Tuesday, March 4, 2025

Hồi Ký Đinh Hoa Lư - RA TRẠI (trọn tập)

 

BÀI VIẾT


 

 

RA TRẠI

Tác giả- Đinh Hoa Lư

 

Trại Bình Điền, Huế 12-6-1980
Làm sạch lại cái ba lô bạc phếch, tôi lật đật bỏ vào vài thứ phải mang theo hôm nay. Chỉ vài ba thứ gồm- bộ áo quần tù mới trại phát, tôi chưa bận lần nào, tất cả thư từ gia đình gữi , vài sợi dây dép lốp. Chừng ấy thôi tôi chẳng có gì để mang về. Tai như ù, miệng khản đặc, tôi lắp bắp nói với mấy anh bạn tù vừa được trại kêu tên ở lại.
-anh cũng có tên, anh Quyết! anh Chuân nữa anh cũng có tên nữa!
....



Làn sương mờ mịt trên đỉnh Bastogne ẩn hiện phía ngoài trại tù. Xung quanh còn dày đặc sương vào sáng sớm, giờ đi lao động. Trại gồm mười dãy nhà tranh song song. Những liếp nhà giữa hai lớp hàng rào cao bằng thép gai, phía trong còn đặt bùng nhùng 'concertina' của Mỹ. Cái chòi trước cổng cao nhất, trên đó có một công an áo vàng cầm sổ điểm danh. Từng đội tù lần lượt ra cổng ...
-những anh có tên sau đây ...đứng qua một bên
-Nguyễn văn A
-Trần văn B
-Ngô văn Chuân
-Nguyễn văn Quyết....
-Đinh trọng Phúc

...
Lỗ tai tôi như lùng bùng , tôi cố tin là mình nghe không lầm ?
-có phải tên em khôn anh Quyết ?
-đúng rồi, tên em đó mà, cả tên anh nữa!
Anh Quyết đội trưởng, mấy người khác và tôi nhanh chóng đứng qua một bên. Những khuôn mặt nét căng thẳng. những người được gọi tên cố làm ra vẻ 'nghiêm trang' nhưng nhưng thật ra ai cũng sướng 'muốn điên'. Bao lần rồi, mỗi lần cán bộ trực đứng trên cái cổng kia đọc tên là có một đợt trại cho tù về. Giờ tuy không nói ra nhưng ai cũng biết.
Các khối kia cũng vậy; mỗi khối có vài người bước ra khỏi hàng. Sáng nay không còn tiếng nói chuyện xì xào râm ran như mọi khi.
Ngoại trù những người có tên đứng lại, còn tất cả lần lượt bước ra cổng tiếp tục đi làm. Những khối tù lần lượt bước xuống những bậc tầng cấp có chắn ngang bằng gỗ rừng, nét mặt đăm chiêu, tư lự:

-Ê nhớ để cái... lại cho tau nghe Q
-Ê mi bỏ cái ...cho tau nghe

...



Những người thiếu may mắn trong đợt này cố ngoái đầu dặn dò người về sáng nay những lời dặn dò như vậy, những thứ cần dùng. Chiều nay khi họ về thì chúng tôi, những người được gọi tên sáng nay, đã rời Trại rồi.
Cái kim may, khúc chỉ, cái lon gô, cái chén cơm, cái bi đông nước ...thậm chí cái bào sắn ra sợi ...mọi thứ đều là 'bảo bối' trong tù.
Tôi để lại cái mũ đi rừng, cái gô đen lại cho thằng Thu nằm cạnh. Hắn dặn tôi thật kỹ trước khi bước ra cổng. Đầu hắn cứ ngoái nhìn lại, ánh mắt khẩn cầu. Nhà Thu ở Huế, tôi thì ở tận Bình Tuy nên hắn chẳng ai cần dặn nhau trước gì,
lý do nếu ai về trước thì chẳng có cơ hội ghé được nhà của ai. Những người ra tù hôm nay đa số gốc Huế. Mấy đứa bạn mà tôi có thể nhắn nhe được về cho gia đình như Côn như Huấn, thì ra tù trước tại Ái Tử,Quảng Trị, sớm hơn mấy năm.


Tôi bỏ vội cái gô và cái mũ vào cái ba lô của Thu phía trên sạp nằm. 'Chia gia tài' là giây phút này, tình bạn cũng thể hiện giây phút này. Kẻ về người ở, những cục đường, những lát khoai luộc, mấy thứ linh tinh tôi đều bỏ lại cho Thu. Tình cảm chân thành hay an ủi nhau ở phút này. Về và ở hay đồn đoán lao xao trong trại, không ai biết ai đi, ai ở, để nói chuyện, để nhắn trước. Cuộc chia tay không bao giờ được trại cho biết trước do 'an ninh ' hay này nọ ...


 Tầng cấp bước lên những căn nhà cán bộ trước trại sao hôm nay tôi bước nhẹ hều. Bước chân lâng lâng sung sướng, cảm giác hơn năm năm tôi mới có. Trong phòng cán bộ đi ra, tôi là người được trại cho số tiền “lớn nhất”- ba mươi hai đồng bạc  do gia đình tôi ở tận Bình Tuy cách xa đây hơn một ngàn cây số! ($0.032 x 1000)


Tôi không nhớ có ngoái lại nhìn cái cổng, cái chòi gác cao của trại một lần cuối cùng hay không, ngoại trừ một hình ảnh tôi nhớ rõ, đó là anh 'tăng gia sản xuất' đứng tần ngần bên mấy luống rau xanh nhìn theo chúng tôi. Khỏi đoán, tôi biết anh đang nghĩ gì. (người viết nhớ đó là hình ảnh anh Đinh Miên Vũ tác giả bài hát Sương Trắng Miền Quê Ngoại, cùng trại)


Thôi, xin giã từ mấy công việc lấy 'phân tù' trộn băm với lá rừng làm nguồn bón cây. Anh' tăng gia' kia còn mãi công việc 'chẳng đặng đừng'- hòa tưới phân người lên mấy luống cải xanh đang mọc nhanh 'phơi phới'. Cũng giống toán thợ rèn làm ra cuốc rựa, ba 'lạng' mỳ tươi 'bồi dưỡng ', đó là phần thuởng của Trại tặng thêm cho họ trong ngày.


Giờ toán chúng tôi cất bước ra về. Tự do thoải mái-khó diễn tả nỗi háo hức bên trong mỗi người, nhưng tất cả đều chung một ý nôn nóng về nhà thật mau.


***


MẤY ENG VỀ CHỊ CÓ ĐEN THÌ ĐỪNG CHÊ NGHE MẤY ENG!


    Mấy trảng đồi đang phủ màu xanh của sắn Bình Điền. Bao công sức của người tù tạo dựng nay xin bỏ lại phía sau. Tước mắt chúng tôi hiện lên hình ảnh xóm làng kinh tế mới của dân mới lên vùng này. Người Huế lên đây không biết khi nào? Họ lên lập nghiệp hay sao? cảm giác chúng tôi thật lạ! Ngày đó đây là rừng, nơi của chiến tranh, mịt mùng khói súng, "Mặt Trận Tây Nam Huế" hàng ngày tin chiến sự in đậm trên mặt báo
Chính Luận, Sóng Thần, hay nghe qua đài BBC, VOA,. Chỉ sáu năm thôi tất cả đều đổi thay, như một giấc mơ, thật sự là mơ ?
Những trảng đồi khai hoang bị đốt cháy nham nhở. Hai bên con đường đất đỏ vài cái quán tranh sơ sài. Phía sau lưng chúng tôi, trong xa kia là mấy trại tù. Những năm xa cách, không ngờ người dân cũng 'đổi đời' như chúng tôi cùng 'đáo sơn tầm thực'. Tù thì trồng sắn, dân cũng chẳng khác gì, tất cả đều lên đây, phá rừng trồng cây lương thực thay cho lúa gạo.
Chúng tôi không ai bảo ai đều sà vào cái quán cơm bình dân bên đường trong lúc chờ xe đò từ Huế lên.
O bán cơm đon đả mời chào:
-Rứa (thế) là sướng quá rồi mấy eng ơi , dưới nhà chắc mừng lắm hỉ!


Mấy anh và tôi 'dạ dạ' luôn miệng, thật lòng cảm tạ lời chúc mừng của O. Lạ gì, thấy chúng tôi, người dân biết ngay tù mới được tha. Nhiều lần như vậy rồi. O nhìn những chiếc áo vằn vện, sọc ngang dọc ai mà chẳng đoán ra. Phải kể mấy cái ba lô nữa, đủ hình dạng, nhưng tất cả đều nhẹ hều. "Gia tài' của tù đều bỏ lại cho bạn. có gì quý đâu ngoại trừ “mang cái mạng” về với gia đình.
- Mấy eng ăn cơm cá dưa kho hỉ?
-Mấy đồng rứa o?

Tôi chỉ hỏi giá, còn chọn lựa thì không. Cơm là 'nhất trên đời" và cũng là thứ hàng 'độc nhất vô nhị' trong cái quán này.
-Hai đồng eng nờ!
"Thế là miềng (mình) còn 29 đồng còn đón xe hàng về Huế nũa," tôi thầm nghĩ.
Gần sáu năm trời, hôm nay tôi mới ăn tô cơm 'ngon nhất' trên đời. Cơm trắng, O đơm khá đầy, cộng thêm hai con cá nục cùng mấy lát dưa huờng kho thấm thía làm sao! Vị giác của tôi lúc này đang 'liên hoan' trong tài kho nấu của O bán hàng người Huế.  Cái bao tử sẵn sàng tiếp nhận những gì từ miệng tôi sau khi 'thuởng thức' và đưa xuống. Tất cả đều thoải mái, không còn những lúc chần chừ lưỡng lự ...hình ảnh mới hôm qua- những củ khoai, khúc sắn phải chia đều trong trại. Củ sắn chia xong, ăn nhanh thì sợ hết! tôi để dành một ít về đêm, ăn dằn bụng trước khi đi ngủ.
Hầu như mọi người đều có lộ phí và ăn tô cơm cá dưa kho của o bán hàng. Những cái đầu gật gù, những lời nói chuyện râm ran, những hẹn hò gặp nhau sau ngày về với gia đình. Chúng tôi không quên nhau- Ái Tử -Thanh Hóa cho tận Bình Điền, biết bao kỷ niệm buồn vui.
O bán cơm bận áo Bà Ba trắng
nhưng đã ố vàng do bụi đỏ Bình Điền và dãi dầu ngày tháng trên này.  Tuy nước da O sạm đi do nắng nóng đất khai hoang nhưng không che đi cái 'chất Huế' từ dưới thành phố lên đây. Dáng nhanh nhẹn, giọng mời ngọt ngào bao lâu nay O quen mua bán dưới Huế. Giờ lên đây, cũng bán mua, nhưng là hàng cơm và thức ăn bình dân hạp với dân nghèo, lam lủ với rẫy rừng, cuốc rựa.
-Mấy eng về chị có đen thì đừng có chê nghe mấy eng!
Câu nói ra bất ngờ của làm chúng tôi không ai bảo ai đều ngước lên nhìn O.
Có thể mấy năm trước O từng chứng kiến cảnh túng bấn của bao người vợ tù gian nan, tất tả ngược xuôi. Những người vợ, người mẹ hay con dâu này bán hết những cái gì bán được trong buổi 'giao thời'. Từ vòng vàng, nhẫn cưới kỷ niệm, cái máy hát, rồi tủ bàn và áo quần nào còn đẹp, tất cả lần lượt “ra đi” do từ thiếu đói của bầy con, sau ngày ba chúng đi tù.
Trong nhóm, tôi là đứa em cấp bậc nhỏ nhất, lại độc thân. Tôi chưa thấm thía những cảm xúc bằng các anh, những người bao đêm quay quắt nhớ vợ thuơng con.
Những tô cơm hôm nay, O xúc đầy hơn, không tính toán. O mừng cho chúng tôi. O nói thật lòng. Năm tháng chịu đựng gian truân, thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, những người vợ tù đáng quý biết bao! Sao mà chê 'đen' được các chị ở nhà ? 'thân cò lặn lội' gần xa, bao dặm đường gian nan tìm ra hạt gạo nuôi con, phần lo bới xách cho chồng trên trại. Hình ảnh đoàn người thăm tù hằng hai tháng, những người đàn bà nay quần thô áo vải, theo bước đi vội vàng, hai cái túi xách đu đưa hai đầu đòn gánh.
Chiếc xe hàng từ Huế lên rồi. Từ xa đám bụi vàng bốc cao. Chúng tôi trả tiền cho o bán cơm vừa khen, vừa cám ơn o về đọi cơm sao ngon quá. Ánh mắt o long lanh, những niềm vui hôm nay cùng nhau chan hòa. Vội vàng ra khỏi cái cái quán tranh, chúng tôi chạy vội tới chiếc xe đang dừng tại cái bải đất trống dưới chân đồi. Vừa chạy, nhưng tai tôi tưởng chừng câu dặn dò của o bán cơm còn văng vẳng sau lưng:

Mấy eng về chị có đen thì đừng có chê nghe mấy eng!

 

HUẾ VÀ NHỮNG CHIẾC XE ĐẠP ÔM

 

Description: Dong lai


Chiếc xe Bình Điền thả chúng tôi xuống gần Ga Huế thì trời chưa chiều lắm. Mấy anh em hối hả chia tay, xong tìm cách nhanh nhất về nhà.
Tôi ngơ ngác ngó quanh. Mấy năm xa vắng cố đô giờ tôi nhìn lại, Huế có vẻ gì xác xơ và xa lạ! Cũng như các bạn khác từ rừng xanh về lại chốn thị thành, mới biết quê hưong chỉ vài năm mà tiều tụy đến não nề! Ga Huế im lìm trong cơn nắng tháng Tám. Cửa cái bể, cái vá. Quanh nơi tôi đứng, vài ba cái quán đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo,
năm ba nải chuối đu đưa.
Tiếng mời đi xe của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại:
- Đi xe khôn eng...? !
-chú... chú ...đi xe cháu nì chú?!

Tôi nhìn quanh toàn là xe đạp. Những chiếc xe méo mó, sét rỉ, không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người Huế giờ lại "sáng tạo" ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Họ phải tận dụng hết sức lực ‘cơ bắp’ của mình kiếm đồng tiền, bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải ‘bấm bụng’ giành miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng. Ngày xưa người ta cũng đi “xe ôm, xe thồ” nhưng tệ lắm là chiếc honda, nhấn ga là chạy “vù vù”, thế mà đã than khổ rồi?
Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Tôi ái ngại nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi. Những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo, giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai. Tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi:
-Về Tây lộc mấy rứa?(bao nhiêu vậy)
-Chú cho ba đồng à chú.

 Nhìn dáng của tôi, em đó cũng chẳng ‘nói thách’ làm gì, chúng tôi là ... cải tạo mà. Xa Tây Lộc không biết mấy năm rồi.  Tôi vẫn nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi, hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây, đặt tên là chợ Tây Lộc, kế đường Trần quốc Toản.
Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương. Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét “rêu phong, rệu rả”. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi hơi lấn người tới trước như muốn mình được ‘nhẹ hơn’. Hỏi chuyện, tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra ngừoi khách. Có khi cả ngày em mới được một ‘cuốc’ xe chỉ đủ mua ba lon gạo.
Xe đã vô cửa Thượng Tứ. Nó cứ rập rành qua mấy đoạn có ổ gà, ổ vịt. Tôi lại rướn người lên cho nhẹ bớt khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ sau, tôi thấy áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.
Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mõi này lại kéo dài trong cái não nùng , buồn tủi, đợi mong.

 

NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH


Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ ‘bạc bắc’ tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp xe vội vàng của em, lưng hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng cảm cho một thiếu niên người Huế, tuổi mới lớn lại gặp gian nan quá sớm. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì. Kiếm khách thêm thì trời đã chiều. Ai đi đâu lúc này? thời buổi ngoài đường người đi bộ “đông hơn xe đạp”.
"Ba lon gạo là cùng!” Tôi nghĩ thầm.
Thời đó “củi quế gạo châu”- vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Vào cuối năm 1975 thời gian tôi đang ở tù tại Trại Ái Tử, mang một đồng “bạc bác” lén về được Chợ Hôm -cái chợ chiều 'chồm hổm' nhà quê gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi mua được đúng "một lon" khoai khô. Tiền thời này, cao nhất là tờ bạc mười đồng màu đỏ trong khi gạo là 'thuốc bổ -sâm nhung '?
Tôi thở dài quay bước tìm nhà mẹ đích tôi (1). Trước kia mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát chợ Tây Lộc, nay đã bị Nhà Nước đuổi hết. Trong chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng"!
Con đường nhỏ về phía phi trường Tây Lộc cũ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi quá mừng và bất ngờ nhưng không quên buông những câu nguyền rũa ai đã giam tôi quá lâu:


-Quân chi ác ôn ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới năm, sáu năm dữ rứa?


Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này. Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm. Sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè. Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc. Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền?


Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32$ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' [2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi, sự thật ngoài trại tù lại khác. Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu, cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và “tiêu chuẩn hoá” nên tất cả đều chỉ có sẵn tại 'chợ đen" mà thôi. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ, vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc.


VỀ LẠI QUẢNG TRỊ
Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường quốc lộ gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí. Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng. Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là BA.
Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về 'định cư' gần ngã tư Quang Trung -Hồ đắc Hanh. Vùng này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả, dù xe đò bị vào 'hợp tác xã xe khách ' từ lâu.
Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa thời Thầy Thích Chánh Trực trụ trì. Tôi và Bốn là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu (Cửa Hậu là một cửa của Thành Cổ: Tiền-Hậu-Tả-Hữu). Tội nghiệp, cái xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất. Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai, nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa, biết ai giúp đòi lại? Bà con thôn xóm ngày xưa sống dọc theo con đường Lê văn Duyệt, tản mác tứ phuơng. Kẻ ở trong nam, người tận khu thị tứ Đông Hà. Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng xem như 'xoá sổ', bà con xóm Cửa Hậu, đường Lê v Duyệt - Duy Tân thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư'  ra lại vùng này hay về làng.
Chuyện hồi cư lần một, nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1973. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ". Đợt hồi cư thứ hai (1975) là cuộc “đổi đời” sâu đậm nhất: ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên, vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh hay Hải Trí.
Cho đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm tác về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'.
Sau khi ăn uống no nê, gặp gỡ chú thím Ba- ba mẹ Bốn- hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà; Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu thị tứ mới của Đông Hà sau "giải phóng' để tìm bà con xóm Cửa Hậu.
Nào hai gia đình dì của Bốn: dì Nậy, dì Giỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã. Nhà Trần Tài (em út của cac anh Tước , Xê -Tước- Tiết,  và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi về ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình; xưa, trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi.
Đến đây, tôi nhớ hình ảnh anh Quang thời học sinh anh Q cũng rất thuơng tôi. Các dì các o ngang lứa mẹ tôi đều thuơng tôi. Ngày 17 tháng 3, 1975 khi rút quân về anh Q. là tiểu đoàn trưởng T Đ 122 TKQT, tôi. chỉ gặp anh lần đó là lần cuối. Thời Cửa Hậu lứa anh Quan anh Truơng Đá, anh Liệu, anh Tùng, anh Thuận (Cai Hy) đều thuơng tôi. Cái tên "Sù Sựa" là do anh Đá đặt cho tôi để “chọc” cho vui. Bốn cứ gọi tôi là "Sù Sựa", bạn ấy gọi riết đến quên cả tên "cúng cơm ' của tôi. Biệt danh này, do Bốn năng gọi mới lan nhanh khắp xóm.
Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà, ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt'. Tôi rất nôn về nam. Gia đình trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ. Tình cảm mẹ tôi tại Tây Lộc, từ bạn bè, bà con lối xóm giúp tôi gần
ba trăm đồng bạc bắc cho tôi làm lộ phí vào nam. Số tiến này lúc này không phải là ít. Nó chứng minh điều tôi nói, bà con lối xóm, bạn bè thuơng tôi như tôi vừa viết chẳng hề sai.

Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký, một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố QT. Lọt đuợc vào lòng chiếc xe 'gió', lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời”.

 


GIÃ TỪ GA HUẾ

 

Description: http://www.video4viet.com/news/2008/01/06/images/4FDI7A_a7tau.jpg

GIAN NAN CHO CÁI VÉ TÀU
Thập niên 1980 dân mình sợ nhất là chuyện đi xa. Huống gì tôi, khi cầm cái giấy ra trại trong tay, nó không thể là cái giấy thông hành loại ưu tiên cho tôi về với gia đình một cách thuận lợi.
Vé tàu đây là vé tàu hoả, hay xe lửa. Ai gọi sao cũng được miễn là đưa được cái 'thân hình' vào trong toa chiếc tàu chợ là một điều may mắn. Năm này nghe đã có tàu THỐNG NHẤT, nhưng đây không phải là hình ảnh người dân mong đợi, huống gì tôi là người tù được tha về.
Trong nhà mạ tôi đã dặn kỹ rồi phải lên ga từ sau nửa đêm mới hi vọng mua được vé tàu hoả. Thế là tôi tìm cách lên ga Huế nằm chờ trong đêm. "Những tư tưởng lớn gặp nhau" khi trong cái phòng rộng không ghế, chẳng bàn, người ngồi lố nhố từ lâu. Người ngồi dựa lưng vào vách,
kẻ lót tạm cái bao nằm co quắp qua đêm. Nhưng chẳng ai rời cái bị lác hay bao bột mỳ cũ đựng đồ bên trong hay mấy cái bao cát màu xanh của quân đội năm xưa.

Những ô cửa bán vé đang đóng im lìm trong canh khuya.
Tôi tìm chỗ, ngồi bệt xuống cái nền xi măng dơ bẩn, dựa lưng suy nghĩ miên man. Tôi nhớ về hình ảnh mấy ngày qua, y như giấc mộng ... Những cái rẫy sắn bạt ngàn, những rừng mây nước đầy gai của Bình Điền phía Tây nam Huế. ,.tiếng trại đọc tên người được tha về, những bước chân người về vội vả không dám ngó lui cái trại tù quá nhiều ấn tượng...tôi không thể chợp mắt chút nào, lòng nôn nao tưởng tượng đến hình ảnh gia đình tôi ba mẹ, các em , dì cậu bà con trong đó sẽ mừng thế nào khi bước chân tôi về đến ngõ.
Tôi lại nhớ về hình ảnh mẹ đích tôi, em Hoà .. còn lại sinh nhai ở Tây Lộc, anh Nghĩa, con đầu ba tôi giờ phiêu bạt ra sao? Tiếng mừng rỡ của những người bạn chí thiết của tôi tại xóm Cửa Hậu một thành phố mất rồi. Sự giúp đỡ chí tình của Bốn và bà con bạn bè ngoài Hải Trí , ngoài Đông hà, ôi ! một tình thuơng , ngập tràn ân nghĩa.
Đêm còn dài. Tôi không dám bắt chuyện với ai. Cái rụt rè của người mới ra tù, giờ tôi nhớ lại . Có lẽ họ xem tôi như 'anh du kích' nào trên rừng mới về do tôi không bận áo quần sọc tù mà bận cái áo ka ki lính màu ô liu đã bạc màu. Cái mũ cối bằng rơm vàng mà trại phát, thêm cái va lô VNCH cũ mà tôi từng dùng bao năm nay. Thỉnh thoảng tôi nắn lại kiểm soát cuộn tiền xem còn không. Tôi chia số tiền ra hai nơi; một nữa để mua vé, một nửa phòng thủ khi cần thiết.


GIÂY PHÚT BON CHEN
Độ ba giờ sáng thiên hạ đã tới chật cứng cả phòng đợi. Tôi bắt đầu cảm thấy ngột ngạt, sự lo lắng của tôi tăng dần. Làm sao mà có vé bán đủ cho ngần ấy người? Làm sao tôi có vé đây? Hình ảnh khi trời rạng sáng sẽ ra sao trước ba cái ô nho nhỏ bán vé kia?
Năm giờ sáng trời hơi ràng rạng. Những khuôn mặt bồn chồn, tiếng ồn ào bắt đầu lớn dần. Một đám đông không đang sắp hàng thứ tự mà một đám đông bắt đầu dồn nén lẫn nhau. Từ ông già , trung niên, cho đến mấy anh thanh niên đều chuẩn bị. Tôi tưởng tượng tất cả '
bắp thịt' của họ đã 'sẵn sàng'!
Riêng tôi, nhờ tới rất sớm nên không xa cửa bán vé bao nhiêu. Trong tôi, nửa do dự, nửa lo sợ rụt rè không sẵn sàng 'tung hết' sức ra đối phó với tình hình xem chừng gay cấn đến nơi? Mới ra tù, ai tôi cũng lo, cũng e sợ. Tôi chưa hết cái cảm giác bị ràng buộc, canh chừng như ở trong trại. Mọi người, mọi thứ đều “hơn tôi” một bậc.
Tiếng tu huýt của người bảo vệ rít lên. Cửa bán vé mở rồi! Tôi
chưa kịp thấy người bán vé, nam hay nữ thì một sức mạnh như 'triều dâng thác lũ' cứ đẩy tôi lui dần...lui dần. Lúc này sao tôi yếu quá. Thật sự tôi yếu ớt quá, những ngày tháng thiếu ăn làm tôi yếu ớt hay do dự không muốn căng thẳng với ai làm tôi yếu thế kia? Hết sức bình sinh tôi cố lấn nhưng rất ít kết quả.
Tiếng la hét, chữi rủa vang lên loạn xạ. Hết kiểm soát rồi! Nhưng có ai kiểm soát đâu? Giờ chỉ còn là “sức mạnh” và la hét cuồng nộ thôi; ngoại trừ tôi, do quá rụt rè không dám kéo ai , mạnh tay hay 'dữ dằn' với ai.
Chợt có tiếng tu huýt vang lên từng hồi liên tục, tiếng la ơi ói phía trước. Có chuyện gì bất thường trước đó?
- Xê (tránh) ra, xê ra mau!

Người bảo vệ
nhà ga vừa thổi còi vừa đạp lên vai người dân buơn về trước, tiếp đến hai ba người nữa. anh ta phải đi trên "đống người" do không còn cách nào chen nỗi. Mặt anh đỏ gay, hơi thở hồng hộc, cái băng đỏ bảo vệ bên tay áo phải xập sình gần rời ra. Không ai chống lại anh. Bảo vệ vừa kéo vừa la hét, họ đạp trên đầu đám đông thật sự; tuy vậy chẳng thấy ai lùi lại sau.
- Chuyện gì ?...
Cái chi rứa?... chuyện gì vậy?
Câu trả lời rõ ràng tiếp liền theo là hình ảnh ba người bảo vệ kéo lê thân mình anh thanh niên đầu tóc rũ rượi ra ngoài. Thì ra anh ta bị ngất. Tôi chứng kiến một sự thật trước mắt: một thanh niên “phải xỉu” khi giành vé tàu?
-Hết vé ,hết vé!

Tôi nghe tim mình như ngưng đập, trời đất như sụp đổ!
-Hết vé rồi? làm răng (sao) đây?

Cả đám đông khựng lại...
-Răng mà hết vé , mới bán mà ?
-Tiêu chuẩn ...ưu tiên.... vừa phải thôi chớ?

Người ta càu nhàu, chửi rũa. Tôi không còn nghe gì khi trong tôi đang 'chết lịm'!
Thất vọng !

 Tôi quay ra vào phòng bưu điện “đánh giây thép” (1)(điện tín) vào Hàm Tân cho gia đình tôi biết tình hình khó mua vé tàu.
-Răng eng không tới Công An Ga xin phuơng tiện?(sao anh…)
Một bác không mua được vé như tôi, sau khi nghe hoàn cảnh tôi mới được tha về, nên mách cho tôi vậy.
Phòng công an nằm ở cuối ga. Thú thật, do nóng lòng bởi phuơng tiện nên tôi mới 'bấm bụng' làm gan đẩy cửa bước vào.
Tôi không  nhớ rõ mấy ông công an Ga Huế bận đồ thường hay đồ cảnh phục nữa. Tôi đưa giấy ra trại ra và trình bày. Hình ảnh tôi nhớ sâu đậm nhất là cái lắc đầu lạnh lùng và ánh mắt lừ đừ như vô hồn từ chối lời thỉnh cầu của tôi về chuyện vé tàu vào nam. Họ trả lời tôi, họ chỉ lo an ninh còn vé tàu thì họ không có “thẩm quyền”.
Thế là hết, thêm một lần nữa thất vọng tôi
vội bước ra khỏi phòng công an. Hai chữ và hình ảnh công an tôi muốn tránh thật mau lẹ, vạn bất đắc dỉ tôi mới tiếp xúc lại. Chỉ mấy ngày xa trại tù, ngày nào cũng không khỏi trong vòng canh giữ của họ. Tôi ra thật nhanh do nỗi ám ảnh vô lý, chẳng khác gì họ sắp bắt tôi  'lên lại trại tù Bình Điền' vậy.
Tôi đi lên, đi xuống, gặp ai tôi hỏi đó.
Chợt ánh mắt tôi bắt gặp một đám người đang lố nhố trước mắt, tôi bước nhanh tới đó. Một thanh niên và một đứa bé đang đứng trấn một lỗ hổng vừa người chun qua tại bờ tường chia cách sân tàu tới và phía ngoài đường.
Một người thanh niên cùng một đứa nhỏ, cả hai đều có giọng nói Hà Tĩnh hay Nghệ an gì đó:
-
Đựa năm đồng chui qua lộ (lỗ) ni, chờ tàu tới mấy bác cứ lên và sau đó cứ ghi vé phạt, năm đồng năm đồng thôi ...
Tôi nghe thế mừng như 'chết đuối vớ được phao" vậy. Thú thật giờ này mà hai người kia nói mười đồng hay vài chục tôi cũng phải đưa thôi. Tôi gấp vào, tôi muốn lên được tàu dù mọi giá Một điều lạ, tại sao có cái lỗ này? mấy ông bảo vệ sao không biết? Thật sự lúc đó tôi không có thì giờ để thắc mắc, chỉ đưa ngay năm đồng cho anh thanh niên giọng Nghệ An kia. Thấy lâu, anh ta vội đẩy tôi lên cao bảo tôi nhảy, dành lỗ kia cho mấy người kia chui qua.
Nhảy xuống xong, móc cái ba lô lên vai, tôi nhìn anh thanh niên ra vẻ biết ơn, vội ù chạy càng nhanh càng tốt do sợ an ninh bắt lại. Cái sợ của tôi 'nhân đôi' do tôi là một 'thằng phạm'[
2] mới được tha về ...


CHUYẾN TÀU XUÔI NAM


Những toa tàu người đông như ‘nêm cối”.
Tôi chạy tới, chạy lui chẳng khác gì 'gà mắc đẻ' để tìm chổ đu lên? Hú vía, cuối cùng tôi đu người được lên một toa gần cuối. Nhét được thân mình vào trong toa là được.
Thế là tôi đã lọt vào chuyến tàu chợ từ ngoài kia vào.
Bên trong, hai dãy ghế dài hai bên dĩ nhiên không còn chỗ nào để nhét cái 'bàn toạ' vào. Hành khách lên sau ngồi đầy ở giữa. Chật đến nỗi, người ngồi trên vai, thậm chí ngay cả 'trên đầu' người khác, trong khi một tay cố níu lên cái móc đu hay cái giá ngang đựng hành lý.
Tàu chạy.
Tiếng còi rít lên, tiếng súp lê báo hiệu bên ngoài, con tàu lắc mình rùng rùng đầu chậm sau nhanh dần. Trong toa quá chật chội, tôi chẳng thấy gì được bên ngoài. Cảm giác bấy giờ của tôi ra sao? có thể nhiều lắm. Nỗi mừng về với gia đình qua bao năm nhung nhớ. Nhưng trong tôi vẫn nhiều cảm giác bâng khuâng nhớ mẹ đích và em gái tôi còn ở lại bên chợ Tây Lộc, bạn bè bà con ngoài Quảng Trị mới và Đông Hà mới. Một quê hương bỏ lại, những trại tù kế tục nhau...những buổi đi rừng, những thân gỗ lim cứng 'hơn thép' ngoài rừng Như Xuân Thanh Hoá...

Thế là giã từ Huế, giã từ cái ga bán vé quá nhiều xúc động. Mới hôm qua đây và rạng sáng nay thôi; những âm thanh chen lấn , la hét như còn tồn tại , tiếng chói tai nhọn hoắc như cứ réo mãi trong đầu tôi. Từng lớp người bị xô dạt về sau...mái tóc rũ xuống, cái đầu gục xuống của người thanh niên bị xỉu khi giành mua vé tàu ...


Tàu xưa kia phun khói đen sì giờ không còn. Những cái đầu máy diesel cũ kỹ thế vào cho những con tàu chợ này. Tàu ngang Phú Luơng hay Phú Bài gì đó, tôi đoán vậy.Tay tôi mõi nhừ vì phải níu, cái lưng còn đeo cái ba lô may mà chẳng có gì. Tôi cố gắng để phải ngồi lên đầu một bác ngồi bệt giữa sàn tàu.


Tuy toa đông người nhưng không ngăn được chuyện người di chuyển từ toa này sang toa khác.  Tiếng la hét phản ứng hay xin xỏ, tiếng cằn nhằn của bà lão bị đạp lên chân, tiếng ho rũ rượi của anh thanh niên ngồi gần cửa sổ.
Thỉnh thoảng tôi thấy được vài đám ruộng, vài cột điện thoại trôi nhanh về sau. Con tàu thỉnh thoảng lắc mạnh, khi nghiêng bên này, rồi lại nghiêng bên kia làm tôi có phần hồi hộp.
Lần cuối cùng tôi đi tàu tức là năm 1977. Năm đó tôi từ Đô Luơng, Nghệ An và có lên tàu hoả để ra Thanh Hoá, tiếp tục cải tạo
chặt hạ san bằng rừng lim Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân. Giờ là chuyến tàu tràn đầy niềm vui mừng, là chuyến tàu cho tôi về với gia đình, những người thuơng nhớ.

bóng phượng sông Truồi ngày xưa còn bé của tôi ngày vào quê Nội


Hình như con Tàu đã đến ga Truồi. Ngày kia tôi có về thăm lại
làng nội. Làng Nội tôi giờ chẳng còn ai. Chú tôi còn ‘cải tạo’ trên Bình Điền. Ông Bà đã mất. Anh em xao lạc, người còn ‘cải tạo’ lớp đi kinh tế mới Nam Đông. Thím tôi, trong bữa ăn không quên món bột lọc quậy, ‘sở trường’ của thím. Chú tôi xa nhà đã 5 năm. Trong thôn xóm không biết làm gì ăn. Con cháu lớp quá nhỏ, lớp đàn bà con gái. Ngày xưa còn có đồng luơng chú tôi chu cấp thêm, giờ thì?
Ra tù, mới Huế, Truồi, Quảng trị, người thân bạn bè ...cảnh sinh hoạt đồng bào. Tất cả cộng lại cho tôi cảm giác hụt hẫng,buồn lo vô hạn. Một xã hội trước mắt tôi như chới với sắp rơi tòm xuống một vực thẳm to lớn đen ngòm. Sự chia xa của những người tôi không còn thấy mặt. Cảm giác bơ vơ lạ lùng, tôi như bị vứt vào một cõi hoang mộng vu vơ nào đó.
Giờ tôi không có khả năng nào để nhìn ra được khung cửa sổ để xem con tàu qua cầu Truồi hay chưa?  Nếu ngồi xe thoải mái, khi qua cầu Truồi nhìn theo con nước chếch về dưới kia bên bờ sông lấp ló tàn phượng vĩ đỏ ối, sà cành soi bóng nước sông. Nơi đó là bến đò thôn Xuân Lai, gần nhà Nội.
Tôi đang lo lắng cho vấn đề vé phạt ra sao? giờ thì mấy người soát vé chắc gần tới. Họ đi toa này xuống toa khác không ai thoát được.
Lần đầu tiên trong đời tôi sắp gặp trường hợp vé phạt trên tàu.
Phạt ra sao? vé phạt là gì? tôi thật tình chưa hề biết. Khi xưa còn nhỏ, tôi theo ba tôi vào ga Quảng Trị mua vé tàu đi Truồi hay đâu đó tôi không còn nhớ. Ngoại trừ tôi vẫn nhớ hình ảnh cái vé tàu nho nhỏ sẽ bị người soát vé lần lượt bấm 'cái lỗ' tròn trên đó. Hơn nữa, chuyến tàu tôi đang đi hiện giờ đang hoạt động trong một xã hội mà tôi có cảm giác ban sơ y như trong một “thế giới khác lạ” mà người chiến thắng 'lạ hoắc' đối với tôi.
Thỉnh thoảng tôi nghe có nghe tiếng còi tàu. Không còn là tiếng hú dài 'lê thê' từ cái đầu máy đen sì đốt bằng than, phun khói từng bụm đậm đặc lên trời ngày xưa. Tiếng còi tàu dầu kêu rất khác, nghe toang toác, rất ngắn rồi im.
Có tiếng người xao xác phía trước. Sự im lặng đột ngột của một toa người
đang láo nháo, ồn ào là cả một sự khác thường? Tiếng người nói phía trước cách tôi không xa:
-họ soát vé! họ soát vé !

“Cái gì đến sẽ đến” thôi. Thật tình tôi không nghĩ đến chuyện ‘phạt tiền’ mà sợ vớ vẫn rằng họ sẽ đuổi tôi xuống giữa đường. Mấy người có vé thì mau hơn. Riêng những người không vé thì bị hạch hỏi đi đâu ?xuống đâu? tiếng lí nhí trả lời tôi không nghe rõ ...
-anh kia vé đâu?
Người soát vé khá già, cái mũ cối trên đầu ông ta đã đổi màu bạc phếch. Tôi đã trù liệu, liền đưa ngay cái giấy ra trại mang hai chữ lớn "LỆNH THA'  ngay cho ông ta và trình bày hoàn cảnh. Tôi thấy ông ta ngạc nhiên khi tôi kêu ông ta là "cán bộ'. Nhưng cái vẻ ngạc nhiên đó ông dấu đi rất nhanh.
-Sao anh không mua vé tàu, có Lệnh Tha này cũng ưu tiên cho anh mà ,cách mạng ta khi nào cũng khoan hồng và nhân đạo anh biết không?
Tôi tả lại chuyện chen nhau mua vé vào rạng sáng, và “kể lể ỉ ôi”với ông ta rằng cũng tới sớm lắm, trong loạt những người đầu tiên tới đợi tại ga. Nhưng không thể 'manh động' (một từ tôi mới biết từ trong trại) với bà con cô bác nên bị dạt lui sau. Tôi dấu chuyện anh thanh niên bị xỉu vì sợ rằng biết đâu ông ta cho tôi 'nói xấu Cách Mạng" cũng nên?
Giọng ông ta bất ngờ dịu lại”
-Tàu này tới ga cuối cùng là Nha Trang không đi đến Bình Tuy đâu nhé.
Tôi chỉ mong có thế, Nha Trang hay đâu cũng được miễn là càng vô nam được chặng nào hay chặng đó. Tôi lại càng mừng hơn khi ông ta lấy phạt chỉ 'năm chục' đồng . Số tiền khá lớn , nhưng tôi còn lại trên hai trăm làm sao không về nam được.

Người soát vé đi rồi, giọng nói Thanh Hoá của ông ta tôi nghe và đoán được do trong tù tôi từng có một cán bộ “quản giáo” người Thanh Hoá. Trong tôi tự nhiên dâng lên cảm giác yêu đời. Không khí hết ngột ngạt. Quanh tôi, giờ đây mọi thứ đều đáng yêu cùng gần gũi.
Con tàu tự nhiên chuyển động rùng rục, chậm, nặng nề.
Thì ra giờ này nó đang men theo biển bắt đầu tới chân đèo Hải Vân. Thỉnh thoảng khung cửa sổ hơi hé ra. Tôi thấy rõ ràng đã tới xóm Lăng Cô, kỷ niệm tình yêu đầu tiên của ba mạ tôi lúc tôi chưa có hay bắt đầu có trên đời. Vẫn viền cát trắng muôn thưở đó.

Những ngọn sóng bạc đầu đánh vào chân núi Hải Vân. Tàu chạy hơi dốc, trước nó là những cái hầm tàu đen ngòm đang đợi.

 

NHA TRANG NGÀY TÔI VỀ

Tôi mất một ngày và một đêm trên chuyến tàu chợ vào Nha Trang. Tàu Thống Nhất sẽ đi suốt vào tận Sài Gòn, nhưng đây là “tàu chợ’ nó ngang Nha Trang là hết. Tôi nghe “tàu Thống Nhất” từ hồi còn ở trại Ái Tử. Những tờ báo Nhân Dân trên 'căn tin', tiếng này tôi không tự đặt ra mà trại gọi tên cho cái phòng đọc báo, hay gọi nó là 'thư viện tù' cho nó quan trọng một tí. Những tờ báo Nhân Dân đóng nẹp cẩn thận, móc trên vách đất của "thư viện tù". Tôi chẳng có chọn lựa nào là những tờ báo này. Miên man, tôi nhớ lại tập tự truyện nhỏ có cái tên "cây đa bến cũ" của hàng binh "Phạm văn Đính" hay là trung tá Đính trong QLVNCH. được cho tù đọc tại đây. Hình ảnh ông này có thăm trại I Ái Tử vào năm 1975 lúc tôi đang tù tại trại này. Biết bao nhiêu là chuyện...

 
Gần hai ngày, chiếc tàu chở tôi không có 'dịp may' nào dừng lại chờ tàu Thống Nhất qua mặt nên tôi không hình dung tàu đó nó đẹp, sang, to lớn, màu mè ...ra sao? Khoảng sáu giờ sáng tàu sắp qua hầm đèo "Rù Rì'. Người ta cho biết, và tôi cũng biết khi tàu qua Ninh Hoà, đi vào thêm vài chục cây số nữa.

Tôi đã về lại (hay qua) Nha Trang!
Tính từ ngày ra trường, cuối tháng 11 năm 1973 đến nay tháng Tám 1980 ngót 7 năm xa Đống Đế, xa đèo Rù Rì và những bãi tập chiến thuật trong mấy tháng quân trường. Mau quá, hơn bảy năm qua biết bao biến đổi cho một miền nam và cuộc đời những thằng lính, những đứa tù binh?

 Bao người nằm xuống thì an phận rồi. Họ đã xong cái nợ áo cơm, nợ nước, kể cả nợ đời.
Nhiều kẻ còn lại, chật vật, khốn khổ với hai chữ "ĐỔI ĐỜI” như những mớ rác rưới hỗn độn, đủ màu sắc bị quăng vào và lắc đều trong cái thùng lớn, từng ngày từng giờ. Hình ảnh trước mắt tôi hai ngày nay, kể cả bản thân, bị lắc đều dồn ép trong những toa tàu “chợ” hôi hám, nóng nực, chật chội.
Tàu đã vào khoảng tối cái hầm. Những ngày huấn luyện giai đoạn 2 tại Đống Đế đại đội khoá sinh tôi từng qua lại hầm này. Ngày đó chúng tôi đi sát vào thành hầm để giữ an toàn. Lúc chúng tôi qua hầm xong, tôi nhớ không có chiếc tàu nào tới. Hầm này không dài hơn hầm ở Hải vân, Đà Nẵng được. Tôi tưởng tưởng hướng trên đầu tôi, sườn núi Rù Rì- Đống Đế những buổi tập 'Trung Đội Phòng Thủ' hay "Trung Đội Di Tản Chiến Thuật' ... Những ngày tập sát Bãi Tiên, sóng biển bạc đầu, rì rào gió mát. Nào là Đỉnh "Thằng Cù Lần" tức là cái tượng lính sơn trắng trong tư thế “cầm súng thao diễn nghỉ". Nào đỉnh Hòn Khô phải chinh phục nó trước đêm gắn alpha cũng vào tháng Tám năm 1973.
Giờ tôi về đây, cũng vào tháng Tám trong thân thể gầy còm, áo quần tả tơi bạc phếch'? "chiến bại binh' trở về làm sao mà 'oanh liệt, oai hùng' cho được?

 

Description: C:\Users\Dinhome\Desktop\honkhothangculan.JPG


Tôi nhớ hai câu truyền miệng trong Quân Trường Đống Đế:
"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em ngồi xoả tóc đợi chờ ai?"

Tôi chẳng biết tác giả là ai? khoá đàn anh nào trong quân trường? Nhưng chúng tôi cứ truyền miệng cho nhau, dễ quá sao mà không thuộc.
Đêm về, từ "chambre" đại đội tôi ngó lên Hòn Khô, viền núi đen sẫm in hình lên nền trời sáng mờ.  Tôi tán thưởng, gật gù, “công nhận trông giống hình 'người con gái nằm xoã tóc'
hết sức!”
"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ”, “thằng Cù Lần” trên đỉnh 100 m, trước Hòn Khô, ngay sau lưng tiểu đoàn khoá sinh mang số 13 của chúng tôi.
Những cuối tuần đi phép, chỉ đi 12 tiếng trong ngày. Chúng tôi từ Đống Đế có thể về 'bát' phố Nha Trang. Nhưng Nha Trang, một thành phố dành cho 'người yêu Hải Quân, Không Quân'. Đây là tôi viết thật cho ngày đó, bởi thế tôi chẳng về Nha Trang. Do “tự ti mặc cảm” làm tôi chỉ du ngoạn ngang Cầu Xóm Bống hay Tháp Bà rồi trở lui. Uổng công đánh giày xi ra, ủi áo quần phép.

Ôi những kỷ niệm lính qua nhanh, những cảm xúc, những nỗi nhớ mang máng hay sâu đậm. Nhưng cuối cùng tất cả đều buồn, đều tủi, cho những đời lính 'đứt gánh giữa đàng'.
Tàu chui ra hầm. Hòn Dung còn đó. Những ngày lính quân trường di hành qua đây, mấy xóm phong cùi, giờ còn không? tội nghiệp cho “làng cùi”. Chúng tôi lúc đó vẫn mua thức ăn tại bãi tập gần núi Dung, gần 'làng đó' chẳng gì e ngại.
BẾN XE NGUYỄN HOÀNG
Anh xe ôm rồ xe chở tôi tới bến xe Nguyễn Hoàng lúc giờ bán vé gần hết. Hình ảnh những chiếc xe dài liên tỉnh thời trước vẫn còn đó, cũ hơn. Những chữ Hợp Tác Xã Xe Đò ...giờ được thế vào những cái tên tư nhân ngày trước. Nha Trang ồn ào, náo nhiệt hơn Huế. Vẫn có những đứa trẻ bán mỳ và hàng rong đeo theo nài nỉ với chiếc xe sắp chạy.

Tôi chạy nhanh vào phòng vé ...người ta lắc đầu làm gì có vé giờ này ?
Một anh nói lớn với cụ già:
-Ra đầu đường đón mới có về Sài Gòn mau lên!
Tôi nghe vậy liền chạy theo họ.
Quả đúng! người ta rành chuyện này. Phải “linh động” tránh bến xe một quảng xa, mấy chiếc rời bến sẽ tấp vào đón khách thêm, ngoài số khách tiêu chuẩn mà vé đã bán. Hợp tác xã xe khách là vậy.
Sau này tôi mới hiểu có vậy mới sống còn, nghĩa là biết “linh động” với nhau. Người ta bán vé tiêu chuẩn chỉ ít thôi, theo giá "nhà nước' thì làm xe sống được?
Chiếc xe dài vàng nhạt sà vào.
-Sài gòn, Sài Gòn phải không-

' Lơ' xe một tay bám vào thành cửa, đầu nghiêng ra ngoài, hỏi lớn.
Tôi bám theo ba người đi Sài Gòn, khỏi cần hỏi khi nghe họ đi Sài Gòn. Xe đón 'gió' kiểu này không có thì giờ cho hai bên 'kỳ kèo' giá cả. Lơ xe vừa nói vừa kéo, vừa đẩy mấy người khách như 'tống' mạnh vào trong cho người tài xế rồ ga chạy mất như bị 'ma đuổi"?
-Anh kia dzô đâu?
Thấy bộ dạng tôi, anh chàng 'lơ xe' có thể đoán là người 'ngoài kia' vào. Tôi quên mất là cái mũ cối bằng rơm ép, màu vàng của tôi đang dội trên đầu [2]
nên làm họ lầm là người "ngoài bắc" vào?[ sau này tôi tiếc hùi hụi sao không đưa giấy 'ra trại' cho lơ xe? người trong này biết 'tù về' thì không ai ép giá cao bao giờ]
-100 đồng ‘dzô’ Bình Tuy!
Tôi không nhớ có kỳ kèo với người lơ xe đó không? Tôi chỉ nhớ là đưa ngay 100 đồng cho anh ta; lại còn 'mừng' vì anh ta lôi ra cái ghế 'súp'[3] bằng gỗ ‘nhỏ xíu’, bảo tôi lui ngồi tít đằng sau.
Có được chuyến xe vô nam, có được cái ghế nhỏ khỏi phải đứng thế là tôi mừng rồi.  Tuy biết rằng 100 đồng lớn lắm, nhưng tôi còn đủ tiền. Cám ơn tình cảm từ mẹ đích tôi, từ bạn bè, bà con  ngoài Huế, Quảng Trị, Đông Hà, giờ tôi mới ngồi trên chuyền xe khởi hành từ Nha Trang này.
Tuy ngồi sau đuôi xe, lắc và nhồi nhiều nhất, nhưng tôi lúc đó thật thích thú khác xa với hai ngày trên chuyến tàu chợ vừa qua.
Chiếc xe qua ngã ba Diên Khánh bắt đầu quẹo trái
vào hướng nam.
"Ba Mạ ơi! cả nhà ơi! con gần đến nhà rồi!"

Lòng tôi lâng lâng, sung sướng;
ước gì cả nhà tôi biết được giờ này tôi đang có mặt trong chuyến xe vào nam.


VỀ NHÀ
Chiếc xe chạy khá nhanh, nó kiếm thêm một số khách 'khá bộn' trên đường vào. Hành lang giữa chật cứng. Người ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao tìm khoảng trống để. Tôi 'an phận', thoải mái hơn chút đỉnh nhờ lên xe trước. 'Lơ' xe lấy 'ngon ơ' của tôi đúng một trăm đồng bỏ vào túi.

Chuyện tiền nong của anh ta với tài xế không liên quan gì tôi. Thế tôi lại âm thầm 'cám ơn' cái ghế 'súp' hiếm hoi do anh ta dành cho tôi lúc xe vừa rời bến.
Xe chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển rong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.
Cuối năm 1974 lấy phép từ TKQT,
tôi đi phép từ Đà Nẵng vào Sài Gòn bằng xe đò.  Tôi dám 'bạo gan' đi xe? an ninh lúc đó tôi dám 'bạo gan' bận đồ lính đi trên xe do thiếu tiền thiếu phương tiện thì đành phải 'gan' thôi. Ngang đây, cảnh biển Ninh Chữ quá đẹp nên tôi nhớ mãi. Như vậy là gần Phan Thiết, "quê hương nước mắm" rồi. Từ Phan thiết vào đến Bình Tuy không còn bao xa.
Qua khỏi cầu Phan Thiết, chiếc xe đang vào Thành Phố. Trong xe tôi vẫn ngữi được mùi nước mắm từ mấy hãng gần múi cầu. Những đống hũ nhỏ, sơn trắng la liệt dưới kia. Người ta vẫn còn làm nước mắm đựng trong hũ (còn gọi là trĩn )đất như xưa. Chiếc xe dài đang chạy xuyên qua Thành Phố. Phố Phan vắng vẻ, buồn hiu. Những cửa tiệm thưa thớt, vài chiếc xe honda 67 màu đen còn sót lại chạy vù qua mặt chiếc xe hàng. Bạn cùng lớp với tôi, Nguyễn Cường Nam, ra trường sau tôi, hồi đó nghe tin Nam 'trấn nhậm' cây cầu nào ngoài Phan Rang? Giờ tôi không còn biết tin gì về Nam? Phan Rang xe đã qua rồi, đây là Phan Thiết; có thể Phan Rang, thị trấn nhỏ quá, nên tôi không để ý.
Rừng Lá !
Xe ngang Rừng Lá. Người ta đặt tên là Rừng Lá không biết do sao? Trước đây mỗi lần xe chạy ngang đây ai nấy cũng lo, cũng hồi hộp. Nỗi ám ảnh bị 'du kích' ra chận đường, một ‘rừng lá của mật khu’ của 'người bên kia'. Vào đây "rừng lá' tôi cũng thoát do gặp may không có 'du  kích' nào ra đón. Chuyến đi phép 1974 tôi vừa kể đoạn trên, tôi "bận đồ lính" tôi thoát được
một mối nguy hiểm tại Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, Bình Định. Có chiếc cầu bị du kích đánh sập, và 'du kích' cũng giả dạng người đưa đò ‘transport’ khách qua sông, có xe bên kia đón.

Khách qua sông cùng tôi ai cũng bận đồ dân sự, họ ép tôi vào giữa nếu có "du kích" thì họ khỏi thấy. Do tôi 'điếc không sợ súng' chứ người dân họ biết hết, nơi nào có du kích họ đều ranh. Tôi lúc này đúng 21 tuổi, trẻ măng, bận bộ đồ xanh ô liu, trên ve áo còn mang hai 'quai chão" đen sì, may liền vào cổ áo, không gở ra được. Một anh trung niên, bận bộ vét trắng, mang kính cận ra dáng trí thức. Tôi nhớ anh nói giọng Quảng Nam cứ đi 'kè kè' bên tôi để che giúp bộ đồ lính của tôi. Giờ mấy mươi năm qua, thêu dệt chuyện này hay hư cấu làm chi nữa. Tôi chỉ có lời CÁM ƠN MUỘN MÀNG đến tình dân trên chuyến xe đò 1974 mà tôi đi phép từ miền trung vào nam thăm gia đình. Năm đó trong nhà ai cũng mừng cho tôi 'thoát nạn'. Nhưng về lại đơn vị TKQT tức trả phép, ba mẹ tôi phải 'rán sức' mua vé máy bay cho tôi ra lại Huế, chiếc DC 4 bốn cánh quạt bay vù vù gần 3 tiếng mới tới Phú Bài. Đó là chuyện 1974 chuyến phép cuối cùng của tôi và cả những ai phục vụ trong QLVNCH cũng nên.

Và giờ đây là "rừng lá' của năm 1980, của mừng vui, không lo sợ hồi hộp gì nữa. Một 'thằng tù' vừa được 'RA TRẠI' và sắp về đến nhà. Dòng suy nghĩ của tôi đột ngột ngưng hẳn do anh chàng lơ báo cho tôi biết sắp đến Ngã Ba 46, họ sẽ cho tôi xuống đó.
Tới rồi! về nhà rồi ! một cảm giác hân hoan, hồi hộp khó tả trong lòng tôi.


NGÃ BA BỐN SÁU

 

Description: https://2.bp.blogspot.com/--BHMQ7FG7Bw/VgAxMqr4yQI/AAAAAAAAAPI/z1IwMZSTTDE/s640/lagi0km.png

Ngã Ba 46 – LA GI


Xe thả tôi xuống liền rồ máy chạy ngay. Tôi đứng bên đường nhìn theo chiếc xe dài, màu vàng nhạt khuất hẳn dưới con dốc xa xa.
Trời thật sự chiều. Con lộ chính đất nước giờ này thật vắng. Tôi băng qua đường. Ngã ba này giờ chỉ vài cái quán lèo tèo, vắng khách. Giờ này tôi không còn tìm ra một phuơng tiện nào để về La Gi cả.
 Trong chuyến phép tôi vừa kể đoạn trên, tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về La Gi. Những chuyến xe lam đông khách từ
ngã ba Bốn Sáu này đây. Hồi đó nhộn nhịp làm sao. Về La Gi một chặng đường 18 cây số. Hai bên đường đa số là người dân Quảng Trị theo chuơng trình Di Dân LẬp Ấp 1973.
Giờ tất cả đều vắng,
ngã ba này không có ai ngoại trừ tấm bảng xi măng rất lớn đề dòng chữ:


RỪNG LÀ VÀNG...ĐỐT RỪNG NHƯ THỂ ĐỐT DA THỊT MÌNH


Tấm bảng kia dĩ nhiên thật lạ kèm theo sự vắng vẻ một 'NGÃ BA 46' hiện tại. Tôi nhớ ngày trước, một thời xe lam, xe ôm rộn ràng lên về La Gi, trong đó có khá đông lưu dân QT.
Chuyện đi bộ theo con đường này về nhà là chuyện bình thường đối với tôi lúc đó. Những ngày trong Trại Ái Tử, những đoạn đường vác gỗ nặng từ rừng về trại cũng non hai muơi cây số; huống gì bây giờ, tôi bước thênh thang. vai 'nhẹ hều' cộng thêm niềm vui quá lớn.
Mặt trời chưa lặn hẳn. Tôi còn thấy được những xóm nhà hai bên con đường nhựa không rộng mà không quá hẹp. Vài đám ruộng cỏn con, xen vài luống mía. Những túp lều tranh còn vuơng khói, xen kẻ vài mái nhà tôn xi măng xam xám. Bên trái tôi một bóng núi nhòn nhọn. Rừng chiều dần dần đen sậm lại.
Cảnh vật im lìm trong bóng hoàng hôn. Tôi cúi đầu bước nhanh trên con đường vắng ngắt không còn xe hay người đi. Hình như tôi muốn đuổi theo ánh sáng còn sót lại của một buổi chiều sắp hết.
Ngang cầu Suối Đó thì trời đã tối hẳn. Nhờ ánh trăng thượng tuần nên con đường không tối lắm. Con sông chảy qua cầu vào mùa này đã cạn nên tôi dễ dàng lội qua. Cái cầu đã sụp đổ. Ban ngày, có lẽ xe đò chạy vòng đường khác. Lội qua con sông cạn, leo lên lại con đường, tôi dựa lưng lên cái ba lô tạm nghỉ mệt trên con đường nhựa.
Động Đền trong kia, nơi bà con tôi ở rất đông. Ngày đó tôi thăm vùng này được hai ngày trước khi ra lại QT. Sau 1975 nhà ba mẹ tôi từ Mỹ Tho mới về tập trung tại đây. Động Đền, nơi người QT ở
gần bên nhau. Rẫy rừng than củi, buôn bán nông phẩm là chính. Những cái quán cà phê tranh nho nhỏ, những cái chợ cũng nho nhỏ, những mái trường cho con em QT và những chuyện gì nữa sinh ra từ vùng đất mới này, tôi không tường tận gì lắm. Sau năm 1972, gia đình tôi 'chạy' thẳng đến Mỹ Tho, chỉ về tập trung ở đây sau năm 1975; và đây cũng là lý do tôi khai địa chỉ trong giấy Ra Trại là vùng này.
Mặt trăng
thượng tuần gần lặn, tôi vội vả bật dậy tiếp tục bước nhanh.
Ngã Tư Quân Cảnh đây rồi!

Tôi rẽ phải vào con đường đất, nó không còn trãi nhựa nữa. Chỉ vài cây nữa là đến Động Đền. Nhưng nhà tôi ở xóm nào? tôi hoàn toàn mù tịt, trong địa chỉ là Xã Tân Mỹ thôi.
Con đường đất lồi lõm, khó đi trong bóng đêm. Tôi cứ men theo vậy đi mãi. Ánh đêm và thôn xóm tối đen hai bên đường. Trời về khuya, tôi càng lúc càng bước nhanh; hình như tôi đang mò lên một con dốc. Còn ánh đèn nào leo lét tôi đánh bạo bước vào hỏi nhà...
Một giọng nói Gio Linh của một chú trung niên trả lời:
- Ôi  phải o  Dỏ ...thôn Cam Bình phải khôn? chú đi lui xuống ngay dưới dốc là đến ngay thôi ...

Hú vía! tôi mừng quá “lia lịa” cám ơn chú kia. Người khách trong đêm như tôi, nghe mới ra tù chắc là một chuyện cho gia đình kia bàn tán 'đỡ buồn '
-có lẽ họ mới đi làm rẫy về, chưa ngủ? Tôi quay bước trở lui, mò mẫm trụt xuống con dốc, con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.
May quá! vẫn còn ánh đèn nào leo lét vừa thắp lên trong mái nhà tranh bên phải tôi. Tôi nhớ lúc qua đây, tôi không thấy có ánh đèn này, có thể họ vừa làm gì đó, mới thắp lên lại? Mừng rỡ, tôi gõ cửa...
Trong mái nhà tranh lụp xụp,
ở căn giữa kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp, trên thắp một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng lù mù. Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, còn phảng phất đâu đây mùi thơm bún xáo do khách vừa ăn xong. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm 'ngủ' trong đêm. Thật lạ! không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người. Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi [2]người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn vàng vọt.Tôi vừa kịp nói xong, bác vội nói lớn lên giọng mừng rỡ với cái giọng Bắc 'di cư’:
-Ôi ! cậu là Phúc con o Nhỏ phải không? theo tôi, theo tôi, o Nhỏ ở ngay sau này rồi.
 Bà vội cầm cây đèn dầu dẫn tôi đi ngay.
Con đường
vào trong xóm tối om, nhưng chỉ một đoạn thôi. Một mái tranh lụp xụp, lờ mờ dưới nền trời khi ánh trăng thượng tuần vừa khuất.
Cầm cây đèn dầu trong tay, bác kêu lớn:
-O Nhỏ ơi, o Nhỏ! thằng Phúc về rồi o Nhỏ ơi!

Nói xong bác vội ra lại nhà ngay. Hình như người hàng xóm muốn giây phút trùng phùng đoàn viên được tự nhiên hơn, hơn nữa trời quá khuya rồi bác phải ra lại coi nhà.

Cái cửa lá gài xọc xạch vội hé ra ngay. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu thắp ban đêm tôi thấy hai đứa em trai đang ngồi dậy mặt ngơ ngác do bị đánh thức trong cơn ngủ say, hai đứa em đang ngủ nhưng lại ở trần không bận áo. Ba mạ tôi lay hoay do quá mừng chẳng biết làm gì trước tiên. Mạ tôi nghẹn lời do sự mừng vui quá bất ngờ trong lúc bắt đầu say ngủ. Cả hai người cầm vai người lắc lắc hai cánh tay thằng con trai mới ra tù cơ hồ sợ vuột mất hay có phải “nằm mơ” chăng?

Một mái tranh ẩm thấp xiêu vẹo dưới ánh đèn lù mù. Những cái đòn tay bằng tre lâu ngày màu ám khói dù ban đêm tôi vẫn nhìn thấy rõ.  Tôi lắp bắp chẳng biết trả lời câu hỏi nào trước cho ba mạ tôi. Ba tôi thì vội kéo hút nghe “lụp bụp” một điếu thuốc lào cho đã nỗi mừng to lớn trong đêm.  Mạ tôi vừa hỏi lui hỏi tới những câu hỏi trùng nhau lại vừa lay hoay như muốn kiếm cái gì cho tôi ăn trong đêm? Tôi còn nhớ rất in là chẳng có gì tạm gọi là ăn liền được như thời này. Muốn nấu lon gạo thì phải đi tìm củi lửa, rồi phải nhen nhúm…khoai khô sắn khô có thể có nhưng ngoài ra chẳng có chi tôi đưa vào miệng ngay lúc đó…một mái tranh nghèo đúng nghĩa. Hai thằng em, cứ nhìn chằm chặp vào người anh bao lâu nay mới gặp, chúng chẳng biết nói chi ngoài cái nhìn trân trân có phần e thẹn trong niềm vui bất ngờ trong đêm. Thú thật tôi không ăn gì nhưng cũng chẳng muốn ăn do quá no từ niềm vui đoàn tụ. Ba tôi tự cho phép mình hút liên tiếp và nhả khói thuốc lào trong đêm. Mùi thuốc lào của ba tôi hút không gì lạ, chúng tôi vẫn chia nhau từng bụm khói thuốc lào do trại phát trong tù. Cũng là thuốc lào nhưng mùi thuốc hôm nay tôi có cái cảm nhận rất khác, nó êm đềm và sảng khoái trong niềm vui quá lớn, Đoàn viên và tự do rồi trong vòng tay thương mến của gia đình ba mạ và các em tôi.

Bên vách lá, có gánh hàng mạ tôi vừa bán bữa chợ hôm đặt sát vách. Mạ tôi cứ mãi lay hoay không biết lấy thứ gì cho đứa con trai ăn được? Thuốc rê tiêu hành, đồ vặt ..những thứ con trai mạ không thể đưa ngay vô miệng.

Nhưng mạ ơi xin mạ dừng tay. Con không đói mà rất no trong niềm vui RA TRẠI./.

 

By Đinh Hoa Lư

EDIT  4am NGÀY 25.3.2024 SAN JOSE USA

 


Saturday, March 1, 2025

NỖI LÒNG NGƯỜI DÂN THA HƯƠNG QUẢNG TRỊ

 

audio- NỖI LÒNG LƯU DÂN

 





BÀI VIẾT 


ĐỘNG ĐỀN THÌ ĐẤT LỞ, ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI 

Mà đâu phải đi Mỹ? người Động Đền sau giai đoạn 1975-77 đi tứ tán chân trời góc bể . Kẻ vô tận Cà Mâu Sóc Trang rừng đước rừng tràm bao la, người ra tận Phú Quốc đảo biển xa xăm còn người thì lên tận vùng Tây Nguyên hay Đức Linh rừng núi bạt ngàn ...


Nói về người Động Đền thì liên tưởng đến một vùng mấy xã ven biển Hàm Tân . Động Đền là tên không phải một xã hay một thôn nào cả .

Khi ra đi tôi có nhịp ghi lại vài tấm hình của một vùng đất lở nói trên



Đây là những hình ảnh cuối cùng tôi ghi lại nơi vùng đất tôi đang giã biệt. Đúng vậy, trước khi giã từ Động Đền, trước khi làm tiệc chia tay vào ngày 21/7/1995 tại thôn Cam Bình. Tôi đi bộ lên lưng chừng dốc này và nhìn lại thôn xóm để chụp lại vài cái hình gọi là lưu niệm.
        
Cái xứ tôi sắp chia tay nghèo và loang lổ như vậy đó. Đất đai hoang tàn lỡ lói, chẳng còn thứ gì mọc được. Một vùng cát trắng bạc màu, dốc cao xói mòn, toang hoác.

Phía chân đồi là cái nghĩa địa của người dân tha phương Quảng Trị, những o chú , những ôn mệ, ba mạ tôi hay bà con lối xóm bạn bè thân sơ nay đã xuôi tay về nơi miên viễn. Một nơi mà họ không còn ai buồn tủi, hay lòng cứ đau đáu nhớ về quê cũ mỗi buổi chiều buông trên núi Bể hay ngọn Mây Tào cũng như tiếng sóng biển theo gió đưa vô trong canh khuya thanh vắng.



Người Quảng trị, dân Đông hà, bà con Gio Linh, Cam Lộ đều gần nhau, sống bên nhau những ngày xa xứ lao lung và khi nhắm mắt cũng nằm gần nhau trên cái bãi cát trắng tha hương có hai chữ Chồm Chồm.

Quê hương kỷ niệm của tôi là thế đó. Khi ba tôi đi xa mấy chục năm rồi chỉ còn mẹ già còn lại xóm xưa với trí óc mụ mẫm lu mờ chẳng còn nhớ còn thương hay u hoài bất tận.

Ôi quê nhà diệu vợi và bao nỗi nhớ mông lung.

Người Động Đền


================== 

TÂM SỰ SAU CÙNG 

   Đêm nào khó ngủ nằm trằn trọc người viết hay nhớ về cảnh cũ ngưòi xưa đó là vùng đất Động Đền một nơi tuy cơ khổ nhưng từng giúp bao mảnh đời người dân QT qua bao tháng ngày gian nan. Nói đến vùng đất nuôi dân QT mình trong đó có những kỷ niệm khó quên đối với những người tù lỡ vận trở về địa phương với cái cuốc trên vai sắn khoai vui bên người thân và xóm làng. 

Ngày tháng đó gian nan cho  miếng cơm manh áo mà trường ốc cũng thiếu thốn như trong bài thơ của anh Trần Quảng Lượng hay là Trần văn Hào miêu tả lớp - trường vào đầu thập niên 1980 ở một vùng cát ven biển ra sao? 

 

TRƯỜNG HỌC CAM BÌNH

 

Trường học ngày nay nghĩ cũng hay

Khen ai khéo dựng khéo chưng bày

Bốn bề gió lộng, long tai óc

Hai phía trời soi, rát mặt mày

Thu đến mưa sa thềm nước đọng

Đông về gió cuốn mái tôn bay

Qua đây thấy cảnh lòng ngao ngán

Học ở trường này khổ lắm thay!

 

nhà thơ Trần Quảng Lượng 1984


Rồi

TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ VIỆT YÊN hay anh Hoàng Thỉnh



Cùng đồng hương Quảng Trị, cùng cảnh ngộ, người viết đã có dịp gần gũi chuyện trò với nhà thơ khi tay ai cũng dập dìu, bận bịu, bên cuốc bên rìu làm nương phát rẫy để mưu cầu sự sống trong vùng kinh tế mới đất cát bạc màu cùng núi rừng hoang hóa.

Chẳng hạn bài thơ Giữ Dưa của anh Hoàng Thỉnh đã vẽ lên một hình ảnh một hoàn cảnh rất CHUNG của những người từ trại tù cải tạo về lại địa phương sống gần nhau trong cuộc sống cơ hàn...


GIỮ DƯA

 

Nằm bên suối giữ dưa

Lắng nghe nước chảy gió đưa cây rừng

Động lòng nước mắt rưng rưng

Nước đi đi mãi bỏ rừng lại đây

Trăng ngà gác xế về tây

Quốc kêu bên suối đêm ngày quạnh hiu

Bốn bề gió thổi riu riu

Đèn khuya một ngọn hắt hiu giữa trời

Nhắn cùng các cậu làng chơi

Đêm khuya sương lạnh nghỉ ngơi ở nhà

Nơi đây chỉ có mình ta

Cùng non cùng nước chan hòa tình chung

 

 VIỆT YÊN



 

Anh Hoàng Thỉnh sau khi định cư tại Hoa Kỳ (khoảng 1994) nhưng lại định cư tại Louisiana một tiểu bang ít người VN hơn California.

Tuy vậy mỗi lần qua San Jose bắc California để thăm lại bằng hữu, bà con. Vào ngày 2/7/2011, khi qua lại lần hai thăm bằng hữu tại San Jose anh Hoàng Thỉnh mới biết tin gia đình người viết ở tại thành phố này nên vội nhờ người chở tới thăm gia đình tôi. Đối với người viết, những lứa đàn anh qua Mỹ hay tại vùng Cam Bình Hàm Tân nói trên như anh Hoàng Thỉnh đều coi tôi như đứa em H.O nhỏ tuổi nhất. Lần cuối cùng này, nhà thơ đã ưu ái trao tận tay ĐHL tập thơ của anh, như là kỷ niệm của một người bạn vong niên cùng chung chí hướng.


 Thương thay, khi Anh qua đời tại Louisiana vào năm 2020, trong yên lặng do hoàn cảnh địa lý quá xa và Đại Dịch Covid-19  nên ít người nghe tin kịp.



Vừa nghe tin anh Cao Hữu Khang qua đời ngày 6 tháng 7, 2023 tại Colorado thì hai hôm nay người viết lại nghe tin anh Lữ phúc Cam tạ thế ngày 10 Tháng 7 tại San Jose. Ôi cuộc đời quả thật hợp tan mấy chốc. Mọi chuyện tưởng chừng như mới hôm qua, bao hình ảnh cũ, những ngày rộn ràng lao xao tại Hàm Tân nhóm ra đi H.O. chúng tôi bàn bàn... tính tính giờ chẳng còn mấy ai? Tôi ngồi bồi hồi nhớ lại mấy năm đầu tiên, mới qua Mỹ chưa được bao lâu thì các đại niên trưởng như các anh Huệ, Mạnh, Đăng ra đi, nay đến lượt các anh Khang và Cam  tạ từ nhân thế, hai anh đi cách nhau chỉ vài ngày. Tác giả bài này vừa viết vừa tưởng tượng lại vóc dáng cao lớn của anh Cao hữu Khang mỗi khi dăt chiếc xe đạp từ rẫy về; trái với vóc dáng mảnh mai nhỏ bé của chị Khang sáng sáng mang những nông phẩm của chồng đem từ rẫy về, ra bán tại buổi chợ làng Sơn Mỹ, hay chợ Cam Bình dưới con dốc không xa. Tôi lại nhớ anh hình ảnh của anh Bổn, cố gồng lưng hì hục thồ khúc gỗ nặng từ rừng Sơn Mỹ đi ra. Nặng nề quá khi bánh chiếc xe đạp bị ngập trong cát trên con đường ngoằn ngoèo từ rừng Sơn Mỹ về nhà. Rồi mình lại nhớ cho thân phận mình, kiếp "tiều phu bất đắc dĩ" ngày ngày kiếm củi trong rừng mong tiền độ nhật...

dốc Tân Sơn đổ về Cam Bình -con đường kỷ niệm

Chuyện ngày qua nay là chuyện hôm nay, những người còn lại còn may mắn ngồi đếm tuổi đời nay đã hơn bát thập cộng thêm sức khỏe hao mòn...chỉ còn người viết, đứa em nhỏ tuổi nhất nay cũng đã thất thập trên đầu, chứ không còn nhỏ nữa.


Từ ngày đi tái định cư nước Mỹ,  nhóm HO chùng tôi những người rời cái cuốc, cây rìu cùng đám rừng xơ xác tàn tạ, ra đi từ Hàm Tân cho đến nay chẳng có bao giờ được một lần hội ngộ. Nước Mỹ bao la quá, thêm thay hoàn cảnh cách biệt một người mỗi tiểu bang lại thiếu điều kiện này nọ. Ôi nhớ làm sao những buổi gặp nhau ngày đó, những mẫu tin, lá thư hay tin tức quý hiếm từ hải ngoại xa xăm đều là liều thuốc vô giá cho những con người đang cạn dần mạch sống, bao hi vọng đều đặt vào hai chữ H.O...


Ra đi H.O  nói cho thật đúng đó  là vì cứu vớt tương lai con cháu. Phận chúng ta thì đã định rồi, vinh quang gì đâu cho khi mất nước. Trách nhiệm làm trai đối với tổ quốc bất thành thì còn chút gì là vui thú hay vinh hiển nội tâm.

Ôi có ai đó trong đêm nằm nhớ ngày xưa, biết bao nhiêu kỷ niệm trở về. Chút gió hay tiếng giọt mưa nào trong đêm  nếu chúng ta nghe được quả là âm thanh hiếm hoi cho những người đem thân lưu xứ.  Quả vậy, đó là lúc chúng ta nằm buồn trăn trở nhớ bao hình ảnh đã qua. Chuyện H.O. chuyện của những kẻ ra đi nay người còn kẻ mất (mà đa số đã mất), dù sao cũng là định luật cuộc đời. Chân trời góc bể, vọng cố hương đó là giây phút chúng ta vẫn nhớ về nhau, nỗi nhớ da diết về tháng ngày trên vùng đất khổ ./.


================  

CHUYỆN KỂ TỪ BÒ LÊN XE CẢI TIẾN Ở XỨ HÀM TÂN

KÝ ỨC 




   chiếc xe 'CẢI TIẾN' của vc Sáu Huế một thời giúp bà con thôn tôi chuyên chở mọi thứ
 -Cam Bình Hàm Tân 
 

   Xe 'Cải Tiếnkhông biết có mặt tại huyện Hàm Tân lúc nào? Theo tôi, nó bắt đầu có vào cuối thập niên 1980 tức là sắp bước vào năm 1990. Thời buổi trâu bò "lên ngôi" do thiếu sức kéo. Ai có con bò thì xem như là thành phần giàu có tạm gọi là phú nông, phú hộ có nghĩa là giới có của. Của ở đây là mấy con bò, người nông dân nghèo chẳng bao giờ có được. 

Thời tôi ra trại được trở về sum họp với gia đình. Chuyện bò đi cày ruộng nơi vùng tôi ở quả hiếm thấy?  Người ta quý bò và cần bò để vào rừng kéo gỗ.  Rừng là vàng, gỗ xẻ ra ván,đó là tiền và vàng. Nếu không có con bò vào rừng kéo gỗ về thì thợ rừng đành bó tay chịu thua.

Khoảng non mười năm sau 1975, nhà cửa chốn thôn làng, phần nhiều mái tranh vách đất. Nói đúng ra, vùng Hàm Tân, Bình Tuy đều là mái tranh vách lá. Chuyện nhà tôn, vách ván có thể xem là trung lưu khá giả.

 Ván là tiền, nhà giàu mới mua đủ ván cho căn nhà lợp ngói hay tôn. Con bò kéo gỗ giúp giới thợ rừng sắm vàng. Dần dà chuyện bò cày ruộng chẳng ai ưu tiên nữa?

Thế là sức lực nông dân như chúng tôi trong thôn xóm phải cuốc cày thay sức trâu bò. 

   Bò đã thiếu, mà thiếu thì lại quá quý. Bao nhiêu bò tập trung vào rừng kéo gỗ. Những người chủ bò nay lại là thợ rừng và từng bị gán cho cái tên rất cụ thể đó là "lâm tặc". Dù lớp lâm tặc này từng bị kiểm lâm bắt bớ bao lần và một lần bị bắt từ chủ và bò đều bị phạt một cách ghê gớm. Nhưng giới chủ bò vẫn giàu, người bắt bò cũng có 'hoa lợi' gián tiếp vào tay. Dù mờ ám nhưng cũng trở nên một giới giàu có tuy là gián tiếp 'ăn theo' mà thôi.

    Một thời rừng rú rậm rạp, tha hồ gỗ củi. Bò từng giúp người thu về bao nhiêu tiền muôn- bạc tỷ đúng theo cái nghĩa "rừng vàng biển bạc" như người ta hay nói. Một buổi giao thời, có bò là có của tiền từ rừng từ gỗ ban cho. Người vào rừng hạ gỗ, rồi bò vào rừng kéo gỗ, chỉ là "luật rừng" thôi. Tuy vài chuyến bị 'bắt' một chuyến nhưng người chủ bò cũng dễ sắm "vàng chỉ -vàng cây" hơn người chỉ biết đi cày ruộng cuốc nương, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất nghèo đói vẫn lai hoàn là đói nghèo mà thôi! 

  Ôi! cái nghiệp cày ruộng ngày ấy nghĩ lại càng toát mồ hôi. Tuy nhắc lại sau nhiều thập niên đi qua mà vẫn tưởng là mơ. Làm sao người kể chuyện này quên được, hình ảnh hai người quàng dây qua cổ để cố kéo cái bừa cho đều đám ruộng ngập sình.
 Việc của bò nay người làm thay. Từ cày cho đến bừa, những thửa ruộng hợp tác xã chia cho nay đã trao phó hết cho đôi vai và hai bàn tay cùng cái cuốc to bản của người làm ruộng trong thôn mà tôi cũng là một chứng nhân hay nạn nhân thời cuộc. Đi cày cuốc ngoài đồng, ai đọc ngang đây cũng tưởng ra hình ảnh "con trâu đi trước cái cày đi sau" và sau nữa là cái roi của bác nông dân quất nghe tron trót. Không đâu, thưa bạn đọc. Cái thời bao cấp ngày đó, trâu bò là "xa xỉ",  là giai cấp phú hộ mới có. Còn người làm nông sàng sàng thời đó làm gì có được? Thế là các anh, các bác nông phu thôn tôi thay nhau làm giúp... "phần của trâu bò",  nghĩa là bừa - cày đều dùng sức người 'chân chính'  thế vào.
 
Xin bạn chớ tưởng lời nhạc của bác Phạm Duy xưa là hư cấu:




hình của bản nhạc Quê Nghèo 

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy
(Quê Nghèo/ Phạm Duy)

 Ôi! lời nhạc tưởng là câu chuyện của ngày xưa hay của ai đâu? thế mà đó là hình ảnh của người viết những năm mới được 'ra trại' về lại thôn làng, bên mái tranh nghèo của gia đình...
            
Đám ruộng bạc màu của thôn tôi, lúa cao không hơn đầu gối. Những ngày tháng làm ruộng không đủ ăn, những buổi cùng mấy đứa em quàng dây qua vai để kéo những đường bừa thế sức bò...dưới kia là Thị Trấn Lagi, giàu có những chiếc tàu cá ra khơi, đối với tôi là cả một "kinh kỳ sáng chói" chẳng bao giờ tôi dám mơ một buổi sáng đi bộ về thành phố biển đó, kéo tô phở hay kêu một ly cà phê cả?

*

 KUBOTA LÊN NGÔI THAY  BÒ 

  Tôi kể dông dài về chuyện của bò, chẳng qua vì muốn nhấn mạnh đến sức kéo để vận chuyển bao sắn khoai từ vùng nông thôn về nơi thị trấn. Những chiếc cải tiến một thời còn gọi là xe "máy xới" vì nó dùng đầu máy KUBOTA làm động cơ chính. Chúng chở hải sản về đến thị trấn cùng chở vật liệu xây dựng ngược lên vùng nương rẫy.

    Người viết đến đây cũng xin báo trước, giai đoạn này bò không còn là bộ mặt giàu có nữa. Bò không còn giá trị như cái thời người kể đoạn trên. Ngang đây thì rừng núi tại quê nhà lúc đó cũng cạn kiệt. Bao nhiêu cánh rừng trơ trụi, hoang hóa do bàn tay tàn phá của con người. Bao nhiêu gỗ tốt của rừng xanh phần nhiều đã bị đốn hạ cho vấn đề gỗ ván và than củi. Rừng xanh cạn kiệt, bò lần lượt xuống cấp trở về cày ruộng hay được chăn nuôi làm thịt.


xe than là loại chở khách do thiếu nhiên liệu phải chạy bằng than nên càng mau hư máy  

XE CÔNG NÔNG nhưng sao THÔN TÔI GỌI LÀ CẢI TIẾN?

Thật khen cho tài của mấy ông thợ máy Việt Nam vào cái thời bao cấp. Thời này mọi thứ đều thiếu, xe đò chở khách do thiếu nhiên liệu nên phải chạy bằng than dù biết vấn chuyện này càng mau hư máy xe? Nhưng dù có chạy xe than, vùng thôn xã chúng tôi ở "có mơ" cũng không có. Đi đâu  thì có chiếc xe "lô ca chân" tức hai bàn chân ta làm phương tiện?  Tôi không quên hình ảnh chiếc xe đạp thồ,  nặng nề cục mịch nhưng "vạn dặm đường xa"  nó là phương tiện chính. Đường vùng thôn quê, lở lói, hố hầm nhưng  chiếc xe đạp thồ kia chẳng bao giờ 'ngán sợ' cả.

     Cáng đáng ghi nhớ, tài của người thợ máy xe "cải tiến" lại tăng gấp bội. Mấy anh mua thứ nơi này, chút kia chỗ nọ, rút cuộc cũng nên hình hài chiếc xe. Có lúc chống cuốc, tôi đứng ngắm hình ảnh mấy chiếc CẢI TIẾN ra đời, chạy xình xịch lên về , qua vùng tôi ở mà "sướng" con mắt. Dân mình cũng tự biết cách "cơ giới hóa" đâu thua ai?


   Sao mà không sướng? từ các động cơ dùng chạy máy xay lúa , xay sắn nay mấy thợ máy nghĩ cách làm ra chiếc xe vận chuyển hàng hóa cho bà con nông dân trong thôn chúng tôi nhờ. Sao mà không CẢI TIẾN ? khi không lại có thêm 4 cái bánh . Phần đầu lại có ông tài xế cầm 'vô lăng ', sau chở cả tấn hàng, chạy ào ào lên xuống cái dốc Cam Bình xem thật là "đả con mắt". Chuyên chở nông phẩm là chính, nhưng ai thuê chở hàng gì anh tài xế xe CẢI TiẾn đâu có từ nan, miễn có tiền là được. 


 Chiếc xe 'xình xịch' chạy, không nhanh hơn xe hàng nhưng nào thua ai. Mấy chiếc xe bò kéo hàng , một thời "bá chủ", giờ phải nhường lại cho xe cải tiến, vừa nhanh vừa rẻ , ai mà chẳng ưa?


Xe cải tiến chủ yếu dùng sức kéo là máy diesel, bộ số đơn giản, không có hư vặt vì chạy chậm và chỉ kéo thôi. Hơn nữa, nó không có khả năng đi xa trên "đường thiên lý" như  xe vận tải thứ thiệt -  xã về huyện là xa lắm rồi. Không có cơ quan nào công nhận loại xe này, từ cái động cơ Kubota nó được người thợ máy VN ta nào đó tạo thành 'chiếc xe' bán tải mới gọi là "cải tiến" cũng nên?


 Sự đời, nghĩ cũng nưc cười. Đã gọi là "CẢI TIẾN" thì chiếc xe phải "ngon" hơn xe bình thuờng? Theo 
ý người viết, một từ có thể thích hợp là xe "BIẾN CHẾ". Tiếng gọi đề nghị này đúng với ý nghĩa nhưng nghe sao "lủng củng"? hơn nữa, không "OAI".  Có thể do vậy người ta gọi là CẢI TIẾN cũng nên?


  xe CẢI TIÊN kiêm luôn dịch vụ du lich "có thua ai "

   Buôn bán thông thuơng "bùng nổ", bắt đầu vào thời đổi mới. Thiên hạ có "đồng ra đồng vô" rảnh rang đi thăm thắng cảnh , tắm biển vùng tôi. Xe CẢI TIẾN một lần nữa đươc "CẢI TRANG" làm xe chở khách ra biển Cam Bình.  Không ai chê bai , bà con thông cảm nhau mà.

CẢI TIẾN NHƯNG CHỈ LÀ TỪ TRONG THÔN, NÓ LÀ XE CÔNG NÔNG MÀ THÔI đó là loại bán tải không bảo đảm an toàn và chở chỉ non 3 tấn hàng là cao tay


CÓ DỊP ĐI XA ra tận các huyện khác hay thành phố mới biết chiếc xe cải tiến chẳng phải là cải tiến. Nó là xe bán tải còn gọi là xe Công Nông. Dù sao từ bò lên xe, đối với hoàn cảnh trong thôn đó là 'cải tiến' lắm rồi.

***

 Bước qua năm 2000, nền kinh tế 
THỊ TRƯỜNG bắt đầu đổi mới và thực sự CẢI TIẾN mọi vấn đề giao thông kinh tế, giao thuơng mọi nơi mọi ngõ ngách. Xe hai bánh tức là "xe nổ" nhà ai cũng có, đường xá đổ nhựa khắp nơi tha hồ tốc độ. Buôn bán kiểu tư bản làm bà con khắp nơi đều "có máu mặt" . Xe đò hiện đại thông thuơng từ quê lên tỉnh , từ đồng bằng lên miền núi. Giao thông chuyên chở đã có những chiếc xe vận tải thứ thiệt Made in Japan , hay tệ lắm là Made in China thế chỗ. Sắn khoai lúa gạo hay hàng hải sản đều được vận chuyển bằng các chiếc xe đời mới này. Số phận các chiếc xe CẢI TIẾN dần hồi "xếp vó" , bị tháo gở làm máy xay hay đi cày ruộng. Trên Sài Gòn hay các tỉnh xa người ta về thăm biển Cam Bình thiên hạ đều đi trong các chiếc Huê Kỳ "láng xì cón" , có ai còn nhớ chiếc xe CẢI TIẾN ,'lọc cà lọc cọc " chở khách ra biển nữa đâu. 

 Dưới huyện Hàm Tân, mấy chiếc xe khách hạng sang khách tha hồ, nhấc điện thoại lên là có. Sau khi gọi chỉ năm ba phút là có chiếc xe nhỏ đời mới dừng ngay trước ngõ. Không ai phải đợi lâu cả tiếng đồng hồ cả? Các công ty xe taxi, xe gió tha hồ mọc lên, chào khách tiếp thị song song với nhiều kiểu điện thoại cầm tay ra đời. 

Ngang đây, bạn đọc sẽ tưởng tượng ra mấy chiếc xe than thập niên 1980 "quỷ tha ma bắt" đã vào "nghĩa địa xe" từ lâu.  Rừng xanh từng bị phá hủy hàng loạt do sự đòi hỏi nguồn cung than cho hàng loạt xe chạy than "cải lùi" hư máy nát rừng như vậy?

Phận con bò một thời chỉ có trong sân nhà phú hộ, hay mấy thợ rừng giàu có nay trở về lại ruộng nương..

vợ chồng tác giả ĐHL bờ biển Cam Bình Hàm Tân tết 2017

Bò cũng 'thất nghiệp' do ruộng đất hiếm dần. Kinh tế khởi sắc. Thành phố công nghiệp phát triển, nông thôn đất đai hẹp dần để dành đất cho thương nghiệp hay nhà máy. Đất càng quý thì ruộng nương co rút dần hồi. Những con bò thất nghiệp, nếu không đi cày, ăn cỏ cho mập làm thịt thì ra các bờ biển, làm vui cho khách du lịch. Năm 2017 khi vợ chồng tôi về lại thôn xưa, nhìn  hình ảnh chiếc xe bò trang hoàng hoa lá, chú bò đủng đỉnh đứng chờ khách bên bờ biển. Một ca kéo khách đi theo bờ biển dạo chơi cho vui chỉ được vài chục ngàn đủ cho chủ ăn hai tô phở? Một thời bò hái ra 'vàng cây vàng chỉ" nay còn đâu? Tôi âm thầm nghĩ thế, và lắc đầu ái ngại cho sự thay đổi của cuộc đời. 





   resort Cam Bình -Hàm Tân  hôm nay






hình: Resort bãi biển khu du lịch Cam Bình, Hàm Tân  giờ này đầy ắp khách lái xe du lịch từ Sài Gòn Phan Thiết tới tận nơi. Đường sá láng bóng, nhiều chiếc xe đẹp chạy qua hàng ngày. Thời này làm gì có chuyện 'chiếc xe cải tiến' chạy xình xịch năm xưa nữa? họa chăng là âm vang và hình ảnh trong lớp cha mẹ như chúng ta còn may ra nhớ lại. Bò còn may mắn hơn nó chút đỉnh, do bò còn làm cảnh ngoài biển cho khách thành phố về vui chơi. Mua vài ngàn đồng bạc ngồi lúc lắc trong chiếc xe bò trang hoàng hoa lá cành đi dọc theo bờ biển thấy vui làm sao? 

 Giờ đây trong Thôn Cam Bình là lúc mấy ông tài xế những chiếc xe "cải tiến' năm xưa hay ngồi lại với nhau uống cà phê mà nhắc lại chuyện cũ. Chắc hẳn phải có lần kể về "đời xe CẢI TIẾNmà cảm thấy nao nao trong lòng

Mấy ông vừa kể chuyện xưa, vừa thuơng mấy chiếc xe  cải tiến một thời 'trèo đèo vượt thác', giúp làm ra đồng tiền bát gạo. Thời thế đổi thay vùn vụt , mấy chiếc xe kia biến mất khi nào lẹ quá! lâu lâu nhớ lại, nên cùng nhau tìm ảnh ra coi để tìm về hình ảnh mấy năm gian khó.


    Thôn Cam Bình nay có chợ mới nhưng chẳng mang tên cũ mà lại mang tên Tân Phước. May mắn nhờ bà con 'níu' tay Xã đòi phải xây trên nền đất cũ. Xã có cái tên mới là Tân Phước, trực thuộc Lagi tức là không còn trực thuộc xã Tân Thiện như lúc  gia đình người viết mới ra đi năm 1995 nữa.  Thế sự canh tân 'xe nổ- xe con' thiên hạ sắm ào ào. Hình ảnh chiếc xe "cải tiến" xem như "rong chơi trong vùng quên lãng". Tội nghiệp cho thân phận loại xe này, không có một nhà bảo tàng nào nhắc đến chúng cả? Đối với người viết, dù sao cũng có chút tâm ghi lại, do đây là câu chuyện có thật. Một chuyện tuy thật nhưng vui buồn lẫn lộn, có lúc "cười ra nước mắt" do xe không ra xe, máy không ra máy nhưng chúng thực hiện được nhiều việc- từ chở đá gạch, gạo bắp sắn khoai, cho đến chở người... xe "cải tiến" đều chở được tất cả mới hay. 

   Có nhiều chú tài xế trong thôn, vừa là chủ như chú Sáu Huế từng cầm vô- lăng lái xe đó. Chú Sáu lái xe lên tận mấy xã vùng cao, chuyên chở nông phẩm vật dụng hay về huyện mua hàng... không biết bao nhiêu cây số.  Dưới xã Tân Thiện hay phố thị Lagi thời đó cũng có một số tài xế xe nói trên như Sáu Huế. Thế mà giờ đây đã hai ba thập niên qua rồi. Các lớp tuổi này đã là ông ngoại, ông nội hết rồi. Mấy chú tài xế đó nay vui thú điền viên hay làm ăn cách khác. Nếu có ai dư dật giàu có ra sao thì cũng nên hưởng ứng với tác giả bài này mà hãy lắng đọng một chút tâm tư hướng về kỷ niệm năm nào.

bà con thôn xóm nay đã lên đời xe con xe nổ nhiều rồi khác xa một thời đi xe 'cải tiến' hai mươi mấy năm trước (hình 2017)


   Người kể mừng cho bà con trong thôn, giờ đây đi đâu cũng có xe hơi láng bóng, đầy đủ tiện nghi không thua gì nước ngoài. Tuy thế cũng đáng tiếc khi không còn cơ hội để 'thưởng thức' cái cảm giác ngồi xe "cải tiến" nó chỉ có một lần vào thời 'ngăn sông cấm chợ' năm xưa !?

    Dòng đời trôi chảy. Sướng khổ gì ta nên nếm hết mới gọi là KINH QUA. Trong kinh qua này, giá như ai được lái hay ngồi xe 'cải tiến' dù chỉ một lần trong đời thì thích thú biết chừng nào . /.


ĐHL  7/12/2014

=============  

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...