dr. Martin Luther King Jr. (cent
er) and Buddhist monk Thích Nhất Hạnh (right) attend a news conference in Chicago on May 31, 1966
Sư Thích Nhất Hạnh gặp MS King vào ngày 31/5/1966 trong mục đích phản chiến 

Martin Luther King, Jr. said of Thich Nhat Hanh: “I do not personally know of anyone more worthy of the Nobel Peace Prize than this gentle monk from Vietnam.” Photo courtesy of Parallax Press.
TS MARTIN  LUTHER KING JR, TỪNG NÓI VỀ SƯ NHẤT HẠNH:  THEO CÁ NHÂN, ÔNG CHƯA THẤY AI XỨNG ĐÁNG NHẬN GIẢI HÒA BÌNH NOBEL HƠN VỊ SƯ ĐỨC ĐỘ ĐẾN TỪ VIỆT NAM  NÀY  


Sau đó vào ngày 4/4/1967 khi dẫn đầu cuộc biểu tình phản chiến tiếp tục, MS King đưa ra tuyên bố toàn diện và mạnh mẽ nhất trước nhà thờ Riverside ở New York trong bài phát biểu mang tên “Bên Kia Việt Nam / beyond Vietnam) ông cho rằng nỗ lực chiến tranh của Mỹ là “bắt những thanh niên da đen  từng bị xã hội làm tổn thương tâm lý đến một nơi xa hơn 8 nghìn dặm để lo cho quyền tự do cho Đông Nam Á nhưng chính họ lại không có chút tự do nào ở Georgia hay ngay cả East Harlem” ( King, Beyond Vietnam, 143).

Mặc dù cộng đồng vì hòa bình ca ngợi tính cách xông pha của MS King khi ông công khai phản chiến, nhưng nhiều người trong phong trào tranh đấu cho Dân Quyền Mỹ bắt đầu lánh xa lập trường của ông. Hiệp Hội Quốc Gia vì Sự Tiến Bộ của Người Da Màu ( NAAC- National Association for the Advancement of Colored People,phản đối ông trong việc hợp nhất phong trào tranh đấu dân quyền lại với phong trào hòa bình. Không nản chí, MS King cùng bác sĩ Spock và Harry Belafonte dẫn đầu 10,000 người biểu tình phản chiến tại LHQ vào ngày 15/4/1967.

Vào năm 1968 là năm cuối cuộc đời, MS King đã cùng với BS Spock lên dự án tăng cường hoạt động vì hòa bình kịp thời cho cuộc bầu cử Mỹ 1968. Ông King liên kết hoạt động phản chiến với dân quyền trong các bài phát biểu khắp nước.  MS King nhấn mạnh 3 vấn đề nổi bật nhất là 

-PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC

-NGHÈO ĐÓI 

-CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Trong bài thuyết giảng cuối cùng trong đời vào một ngày Chủ Nhật tại Nhà Thờ Quốc Gia ở thủ đô Washington, DC vào ngày 31/3/1968, MS King nói ông tin chắc cuộc chiến VN là cuộc chiến PHI NGHĨA NHẤT trong lịch sử thế giới…

Gần 5 năm sau vụ ám sát MS Luther King, quân đội Hoa Kỳ rút khỏi VN qua Hiệp Nghị Hòa bình (Hòa ước Ba Lê 1973) một hiệp ước từng công nhận hai miên Nam và Bắc Việt Nam ĐỘC LẬP VỚI NHAU.


TRÍCH DỊCH BY ĐHL  23/1/2022

NGUỒN

Martin Luther King, Jr. - Political and Social Views

Vietnamese Conflict, 1961-1975

STANFORD UNIVERSITY / The Martin Luther King, Jr.

Research and Education Institute

 @ LINK

https://kinginstitute.stanford.edu/encyclopedia/vietnam-war#:~:text=King%20led%20his%20first%20anti,King%20Leads%20Chicago%E2%80%9D).

Friday, January 13, 2023

NGÀY XUÂN TRÊN ĐỈNH QUÊ HƯƠNG

 


Tất cả đều thiếu thốn. Phải mò đi ký sổ đại đội rồi đến tháng xem như hết tiền. Họ nói chẳng ngoa "Tiền Lính là Tính Liền"

hình ảnh sưu tầm: Quân Bắc Việt đang tiến chiêm Chốt Động Ông Do (Qt) 1972 lúc này người viết chưa ra đơn vị

Mời anh mời chị, mùa xuân lên đây thăm tôi
Nơi đây xa xôi khuất nẻo thưa người
Núi rừng mịt mù sương...

(Thư Xuân Trên Rừng Cao/ Trịnh Lâm Ngân)

***
 Mười ngày mới có một chuyến xe GMC tiếp tế. Chiếc xe cũ kỷ móp méo lại phải ì ạch 'bò' cho tới đỉnh Ông Do, nơi BCH Tiểu Đoàn 105 đóng mới được đổ hàng xuống. Các đại đội phải cho lính tới đỉnh Ô Do nhận hàng tiếp tế do chiếc xe không thể nào chạy tới chốt của từng đại đội được. Con đường từng gọi là "sơn đạo" màu đỏ thắm, quanh co uốn khúc từ ngã ba QL1 xuyên qua mấy cánh rú càn, leo tới các ngọn đồi cao hơn, rừng lá rậm hơn và độ dốc tới đỉnh ô Do xem như nó đã 'rũ rượi hết hơi' không ai có thể tin nó có thể tiếp tế thêm cho lính chuyến sau nếu không thay xe mới. Thế mà lạ lùng lắm, chiếc GMC gọi là "cà tàng" của Tiểu Đoàn cũng chịu đựng được sự gian truân thiếu thốn chẳng khác gì thân phận người lính Địa Phương Quân địa đầu giới tuyến chút nào. Nghèo, thiếu, lương lá, phụ cấp ít ỏi tất cả cùng nhau chịu gian khổ trong thời chinh chiến.
Diễn tả về chiếc xe cũ của đơn vị chắc người viết cũng nhân đó mà gián tiếp 'thở than' cho thân phận người lính địa phương quân đó chăng? 
TIỀN LÍNH LÀ TÍNH LIỀN, QUẢ KHÔNG SAI

Thiếu tiền lính phải "ký sổ". Chỉ có "người trong cuộc" mới hiểu hai chữ "ký sổ" là gì. Tuy nhiên muốn được "ký sổ" thì chúng tôi phải mò từ chốt trung đội, men theo vài triền đồi tranh hướng tới chốt của đại đội. Chúng tôi chọn cách đi tắt như thế để an toàn cho mình.  Chốt đại đội tức là nơi Ban Chỉ Huy đại đội đóng. Chúng tôi tới, chỉ vài người nên Đại Úy Lê Kim Chung chẳng phàn nàn do còn yên không có tiếng súng. Tới đại đội, không khí sao vui hơn; chuyện dễ hiểu do đây là nơi chỉ huy trực tiếp của tôi.
 Chúng tôi sẽ mua thiếu nghĩa là "ký sổ" những thứ chúng tôi cần, tháng tới lương từ hậu cứ mang lên sẽ thanh toán.  Nào kẹo đậu phụng nào sữa Ông Thọ thêm bịch bột gạo lứt Bích Chi, thuốc hút capstan, ruby queen (ruby đỏ), ruby quân tiếp vụ, tệ lắm là  bastos. Tôi chẳng quên chai dầu nhị thiên đường gió núi lạnh lẽo... hầm bà lằng đủ thứ. Một lần đi một lần nguy hiểm, vượt rừng tranh tới được chốt đại đội nơi có nhiều mặt hàng mà lính đang cần.

*

Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Trên cao nhìn về đồng bằng là cả một mãng mù sương. Những ngày quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.

Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội tôi.


BẠN VỚI BAO THUỐC CAPSTAN
Vào những năm này sao lính phần nhiều ghiền thuốc hút Capstan đến thế. Hút xong bao thuốc đọc ngược rồi lại đọc xuôi, tất cả dân hút đều thuộc và đồng ý những chữ đầu của bao CAPSTAN là:

-Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát? ...CAPSTAN
    ĐỌC NGƯỢC LẠI LÀ
-Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn! ...NATSPAC

  Dù có nhiều câu khác nhưng hai câu trên là hai câu phổ thông nhất mà người lính bộ binh nào vào cái thời ghiền Capstan đều chịu. Điếu thuốc khói vàng cả hai đầu ngón tay, nhưng không có không được? Capstan là lúc còn có tiền, nếu túng quá thì Basto xanh hay tệ hơn nữa là Basto đỏ cũng còn để phì phà cho đỡ cơn ghiền.

            không  ảnh QT trước 1972

   
Nước uống thì chúng tôi phải vác ống đạn bò xuống chân núi để múc nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp làm sao? Không phải chúng tôi sợ cọp hay ngại beo mà là sợ bị đối phương phục kích? Nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chịu 'chết khát' thôi. Nhược điểm của đóng quân trên đỉnh cao là thế. Chúng tôi biết làm sao hơn cái chiến thuật vào thời đó có cái tên là “CHỐT và KIỀNG” một danh từ trong quân trường những người sĩ quan sau này đều được học.

Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Động Ông Do vào thời gian đó. Theo tôi nghĩ, có thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi? Do nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận thì eo hẹp làm sao.

Chuyện lính là vậy, dù sao chăng nữa còn “cái mạng” để hàng ngày được ngắm trời mây sông núi là may mắn lắm rồi.


TIỂU KHU QT ĐÓNG TẠI CỒN CÁT HẢI LĂNG  1973


LẶNG NGẮM  QUÊ  HƯƠNG 

Lúc bình an, thư thả tôi đứng một mình trên đỉnh cao, im lặng  ngắm phía dưới chân núi. Có một con sông nhỏ. Đó là một khám phá lý thú cho riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân tôi tìm ra tên của con sông đó- Sông Nhùng. Ngày xưa tôi quen miệng gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là tên tôi không bao giờ quên. Ngày còn nhỏ- những năm lớp nhì- lớp nhất- tôi hay vào Diên Sanh. Những năm đó, xe hàng từ Quảng Trị vô phải chạy qua Cầu Nhồng. Con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh, qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Xe qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ.

Huyển thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên. Người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma. Có khi ma nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện thời xưa khi còn Pháp, tôi chưa ra đời. Rồi thập niên 1964-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng người hay lái xe vào Cầu Nhồng, đi bộ lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi?

Hôm nay Cầu Nhồng chắc đã vào quên lãng khi Quốc Lộ 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh. Khi viết những dòng này, tôi không biết chiếc cầu đó còn không? Có điều tôi chắc chắn Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu". do Quốc Lộ không còn đi qua nó nữa.

Tôi thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa là cả một bức tranh thuỷ mạc.

Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông như thế. Trước khi đổi quân lên núi, tôi từng đóng quân mạn biển. Khi tai nghe sóng trùng dương và mắt ngắm biển trời bao la bát ngát, tôi mợt chợt nghiệm ra tình yêu nước dâng trào trong cơn gió lộng. Lên đây, vùng cao: một lần nữa khi đứng trên đỉnh cao ngắm xuống một con sông đang lượn lờ uốn khúc, tôi mới nhận ra quê hương sao đẹp quá! HỒN THIÊNG SÔNG NÚI ngàn đời mãi xanh.

..So với tuyến Barbara vùng núi Mỹ Chánh và Phong Điền ngó lên tuyến Động Ông Đô là tuyến núi ngoài cùng. Chốt trung đội 2 của tôi lại là ngoài cùng của tiểu đoàn 105 do đó xem như tôi là 'đứa ngoài cùng biên giới'? Cái mõm chốt của chúng tôi ngó lên Động Tiên cao chớm chở. Động Tiên thuộc về "bên kia" nên rậm rạp hoàn toàn. Họ không bao giờ biết "đóng chốt" là gì ngoài cái việc ẩn nấp và bụi rậm làm nhà hay khe suối, vực sâu làm đường di chuyển...


Từ chốt này tôi lại nhìn về được hướng Trấm có khúc sông hình chữ U của dòng Thạch Hãn. Con sông uốn mình ở đây và đi tiếp về Cầu Ga. Từ độ cao này nếu cố gắng, tôi còn nhìn thấy hình dáng cái cầu Ga đen sì gãy đổ xuống sông từ năm 1972.

Ở vị trí mới này tôi chẳng còn nhìn về được hướng Hải Lăng nữa. Tôi chẳng còn nhìn xuống được khởi đầu của Sông Nhùng đang uốn lượn dưới kia.

Nơi chốt mới đối đầu với Động Tiên tôi chỉ thấy được mạn An Đôn Tích Tường và cái cầu đen sì gãy đổ xuống dòng sông. Con sông mang tên Thạch Hãn sẽ âm thầm chảy qua chiếc cầu gục ngã đó, rồi men theo những đống gạch vụn cùng lau lách đìu hiu. Một thành phố mà hơn ba năm trước còn lao xao tiếng guốc tới trường. Những toán học trò còn vô tư cắp vở đi học, trong đầu chỉ là những hoài bão ước mơ ngây thơ trong trắng...

Còn lắm điều tưởng nhớ về đống tro tàn của một thành phố thân yêu mà ba năm trước nó còn nguyên vẹn. Rồi tất cả đều phải lìa xa? Còn lại gì? họa chăng là tiếng gió hú đêm trường như thanh âm của những oan hồn kêu khóc.  Rồi từ một đỉnh cao quê hương ngày tôi trở lại, hướng về đống gạch đá đổ nát đó, người lính càng nghĩ, càng ngắm, rồi trầm ngâm ngổn ngang bao cảm xúc trong đầu? Tất cả chỉ là vị đắng, đến bởi bao nỗi tiếc nuối, oán hận khôn nguôi và cũng là lạnh giá như nòng súng bên người.
                                                 
Có thể lớp con cháu sau này sẽ ngạc nhiên khi tôi chỉ nhắc chuyện chiếc cầu đã gãy cùng một thành phố lịch sử từng là một đống hoang tàn từ độ 1972. Một ngày hè, có những người dân khốn khổ phải lìa xa quê hương bản quán trong nước mắt bi thương, khổ hận của một đoạn đường tràn đầy máu lệ. Nếu mai kia nếu có ai thương về Quảng Trị xin hãy cùng nhau thắp lên một nén hương lòng.

 Quảng Trị ơi ngày đó xa rồi ./.
TÁI BIÊN 
by ĐHL TẾT KỸ MÃO 2023

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...