Thursday, February 20, 2025

NHẬT KÝ TÙ BINH 2

 


Một Mùa Giáng Sinh và Rừng Hạt Dẻ Mất Mùa

 


Bà Xã tôi vừa đi chợ về liền vội vàng cất các thứ vào tủ lạnh. Tôi đang chế ấm trà cạnh bên liền chận tay vợ lại...


    - Ô khoan đã,  để anh chụp cái hình bao hạt dẻ ni chơi!


Bà xã thắc mắc "chụp làm chi rứa" tôi ậm ừ cho qua chuyện chưa nói rõ để post vào bài viết hôm nay. Bụng bảo dạ, tôi viết bài xong mới đưa cho vợ xem.


Túi hạt dẻ, hạt no- căng -mẩy láng vỏ. Hôm nay giá lại rẻ chỉ $2.99 một pound. Tôi nghĩ rằng Mùa Giáng Sinh năm nay Cali hạt dẻ được mùa nên rẻ hơn so với giá cũ.


Chụp hình túi hạt dẻ kia nhưng trong lòng tôi hiển hiện hình ảnh những ngày lầm lũi trong rừng Thanh Hóa kiếm ‘cái ăn’ từ rừng mang lại cho đoàn tù đang chặt hạ gỗ lim tại đó. Những cây dẻ hoang từ Như Xuân Thanh Hóa chúng may mắn mọc chen với lim, trường mật và nứa. Thời gian ra Thanh Hóa, Huyện Như Xuân khoảng tháng 10/ 1977. Trại 1 và trại 4 chúng tôi có nhiệm vụ san phẳng cây rừng ở đây để xây dựng Lòng Hồ Sông Mực đem nước cho Huyện Diễn Châu. Những kỷ niệm khó quên cho gần một ngàn người từ Ái Tử ra đó.


Khó quên làm sao những bó môn thục, măng nứa những tổ ong cây cam thảo rừng và quý nhất là hạt dẻ rừng như người viết vừa nói đoạn trên.


Rủi làm sao năm đó dẻ trong rừng này “Mất Mùa”.


Lạ thế? Cây rừng sao gọi là 'mất mùa' có ai trồng đâu?


Người viết xin thưa với bạn đọc ‘mất mùa’ ở đây đều là tiếng do chúng tôi đặt ra đó thôi. Chuyện là do hạt dẻ năm đó rất lạ? Chúng hoàn toàn là cái vỏ trống  bên trong không có gì chỉ. Chuyện không phải do vẹt rừng ăn hết mà do hạt dẻ trống không thực sự. Ôi không biết bao nhiêu cái lỗ ‘trống rỗng vô tích sự’ chẳng giúp gì cho cái bụng đói của đoàn tù chúng tôi lúc đó ?



Từng đám vẹt rừng bu lại? Chúng cũng tức giận nôn nóng chẳng khác gì đàm tù chúng tôi. Lũ keo tha hồ sục sạo trên cao. Dẻ càng rớt nhiều xuống gốc cây từng đống. Chúng tôi dưới này tha hồ tung hoành bơi móc ...Chán nản, não nề làm sao? vài ba trăm hột chỉ có một hột dẻ đặc ruột thôi; lúc này cái hột có ruột này thật quý ‘hơn vàng’.


Được cái hột dẻ có ruột xem như là “trúng số’’. Nướng nó lên trong đống lửa rừng, phần nhân bên trong vừa nổ tách ra trắng hếu thơm phưng phức ngon đến rợn người. Chính lúc này mới là lúc người tù được hạt thưởng thức thứ hương vị ngon thơm thật sự của hạt dẻ nướng. Nhớ làm sao thứ cảm giác ngon lành khó lòng diễn tả? Có thể tôi không cường điệu do phải lần mò trong đống hạt trống rỗng kia cả buổi mới có được hai ba cái hạt cỏn con. Không có sự so sánh chính xác nào nếu cái bụng của bạn chưa hề lép xẹp như những người chiến bại năm xưa? Bạn cũng có thể chưa tận hưởng được cái cảm giác nào gọi là 'NGON' nếu bụng bạn lúc nào cũng no tròn và quá đủ chất?


Những hàng lim ngả gục. Gỗ lim cứng như ‘thép nguội’ thế mà chúng tôi chặt sạch. Cả ngàn người tù tung hê sức lực non hai năm trời. Bao nhiêu sức lực thời son trẻ nằm lại trên đám rừng này?


============================ 




Lòng Hồ Sông Mực sau này thành nơi du lịch

Theo báo VN hiện nay...

Du lịch lòng hồ ở Thanh Hóa

(vhds.baothanhhoa.vn) - Du lịch lòng hồ đang là thế mạnh ở Thanh Hóa khi có nhiều địa phương có diện tích mặt hồ rộng, đẹp, kết hợp du lịch khám phá điểm thiên nhiên kỳ thú, ẩm thực, nghỉ dưỡng... Đồng thời, lượng du khách lựa chọn loại hình du lịch này cũng ngày một tăng.

Du thuyền hồ sông Mực khám phá Vườn Quốc gia Bến En là hoạt động trải nghiệm không thể thiếu khi đến du lịch Như Thanh. Vườn Quốc gia Bến En - một quần thể thiên nhiên kỳ thú và độc đáo, gồm 16 tiểu khu sinh thái và vùng hồ sông Mực. Hồ sông Mực nằm ở trung tâm của vườn quốc gia, với diện tích 3.000 ha, độ sâu trung bình khoảng 30m. Trong lòng hồ nổi lên 24 hòn đảo, được ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ trên núi.

Khoảng thời gian đi thuyền trên hồ sông Mực, du khách được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên kỳ thú, chính là hệ sinh thái phong phú, đa dạng của vườn quốc gia với nhiều loại thực, động vật quý hiếm như lim xanh, sồi, các loại chim... tạo thành lớp rừng nguyên sinh bao phủ quanh các đảo. Khó có nơi nào có hệ thiên nhiên hội tụ cả hệ sinh thái rừng và hệ sinh thái mặt nước như Bến En. Đặc biệt vào thời điểm hoàng hôn, du khách được ngắm nhìn bức tranh sơn thủy hữu tình tuyệt đẹp tại nơi đây. Thời điểm hè, du khách có thể bơi, lặn tại hồ sông Mực cảm nhận làn nước trong lành, mát mẻ... (Trích)


======================== 

...Đói rét tủi nhục. Chết vì ăn nhằm gan cóc. Có người phải thắt cổ, cái xác tòn ten trong một đêm vắng lặng giữa rừng thiêng.


Và sau hết cái Lòng Hồ Sông Mực nên thơ kia thành hình như hình ảnh ngày nay ngoài những cái bản huyện Như xuân Thanh Hóa ngày xưa...hôm nay là làng xã ven hồ những nơi du lịch...


Còn ai nhớ lại hình ảnh buồn bã năm xưa? Những bóng tù lầm lũi xăm xoi tìm cái ăn. Trong ngày Giáng Sinh có vài hạt dẻ no tròn trong muôn ngàn hạt dẻ trống rỗng vô hồn như tâm trạng của những người thất trận năm xưa.


Cái lạ lùng và trái ngược bây giờ một tâm lí rất thật cho tôi khi nhìn túi hạt dẻ bây giờ tôi chẳng thèm muốn chẳng cần đụng đến nó: luộc hay nướng tôi bất cần thế mới lạ?


Tâm hồn tôi cứ lãng đãng trôi về một đám rừng Thanh Hóa ...những đống vỏ hạt dẻ trống rỗng, vô dụng, cùng tiếng đàn vẹt rúc réo trên cao. Bầy vẹt, hình như chúng đang tức giận do rừng hạt dẻ mất mùa ./.


ĐHL
Nhớ Rừng Thanh Hóa Giáng Sinh 1977 


=========================== 


RUỘNG MUỐI TƯỜNG VÂN


 

           Tường Vân Thôn Hè 1976 
Biển sóng biển sóng đừng trôi xa
Bao năm chờ đợi sóng gần ta
Biển sóng biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù...(Sóng Về Đâu/ TCS)


    Trước khi dòng Thạch Hãn đổ ra Cửa Việt có mấy thôn Tường Vân, Hà Tây. Ở đây có một nhánh sông nhỏ cùng nhập vào dòng chính Thạch Hãn trước khi chảy ra cửa biển. Bình thường thủy triều lên thì nước mặn đi vào rồi lại rút. Dĩ nhiên cánh đồng Tường Vân chỉ có thể tạo được một cánh đồng không để làm ra lúa gạo mà để làm muối. 

  Sau buổi can qua, chúng tôi là đám tù từ Ái Tử có lệnh di chuyển về dựng lán trại tạm trú riêng biệt tại một ngã ba sông, nếu không lầm xem bản đồ hiện nay là Thôn Tường Vân, thuộc huyện Triệu Phong một đồng trống nơi nhánh sông sắp chảy ra Cửa Việt. Người viết còn nhớ anh em tù ngày đó còn gọi là đi làm ruộng muối " Hà La". Nhưng nay trong bản đồ chẳng có thôn nào tên Hà La ngoại trừ Hà Tây mà thôi.

 Thời gian vào  khoảng hè 1976, gần hai trăm người chúng tôi từ Trại 4 được dẫn về làm muối tại đó. 


   cánh đồng muối do tù Trại 4 Ái Tử về làm mùa hè 1976 (có ô lục giác đỏ) đối chiếu với bản đồ Google hôm nay (ngôi sao nơi ở của tù, mũi tên nơi gánh cát về ruộng muối)


Một cái nhà tranh dài được cất lên ven nhánh sông nhỏ, sau lưng là cánh đồng Tường Vân khá rộng. Buổi chiều rảnh, chúng tôi hay ngồi ngó qua bên kia là Hà Tây, ngắm nhánh sông sóng nước lao xao theo gió.


Điều đặc biệt khiến người viết nhớ mãi là Muối này làm theo phương pháp mới từ ngoài bắc đem vào nên thu hoạch muối vào cuối ngày. Sáng làm chiều có muối. Phương pháp này khác xa với cách làm muối tại Phan Thiết xưa là chờ ruộng khô khá lâu mới cào muối...

Làm muối cách mới này ra sao?

1- LÀM MẶT BẰNG

những thửa ruộng muối thật bằng, chúng tôi đi nong đất bằng những cái thuỗng dài, cát gánh từ sông Tường Vân vào (cách 2 cây số) rãi đều trên mặt bằng.Tù được giao khoán số cát phải gánh từ bờ sông vào , ai gánh đủ số lượng mới được về trại nghỉ.

2 - TĂNG ĐỘ MẶN NƯỚC BIỂN

Nước biển từ Cửa Việt theo các con lạch đào vào ruộng. Sau khi ngấm qua lớp mặt bằng này độ mặn sẽ tăng lên cao . Giữa những đám ruộng là những đường thẳng chúng tôi múc nước từ các ô nước đã tăng độ mặn bỏ vào các cái vại đúc để dọc theo những đường băng này thẳng tắp. Các vại này gọi là CHẠC  các ô phơi cạnh các vại này sẽ nhận một lớp nước muối đậm này. 

3- PHƠI NỨOC BIỂN VÀ CÓ MUỐI CUỐI NGÀY 

Rất nhiều các ô phơi dọc theo các đường băng. Kể cũng tội nghiệp cho việc xây ô. 

Tội nghiệp ra sao? 

Đúng ra cần nguyên liệu là CÁT -VÔI- XI MĂNG. Thời đó không bao giờ có xi măng. Có thể nói ra không ai tin vào thời này; xi măng có thể loại hiếm quý, nó dành ở đâu khác thôi.  Vôi và cát là 2 nguyên liệu chính cho người thợ tù chúng tôi làm ra ô và chạc để làm ra muối.

    Nhưng vôi và cát trộn lại với nhau chỉ là sự kết nối tạm bợ thôi,  khó mà bền vững được. Trời nắng đến chiều chúng tôi cào lại là có một lớp muối mỏng. Vô số các ô phơi như thế cộng lại cuối ngày đã có muối đem gom lại. 

    Chiều tà, nhóm tù chuyên môn làm muối có được vài gánh muối ít ỏi gánh về. Ngày nào cũng thế, lâu ngày cũng có  một số muối dồn đống lại. Muối tù làm được không bao nhiêu. So với cánh đồng muối trong nam thì việc sản xuất này phải xem như là "trời ơi đất hỡi" mà thôi. Chỉ có công tù là 'công không trả' nên người ta mới làm theo kiểu ít ỏi thế kia. Muối ít hay nhiều cũng là chuyện của Trại. Đó là cái gọi là thành quả 'cải tạo lao động'. Chúng tôi chẳng để ý chuyện này. Hàng ngày chỉ mong cho xong những gánh cát ướt và nặng, gánh từ bờ sông vào đồng muối cho đủ "chỉ tiêu" giao khoán, xong về lại căn trại tạm thời đó nghỉ.

    Làm sao tôi quên hình ảnh bao cái áo sọc tù nhưng hai bờ vai bạc trắng mồ hôi muối. Gần cửa biển nên nước sông cũng mặn hòa với mồ hôi càng làm cho áo tù càng mau mục rã, tả tơi. Thương cái đòn gánh, người "bạn hiền" gần gũi đôi vai. Nếu ai đó có được cái đòn gánh dẻo dai, vẫy nhịp theo bước chân chạy đều, nó sẽ giúp cho phần nào gánh nặng.  Nước uống- toán "anh nuôi" vào tận làng gánh về chia đều tiên cho việc uống.  Những miếng cơm đạm bạc Những bữa ăn không no đó là những gì tôi còn nhớ được.

PHÓNG ĐỒ RUỘNG MUỐI HÀ LA THÔN TƯỜNG VÂN CỬA VIỆT 1976


NHỚ LÀM SAO BUỔI ĐÀO SÔNG KHƠI RỘNG DÒNG NƯỚC CHO THÔN TƯỜNG VÂN 

 NHỮNG KHÚC SẮN 'ỐM O', NHỮNG THÙNG NƯỚC CHÈ TƯƠI  NHƯNG ẨN CHỨA  TÌNH THUƠNG CỦA NGƯỜI  LÀNG MỚI HỒI CƯ 



Chúng tôi được dịp khơi lại một đoạn sông của thôn TƯỜNG VÂN bị khô cạn, trơ đáy vào một hai dịp cuối tuần. Khúc sông hẹp này đựoc mấy đội tù làm ruộng muối chúng tôi vào làm giúp. Đó là một ngày thứ Bảy, chúng tôi vui và nhớ hoài do được gặp lại dân làng. Người làng mới hồi cư lại vùng này đang cần nước, khúc sông lại cạn cần khơi rộng ra. Tiếng là gặp lại dân nhưng chúng tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. 

    Nhớ làm sao, chúng tôi có một giờ giải lao nào đó. Đội sản xuất trong thôn có nhiệm vụ gánh sắn nấu ra 'bồi dưỡng' cho đám chúng tôi đang công tác XHCN cho dân. Những khúc sắn ốm o mọc lên từ ruộng cát trắng bạc màu, lớn bằng đầu ngón chân. Có thể đám sắn này vừa mới vươn lên từ nền đất cát trắng gần biển, nhưng người dân chẳng có gì để đãi người lao động giúp thôn trong một ngày chủ nhật. Nhớ làm sao mấy thùng nước chè tươi, đựng trong hai thùng sắt vuông rỉ sét, được người dân trong thôn gánh ra. Hình ảnh một buổi 'giải lao' tràn đầy ý nghĩa trong đó làm chúng tôi nhớ mãi trong lòng.

Những khúc sắn 'nhỏ ốm tong teo' từng vươn lên trên nền cát vùng biển. Không là ngoa ngữ, chúng tôi nhớ thời gian đó đối với người tù sao thơm và dẻo ngon đến thế?! Sự thật khó tránh né, do lúc đói cái gì mà chẳng ngon. Nước chè xanh đối với chúng tôi rất lâu mới thấy lại. Chúng tôi tìm cách uống thêm mấy lon nước chè cho thật thỏa vị giác và cái bụng. Sắn và nước chè tự tay người trong làng Tường Vân nấu cho tù. Không hẹn hay báo trước mà gặp; quá lâu mới thuởng thức những thứ trước đây xem tầm thường và gần gũi thế mà ai ở vào hoàn cảnh trong cuộc mới cảm nhận hay nói hết lòng cho đủ ý là ngon và "thấm thía" làm sao.

Anh "đội trưởng sản xuất" trong thôn, nghe đâu cũng "hạ sĩ VNCH" vừa hồi cư về làng. Dĩ nhiên chỉ là hạ sĩ do anh không có nhiệm vụ đi "học tập". Hôm đó người đội trưởng này  có nhiệm vụ gánh nước chè tươi cùng thêm một người khác gánh sắn nấu cho đám  chúng tôi đang ngồi nghỉ bên triền cát;  liếc trái liếc phải xong, anh nói thật nhanh như sợ ai đó nghe được:

...Ăn, ăn đi mấy eng, ăn cho no nghe mấy eng ...

 
    Làm sao chúng tôi quên được câu nói đầy nghĩa tình đó. Thật vậy, trong những hồi ức nhớ về TÌNH DÂN tôi không bao giờ quên câu nói trong buổi giải lao năm đó. Một câu nói của người làng vừa hồi cư trong thiếu thốn chật vật mọi bề nhưng không quên san sẻ một chút ân tình cho những người nay đà thua cuộc.




Hơn bốn mươi lăm năm qua rồi, tôi vẫn nhớ về Tường Vân Thôn. Có những buổi chiều tà, tôi ngồi bên bờ cát của nhánh sông nhỏ lắng nghe tiếng sóng lao xao vỗ vào bờ sông cạnh doi đất của một lán trại tù riêng lẻ. Thủy triều vẫn lên xuống hàng ngày. Cánh đồng ruộng muối rộng mênh mông. Tôi nhìn chênh chếch hướng tây, trên đó là rặng Trường Sơn mờ dần theo ánh tà dương sắp lặn. Chỉ ngần ấy thời gian, mới hai năm ra đơn vị. Hè 1974 tôi còn đóng quân tại hai thôn Thanh Hội và Vĩnh Huề. Tôi nhớ cái hầm trú ẩn trung đội núp dưới đụn cát ven bờ biển vắng của Vĩnh Huề Thôn. Tiếng tịch tịch tè tè của chiếc máy truyền tin và hàng ngày đóng quân tôi hay ngắm ánh hoàng hôn mờ dần trên bờ cát vắng. Rồi Trường Sơn trên kia một nơi có mấy cái chốt trung đội những ngày cuối cùng, giờ đó chắc đã phủ cây xanh.  Chỉ hai năm thôi, bờ biển vắng cùng rặng Trường Sơn cùng một thay đổi quá nhanh chỉ còn lại là số phận của những thân phận tù binh về làm ruộng muối. Ôi chỉ ngần ấy hai năm, biến đổi và số phận thoáng nhanh chẳng khác chi là một giấc mộng đêm trường...

Ruộng muối mênh mông ngày đó, ắt hẳn giờ đây không còn chút dấu vết nào của một khúc sông nào đó cạnh Tường Vân Thôn. Một ngày xưa có những bàn tay những người tù khơi rộng một khúc sông. Tường Vân thôn, nơi có những khúc sắn nghĩa tình và bát nước chè ân cần thuơng cho thân phận sa cơ thua cuộc, là chút gì an ủi cho chúng tôi trong ngày tàn cuộc chiến.


Tường Vân ơi! thôn xưa cày lên dòng nước mặn
Bạc áo vai người, kỉu -kịt hạt muối thấm mồ hôi
Thôn xóm quạnh hiu, dòng sông chờ người khơi mạch sống
Cơm áo chưa về, ngày tháng đó xa xăm
Sóng sánh miếng nước chè xanh anh- tôi chia đôi khúc sắn
Mặn nồng ơn nghĩa- dòng sông vắng làm nhân chứng tình dân.



ĐINH HOA LƯ 
TÁI BIÊN 20/2/2025

Wednesday, February 19, 2025

NHẬT KÝ TÙ BINH by ĐHL


 

 

ĐƯỜNG RỪNG VÀ CÂY MÂY


Sầu thương năm tháng khó phôi phai.
Nhớ ai còn thương nhớ thương ai hoài...

Đường Chiều Sơn Cước

Tác giả: Minh Kỳ & Lê Dinh


Chào bạn đọc

Mây đây không phải là những đám mây trời bồng bềnh trôi trên bầu trời xanh lơ trong một ngày nắng đẹp đâu thưa quý bạn. Mây đây là những bụi mây rừng đầy gai nhọn trong rừng sâu núi thẳm.


Người viết nhớ về ngày tháng ở tù tại Trại Bình Điền vùng tây nam Huế, đó là lúc có dịp làm quen với vô số bụi mây nước đầy gai nhọn. vùng rừng này phải được khai thác tạo thành nhiều vùng sắn rộng bạt ngàn. Thật ra đó là lúc chúng tôi là người bạn "bất đắc chí" do hàng ngày lên rừng rút mây, đẽo gỗ vác về trại.

Chuyện non nửa thế kỷ rồi, thời gian qua nhanh vùn vụt thế mà hình ảnh những vòi mây đầy móc nhọn như còn. 'vẩn vơ' hay 'lắc lư' trong trí nhớ.

Có khi tôi tách bạn tù vào một đám rừng "một mình một rựa âm thầm rút mây. Tôi lội bì bõm dọc theo mấy khe nước. Dưới những tàng lá rậm rạp,  ánh sáng ban ngày trở nên mờ ảo. Mây nước mọc nhiều hai bên khe nước. Những bụi mây rậm rịt, vòi cao vươn lên tới sườn núi.  Chuyện tước mây cũng phải có 'kỹ thuật', nếu không có bạn tù chỉ vẽ thì khó lòng tách được- hàng hàng lớp lớp- gai nhọn bao quanh thân chúng.


Nào! Giờ tôi dùng cái rựa đã mài sắc và chọn những nhành mây dài nhất.  Tôi vừa nhún, vừa lắc uốn thân mây từ dưới lên trên. Lớp vỏ mây cùng gai sẽ từ từ lóc ra. Nhún- uốn- lắc nhành mây là cách thức tước võ mây chứ không róc vỏ như róc cây mía được. Nhành mây dài, không lấy phần đọt do nó non không tốt. Thế là được một cây mây. Tiếp tục lủi theo khe như vậy bạn sẽ làm sao cho được một VÁC bó lại, ra khỏi rừng là trời hơi xế. 

Tôi ngao ngán những vòi mây đu đưa trên cao? chúng có nhiều cái móc hình móng mèo thỉnh thoảng chúng móc cái mũ vải của tù rút lên trên không lắc lư như "trêu ghẹo" ? Vừa mệt vừa đói muốn ra khỏi rừng cho nhanh, trời sắp tối nhưng tôi phải vứt cây gỗ trên vai xuống hì hục lấy lại cái mũ vải "thân yêu "; rồi lại vác gỗ lên vai bươn bả ra khỏi rừng.



Mây nước dùng làm gì? Nó dùng để cột rui mèn đòn tay. Mây nước có cái tên này do chịu đựng được trời mưa gió nên để làm nhà thôi chứ không làm đồ mỹ nghệ được. Ngoại trừ một chuyện đó là làm GHẾ MÂY. Xưa nay người ta đan ghế mây ngồi êm chịu mưa gió , thiết kế tại quán cà phê hay đồ mỹ nghệ khá thích hợp.

Tôi kể lại chuyện rừng ngày đó. Nếu ra khỏi rừng còn thì giờ người tù cải tạo sẽ đi kiếm một vài thứ mây khác đó là MÂY PHUN, MÂY ĐẮNG, MÂY TẮT ...kể không hết bao nhiêu thứ mây rừng tôi học được trong trại

Những thứ mây này mọc tại sườn núi, có nghĩa là không nằm dưới khe. Nhưng lùm mây phun mây đắng, lóc ra màu trắng nõn nà, thân nhỏ dài lê thê. Tôi sẽ cuộn lại một bó riêng đem về trại cho bạn bè đan đát. Thân mây phun mây đắng chúng tôi chẻ ra xong vuốt mỏng, đẹp đan thành giỏ (làn gọi theo tiếng bắc) đựng đồ đạc, mũ mây đội trên đầu cho nó 'hoách'. Những ông tù khéo tay còn đan thành những thứ 'độc đáo' hơn bảo đảm thành phố không thế nào có đặng?


những thứ mũ giỏ mây này từ lâu xuất hiện trong trại. Thú thật những người tù gốc là trung đội trưởng nghĩa quân (Huế Thừa Thiên) có bàn tay khéo léo nhất. Người viết nghĩ rằng do họ xuất thân từ nông thôn giỏi về đan đát họ làm những thứ này trong thời gian rảnh rỗi trong TRẠI. Nói thì nói thế, nhưng tôi khó học được nghề này chỉ nhìn thôi, bàn tay mình có gắng chi cũng không theo kịp các vị này.

Viết miên man trong trại còn nhiều nghề thủ công mỹ nghệ (phát sinh từ trại) nữa bạn đọc nên hình dung cái rá nhỏ kia làm gì? để CHIA PHẦN SẮN KHOAI cho bữa ăn trong tù thôi. Những người nào nhớ nhà thì giữ lấy đó, cất mãi trên cao trên đầu chỗ nằm của mình, hi vọng ngày đẹp trời nào đó có gặp người nhà thăm nuôi rồi gửi về nhà làm quà kỷ niệm.

Những hình ảnh kèm theo bài viết dĩ nhiên là lấy  từ Internet nhưng người viết đoan chắc với bạn đọc thời đó các vị đồng tù này họ đan còn khéo còn hơn nữa là đằng khác.
Tên các loài mây rừng này, nhiều lắm chắc là còn vài thứ nữa người viết có thể quên. Dù sao thành phẩm kể ra đó nào mũ, giỏ, làn chi cũng để trong nhà không thể chịu mưa gió như 'anh chàng' mây nước được đâu? Mây nước chịu mưa gió không mục nên dùng làm ghế mây, cột đòn tay dựng nhà hay rào chắn bên ngoài.

Còn một thứ mây nữa đó là mây tắt (hay tắc) những danh từ chỉ nghe chứ tôi chưa hề đọc thành 'chữ' trong tù. Mây tắc thân nhỏ hơn chiếc đũa, dài lê thê có thể mấy mươi mét xuyên vắt vẻo bụi  này sang bụi khác lưng chừng núi. Thân mây tắt không gai lá cũng không mấy gai, không e dè khi rút nó. Mây tắt vể trại chúng tôi chẻ ra vuốt mềm mại dùng 'nứt' vành cho những dụng cụ nhà quê như trẹt, mũng, rá ,,,

Làm xong các vật dụng thúng mủng rá nói trên phải có cái vành ,mà có vành thì chúng ta liên tưởng đến cặp vành ép miệng trẹt, rá vừa đan xong. Và muốn ép hai vành tre đó vào sát nhau  thì phải có sợi mây tắt mềm mại dài lòng thòng 'nứt' nó  lại 

Ngang đây nếu người viết không viết tới những bụi cây giang là loại tre rừng là một thiếu sót lớn. Những đốt giang này có thể dài tới cả mét. Thời này rừng Quảng Trị nhiều vô số giang rừng. Thân nó không như lồ ô mà khác tre. Những bụi giang rậm rạp nằm vắt vẻo bò ngang dọc trong rừng. Những đốt giang chúng tôi chặt ra bó lại thành hai bó và gánh về trại. 
Lạt giang là thứ quán quân để lợp tranh, xây nhà kèo cột. Nhưng lạt giang chúng tôi dùng nó đan rỗ rá thì thuộc loại 'quán quân".

Vùng thôn quê khi lợp nhà cần những sợi lạt nhưng  làm sao có giang rừng? Tất cả đều dùng từ những đốt tre 'cái'. Nhưng tre không thể nào có những đốt dài bằng đốt giang rừng được. Vì có mắt ở giửa nên lạt tre thường bị gảy còn lạt giang thì không.

Rừng Ái Tử QT có nhiều mây, tiếp tục vào đến Bình Điền tây nam Huế chúng tôi lại một lần nữa lại gặp những rừng mây nhiều vô số. Người ta hay nhắc câu “Nước khe Điên cọp Bình Điền,” toàn vùng này nằm trong rừng mây nên rất độc, uống nhằm nước này hay lên cơn sốt rét. Những năm đầu 1980 những cánh rừng mây nước ỏ đây đã bị những trại tù cải tạo san bằng đốt dọn để trồng lên những rẫy sắn bạt ngàn.

Chuyện đường rừng, chuyện  ngày xưa nhớ gì kể đó. Những hình ảnh đó nó tái hiện trong khoảng trời xa xưa khi rừng thiêng còn rậm rạp thâm u. Đã nửa thế kỷ qua rồi, khi con người càng lúc càng đông thì rừng rú năm xưa trong đó có những đồi mây  làm gì còn tồn tại?

Khi mây trời vẫn mãi mãi tồn tại tự do và thênh thang, thì dưới đất những đám 'MÂY RỪNG' chắc đã không còn? 

============== 


RỪNG VÀ ĐÓT 


.[Gió Núi Mưa Rừng / Huyền Anh)


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe (HUYỀN ANH)


    LANG THANG đọc báo trên mạng chợt tôi chú ý về chuyện cây đót miền núi Việt Nam hiện nay đang được "nâng cấp " đến cái tên là "lộc rừng", khiến tôi nghĩ đến muôn triệu 'của trời cho ' từ rừng mà cây đót là một. Chuyện đáng ngạc nhiên vì ngày xưa người ta chưa kể "số vào đâu" chuyện cây đót hay nguồn lợi về đót. Thế mà thời nay đót cũng là "cơm gạo áo tiền" cho người miền núi và dĩ nhiên  là ...nghèo
!

  Cây đót mọc nhiều ở đâu? có thể là dọc theo dãy Trường Sơn miền Trung vùng khí hậu nóng ẩm hơn miền Bắc. Miền núi Quảng Trị, từ những rú càn La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Ái Tử đi lên chúng ta đã thấy nhiều đồi đót mọc chen với lau lách. Ba năm 1975-1977 ở "Trại 4 Ái Tử", trại tù phía lưng Chùa Sắc Tứ ngó lên. Chúng tôi từng toán đi kiếm đót về, phơi khô thân đập ra và đan thành từng tấm phên vuông, lót nằm.

Sau này tôi lại có thêm kỷ niệm về đót do những năm tại Bình Điền, chúng tôi từng đi hái đót mang về cho Trại hay cho cái "nợ trần gian"đó là  "lao động cải tạo ".

                      PHƠI ĐÓT
   Ôi! những rừng đót Bình Điền, nhất là dưới chân 
ngọn núi từng mệnh danh là "Bastogne" Tây Nam Huế đến mùa nhiều vô số kể. Ngày nay gọi là "lộc của trời" hái ra tiền bạc cho dân mình , thì ngày xưa chỉ có giá trị đối vời đời tù vài khúc sắn nấu , chia cho phần trưa sau khi hoàn thành nhiệm vụ bẻ đót cùng "cân" đót . Hình ảnh nồi quân dụng canh sắn cắt mỏng, nêm ruốc Thuận An loại "quỷ tha ma bắt" vỏ giòi nổi lềnh bềnh, nhưng cũng còn "chất lượng" hơn món "canh đại dương" trong trại.Tôi xin bỏ qua chuyện này để tiếp về câu chuyện của đót và rừng Bình Điền Tây Nam Huế.
căn cứ Bastogne một thời Mùa Hè đỏ Lửa, có ngờ đâu sau 1975 lại là những trại "tù cải tạo'


Những toán tù được "giao khoán" cân lượng, chia lại cá nhân mỗi người bao nhiêu ký đót. Bạn đọc có thể thắc mắc tù thì đi hái đót làm gì? Hồi này cũng là "lộc của trời" nhưng lộc này thì cho Trại về bán cho Huế đó thôi. Những năm 1979 và 1980 có thể người dân Huế có dùng những cái chổi đót được hái từ rừng Bình Điền cũng nên.

Đi bẻ cây đót thật vui vì chúng tôi có dịp "dạo chơi", chen lẫn trong rừng đót, được những giây phút thảnh thơi với hoa lá không có ai canh giữ theo mình. Đỉnh Bastogne không còn xa xôi nữa; nó, trước mắt chúng tôi và chẳng còn cao vì chúng tôi đang ở cạnh nó. Cách bẻ đót khá dễ dàng. Khi hoa đót bắt đầu bung, màu còn hơi xanh, là thời gian tù đi "thu hoạch ". 

Không dùng liềm, cũng chẳng phải bẻ 'ngang xương'. Một tay nắm phần lá ngang cái đốt chúng ta muốn bẻ, tay kia cầm bông đót bẻ về phía ngược chiều, thì bông đót tự DỨT RA, không còn dùng dằng, mất thì giờ nữa. Đi hái đót buổi đầu, "năng suất" còn thấp, qua buổi thứ hai thì quen tay, chúng tôi tăng dần lượng đót. 

Cây lách rừng "ranh ma", mọc xen trong rừng đót. Phần mép lá của cây lách sắc "hơn dao cạo", bao nhiêu lần đứt tay máu chảy ròng ròng; "đưa miệng mút" cầm máu, rồi cũng xong. 

Mùa đót vào tháng nào chúng tôi chẳng nhớ?mà chẳng cần nhớ làm gì! Nhưng đót không thể "rủng rỉnh" đợi mà trại phải làm gấp chỉ ít tuần trong mùa "ĐÓT RỘ" thôi.  Huế lúc này làm sao mua hết đót trên rừng? Huế sau năm 1975, chỉ còn vài con phố "hiu quạnh". Chủ nhân lớp ở tù, lớp "mất hút" phương xa. Những bà mẹ Huế mãi ngồi "chờ con";đứa ở tù, hay có đứa 'đi mãi' không về, nên để tường ố nhện nhăng.  

Phố Huế đìu hiu-  u buồn khi khách vắng teo. Chẳng ai màng quét dọn, thì làm sao đót từ rừng về thành phố bán chạy? Vài dãy phố mua bán cầm chừng, tiền bạc hiếm hoi, chuyện "lộc trời" chắc gì khấm khá?


Xưa, tôi có khi tay cầm chổi đót. Tôi còn nhớ hình dạng cái chổi, qua tay nguòi dân quê hay người thợ nào đó bó cho mà dùng. Giờ, tôi đứng đây giữa rừng đót Bastogne ngày xưa "gầm vang' đại pháo, 155, 175 ly? tất cả đã trả lại im lìm muôn thưở cho núi rừng Truờng Sơn. Lòng cảm thấy vui vui, tôi như  như một khám phá "bất ngờ và lý thú" nào đó...
 
Cứ trưa trưa mỗi người mỗi vác đót thật lớn đứng xếp hàng "đếm số" vào lại cổng trại. Cái sân trại giờ đây phơi đầy những hàng đót , chờ khô có xe chở về Huế. Chuyện bán đót là chuyện của cán bộ, đời tù chỉ mong đến giờ nghe kẻng để đi nhận phần ăn là xong. Củ sắn, thìa muối sống buổi sáng , phần "
canh đại dương" kèm theo sắn hay khoai ...thời hái đót ,năm ngày mới được thuởng thức một chén cơm từ khẩu phần 100 gam gạo; gạo là "thuốc bổ" phụ cho thời khoai sắn thay cơm.   Đó là những năm tháng khó quên, những kỷ niệm "rưng rưng " với đót, với  Trường Sơn - Huế,  
với những rừng đót lung lay theo gió. 

Ngày đó từng bó đót được đổi miếng ăn cho tù, là kỷ niệm, là dỉ vãng. Tôi nhớ đót như nhớ (hay thuơng) những mãng rừng no nắng trên vùng biên giới, quê huơng.

 Ý niệm hận thù, ghét bỏ, đã qua đi như ngọn gió rừng lao xao lướt qua thảm rừng đầy tràn hoa đót . Giờ đây đót vẫn còn ; nhưng là tiền, là gạo,  cho bao lớp tuổi thơ VN, đời sống bấp bênh, nghèo đói so với tuổi thơ thành thị. 

 Qua bao năm, chắc hẳn giờ đây hoa đót vẫn đu đưa, "ru đời" qua đi sau từng cơn gió núi. Đót Trường Sơn vẫn vươn qua bao tàn phá của những bàn tay tham lam mở đất; đót còn nuôi em, nuôi mẹ vùng cao. Xã hội còn nghèo, hay tình nguòi cùng sự công bằng xã hội "còn nghèo"?  Trường Sơn vẫn oằn lưng chịu bao nhát chém của lòng tham ; đất Cao nguyên vẫn lở lói cho 'tiền muôn bạc tỷ' của những kẻ ngất ngưởng quyền uy ! Người dân núi vẫn nghèo, tuổi thơ vùng cao vẫn đói ! Bó đót qua thác vượt ghềnh, vẫn chống chọi với cái chết để đổi lấy miếng cơm! những chiếc cầu "công lý" vẫn chưa nối bờ cho đám dân rách rưới xác xơ ? 

   Thôi, biến cố nào cũng qua, sướng khổ nào cũng hết;  xin lắng tâm tư về kỷ niệm , mong sóng lặng gió qua bình yên như nước hồ thu. Trong muôn vàn ký ức của những thế hệ , những lớp người đi trước , bao nguòi Việt Nam dù bắc hay nam, dù người linh VNCH hay bộ đội 'cụ Hồ", chắc hẳn có nhiều người mang nặng dấu ấn Trường Sơn, trong đó có hình ảnh những rừng đót hoa nở trắng phau lung linh dưới ánh nắng rừng. Tôi không ngờ hôm nay những hình ảnh và câu chuyện về đót cũng được nằm trong vùng kỷ niệm ./.

========================= 



  CON CHUỘT VÀ NGƯỜI TÙ BINH

 

    Tiếng sột soạt làm tôi tỉnh thức lúc nửa đêm. Những người bạn tù nằm cạnh tôi đều ngủ say sau một ngày chặt rừng don rẫy. Đúng là nó; con chuột mấy đêm nay thường ‘tấn công’ cái bao cát đựng đồ ‘tư trang’ của tôi móc phía trên đầu. Con chuột tinh khôn và thật nhạy bén. Đêm trước tôi đã vùng dậy chụp lấy cái bao quyết bắt nó trả thù nhưng hắn nhanh quá chun ra vọt mất.Cơn giận lúc nửa đêm chợt bùng lên như ‘sóng cuộn’ trong lòng tôi. Con chuột nó đánh hơi trong cái bao cát treo tòn ten trên đầu nằm tôi có mùi khoai luộc? Đó là mấy lát khoai cuối cùng còn lại  từ món quà thăm nuôi mạ tôi trong nam ra thăm con tại Ái Tử. Khoai luộc, chúng tôi đặt cho cái tên khá ‘đẹp’ là “sâm Cao Ly”. Sao mà không là 'Sâm"? Những lúc nào thật cần thiết tôi mới đem ra nhai một lát...nhai từ từ thôi để thưởng thức chất ngọt của nó hòa trong một cảm giác dẻo dai của lát khoai. Nhưng có sợ hết chi thì giờ nó cũng gần hết. Có cái gì tồn tại lâu dài được với cái bụng tù ‘ngày đêm đòi hỏi’ đâu? Đói! Vâng đúng vậy. Một cảm giác khó lòng diễn tả sao cho đúng khi bạn chưa bao giờ có dịp cảm nhận một lần với đời tù binh.

Thế mà con chuột 'khốn khiếp' này dám tấn công ‘kho báu’ của tôi!?

Tiếng động nói trên càng dồn dập cùng lúc với bao tiếng ngáy đều đều của một lán trại đang say ngủ trong đêm.

Khoảng nằm của một người chỉ non non tám tấc bề ngang. Tôi rón rén ngồi dậy; gắng làm sao không làm cho người nằm hai bên thức giấc. Lòng mong muốn trả thù làm tôi tinh tế và cẩn thận hơn bao giờ hết. Nó đã ăn khoai của tôi và thứ hai là đã cắn rách cái bao cát làm ba lô một lỗ quá lớn!  khó đào ra bao cát lúc này, Căn cứ Ái Tử đã bị đào xới không biết bao nhiêu lần?

Khi cái khom mình của tôi vươn thẳng lên một độ cao cần thiết, bao nhiêu sức lực của tôi tập trung vào hai bàn tay và chỉ một lần này:

Phụp!

Hai tay tôi đã chụp đích xác, ép chặt khăng vào cái bao cát không dám rời, Một khối động vật nào đó nhúc nhích bên trong cho tôi biết được chắc chắn tôi đã tóm được nó. Sự tức giận của tôi mấy đêm nay chỉ tung ra vào giây phút này. Hai bàn tay tôi càng lúc càng xiết mạnh vào cái khối nhúc nhích kia. Răng tôi nghiến chặt, những luồng thần kinh đi từ lòng căm hận xuống bắp thịt của hai cánh tay truyền xuống hai bàn tay...những động tác mạnh bạo từ những nhát rìu, búa, rựa giờ nó biến thành cái xiết kinh hồn của mười ngón tay...một sức mạnh đi từ sự thèm thuồng chất ngọt của mấy lát khoai từ miền nam thân yêu ra đến nơi này...

Khối nhúc nhích và nong nóng đó giờ im hẳn. Nó đã tê liệt Con chuột đã chết.

 những dãy nhà này giống TRẠI 3 BÌNH ĐIỀN TÂY NAM HUẾ 

Mấy người bạn đang ngủ ngon nghe động, thức giấc. Biết chuyện, họ nằm xuống ngủ tiếp.
Tôi vẫn để xác chuột nằm bên trong cái bao cát đó, sau khi cuốn cái bao lại vài vòng cho "chắc ăn". Giờ nó là ‘chiến lợi phẩm’ của tôi, con chuột phải trả cho tôi những gì đã mất!

Ngày mai tôi sẽ có món THỊT CHUỘT!

TRẠI Z30D giam tù chính trị và SQ VNCH địa điểm dưới chân núi Mây Tào -ranh giới Hàm Tân Long Khánh nơi CSVN giam giữ sĩ quan VNCH và tù nhân chính trị (hình này từ tài liệu của Eugene Garcia báo Register )

Lán trại tù đâu phải dễ dàng cho bạn ‘cải thiện’ món ăn đâu? Những giờ còn lại trong đêm trường tôi suy nghĩ về cách làm sao để ăn được con chuột này. 

Cái lon sữa bò cũ, đã rỉ sét, tôi còn dấu kỹ bao lâu nay dưới gầm sạp. Trước khi đi làm tôi đem xác con chuột ra và dấu gửi cho chú Dật, người rất mến tôi. Chú Dật thuộc đội nấu bếp nên  ở nhà. Giúp tôi nấu con chuột này là chuyện quá dễ dàng do chú làm bếp và bếp tập thể thì tha hồ củi lửa. Chúng tôi toán làm ngoài chiếu tối mới về làm sao 'cải thiện linh tinh'?

Chiều đó tôi hân hoan khi Chú Dật nháy mắt và ra dấu cho tôi con chuột đã nấu xong vẫn trong cái lon tt sữa bò; chú treo dưới gầm sạp cho tôi. Chỉ vào thời điểm đó hoàn cảnh đó tôi mới nói được sự chính xác của niềm vui của tôi khi được một người bạn tốt giúp nấu xong một con chuột. Vâng tạm gọi là ‘nấu’ đi khi chú Dật đã chặt đầu lột da đặt xác chuột vào cái lon sét rỉ của tôi cùng thêm nước và một ít muối sống. Nguồn khó khăn nhất là LỬA. Nó là sức nóng sự chín tới và cuối cùng là sự sống cho kiếp tù nhưng từng bị ngăn cấm ngoại trừ số nấu nướng trực tiếp tại bếp lò.

Đơn giản là thế. Bỏ chuột vào một vật chứa đựng được xác nó và cho nó lên LỬA. Chú đã giúp tôi được như thế. Bao nhiêu than hồng kéo ra từ miệng lò bếp 'anh nuôi' dưới kia.  Cám ơn chú biết chừng nào.

Chia phần ăn chiều xong tôi rón rén lấy lon thịt dưới gầm ra. Những khúc sắn đắng phần tối của tôi chiều đó lại thay đổi hẳn do tôi đang có một khối thịt nấu chín...

Chợt miệng tôi ngưng hẳn! một sự ngưng trệ quá ngỡ ngàng do hoàn toàn không lường được?

 Bao nhiêu ước muốn, mô phỏng,  thèm thuồng chợt tan hẳn nó vỡ tan như cái bọt xà phòng? Mùi tanh của khối thịt lợn cợn trong miếng nước muối nguội lạnh nhưng ác hại thay lại cộng vào mùi SẮT RỈ của cái lon sữa bò đã qua nhiều lần chịu lửa? Có thể vậy lắm chính nó làm tôi nôn ọe...

Dù đang đói nhưng tôi không thể nuốt được một tổng hợp của  tanh tưởi này? Cái bao tử đang trống nhưng lại cuồn cuộn muốn tuôn ra những gì nếu trong đó nó còn.  Acid hay nước bọt tích chứa bao ngày trong cái bụng khốn khổ của tôi?

Tôi đã không đưa vào miệng được?!

Thôi tôi đã thua cuộc, mũi và miệng tôi hoàn toàn 
thất bại. Tôi không thể  thắng một mùi tanh rất đặc biệt mặc dù tôi đang cần thịt.

Mới đêm trước tôi đã THẮNG khi tóm được con chuột này nhưng giờ đây tôi đã THUA một sự bỏ cuộc cay đắng đến từ một mùi vị vô hồn./.

Đinh hoa Lư 14/9/2019

============================= 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...