MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH MỆNH CỦA TT NGUYỄN VĂN THIỆU
Trong hai tháng đầu tiên của năm 1975 một số dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đến Việt Nam quan sát tình hình. Đối diện với tình hình quân sự không được khả quan và trông chờ sự biểu quyết ngân quỹ phụ trội cho Việt Nam của quốc hội Hoa kỳ trong vài tháng tới, chánh phủ VNCH tiếp đón những nhà lập pháp đồng minh rất ân cần và nhiệt tình. Các dân biểu, nghị sĩ được khuyến khích đi quan sát tình hình quân sự, kinh tế, chính trị, để họ thông qua cho VNCH ngân khoản đã yêu cầu. Chánh phủ VNCH chờ đón cuộc viếng thăm với nhiều hy vọng và lạc quan.
Thượng nghị sĩ Sam Nunn đến VN trước, theo sau là dân biểu Paul N. “Pete” McCloskey và nghị sĩ Dewey Berlett. Tiếp đến là một phái đoàn hỗn hợp lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Bộ Tổng Tham Mưu thuyết trình cho những quan khách đầu tiên về tình hình chung của miền Nam. Trọng tâm của những buổi thuyết trình là tình trạng kiệt quệ về quân cụ, vũ khí của quân lực VNCH. Các nhà lập pháp Mỹ được thông báo tình trạng nguy hiểm sẽ xảy ra nếu số ngân khoản phụ trội 300 triệu mỹ kim không được chấp thuận và sự nguy hiểm đó xảy ra như các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang chứng kiến. Một số dân biểu nghị sĩ đến VN lượt sau không được nghe thuyết trình, nhưng họ có đến BTTM quan sát số vũ khí tịch thu của CSBV đang được trưng bày ở đó.
TNS Sam Nunn (Dân Chủ Tb Georgia)
Chức vụ | |
---|---|
Chủ tịch Ủy ban Quân sự Thượng viện | |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 1 năm 1987 – 3 tháng 1 năm 1995 8 năm, 0 ngày |
Quá trình hoạt động và quan điểm chính trị của các nhà lập pháp Mỹ viếng thăm VN hoàn toàn khác nhau. Có người ủng hộ VNCH; có người chống đối. Có người đến với một tinh thần cởi mở; có người đến với đầu óc thiên vị, định kiến có sẵn. Người thì lịch sự, khiêm nhường; một số khác thiếu sự tế nhị và lễ độ. Phần còn lại thì đến với sự thờ ơ, vô tư về một cuộc chiến. Nhưng dù có thành kiến hay thái độ nào trong thời gian có mặt ở VN, họ được chánh phủ chào đón nhiệt tình. Mọi người được khuyến khích quan sát, cho phép thăm viếng mọi nơi, tiếp xúc với tất cả. Họ có quyền đối thoại với bất cứ người nào họ muốn—từ một công chức cho đến những tổ chức, đảng phái đối lập với chính phủ.
Miền Nam, kể cả những người cộng sản, nghe ngóng và theo dõi cuộc viếng thăm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ từng bước từng biến chuyển. Nhiều lời đồn lan truyền từ chuyến viếng thăm đó; hy vọng và thất vọng lên xuống theo từng giai đoạn, từng thay đổi. Những thành phần chống chánh phủ và muốn thấy một chánh phủ liên hiệp với cộng sản, hy vọng Hoa Kỳ làm áp lực với VNCH để chánh phủ nhân nhượng theo ý muốn của họ. Phía ôn hòa thì hi vọng các nhà lập pháp Mỹ suy xét lại tình hình miền Nam, cung cấp vũ khí, quân viện, để dân miền Nam tự bảo vệ và chống lại cuộc xâm lăng lộ liễu của cộng sản miền Bắc. Về phía cộng sản, dĩ nhiên, họ muốn thấy các nhà lập pháp Mỹ cắt đứt viện trợ để làm tê liệt khả năng chiến đấu của quân đội VNCH.
Nhưng nói một cách tổng quát, phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ để lại một không khí thất vọng khi rời VN. Từ bầu không khí đó, nhiều lời đồn, tuyên truyền lan ra, làm hại cho tinh thần chiến đấu của quốc gia. Sau chuyến viếng thăm, giới lãnh đạo của chúng ta nghĩ dân Hoa Kỳ nhìn VNCH như một chánh phủ tham nhũng, đàn áp độc tài. Với những khủng hoảng về kinh tế và chính trị nội bộ đang xảy ra trong lãnh thổ họ, Hoa Kỳ không còn khả năng tiếp tục tham gia vào cuộc chiến. Vấn đề viện trợ thêm cho VN không còn nhiều hi vọng. Ngược lại, ngân sách viện trợ có thể bị cắt thêm vì Hoa Kỳ đang chuyển mục tiêu quân sự, chính trị của họ về các vấn đề Trung Đông.
Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời VN, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hi vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn—và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được.
Cuộc tấn công của CSBV vào Ban Mê Thuột và những phản công vô hiệu của quân đoàn II có tác dụng vào tâm trí của tổng thống Thiệu—người duy nhất có quyết định tối hậu về chiến lược, chiến thuật của cuộc chiến. Khi quân đội đồng minh rời VN, quân đội VNCH phải đương đầu với một đối phương đông quân hơn. Phải phân tán mỏng các lực lượng trừ bị cuối cùng để cố gắng bảo vệ lãnh thổ, quân đội chúng ta không bao giờ có được ưu điểm về quân số. Thêm vào đó, những cắt giảm quân viện đã làm suy yếu khả năng chiến đấu và tinh thần của quân đội ngoài mặt trận—một sự kiện mà chúng ta từ chối chấp nhận. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, phải có sự thay đổi nếu chúng ta muốn VNCH tồn tại.
Trong vai trò cố vấn quân sự cho tổng thống, BTTM có lúc nghĩ quân đội VNCH có cơ may nếu lãnh thổ được phòng thủ tương xứng khả năng. Nhìn từ quan điểm quân sự, lối suy luận của BTTM không phải hoàn toàn vô lý—nhưng đi ngược lại chính sách “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” mà tổng thống Thiệu tuyên bố nhiều lần từ sau hiệp định Paris 1973 Với tình hình chiến sự nguy ngập—chỉ trong vòng hai tháng, chúng ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột—và việc gì sẽ xảy ra nữa đây? Dư vị cay đắng của nhà lập pháp Mỹ để lại sau chuyến viếng thăm vẫn còn. Có lẽ trong một phút riêng tư nào đó, Tổng thống Thiệu bắt buộc phải suy nghĩ lại.
Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975—một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công—tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ.” Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.
Quyết định của tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ chỉ thố lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng. Tổng thống Thiệu phác họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần chiếm lại là nơi đông dân ,trù phú có giá trị về lâm sản, nông sản và kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon, các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng thống Thiệu bình thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của miền Nam, nhưng khi nói đến Vùng I và II, ông không vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng cao nguyên trung phần, tổng thống Thiệu nói về Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên và dân số của Ban Mê Thuột. Miền duyên hải của Vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của tổng thống Thiệu là “giữ được phần nào thì giữ.” Ông phát họa kế hoạch phòng thủ ở Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ bắc xuống nam. Nếu chúng ta có đủ lực lượng, tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở Chu Lai, ha thấp hơn là Tuy Hòa. Kế hoạch này, tổng thống Thiệu nói tiếp, cho chúng ta sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như một quốc gia vững mạnh.
Như vậy chỉ sau vài lời sơ thảo, tổng thống Thiệu đi đến một quyết định quan trọng. Hậu quả của quyết định đó như thế nào thì chưa biết được, nhưng nhìn từ quan điểm quân sự, quyết định của tổng thống Thiệu có nhiều vấn đề. Là cố vấn quân sự cho tổng thống, tác giả bắt buộc phải có ý kiến về quyết định của tổng thống Thiệu. Tác giả cho sự tái phối trí là cần thiết và có ý tưởng đó từ lâu Nhưng tác giả không tiện nói ra vì hai lý do: một, đề nghị tái phối trí quân sự đi ngược lại chính sách quốc gia; hai, lời đề nghị đó có thể bị hiểu lầm là thái độ chủ bại. Tác giả tránh phát biểu thêm là sự tái phối trí có tầm vóc qui mô như vậy đã quá trễ. Ngoài ra, tác giả thấy tổng thống Thiệu đã quyết định, nên ông không muốn nghe thêm những ý kiến ngược lại. Đã là tổng thống, ông Thiệu có thẩm quyền và trách nhiệm chỉ đạo cuộc chiến: ông phải biết ông đang làm gì.
Dù quyết định trên là một sự thay đổi toàn diện từ chiến lược “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” đang áp dụng sang “bảo vệ lãnh thổ theo khả năng”, quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm. Vào buổi sáng hôm đó, tổng thống Thiệu không giải thích hay đề cập đến lý do nào đưa ông đến những quyết định ông trình bày; quyết định của ông hình như phản ảnh những thực tế đang diễn ra. Từ trước, tổng thống Thiệu hy vọng chúng ta có khả năng bảo vệ những tiền đồn và địa giới thưa thớt. Và nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp ước ngưng bắn, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và thế giới chắc chắn biết ai là kẻ gây hấn. Nếu CSBV tiếp tục vi phạm một cách trắng trợn, tổng thống Thiệu hy vọng –hy vọng vào những hứa hẹn—Hoa kỳ sẽ có lý do trừng phạt Bắc Việt mạnh mẽ như tổng thống Nixon đã hứa với tổng thống Thiệu.
Trong hai năm, cộng sản gia tăng vi phạm và cường độ của những sự vi phạm, để dò xét thái độ của Hoa Kỳ, coi họ có sẵn sàng trả đũa không. Lúc tổng thống Nixon chưa từ chức, thỉnh thoảng ông có cảnh giác CSBV về những vi phạm của họ. Nhưng sau khi tổng thống Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8 năm 1974, những hứa hẹn “phản ứng mạnh mẽ” của Hoa Kỳ chỉ là những lời hứa suông. Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa kỳ không có một phản ứng nào. Kế tiếp là thái độ bất lợi của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm. Từ thái độ đó, VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH tiếp đánh là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc.
cuộc triệt thoái quân khu II làm một quân đoàn mất trắng trọn bộ
Tổng thống Thiệu không còn một chọn lựa nào để cứu vãn tình thế trừ quyết định tái phối trí quân đội như đã nói trên—còn nước còn tát. Nhưng quyết định của ông quá trễ. Kế hoạch tái phối trí lẽ ra phải được thực hiện từ giữa năm 1974. Hay ít nhất phải thực hiện ngay khi tổng thống Nixon từ chức Là tác giả của kế hoạch Việt Nam Hóa và Hiệp Định Ba Lê, tổng thống Nixon là người Mỹ duy nhất có trách nhiệm tâm lý để bảo vệ bản văn kiện đình chiến. Nixon là người đáng tin cậy,có can đảm xử dụng những biện pháp mạnh khi cần thiết. Chậm nhất, kế hoạch tái phối trí quân sự theo khả năng của quân đội phải được thực hiện ngay lúc đó.
Dĩ nhiên cộng sản sẽ sẵn sàng tiến chiếm những vùng đất chúng ta không có khả năng bảo vệ. Hai bên sẽ thương lượng với nhau một ranh giới mới. Nhưng chúng ta có được ưu thế trong chiến lược này: lãnh thổ được thu hẹp lại và nội tình an ninh hơn. Kế hoạch tái phối trí tương tự như một hiệp định Geneve 1954 thứ hai: một ranh tuyến mới, quân đội hai bên tập hợp lại vùng riêng biệt của họ…hai lãnh thổ rõ ràng chứ không là vùng ‘da beo” lẫn lộn. Chiến lược này lý tưởng cho sự tồn tại của VNCH. Nhưng dù ta có theo chiến lược này, chưa chắc người cộng sản chấp nhận. Nếu họ đã ký hiệp định Geneve 1954 rồi, và cho đó là một sự lầm lẫn, thì chắc gì họ chấp nhận giải pháp này lần nữa? Không thể nào họ hy sinh xương máu trong 20 năm mà không được gì.
Quyết định tái phối trí đã quá trễ sau khi Ban Mê Thuột mất. Cộng Sản thắng liền hai trận, và sau hai trận, với sự hao tổn của VNCH, họ có luôn thế thượng phong về quân số. Phía bên ta, đã trải quân ra quá mỏng, chúng ta không thể nào rút quân một nơi để lấp vào chỗ khác mà không bị tấn công và đe dọa bởi số quân đông gấp hai của địch.
Một vấn nạn khác chúng ta đối diện là thường dân và thân nhân binh sĩ: di tản hay không di tản những người này cũng là một yếu tố thành công hay thất bại trong cuộc chiến. Không nhà lãnh đạo nào với một lương tâm có thể bỏ dân mình vào tay địch. Nhưng trong trường hợp phải chọn lựa, người lãnh tụ hy sinh dân để giữ quân. Kinh nghiệm cho thấy người dân miền Nam tránh xa vùng kiểm soát của cộng sản nếu họ có cơ hội chọn lựa. Người dân trong nghĩa này cũng là thân nhân binh sĩ—những người họ chiến đấu để bảo vệ và những người nâng cao tinh thần họ. Chúng ta không thể tách rời binh sĩ và thân nhân ra. Tinh thần khắng khít trong truyền thống gia đình VN khó cho chúng ta tách họ ra dù trong một thời gian ngắn.
Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam còn nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23BB, nhưng tất cả đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được Ban Mê Thuột cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở Vùng II. Vùng II vẫn còn sư đoàn 22BB, công thêm một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh, và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ cộng sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm nhiều đất được như họ đã làm ở Vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp các khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quân viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện.
Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn.Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có một chính phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nổi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không? Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.
Cao văn Viên
ĐHL trích 16/1/2022
sách
Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 125-136.
================= ======
QUẢNG TRỊ HUẾ ĐÀ NẴNG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
tác giả: Cố Đại Tướng Cao văn Viên, TTMT/ QLVNCH
Một trong những khó khăn của quân đoàn I không giải quyết là nạn dân tị nạn chiến tranh. Ở Vùng I dân chạy nạn khỏi vùng giao tranh không phải là một vấn đề mới. Mỗi lần giao tranh lớn là có dân tị nạn—và dân chúng vùng I đã kinh nghiệm chuyện đó nhiều lần trong chiến tranh VN. Trận Mậu Thân năm 1968; trận tổng tấn công của CS năm 1972; và những lần giao tranh khác.
Người dân Vùng I không bao giờ quên những ác mộng hãi hùng đó. Thân phận của người dân miền Trung như bị đày phải sống trong lo sợ và phải chạy trốn cuộc chiến thường xuyên trong cuộc sống. Trước khi cộng quân mở cuộc tấn công thực sự, người dân đã đoán được cường độ mãnh liệt của cuộc chiến sắp đến, và họ đã chuẩn bị để gồng gánh di tản.
Đồng bào vùng giới tuyến ra đi 1972
Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, dân chúng ở Vùng I và những tỉnh phía bắc Vùng II sống liên tục trong sự lo âu. Họ lo sợ vùng đất họ đang ở sẽ bị cắt cho cộng sản. Nếu không liên hiệp với cộng sản như tổng thống Thiệu đã khẳng định thì nhường một phần đất có thể là một giải pháp cho cuộc chiến. Tin đồn về chia đất được loan truyền và phóng đại. Ban đầu là tin đồn chia đất dọc, rồi theo đường ngang ở vĩ tuyến 16. Sau khi Phước Long mất, sau đó là Ban Mê Thuột, và khi thấy chính phủ VNCH không còn hi vọng nào lấy lại những phần đất đã mất, mọi người tin chắc không sớm thì muộn VNCH sẽ nhượng đất cho cộng sản. Rồi Pleiku và Kontum di tản với không một lời giải thích từ chính phủ ngay cả cho dân chúng ở vùng đó biết. Cuộc di tản từ vùng cao nguyên vẫn đang xảy ra khi CS tràn qua sông Thạch Hãn chiếm Quảng Trị vào ngày 19 tháng 3. Một lần nữa chính phủ vẫn không tuyên bố hay đề cập gì đến chuyện này. Không còn nghi ngờ gì nữa—người dân suy luận—đây là sự dàn xếp của chính phủ; lời đồn rất có thể đúng; chia cắt đất có thể là một thực tế.
Thêm vào những sự kiện trên, sư đoàn Nhảy Dù được điều động khỏi Vùng I. Đối với người dân Vùng I, sư đoàn Nhảy Dù là đơn vị duy nhất đem lại lòng tin của người dâ. Người dân sẽ được bảo vệ khi họ có mặt ở đó; họ là niềm tin của người dân vào chính phủ. Khi người dân tự hỏi, chính phủ có ý định gì khi di chuyển sư đoàn DÙ đi khỏi Vùng I? Câu trả lời họ có thể tìm được là chính phủ không có ý định giữ phần đất này nữa. Không còn sư đoàn Dù thì làm sao giữ được lãnh thổ này. Không còn lính Dù thì cuộc tái chiếm Quảng trị năm 1972 khó thành, và không có họ thì CS đã tấn công Đà Nẵng sau khi chiếm được Thượng Đức vào năm 1974.
Người dân chuẩn bị đi không ngần ngại. Ban đầu chỉ một thiểu số nhỏ gồm có tiền mua được vé máy bay. Lần lần số người bỏ đi đông hơn. Khi tin Pleiku và Kontum mất được loan truyền đến tai dân Vùng I, mọi người lũ lượt ra đi. Hàng chục ngàn quân nhân, công chức, dân, tìm cách về Đà Nẵng, rồi từ đó về Sài Gòn nếu có phương tiện. Với tin đồn chính phủ sẽ chia Vùng I cho CS như đã làm ở Pleiku và Kontum, luồng sóng di tản dâng cao hơn. Khi thủ tướng Khiêm và các viên chức chính phủ bay ra Đà Nẵng duyệt xét tình hình để giải quyết, thì Đà Nẵng đã có hơn nửa triệu dân tị nạn.
Tướng Trưởng nhiều lần nhắc nhở và khẩn cầu thủ tướng Khiêm giải quyết vấn đề dân tị nạn lập tức. Vấn đề dân tản cư từ những vùng giao tranh đã trở thành một vấn nạn quốc gia, và Vùng I không đủ phương tiện hay nhân lực để giải quyết. Sự có mặt của Thủ Tướng Khiêm ở Đà Nẵng là một chuyện cần thiết.
Trước khi chủ tọa cuộc họp giải quyết vấn đề tị nạn, thủ tướng Khiêm có nói chuyện riêng với tướng Trưởng về tình hình quân sự và kế hoạch triệt thoái. Tướng Trưởng nhấn mạnh về sự giao động của người dân. Thủ tướng Khiêm giật mình khi nghe những gì tướng Trưởng trình bày. Ông không ngờ tình hình thay đổi nhanh như vậy. Thủ tướng Khiêm nói với tướng Trưởng nên trình bày kế hoạch triệt thoái của ông cho tổng thống Thiệu phê chuẩn trước khi thực hiện
Buổi họp có đủ mặt hội đồng nhân sĩ, tỉnh, thị trưởng, cũng như các cấp chỉ huy liên quan đến vấn đề tị nạn. Lần lượt, tỉnh trưởng Quảng Trị và thị trưởng Đà Nẵng trình bày khó khăn đang đối diện, và đưa ra những đề nghị giải quyết. Vài giải pháp được đưa ra như: (1) Trừng trị thẳng tay những công chức bỏ nhiệm sở khi chưa được lệnh. (2) Cho phép di tản thường dân, thân nhân binh sĩ, công chức, để những quân cán đang đảm trách nhiệm vụ phòng thủ bớt lo lắng quan tâm.
Ngồi chung với thủ tướng Khiêm là các thứ bộ trưởng của nội các. Họ là đại diện của thẩm quyền trung ương. Họ quan tâm tới vấn đề của người tị nạn, nhưng họ không giúp đỡ gì được. Họ chỉ có thể cho phép cấp chỉ huy địa phương nhiều thẩm quyền hơn để giải quyết tại chỗ những khó khăn đang xảy ra. Để kết luận, thủ tướng Khiêm quyết định thành lập một Ủy Ban Liên Bộ phụ trách về vấn đề tị nạn, do một phó thủ tướng cầm đầu. Ủy ban này sẽ lấy đi gánh nặng cho Vùng I, để họ có chú tâm về vấn đề quân sự. Đồng thời thủ tướng Khiêm hứa sẽ trưng dụng thêm nhiều tàu của tư nhân để gia tăng các chuyến di tản. Buổi họp chấm dứt trong một bầu không khí hoang mang. Thủ tướng Khiêm và nội các trở lại Sài Gòn ngay sau buổi họp.
Một tuần sau, những hứa hẹn của thủ tướng Khiêm được thể hiện qua một đại tá và một đại úy đến từ Bộ Xã Hội, với ngân phiếu yểm trợ tài chánh cho Đà Nẵng. Bây giờ dân tị nạn nguyên Vùng I tập trung tại ba cứ điểm Chu Lai, Đà Nẵng và Huế. So với sự giúp đỡ từ chính quyền trung ương , phong trào cứu trợ tổ chức tại địa phương mang lại nhiều hiệu quả hơn. Tại thị xã Đà Nẵng một số hội đoàn từ thiện, nhân sĩ và phú gia đóng góp nhiều vào những hoạt động gây quỹ cứu trợ dân tị nạn. Tuy nhiên những giúp đỡ địa phương này chỉ có giới hạn—vấn đề tị nạn ở Vùng I đã vượt ra ngoài khả năng của một nhóm người hay đoàn thể tư nhân.
Dân và gia đình binh sĩ ở Huế bắt đầu rời thành phố vào ngày 17 tháng 3. Quốc Lộ 1 về Đà Nẵng tràn ngập người và xe. Một số dân tị nạn tìm cách đi bằng đường biển. Họ đổ về bến tàu Tân Mỹ, nơi các tàu hải quân đang bốc dờ quân nhu quân dụng tiếp tế cho chiến trường Quảng Trị-Huế. Trên đường về họ phải di tản chiến cụ về Đà Nẵng. Hoạt động của bến tàu bị gián đoạn hai ngày vì sự cản trở của số người tị nạn. Một vài giang đỉnh đang chờ cập bến để bốc hàng lên, bị dân, lính tràn xuống ép phải chở họ rời bến. Giới chức phụ trách bến tàu phải bỏ ra một ngày để thuyết phục. Dân tị nạn rời Tân Mỹ và đi về bãi biển Thái Dương Thượng, hy vọng tìm được tàu để ra đi.
Ngày 21 tháng 3 hai sư đoàn CS cắt đứt quốc lộ 1—con đường duy nhất dẫn về Đà Nẵng. Đoàn người tị nạn rời đường lộ, theo hướng Phá Cầu Hai để đi về miệt biển.
Tất cả tàu bè miền duyên hải hoặc bị cướp, hoặc được mướn để xử dụng vào việc chạy nạn. Nhưng thuyền bè không đủ cho số người tị nạn quá đông. Vì tàu hải quân đang được trưng dụng vào công tác tiếp viện cho chiến trường Qui Nhơn-Ban Mê Thuột, BTTM thương lượng mướn thương thuyền Trường Thanh, có trọng tải 2000 tấn, để chở người tị nạn. Đây là thương thuyền duy nhất quân đội có thể tìm mướn được. Ngày 23, mặc dù sóng to, tàu Trường Thanh cập bến, và trong hai ngày tiếp nhận hơn 5000 người, trong đó có nhiều thân nhân, gia đình, của sư đoàn 1 BB. Chuyến tàu chở dân tị nạn rời Huế về Đà Nẵng ngày 25. Đà Nẵng lúc đó tương đối an ninh, nhưng thành phố đã chật nứt với dân tị nạn.
Một tàu đổ bộ của Hải quân Việt Nam chất đầy người tị nạn từ Huế, ghé Đà Nẵng hôm 24/3/1975
Huế bị bỏ ngỏ vào đêm 25 tháng 3. Dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất ngày 24, Chu Lai di tản ngày 26. Dân ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín chạy về Đà Nẵng.
Ngày 26 tướng Trưởng gởi thiếu tướng Huỳnh văn Lạc, tư lệnh phó lãnh thổ chánh Vùng I, về Saigon trình cho tổng thống Thiệu, thủ tướng Khiêm và tác giả về những khó khăn Vùng I đang đối diện. Tướng Lạc xin chánh phủ giải quyết ngay vấn đề tị nạn, đưa bớt dân ra khỏi Đà Nẵng vì thành phố sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn không kềm chế được. Nếu tình trạng dân tị nạn không giải quyết được thì Đà Nẵng sẽ tự sụp đổ, không cần CS tấn công.
Chu Lai đổ về
Đà Nẵng
Đà Nẵng đã trở thành một thành phố vô trật tự và rối loạn. Kẻ đến thì tìm nơi nương tựa; người đang ở đó thì tìm cách trốn đi. Lưu thông trong thành phố bị ứ đọng đến độ không thể di tản được 340 thương binh từ bệnh viện ra phi trường. Trung tướng Lê Nguyên Khang, tổng tham mưu phó BTTM, tường trình về tình hình Đà Nẵng sau một chuyến công vụ ở đó: “ Đà Nẵng có hơn một triệu rưỡi dân tị nạn. Họ chiếm các công thự, cao ốc của chính phủ để làm nơi nương thân; họ ngủ ngoài đường, ở bến tàu hay bất cứ chỗ nào có thể tạm trú qua ngày. Trong thành phố những cảnh nhiễu nhương, cướp bóc, giết người xảy ra giữa ban ngày. Người di tản trên nhiều đến độ xe tăng muốn di chuyển chỉ còn cách cán vào đám đông ấy để đi.
Ngày 27 tháng 3 có chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Hoa Kỳ đáp xuống Đà Nẵng. Chính phủ định dùng phi cơ Mỹ để di tản 14 ngàn dân từ Đà Nẵng về Cam Ranh. Nhưng tin có máy bay Mỹ di tản chẳng mấy chốc lan truyền ra. Dân di tản—trong đó có thành phần đào ngũ—phá rào phi trường và tràn vào phi đạo tìm cách leo lên phi cơ. Lực lượng an ninh phi trường phải bỏ ra nửa ngày để giải tán đám đông ở phi đạo. Nhưng hỗn loạn lại tái diễn mỗi khi có chuyến bay đáp xuống. Sau cùng các chuyến bay dân sự bị đình chỉ vì sự mất trật tự trở thành nguy hiểm cho sự an toàn của phi cơ. Sau cùng, giới chức hữu trách thay các phi cơ dân sự bằng bốn phi cơ quân sự C-130. Nhưng trước những hỗn loạn liên tục, bốn chiếc này cũng chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29 tháng 3.
=================
QUẢNG TRỊ -HUẾ- ĐÀ NẴNG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG (phần cuối)
PHẦN 2 VÀ HẾT…
TÌNH TRẠNG ở các bến tàu cũng không kém hỗn loạn. Một số thuyền chuyên chở Hoa Kỳ được dùng di chuyển dân tị nạn. Vì tình trạng an ninh của bến tàu, họ được lệnh thả neo ngoài khơi cảng Đà Nẵng. Từ đó dân dùng thuyền, bè, đi từ bờ biển ra tàu. Lối di chuyển này chậm nhưng có kết quả tốt. Mỗi tàu sau khi nhận được chừng 10 ngàn người thì kéo neo chở dân về Cam Ranh. Tuy nhiên sau khi Nha Trang thất thủ ngày 1 tháng 4, tàu được lệnh đi thẳng về Vũng Tàu và Phú Quốc. Trên đoạn đường dài di tản bằng tàu, nhiều cảnh đau thương xảy ra: một số quân nhân vô kỷ luật, và cộng sản trà trộn vào số dân tị nạn, hà hiếp và cướp giựt những người tị nạn. Rất nhiều người xỉu và kiệt sức trên quảng đường biển đó. Khi đến cập bến Phú Quốc, do sự chỉ điểm của những nạn nhân trên tàu, chính quyền an ninh địa phương bắt và xử bắn tại ngay bờ biển những tên cộng sản trá hình và một số quân nhân vô kỷ luật đã hà hiếp và cướp bóc người dân trên tàu.
Cộng sản pháo kích và tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28, và dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn bằng thuyền bè, dưới những trận pháo kích của cộng sản. Nhiều người chết chìm khi lội từ bờ ra tàu đang có mặt ngoài khơi. Những kẻ may mắn thì được tàu cứu vớt; kẻ xấu số thì chìm xuống lòng biển. Trưa ngày 29, nhờ vào sự liều lĩnh và may mắn, một phi cơ dân sự Hoa Kỳ đột ngột đáp xuống phi trường Đà Nẵng, rước đi được hơn 300 dân—trước sự ngỡ ngàng của cộng quân đang có mặt tại phi trường. Đà Nẵng bây giờ đã nằm trong tay cộng sản. Mọi kế hoạch di tản dân tị nạn đã chấm dứt sau ngày hôm đó. Tuy nhiên người dân vẫn tiếp tục tìm mọi cách chạy trốn cộng sản vào những ngày sau.
Trước khi Đà Nẵng rơi vào tay cộng sản, vấn đề di tản một triệu dân do chính quyền và cơ quan địa phương giải quyết. Khi thuận tiện, chính quyền dùng tàu hải quân phụ vào việc chuyên chở dân tị nạn khi có thể. Trong buổi họp ngày 19 tháng 3, BTTM đề nghị với phó thủ tướng Phan Quang Đán nên, (1) lập tức trưng dụng 13 thương thuyền dân sự trong nước; (2) kêu gọi các quốc gia đồng minh, nhất là Hoa Kỳ, giúp di chuyển dân tị nạn ra khỏi vòng nguy hại; và, (3) lập ra ủy ban chính phủ để trưng dụng điều khiển các hoạt động nói trên nếu thành hình.
Đề nghị của BTTM được phó thủ tướng Đán chấp thuận, ông ra lệnh Bộ Công Chánh trưng dụng tất cả thuyền hành hải đang có mặt trong nước; và các thương thuyền đang hoạt động ngoài hải phận thì được gọi về--dựa vào hoàn cảnh đòi hỏi của chính phủ. Nhưng cho rằng lệnh trưng dụng trên quá quan trọng và ngoài thẩm quyền của mình, ông bộ trưởng bộ Công Chánh đã đệ trình cho bác sĩ Đán ký—dù ông có toàn quyền quyết định. Trong thời gian đó phó thủ tướng Đán đang đi công vụ ở vùng II, tìm một địa điểm để thiết lập trại tỵ nạn. Một tuần trôi qua trước khi lệnh trưng dụng được thực thi. BTTM, trong lúc đó, với tình hình khẩn trương, xin sự ưng thuận của chủ tàu Trường Thành dùng để di tản thân nhân, gia đình sư đoàn 1 BB vào ngày 23 tháng 3. Đây là chiếc tàu duy nhất trong nước dùng vào nhiệm vụ di tản người từ Vùng I.
Cũng trong thời gian này các quốc gia đồng minh hưởng ứng lời kêu gọi giúp đỡ của VNCH. Hoa Kỳ đồng ý cung cấp phi cơ dân sự và thương thuyền chuyên chở. Úc Đại Lợi hứa cung cấp một phi đoàn vận tải cơ C-130. Đài Loan và Thái Lan ưng thuận cung cấp tàu đổ bộ, vận tải. Tuy nhiên, những phương tiện vận tải hứa hẹn cần một tuần đến mười ngày mới có mặt tại Việt Nam. Nếu những phương tiện này được cung ứng trước ngày 18 tháng 3, và nếu chúng ta có được sáu chiếc vận tải hạm BTTM yêu cầu được cung cấp từ sáu tháng trước, thì cuộc di tản đã được thực hiện một cách trật tự và hữu hiệu hơn. Nhưng như chuyện đã xảy ra, với con số dân tị nạn quá đông và tinh thần mọi người hoang mang, cuộc di tản không thực hiện được như ý muốn.
Không ước đoán được bao nhiêu người được di tản, nhưng dân tị nạn tràn ngập các trại định cư ở Vùng III và đảo Phú Quốc. Dân tị nạn cũng tạm cư tại hai tỉnh Vũng Tàu và Bà Rịa rất đông. Trước khi vấn đề tị nạn trở thành một khủng hoảng quốc gia, chánh phủ có kế hoạch tái định cư số người tị nạn tại nhiều nơi tùy theo xuất xứ của họ. Gia đình lánh nạn đến từ Quảng Trị và Thừa Thiên được đưa về Đà Nẵng, rồi từ đó được đưa đi Cam Ranh, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Những gia đình người Thượng chạy từ Pleiku, Kontum cũng được tái định cư ở Lâm Đồng. Nhưng kế hoạch trên không được thực hiện vì sự thay đổi quá nhanh của tình hình chiến cuộc, nhất là sau khi Cam Ranh và Nha Trang di tản vào ngày 1 tháng 4, và chánh phủ VNCH không còn bảo vệ được Vùng II. Vì những thay đổi nhanh chóng đó nhiều gia đình phải chạy nạn từ nơi này qua nơi nọ trong một thời gian ngắn trước khi tìm được một nơi tạm trú. Sau khi Vùng II mất, nhiều trại định cư mọc lên ở Vũng Tàu, Phú Quốc, Cần Thơ và Vĩnh Long. Hai trại tị nạn lớn nhất là Phú Quốc và Vũng Tàu, với khả năng chứa từ 50 ngàn đến 100 ngàn dân tị nạn.
Luồng sóng dân tị nạn gây ra nhiều xáo trộn và hoang mang ở những nơi họ đến. Sự xáo trộn này khiến chính quyền lo ngại. Chính tổng thống Thiệu ra lệnh cấm dân tị nạn về định cư vùng đồng bằng sông Cữu Long khi ông phàn nàn, “Dân tị nạn đi đến đâu, không sớm thì muộn nơi đó cũng sẽ mất.”
Với cán cân lực lượng và địa hình thuận lợi cho CSBV ở Vùng I, lực lượng VNCH không thể nào chống cự lâu dài trong cuộc tổng tấn công của địch. Nhưng phải nói, tình hình quân sự xấu đi một cách nhanh chóng vì sự sa sút tinh thần và những rối ren, lúng túng của chúng ta, hơn là áp lực của địch. Lệnh tái phối trí—tuy cần thiết—không rõ ràng và dứt khoát. Tổng thống Thiệu do dự khi đưa lệnh cho Quân Đoàn I. Hình như thất bại ở Cao Nguyên còn ảnh hưởng nặng đến tâm tư, nên ông miễn cưỡng giữ vai trò tổng tư lệnh tối cao một lần nữa. Là một chính trị gia sắc sảo, ông dùng khi thì hàm ý, khi thì yên lặng, làm cho vị tư lệnh chiến trường bối rối, muốn hiểu sao thì hiểu. Ngày hôm trước ông lên đài phát thanh kêu gọi quân công cán tử thủ Huế, ngày hôm sau ông ra lệnh cho tướng Trưởng rút quân trong một quân lệnh. Còn về vấn đề di tản khỏi Huế: cũng từ bản năng chính trị đã có, ông Thiệu muốn di tản Huế, nhưng không cho tư lệnh chiến trường một thời gian rõ ràng.
Tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút khi họ phải tách lìa khỏi thân nhân, gia đình của họ. Nhiều quân nhân không chờ đợi sự giúp đỡ của chính phủ, họ bỏ đơn vị tự động đi tìm kiếm vợ con, người thân của họ. Tổng Cục Tâm Lý Chiến cố gắng giúp đỡ tìm kiếm thân nhân binh sĩ thất lạc. Nhưng cơ quan này không thể nào giúp tất cả gia đình quân nhân trong hoàn cảnh hỗn loạn của làn sóng dân tị nạn. Phần lớn quân rút về Đà Nẵng quan tâm, lo lắng về sự an toàn của gia đình họ hơn là lo về đơn vị, hay sự tấn công của địch. Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí của Vùng 1 xảy ra không phải vì áp lực của cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Trong những ngày cuối ở Vùng I, vị tư lệnh quân đoàn không chỉ đối phó với những khó khăn về quân sự, ông còn bận tâm với vấn đề tị nạn. Và khi chánh quyền trung ương bắt tay vào giải quyết vấn đề tị nạn thì đã quá trễ.
Như chúng ta đã thấy, vấn đề tị nạn làm đảo lộn tất cả kế hoạch quân sự của Vùng I.
Cao Văn Viên
NGUỒN
SÁCH
Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 174-185.