Thursday, February 13, 2025

50 NĂM NHỚ MÙA XUÂN TRÊN ĐỈNH CAO QUÊ HƯƠNG

   1975  MÙA XUÂN TRÊN ĐỈNH QUÊ HƯƠNG


Tôi trở lại vùng hành quân vùng xa xôi đá sỏi biết buồnBa tháng hậu phương yên bình tuy vết thương chưa lành hẳnTôi lại đi giữa lạnh sang ĐôngĐời tôi chinh chiến lâu năm, yêu lúc băng rừng như mộng tình nhân...

(Mùa Xuân Lá Khô/ Trần thiện Thanh)

***


ĐỘNG ÔNG DO 

    Mấy tháng cuối thu 1974 cả tiểu đoàn đau "rạt gáo"  do một chứng sốt tràn lan một cách lạ kỳ trên vùng Động Ô Đô. Lính bị bệnh cáng về hậu cứ càng lúc càng nhiều. Từ đó quân số Tiểu Đoàn 105 thiếu hụt trầm trọng. Trung đội tôi chỉ còn khoảng hơn hai mươi người. Tính theo đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội đôi khi còn ba, bốn người thôi. Thiếu quân như thế, làm sao gác giặc? Hằng đêm chúng tôi phải thay phiên gác tới hai ca. Ca một từ 6 tới 8 giờ tối thì ca hai từ 4 tới 6 giờ sáng...  Sốt rét và thiếu ngủ và thiếu cả cái ăn làm lính càng yếu sức thêm. Tôi tuy là trung đội trưởng nhưng chỉ khỏi gác khi quân số đầy đủ. Tình hình sốt lan tràn toàn vùng Ông Đô, nơi nào cũng thiếu lính không riêng gì trung đội tôi.

Trước khi kể lại chuyện xưa, chuyện một "Mùa Xuân Lá Khô" một đề bài do người viết cảm hứng từ bản nhạc của NS Trần thiện Thanh, tôi cũng đính chính một chút về cái tên "Động Ông Đô" thật ra ngày trước người Quảng Trị mình gọi là "Độn Ôn Do" mà tiếng "Do" người Mỹ đọc trên bản đồ là "Đô" và sau này các đơn vị QLVNCH thì theo vậy mà gọi. Chỉ có một lần ngày xưa còn nhỏ tôi thường nghe người làng Nại Cửu như cậu Võ Thế Hòa (Dâu) thường bàn tán nhau "chèo đò lên Trấm lên độn Ôn Do" kiếm củi...




 Tác giả vốn đã ốm, vướng sốt nên càng lúc càng gầy rọc đi. Đêm đêm trong người mãi sốt ngầm, tóc rụng nhiều. Tôi vẫn bám chốt, vẫn gác 2 ca hàng đêm. Quân số càng lúc càng thưa do lính khai bệnh về hậu cứ. Phần tôi dù cố gắng chi rồi cũng 'chống gậy' theo xe tiếp tế tiểu đoàn về Bệnh Xá Tiểu Khu.

Nói ra thì nghe khá lạ lùng? sao lại "chống gậy" lúc mới 21 tuổi đời? Số là sốt quá, tôi mắt lúc nào cũng hoa lên, cảm giác sẵn sàng nôn ói?  Hơn hai tháng trời không có chất gì trong người. lại phải canh chốt, thức ngủ thì làm sao không chống gậy được?


Tiểu Khu QT đóng tại cồn cát Diên Sanh. Lúc này ông Trung tá Đỗ Kỳ làm Tiểu Khu Trưởng. Vào năm sau Ông Kỳ lên đại tá- là "dân" TQLC thì họ biết tin còn chúng tôi ở trên núi chẳng nghe tin này. Thật ra ông Đỗ Kỳ ít được người Quảng Trị biết nhiều. Đại Tá Đỗ Kỳ làm TK Trưởng do cả sư đoàn TQLC đóng tại QT là chuyện hợp lý.

Trở lại chuyện tôi, được về nằm bệnh xá Tiểu Khu nhưng để lại phía sau một trung đội thiếu quân số, thiếu mọi thứ...những anh em khác đau quá về trước tôi. Có gắng chi cũng đến phiên người trung đội trưởng, con vi trùng bệnh chẳng chừa một ai. Tôi là người bệnh chống gậy về sau cùng. Ngày đó quả thật người tôi trông ốm quá người quen chẳng nhận ra, gặp tôi ai cũng thảng thốt:

`    -Ui chao ơi ! mi đó Phúc?

 Người nhà của Trần Tài, người bạn cùng xóm Cửa Hậu, thôn Đệ Tứ, thành Phố Quảng trị trước đây bất ngờ gặp lại tôi, ai cũng động lòng thương cảm thốt lên như vậy. Bác Cai Trà, mạ Tài hay anh Tài, tất cả gia đình người bạn này đều ở vùng đất lúc đó được gọi là KHU THỊ TỨ, trước mặt Tiểu Khu. Cả một vùng đóng trên cồn cát Diên Sanh. Bà con cố cựu đều là dân THỊ XÃ năm xưa. Người cùng xóm cũ, quả thật ai cũng ái ngại, thương cho tôi hoàn cảnh xa gia đình cha mẹ. Nhà tôi tất cả đều di dân vào nam rồi.











Em Gái Hậu Phương & Tiểu Đoàn 105 TKQT tại Cầu Ba Bến 1969 (2 đại úy Lê kim Chung và Trần quang Hiền người giữa) Thời gian này tác giả chưa ra đơn vị 


 Lúc nằm bệnh ở đây tôi biết có Ông Đại Uý Quân Y Hoàng Trọng Mộng làm trưởng Bệnh Xá. Tôi biết ông bác sĩ Mộng do Ông là "người tình" của dì tôi. Khi hai người có đứa con gái tên Hoàng thị Mộng Hằng thì dì tôi và gia đình đã ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp.  Đứa con gái dì tôi nay ở Trị An, sau này cũng liên lạc được với cha mình.  Ông Hoàng trọng Mộng sau 1975 được tái hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn cho đến khoảng gần năm 2020 thì mất.  Ngày đó nằm bệnh xá, ông Mộng có xuống thăm thương bệnh binh. Thật tâm tôi chẳng muốn nói hay nhìn quen biết làm chi. Tôi về nằm bệnh ở đây là hợp lý chẳng cần "thân quen hay xin xỏ" ai nữa. Nhìn người tôi lúc đó- ốm tong teo, xanh xao do sốt rét, thiếu ăn, mất ngủ như rứa thì ai mà không cho nằm viện?

Nằm tại Bệnh Xá được năm mươi lăm ngày, tôi dần hồi khỏe người vui vẻ trở lại. Ngày ngày vào câu lạc bộ tiểu khu, vui quá nói chuyện huyên thiên đến nổi có bà ngoại mẹ người chủ rầy la "sao ồn quá". Hết bệnh tôi cầm tờ giấy phép vào tận Mỹ Tho thăm gia đình. 

Tôi có ghé Bình Tuy thăm bà con ở Động Đền. Động Đền là một cái tên của một vùng chứ không phải tên thôn hay tên xã nào cả. Động Đền là một vùng từ múi đầu của tỉnh lộ 55 chạy đến chân dốc xã Tân Sơn thuộc Quận Hàm Tân, Bình Tuy hồi đó.

 Người QT năm 1974 đã vào Bình Tuy hơn một nửa, chỉ một phần ba hồi cư về lại QT thôi. Tiểu Khu QT cũng chia đôi để đi theo Chương Trình Khẩn Hoang LẬP ẤP. 

Tôi ghé thăm vùng đất mới Động Đền vỏn vẹn hai ngày nhưng nhiều ấn tượng. Hình ảnh những cánh rừng mới bị chặt hạ ngổn ngang trên vùng đất cao xã Tân Sơn. Có mấy cái quán tranh bán cà phê nho nhỏ trước cái chợ có tên Động Đền. Những mái nhà tôn xi măng và tranh xen kẽ. Đi đâu cũng là người là người QT. Bà con gần nhau, đùm bọc nhau mà sống. Năm này chỉ có bà con ngoại tôi ở đây. Dì kế mẹ tôi có mở cái quán cà phê cũng lợp tranh tại chợ Động Đền. Cái quán ngó qua con đường tỉnh lộ 55 là quán tiết canh. Mệ bán tiết canh một thời nổi tiếng tiết canh ở chợ Sãi QT trước 1972. Nay mệ mở quán, bà con đặt cho cái tên là "Quán Mệ Tiết Canh". Năm 1974 người QT Khẩn Hoang Lập Ấp vào đây, than củi bán mua còn tấp nập. Cà phê bán cũng đắt khách do người dân còn trợ cấp, còn tiền làm than rồi đất đai mới khai hoang nông sản dồi dào. Trường học như tư thục Thanh Linh do Linh mục Nguyễn vân Nam làm hiệu trưởng. Bên cạnh đó trường học công do chương trình Khẩn Hoang Lập ấp BS Phan Quang Đán tài trợ mở mang từ Động Đền cho đến các xã trên cao như Sơn Mỹ đều được xây bằng xi măng lợp tôn vững chắc...

Gia đình ba mẹ tôi một năm sau tức là sau 1975 mới giã từ Mỹ Tho để về Động Đền. 

Hết phép mười lăm ngày, tôi ra lại miền trung  đúng vào dịp Noel 1974. Trước khi lên núi lại, tôi có hai ba ngày, lẩn quẩn về  thăm xã Hải Thọ thăm nhà mợ tôi. Cậu Võ Hoa tôi làm Phòng Ba/ TKQT và mợ tôi cũng là người Diên Sanh. Nhà mợ Lành gần ngã ba vào Chợ Diên Sanh. Vùng này một thời ai cũng biết người anh của mợ tôi. Anh ấy tên Xíu; người to con vạm vở, sức mạnh vô cùng. Sau này anh mất sớm.

 Ngày đó tôi dắt đứa em gái, con đầu của cậu mợ tôi- Võ thị Sớm Hồng- mới hai, ba tuổi đi vào Chợ Diên Sanh. Ai cũng ngỡ ngàng: 

-A Ôn Ch. Úy có con, mà răng còn trẻ dữ rứa?

 Ra trường vào cuối tháng 11 năm 1973, tôi đúng hai mươi tuổi đời, còn độc thân. Chuyện lập gia đình quả là xa vời, thật lòng tôi chưa bao giờ nghĩ đến.  Ngày đầu tiên trong đời binh nghiệp, từ Quân Trường Đống Đế tôi là người đầu tiên trong khóa  tình nguyện chọn về lại quê hương Quảng Trị. Cả khóa đứa nào cũng vỗ tay cho là 'anh hùng'? tôi đâu phải là anh hùng, do tôi chỉ muốn về lại quê hương mà thôi.

 Những ngày trình diện đơn vị mới là mùa Giáng Sinh 1973. Đúng một năm sau, mùa giáng sinh 1974, tôi đi phép bệnh và ra lại TKQT trả phép. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi phép đơn vị. Một cái phép "bất đắc dĩ" do nằm bệnh non 2 tháng mà có.  Tôi vào nam xong ra lại Đà Nẵng thăm cậu tôi- Đại Úy Võ Bình, binh chủng Lôi Hổ đang đóng tại Sơn Trà. Quà cậu tôi cho là quả lựu đạn mini nhỏ xíu bằng trái cau, bỏ túi phòng thân. Tại sao tôi gọi là "quà" do thứ lựu đạn nhỏ xíu đó chỉ có "dân biệt kích nhảy toán" hay "bóng ma biên giới" mới có, binh chủng khác không bao giờ được cấp phát.

Khác với năm 1973, vào Giáng Sinh năm 1974 người QT tại Hòa Khánh và Non Nước đã hồi cư hay di dân vào nam hết. Các trại tạm cư tại Đà Nẵng không còn. Tôi giã từ Đà Nẵng, vội về lại Diên Sanh.

trường TH Nguyễn Hoàng và khu Thị tứ  1973


THỊ TỨ BUỒN HIU DIÊN SANH 1974

Tôi chưa vô gấp Tiểu Khu, lại lên Khu Thị Tứ Diên Sanh. Khu Thị Tứ lập ngay trước mặt Tiểu Khu QT. Tôi đi  thăm bà con lối xóm mới hồi cư, tức là đã giã ừ vùng tạm dung Đà Nẵng từ mùa hè 1972 cho đến cuối năm 1973. Nhà người bạn trong xóm Cửa Hậu năm xưa tức là nhà Trần Tài là nơi người kể chuyện phải tìm đến trước tiên. Tài là con út của ôn mệ Cai Trà, Phường Đệ Tứ QT cũ.  Tôi vào nhà Tài. Lúc này còn gặp mẹ Tài. Gạo hồi cư 6 tháng cũng vừa hết. Bà con sống nhờ vào đồng lương lính hay công chức quá eo hẹp không biết làm sao sống trên cồn cát trắng phau? Có thể bà con giờ này ai còn sống cũng có thể quên những ngày 'cơ khổ' lúc hồi cư? Gạo thiếu củi hết? những cồn cát bới tung hết rễ sim mốc làm chất đốt, nhưng rồi dần dà cũng cạn kiệt? Đời sống phải giảm thiểu từ ba bữa ăn trở thành hai bữa ăn tức là lúc 10 giờ sáng và 4 giờ chiều. Đó là chương trình hồi cư thì chỉ biết là hồi cư nhưng sống ra sao thì không ai tính trước cho người trở về Khu Thị Tứ Diên Sanh.

TKQT và khu Thị Tứ Hải Lăng 1973


Đó là những gì gọi là đời sống bà con cố cựu của tôi khi tôi về đơn vị. Vào hậu cứ Tiểu Đoàn 105 chờ xe tiếp tế lên núi để đi theo. Tôi không đợi quá lâu vì mỗi tháng đều có ba chuyến tiếp tế lên đơn vị.

TRỞ VỀ ĐƠN VỊ


Tôi đã quen rồi chuyện đi và quen xa ánh đèn phố thị.Nên dẫu mùa Xuân đơn vị không bánh ngonKhông rượu quý, tôi nào nghe thấy lạnh trong tôiChỉ thương em gái quê hương trong sớm Xuân hồng thiếu hẳn người thươngEm hỡi em khi chiến chinh dài xa nhau từng ngày và xa cả Xuân nay
 (nhạc Mùa Xuân Lá Khô)

Chiếc GMC của tiểu đoàn 105 ì ạch mò quanh co theo con đường sơn đạo lên hướng Ô Do phải mất gần nửa ngày. Tất cả mạch sống của mấy tiểu đoàn hướng núi đều nhờ vào sơn đạo này. Làm gì có máy bay vào lúc này hoạ chăng TQLC còn may ra. Lính Địa thì mong chờ vào hai bàn chân và mấy chiếc GMC của TK tuy cũ kỹ nhưng là người tiếp vận đắc lực cùng trung thành nhất.


              CĂN CỨ ĐÔNG Ô ĐÔ 



Men theo những triền tranh tôi về chốt trung đội. Anh em gặp nhau mừng vui hỉ hả như thể người thân vừa về lại  nhà. Tội nghiệp tôi chẳng có quà gì cho anh em ở lại. Đi bệnh viện về có gì đâu ngoài cái thân  ốm "còm nhom" đó thôi.

Trung đội phó tên Thản suýt xoa kể cho tôi nghe chuyện đêm kia khi nghe quả lựu đạn gài dưới chân đồi phát nổ ra sao? Tất cả Trung đội lên đạn sẵn sàng, tưởng sắp bị đánh?

 Đó là một đêm vắng mặt tôi, người trung đội trưởng. Sáng dậy một người bò xuống chốt. Té ra con mang bị vướng lựu đạn chết oan. Được mười mấy ký thịt- chất tươi đàng hoàng.  

"Tiếc quá không có mặt ch. uý liên hoan một trận cho đả"


Trung đội phó Thản vừa kể vừa phân trần. Phó Thản  vác sang đại đội trưởng Lê Kim Chung một cái đùi sau, còn chia cho 2 chốt tiểu đội kia...

-Vừa xong thì chuẩn uý lên...

Tôi không nhớ có cám ơn tấm lòng anh em trung đội hay không?  chỉ tiếc là chưa thưởng thức hương vị thịt mang ra sao? xưa tôi hay nghe "Mang lạc là mác làng" không biết lành hay dữ?

Nói đúng ra ở chốn núi rừng có nhiều đêm tôi hay nghe mang 'tác', nhưng sau đó chẳng có gì lạ cả. Động trời thì mang tác chẳng có điềm xấu gì cả.

***

Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Có những đêm đứng gác trên đỉnh cạnh nguồn con Sông Nhùng , nhìn về hướng đồng bằng tôi thấy rõ những mảng ánh sáng đèn điện phía Khu Thị Tứ Diên Sanh mà nhớ bà con dưới đó. Đứng gác rồi nhớ Tết 1974, cái tết đầu tiên tôi ra đơn vị.  Thời gian đó, đơn vị tôi đang đóng ở cầu Ba Bến lúc tôi mới ra trình diện đơn vị- Tiểu Đoàn 105 đang đóng ở cầu Ba Bến. Về đại đội, người viết còn nhớ được đại Úy Lê Kim Chung cho giữ cái cầu Tham Triều. Nhớ làm sao những ngày mưa phùn rả rích, tôi ngồi bó gối trong cái hầm bên cống Tham Triều mà nhớ gia đình ba mẹ anh em đang ở tận trong nam.

Giờ thì Xuân 1975 về rồi. Ban ngày từ chóp núi, tôi ngắm về đồng bằng. Dưới tầm mắt tôi là cả một mãng mù sương. Ngày nào quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.

Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội. 

Tất cả đều thiếu thốn. Mười ngày mới có một chuyến xe tiếp tế phải tới đỉnh Ông Đô nhận hàng do xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được. Từ chốt trung đội tôi có thể men theo đồi tranh đi tắt bằng con đường tự mở để tới chốt đại đội 'ký sổ'. 

Ký sổ có nghĩa là mua thiếu hàng tại chốt đại đội. Nào kẹo đậu phụng nào sữa ông thọ cộng với bột bích chi nào thuốc hút .. những thứ này không thể thiếu. 

Nước uống thì vác ống đạn bò xuống chân núi để lấy nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp, nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chết khát thôi. 
Dù nguy  nan cũng phải chia phiên vác ống đạn mò xuống khe lấy nước. Bên chốt kia, có người đi xuống lấy nước bị mất tích luôn? Hạ Sĩ Hoát (hoác?) xuống khe Trai lấy nước, không về? Sau này khi ở tù tại Trại Ái Tử, chúng tôi đi chợ mua rau tại chợ Đông Hà, bạn tù cho hay hạ sĩ Hoát làm phu kéo xe tại chợ Đông Hà. Thì ra ngày đó ông Hoác bị phía bên kia bắt cóc chứ không phải cọp vồ mất xác.


Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Ông Đô vào thời gian này: co thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi vì sao nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận quá nghèo? 

***

Chuyện đời lính là vậy, còn 'cái mạng' để ngày ngày ngắm cảnh trời trăng mây nước, kể ra cũng còn may lắm.


Một con sông nhỏ, một khám phá lý thú đối với riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân. Nó mang tên là "SÔNG NHÙNG'. Ngày xưa tôi  quen gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là cái tên tôi không quên. Thời lớp nhì lớp nhất tôi hay vào Diên Sanh, xe phải qua Cầu Nhồng. Hồi này con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh phải qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ. 

Huyền thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên: người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma có khi nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện ma thời xưa khi còn Pháp hay tôi chưa ra đời.  Rồi ba năm 1963-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng, người hay lái xe vào Cầu Nhồng.xong đi lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu quá lớn. Con cá nằm sau xe,  khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi ? 

Hôm nay, Cầu Nhồng có thể đã vào quên lãng khi QL 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh không qua Diên Sanh nữa. Từ thời có con đường mới nối QT tới tận Mỹ Chánh, khi không Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu"!



hơn 40 năm sau Sông Nhùng sạt lở  khiến nhiều căn nhà của người dân nứt nẻ, có nguy cơ đổ sật bất cứ lúc nào (Baomoi.com 12/2017)

Tôi cảm thấy thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa, hợp với nhau trông chẳng khác chi một bức tranh thủy mạc. 

***

Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông. Năm 1974, chính xác hơn là hè 1974 khi tiểu đoàn chúng tôi rời Ba Bến, chuyển quân về mạn biển hoán đổi Tiểu Đoàn 120. Mấy tháng đóng ở đây, khi lắng tai nghe sóng trùng dương dội vào bờ cát hoang vu cùng ngắm biển trời bao la, tôi cảm thấy tình cảm đối với quê hương dâng trào trong gió lộng. Tiếp nối, đơn vị lại hoán chuyển lên vùng núi. Tôi lại có dịp đứng trên đỉnh cao, trông xuống một dòng sông nhỏ đang lượn lờ uốn khúc. Chính lúc này, tôi mới nhận chân ra quê hương sao đẹp quá, hồn thiêng sông núi ngàn đời mãi xanh!

 Xuân 1975 sắp tới rồi, chỉ hai ba hôm nữa thôi. Một buổi trưa im vắng, tôi lại đứng trên đồi cao.  Quanh tôi toàn là những đám  rừng tranh bạt ngàn. Xuân đơn vị không một sắc hoa đó là điều chắc chắn. Màu xanh của lá màu áo ô liu thay hoa màu tết. Quà tết hậu phương, bánh chưng bánh ú từ Diên Sanh, hậu cứ Tiểu Khu đang được gửi lên.  

Đúng năm muơi mùa xuân qua rồi, nhưng lòng tôi vẫn nhớ mãi mùa xuân của MỘT CHÍN BẢY LĂM. Từ mùa xuân đó những người lính VNCH vĩnh viễn chẳng còn cơ hội nào đứng trên đỉnh cao để chiêm ngưỡng cảnh đẹp non sông núi rừng hùng vĩ. Mùa xuân biên giới hay "mùa xuân lá khô" thật sự trôi nhanh về miền dĩ vãng; nhưng ĐÓA HOA QUÊ HƯƠNG vẫn thắm mãi trong lòng người bao người con xa xứ. Cứ độ tết đến xuân về nơi chân trời góc bể, vẫn còn nhiều người lính già xa quê còn ngồi vọng NHỚ đến một thời cống hiến, bên chiến hào xưa rồi chợt dâng lên nỗi hoang lạnh tâm hồn ./.

edition by ĐHL 


Wednesday, February 12, 2025

50 NĂM LỠ HẸN KHÔNG VỀ

 

VĨNH BIỆT TRƯỜNG SƠN



ĐỘNG ÔNG DO XUÂN 1975

Nếu chiều nay lỡ hẹn không về.
Thì Xuân năm nay Xuân sẽ buồn.
Sẽ buồn hơn mấy cội mai già.
và mùa Xuân quên mặc áo mới...
(Anh Việt Thu)

***

    Quà cho lính tiền phương chỉ đơn sơ, vài cặp bánh chưng, vài chiếc bánh ú tượng trưng cho hương vị xuân dân tộc nhưng tụi mình cảm động biết bao! Dân hồi cư, không còn trợ cấp, đa số sống nhờ vào đồng lương hạn hẹp khó khăn hay người làm ruộng chỉ vài ba miếng đất nhưng tấm lòng hậu phương, tình cảm cho lính tiền đồn, bà con không bao giờ phai nhạt. 

Những người lính nhớ làm sao mấy cặp bánh ú đơn sơ nhưng lại đầy ắp tình cảm. Chút quà lên núi đã sưởi ấm lòng người lính tiền phương.  Quà hậu phương chia đều cho từng tiểu đội. Bên hầm chiến đấu, hay cạnh giao thông hào, vài ba miếng lá chuối, những cái bánh tết lính vừa ăn xong. Không ai vứt đi xa như muốn giữ lại chút hình ảnh tết từ gia đình, những người thân yêu dưới kia ngày xuân đang nhớ lính.


Lính cầm súng ngồi cạnh giao thông hào, anh chợt nhớ ngày xưa. Cuối năm chờ tết, cả nhà cạnh bếp lửa hồng, bên nồi bánh chưng xanh bốc khói trong đêm trừ tịch. Ôi khung trời kỷ niệm ngày nào gợi lại trong tâm tư người lính. Rồi lính thật xúc động khi chia cho nhau mấy cái bánh ú từ đồng bằng gửi lên. Chiếc xe đơn vị mới trở về lại hậu cứ tại Diên Sanh ngày hôm qua. Trên đỉnh cao, người lính còn cố trông theo một làn bụi đỏ cuộn mờ sau chiếc GMC,đang chạy  vòng vèo theo con đường sơn đạo rồi khuất dạng sau mảng đồi xa xa.




 Xin cám ơn những tấm lòng vàng, xin cám ơn cám ơn tình cảm thắm thiết hậu phương thương mến. Trên đỉnh quê hương dù người lính  đón Tết bằng những túi gạo sấy, ít lon thịt heo nấu loãng thế mà tụi mình vẫn khắn khít biết bao. Chiều ba mươi Tết có vài đứa bò lên chóp cao kiếm ra một bao đầy rau má, về chốt chia nhau để có thêm chút nào đó chất tươi. Tụi mình vẫn quen rồi, không than van, không buồn phiền. Lính tiền đồn, chấp nhận lâu rồi, đơn sơ bình dị.  


Xuân về rồi. Làm sao quên được phút giây trừ tịch của năm Một Chín Bảy Lăm. Giây phút chuyển mình năm cũ và mới; nhưng phút giây đó ai có ngờ đâu là đó là lần trừ tịch cuối cùng của đời lính chiến VNCH và rồi sẽ không bao giờ có lại trên đỉnh cao quê hương một lần nào nữa. 
Xuân Một Chín Bảy Lăm đang về trên mọi nẻo đường đất nước. Không riêng một ai mà cho cả miền nam có một trừ tịch cuối cùng để rồi tức tưởi chia tay tiễn đưa một MÙA XUÂN CỘNG HÒA về miền dĩ vãng. 
Hẹn hò xa xưa còn nguyên tất cả.
Dành cho em tình yêu rất lạ.
Dù sao anh cũng về Mộng Xuân đã chín đỏ.
Bàn tay nâng niu hoa cúc.
Bàn tay hiu hắt giọt lệ đầy...

 Riêng trên đỉnh cao này, cũng như nhấp nhô những đỉnh cao bè bạn có những đứa như mình vẫn còn đang đối diện với những đồi tranh trải dài bất tận. Chiều về, lính lắng tai nghe tiếng con chi bìm bịp kêu buồn. Đêm về, anh cố căng mắt hướng về bóng tối của rừng khuya sâu thẳm. Có tiếng chim Từ Quy gọi đàn trong đêm, lính đợi ánh dương lên để biết mình đã qua một đêm vô sự. 

Em có nghe trời vào Xuân chưa.
Bên song từng giọt nắng vàng chợt lưa thưa.
Và mùa Xuân đó có em thì Xuân rất đẹp.
Anh không biết Xuân về lúc nào.
Lời tình đong đưa theo gió,
mình thương nhau mấy tuổi Xuân rồi (Nhạc)


Xuân quê hương đang về trên muôn nơi- người lính tiền đồn biết lắm, nhưng mùa xuân chưa về nơi đây- chốn núi rừng chưa ai nghĩ đến một mùa xuân.


Đối diện Động Tiên (295 met) -những ngày cuối cùng
vòng tròn đánh dấu điểm đóng quân cuối cùng của tác giả trong nghiệp lính ngày 17/3/1975

dấu vòng tròn là chốt cuối cùng đối diện Động Tiên 295 mét, ngày cuối cùng là ngày 17/3/1975



Xuân 1975 - mùa xuân cuối cùng của người lính VNCH 

Sau Tết đơn vị mình lại được lệnh di chuyển xa thêm, mặt trước động Ông Do, đối diện với Động Tiên, trong bản đồ cao hơn đỉnh Tiểu đoàn 105 hai mươi mét. Trung đội mình là tiền đồn cho đại đội 2, xem như là chốt xa nhất, giáp với phía bên kia. Những ngày này nghe tin Ban Mê Thuột đã mất (10/3/1975), không khí càng căng thẳng thêm!

Ngày nào trời quang đãng, đứng dưới giao thông hào, mình ló đầu ngó về dưới kia qua khe Trai. Dòng Thạch Hãn lượn vòng qua Trấm, tạo thành khúc sông hình chữ U rồi  xuôi về An Đôn, Như Lệ.

Sông lặng lẽ trôi qua chiếc cầu Ga sụp đổ từ mùa hè 1972. Sông sẽ qua một thành phố năm xưa đổ nát, lau lách đìu hiu.

cổng trường Trung Học Nguyễn Hoàng

Sông có hỏi bao người năm cũ nay biền biệt phương nào? Sông thương cho một mái trường, sông khóc cho bao cuộc đời truân chuyên của người dân Quảng trị, "đất cày lên sỏi đá".  Máu và nước mắt quê hương như quyện vào nhau, dệt nên khúc sử bi ai, thống khổ! Thạch Giang như người cô đơn về ngang bến cũ, nay vắng chuyến đò ngang. Sông chợt ngậm ngùi cho phố xưa đổ nát. Ôi bao gạch đá hoang tàn cùng lau lách đìu hiu.

17/3/1975

Ai ngờ đâu! đây là ngày cuối cùng trên rặng Trường Sơn. Những toán lính âm thầm bỏ núi. Những toán quân có lệnh rút lui lần lượt mất dạng, khuất hút trong những mảng rừng tranh. Không gian lặng phắt, rừng núi như muốn 'nín thinh',  mọi vật đều im lìm đến rợn người!
 Một ngày lính không còn nghe được tiếng chim. Trời không gió, chẳng mây, từng trái tim, từng ý nghĩ, đồn đoán khô cứng đến nghẹt thở. Lính không còn biết đến những gì đang xảy ra phía đồng bằng, những nơi mà người lính giữ núi sắp về?

Tạm nghỉ trên đồi 90. Hai tiểu đoàn 105 và 122 gặp nhau. Người tiểu đoàn trưởng 122, anh Quang (Lê văn) người anh cùng xóm, một người anh hiền lành hiếu học. Sau mấy năm xa rời Quảng trị, hai anh em gặp nhau cùng màu áo lính. Một ngày xưa, anh Quang rất mến đứa em này, người lính trẻ nhớ sao nụ cười hiền hậu của một người anh.  Ai ngờ đâu lần gặp này lại vĩnh biệt chia xa.( Thiếu tá Lê văn Quang 2 tuần sau hi sinh tận Quảng Ngãi- những ngày tan tác)
 
Tiếp tục về lại đồng bằng, người lính bất chơt ngoái nhìn lại chóp núi phía sau lòng trào dâng niềm luyến lưu chốt cũ.

Núi rừng ơi, lính bỏ đi mà không lời từ tạ. Chợt ngậm ngùi, lính bỗng thốt lên:

TRƯỜNG SƠN ƠI ! TA XIN VĨNH BIỆT !

ĐHL

nhớ ngày vĩnh biệt Động Ông Do 17/3/ 1975 
edit 20/1/2024

Quân Bắc Việt chiếm đỉnh Ông Đô sau khi VNCH rút lui 

NĂM MƯƠI NĂM NHỚ VỀ BIỂN MẶN



Tuổi đời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. 
Nên năm 21 tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai. ..( Biển Mặn )
..
***
Nhớ về ba thôn Ba Lăng -Vĩnh Huề và Thanh Hội thuộc Quận Triệu Phong tỉnh QT mùa Hạ 1974

ĐHL

Thế là tôi phải tạ từ quê ngoại Nại Cửu, tôi phải xa cầu Ba Bến im lìm không tiếng xe qua. Giã từ để thấy lòng còn vương vấn, nhơ nhớ thương thương từng cơn mưa phùn dai dẳng hay gió lạnh buốt xương của miền quê ngoại. Tôi lại lặng lẽ chia tay với thôn Tả hữu nhỏ bé, lác đác mấy mái tranh nghèo bên con đường đất đìu hiu ven nhánh sông Vĩnh Định ngày đêm không bóng con đò.


THÔN BA LĂNG


Bãi cát vàng ven biển tưởng như xôn xao dưới gót giày những người mới tới. Cát lại bồi hồi lưu luyến tiễn đưa những người sắp được trở về "tuyến trong", nơi đó ít nhiều cũng còn thấy người dân mới hồi cư chứ không hoang vắng như chốn này. Nơi này trên bản đồ gọi là Thôn Ba Lăng là căn cứ của Bộ Chỉ Huy  Tiểu đoàn  105. Vừa từ những chiếc GMC nhảy xuống, chúng tôi đứng đây như người khách mới, tần ngần ngắm từng đợt sóng lao xao vỗ vào bờ. Cát trắng sạch mịn màng. Tôi cố ngước mắt nhìn ra khơi: ở đây chỉ là một vùng biển hoang sơ, chấm phá vài con chim biển. Có đám chim hải âu bay vờn quanh chúng tôi  hai đơn vị đang hoán chuyển với nhau -người xuống kẻ leo lên xe, một khung cảnh huyên náo cả lên. Có một khẩu 106 ly đang hướng nòng trực xạ ra biển, súng này của đơn vị TQLC ở xen với ĐPQ chúng tôi. 

Cậu tôi (VÕ Hoa) Phòng Ba TKQT theo đoàn quân vận về đây. Hai cậu cháu gặp nhau không nói chuyện được gì? Việc nhà binh không xen chuyện gia đình vào được. VÙng giới tuyến chẳng có thì giờ cho cậu và cháu? Tôi lại phải theo đại đội 2 của Đại Úy Lê kim Chung di chuyển NGAY...
 


THÔN VĨNH HUỀ 


Đại đội 2 chúng tôi nhận lệnh Tiểu đoàn men theo mép biển, lội bộ sát mép sóng tiến ngược lên hướng bắc độ 5 cây số thì đến ranh giới hai phe. Trên bản đồ đề thôn Vĩnh Huề, thực tại là một đồng cỏ hoang vu. Tôi lặng lẽ quan sát quanh mình. Đôi lúc tôi khám phá vài ba nền nhà cũ, dấu vết nhạt nhòa trên đồng cỏ ẩm ướt gần mấy đầm 'nước lợ' (nửa mặn nửa ngọt).  Lật tấm bản đổ luôn mang theo trong mình, tôi tìm vị trí thôn Vĩnh Huề. Hai chữ Vĩnh Huề đập vào mắt tôi cảm thấy chút gì lạ lùng đối với các địa danh khác. Trong kia là Thôn Thanh Hội nơi BCH Đại Đội 2 đóng. Xa hơn là Long Quang, Lễ Xuyên những thôn làng chỉ còn những cái tên trên tấm bản đồ  

Thôn Vĩnh Huề- cách Cửa Việt chẳng bao xa, chặng hành trình cuối cùng của giòng Thạch Hãn thân yêu.

Vĩnh Huề Thôn mùa hạ 1974
Các thôn Vĩnh Huề, Bình An- Thanh Hội nằm sát mé biển, đi ra hơn cây số là đến Cửa Việt. Các thôn Này thuộc xã Triệu Vân Quân Triệu Phong QT.

Căn cứ Cửa Việt mất từ đêm rạng Ngưng Bắn 27/1/1973 do vậy chúng tôi ở đây là lằn ranh cuối cùng của 2 phe. Qua khỏi lằn ranh này ra hướng bắc là phía bên kia ...

      Thôn Vĩnh Huề  chỉ là một đồng cỏ hoang vu, ẩm ướt, không một bóng cây, ngoại trừ mấy vạt dương ven biển. Đâu bóng dân làng? Họ đã lưu lạc tận phương trời nào? Có ngày lính trung đội tôi đào lên một số hầm. Thì ra trước lúc bỏ làng ra đi vì chiến cuộc người dân Vĩnh Huề đã chôn dấu nhiều lu, vại bằng đất nung. Tôi thấy nhiều nhất là dĩa nhỏ.  Nói chung những thứ này không giá trị  lắm. Mấy người lính trung đội tôi quê ở vùng này thì cho biết rằng: người dân vùng biển có tục lệ phải cúng trước khi ra khơi đánh cá nên họ có thật nhiều dĩa nhỏ, còn lu vại thì để làm mắm hay ruốc. Những lu vại nào tốt thì để đựng nước mưa . Dân vùng biển quý nước mưa, chỉ để dùng khi giỗ chạp thôi.


 .

         Ngày đầu ra mạn biển, thứ chúng tôi cần nhất là nước. Đừng cho chúng tôi đóng quân sát biển là ngồi chịu cơn khát hành hạ.  Chúng tôi chỉ cần đào lên một hố xấp xĩ một mét là có nước ngọt ngay. Điều này cũng dễ hiểu khi mặt bằng của biển ngoài kia thấp hơn mặt đáy túi nước ngọt đọng dưới lớp cát chúng tôi đang đóng. Thế - lính truyền tin- găp may. Thế 'vớ' đâu ra đươc nửa tấm tôn cũ , rồi Thế uốn cong lại làm thành giếng. Cuối cùng trung đội tôi có được một giếng nước ngọt quý giá . Nón sắt làm gàu; chỉ cần với tay tôi có ngay một gàu nước ngọt ,thơm tho không lẫn mùi phèn như cái giếng trong chốt đại đội. Nhưng, chúng tôi không dám tham lam đào sâu thêm .  Chỉ sâu thêm ít nữa là giếng sẽ bị nhiễm mặn ngay. Tôi chợt nghĩ đến Linh- trung đội trưởng súng nặng- có lẽ cái số nó dính liền với "chữ nặng" nên người nó "không được cao lắm" ! Cái thằng ! miệng khi nào cũng ồn ào.  Dù sao nó cũng được lòng đại đội trưởng Chung hơn tôi nhiều!

   
-Chừ thì mi làm răng thoải mái bằng tau hả Linh? Tau

    chừ ở xa ‘mặt trời’ (ám chỉ đại đội trưởng), tau lại có 
   nước trong - có cả biển thơ -biển mộng nữa đây nghe 
    Linh !
 
    2 trung đội trưởng Lê văn Linh và  Đinh trọng Phúc gặp lại nhau lần đầu tiên sau 40 năm xa cách tại ngày Hội Ngộ Thừa Thiên Huế tại San Jose CA ngày 10/3/2013

 Tôi cười thầm cho ý nghĩ là lạ của mình .


     Tôi lại nhớ đến mấy thằng bạn khác đều mới ra trường như tôi,  lại cùng về chung một đại đội 2 này. Nào Tùng, nào Ngọc cũng là dân Huế như thằng Linh. Tùng và Ngọc thì ít nói hơn, trầm  hơn. Bốn trung đội trưởng chúng tôi cùng xếp áo thư sinh tòng quân sau Mùa Hè đỏ Lửa 1972, lại cùng gặp nhau nơi tuyến đầu Quảng Trị này. Trong khi "dân Nguyễn Hoàng" như Thái Đào cũng khoác áo 'ka ki' một năm nhưng lại phục vụ ngược vào xứ Huế. Số phận Thái Đào thiếu may mắn! chỉ một thời gian ngắn ra đơn vị Đào đã trở thành phế binh mất một chân.

   Chuyện thực tế tiếp đến là củi. Lính chúng tôi chỉ dám thu dọn rồi gom lá dương khô mà nấu ăn thôi. Chúng tôi phải gìn giữ mấy tàng cây rậm để ngụy trang ẩn nấp. Hơn nữa, đất ven biển cần mấy hàng dương này để chống nạn cát lấn dần vào phía trong. Chốn biển vắng vẻ buồn tênh.  Đôi khi tôi có một ít cảm hứng khi ngồi một mình ngắm trời mây, tai lắng nghe tiếng dương reo theo  gió. Trời vào hạ rồi đây. Mấy tuần này gió Lào bắt đầu thổi mạnh. Sóng biển ban ngày bị gió Lào thổi ra cản lại nên chỉ thấy lăn tăn. Chiều về, trời trở Nồm.  Gió vào lại đất liền sóng mới lớn hơn. Lúc này tôi nghe rõ tiếng sóng vỗ bờ , thêm làn gió mang đầy hơi biển mát lạnh khoan khoái vô cùng! 


Vĩnh Huề thôn , có vòng tròn đen tháng 4/1974



  
Đùa chơi với sóng nước

     Biển sát  tầm tay. Trung đội tôi lo xong chuyện ‘cơ ngơi’ mới rủ nhau ra tắm biển.  Một toán ‘đực rựa’ lột phăng hết áo quần để trở về với "thời nguyên thủy". Dĩ nhiên ở vùng hoang vắng này làm gì có bóng đàn bà để phải ngượng ngùng. Cả toán đàn ông, dàn một hàng ngang ra hụp lặn, đùa chơi với sóng nước. Khi đang nhấp nhô với sóng biển, tôi chợt nhận ra một đám nuốt, trông tựa những cánh bèo trắng , bập bềnh theo sóng dạt vào bờ. Chẳng suy nghĩ, tôi chụp một con đưa vào miệng, nhưng tôi vội phun ra ngay vì nó cay và rát miệng vô cùng !

    - Nuốt lửa đó ,Chuẩn úy ơi !
   Lợi dân làng Hà Tây gần đây nên rành những thứ ở biển.
  Qua làn nước biển trong xanh, tôi thấy rõ từng đàn cá lướt qua vun vút. Giờ đây, tôi tưởng chừng bọn tôi đang ở tại một hoang đảo nào đó.  Mà ở đây hoang vắng chẳng khác gì một hoang đảo đâu?  Cố nhướng mắt nhìn ra khơi,  thấp thoáng phần chóp trên của Hòn Cỏ một hòn đảo không có trên bản đồ trung đội nhưng tôi biết qua hỏi han và tìm tòi.


 Hưởng xong  cái "thú tắm biển" chúng tôi lại "dàn một hàng ngang" về lại vị trí . Xong  chúng tôi dội lại nước ngọt từ cái giếng của trung đội . Riêng tôi được ưu tiên hai gàu nước.  Mỗi người còn lại chỉ một gàu thôi thì giếng đã cạn khô rồi, phải chờ nửa buổi nữa giếng đầy lại.

Bình mình rực rỡ trên vùng biển quê hương chưa có dân về



  Cuộc vui nào cũng qua mau, cảnh tĩnh mịch lại trở về với chúng tôi. Càng trưa ngọn gió Lào càng thổi ra mạnh. Cát bay khắp nơi, nhìn dọc theo bờ biển, gió cát tạo thành từng lớp mây vàng nhạt. Tôi vội lấy nửa tấm poncho cũ che cho chiếc máy truyền tin PRC 25. Tôi rất quý chiếc máy truyền tin này vì nó là
 nguồn liên lạc là mạng sống của cả trung đội. Chiều buông xuống thật lẹ. Tôi nhìn về hướng tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Thật ra nồm đã trở đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền từ lâu. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn, bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm, đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ. Hai chúng tôi còn làm thêm cánh buồm do Lợi  lấy miếng tôn rách làm nên. Xong, tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau, phía trước tôi viết hàng chữ "Cửa Việt River Mouth "’.

  Sáng dậy, chờ cơn gió Lào thổi ra khá mạnh, hai đứa chúng tôi đem thả con thuyền nhỏ ra biển. Thuận buồm xuôi gió, chiếc thuyền bé tí của chúng tôi theo làn gió đưa ra tít ngoài khơi. Một chút tưởng tượng, tôi chống nạnh đứng nhìn theo chiếc thuyền đồ chơi kia từ từ mất hút. Lòng tôi nửa hãnh diện như đã làm được một công trình 'vĩ đại', nửa như lưu luyến một người bạn vĩnh viễn ra đi. Tôi thầm ước mong một bến bờ nào đó có ai vớt được thuyền tôi.   Hàng chữ ghi trên thuyền họ sẽ biết nơi phần đất này còn có sự hiện hữu của bọn này
.
  Cá ơi là cá! quá nhiều cá đi!

    Mùa tháng hạ, cánh đồng trũng nước khô đi nhanh chóng. Cá nước lợ thiếu nước nằm chờ chết khắp nơi. Mới mấy năm dân bỏ đi khỏi đây, cá sinh sôi nảy nở nhiều vô số. Lúc này đàn chim biển tha hồ bay vào bắt. Từng đám cá nhỏ nước lợ dãy đành đạch trên mấy thảm cỏ nước khô dần. Tuy vậy, Lợi hứa sẽ dẫn trung đội đi hốt cá chứ không thèm ra bắt mấy thứ cá nhỏ kia. Lợi - tôi cùng một vài lính trung đội men theo mép biển đi về hướng nam. Chừng ba cây số thì gặp một bàu nước lớn nằm cách bờ biển chỉ vài trăm mét. Lợi hướng dẫn mọi người dùng xẽng đào một đường hào dài và sâu hơn nửa mét. Đường mương này cạnh bàu nước hướng nhìn ra biển. Đào xong đường hào thì trời đã xế chiều.  Lợi bảo tất cả ra về chờ khuya sẽ đi "hốt cá". Tôi nghe thì nghe vậy nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ?




   Chờ tới khuya khoảng một giờ sáng (*) Lợi đánh thức cả bọn dậy đi hốt cá thật. Lợi không quên đem theo ba cái bao lớn nữa. Tôi kiểm soát lại vọng gác thật đàng hoàng rồi theo Lợi hướng về bàu nước. 

Chúng tôi lầm lủi đi trong đêm. Trời về khuya khá lạnh, không gian chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Chúng tôi cứ theo mép sóng mà đi. Sóng biển ban đêm lấp lánh ánh lân tinh. Bầu trời thỉnh thoảng có vài ánh sao băng xẹt ngang. Tôi vừa đuổi theo cho kịp bọn vừa ngắm ánh sao băng, chúng như đang chui vào lòng đại dương vậy. Gió đêm càng về khuya càng lạnh dần. Đêm nay chúng tôi đang đi trong chiến tuyến an bình vì không nghe một tiếng súng nào. Đi hơn nửa giờ thì chúng tôi đã đến con mương cạnh bàu nước chiều qua. 


-Trời ơi! Cá ơi là cá! quá nhiều cá đi! 



Tôi không ngờ cá nhiều đến như thế! cá chen chúc nhau dưới đáy con hào. Toàn là cá tràu. Bọn tôi vui sướng thi nhau hốt cá đựng đầy 3 cái bao gạo không do Lợi mang theo. Chúng tôi thay phiên nhau vác mấy bao cá nặng chĩu về chốt. Trên đường về Lợi mới giải thích cho tôi hiểu: thì ra mùa hạ nước trong bàu cạn dần, mấy chú cá nhất là cá tràu và trê, ban đêm chúng "cảm nhận" theo tiếng sóng biển ‘cằn’(trườn) ra và rớt hết xuống con mương đào sẵn này. Tôi thực sự phục kinh nghiệm của Lợi, một người dân sinh ra cùng lớn lên từ vùng biển. Chung tôi đem cá nhốt ngay vào cái thùng phuy mà Lợi kiếm đâu ra từ lúc nào. Cá trê và rô thì bị nhốt riêng ra vì mấy cái ngạnh nhọn hoắc của chúng biến chúng thành mấy tên ‘sát thủ’ đáng sợ - chỉ cần sơ ý để đám này lẫn lộn vào đám cá tràu một lúc thôi thì đã có mấy con tràu chết lật ngửa bụng trắng hếu!

Mong chờ xe tiếp tế




 Ban chỉ huy trung đội gồm: tôi- binh nhất Thế , mang máy truyền tin PRC25- trung sĩ nhất Thản, trung đội phó của tôi. Tôi hay gọi trung sĩ Thản là "Bố Thản" vì ông đã gần 20 năm lính, dấu chân ông cũng lội gần khắp vùng I. "Bố Thản" cũng sắp đến tuổi về hưu. Cuối cùng là hạ sĩ Sơn- Sơn lo chuyện nấu ăn nên hay lo xa- cá nhiều quá ăn không hết thì đem phơi khô.



    -Sắp đổi lên núi rồi  Chuẩn Uý ơi! 

   Sơn nói với tôi.


  Hạ sĩ Sơn cũng thuộc loại lính khá kỳ cựu trong trung đội nên chu kỳ đổi quân như thế nào thì Sơn kinh nghiệm lắm. Đồng bằng ra biển, chặng thứ ba thì lên núi chứ có nơi nào khác đâu!  Chúng tôi đóng một nơi vài ba tháng là hoán chuyển thôi. Sơn kinh nghiệm rằng lên núi chỉ lo thủ chốt cho kỹ nên không có "mưu sinh" như ở đây được. Thể là hai tuần nay tôi bắt đầu để ý lên hướng núi. Ban đêm hướng Trường Sơn, núi đang bị cháy liên tục, làn lửa dài như con rắn vàng cứ cháy leo lét. (**)
- Ngày mai có tiếp tế rồi!
               đời lính và Trường Sơn
  

Tiếng Sơn nhắc nhở làm tôi thấy vui hẳn lên.  Thật ra ai nấy trong đơn vị này đều cùng chung một tâm trạng giống tôi. Anh em ai cũng mong ngày tiếp tế mau về. Đóng quân lâu ngày ở một nơi hoang dại anh lính nào cũng mong mau thấy lại bóng dáng chiếc xe tiếp tế của tiểu đoàn. Tuy chiếc xe đã ' ọp ẹp' nhưng lại là niềm vui cho đơn vị. Cách hai tuần nó về một lần tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi.

Một ít tưởng tượng, tôi cho rằng xe đang mang theo một ít 'hơi hám' nào đó từ chốn "thị thành" ra đây? Diên Sanh, Mỹ Chánh ư? hay Phò Trạch? mà nếu là Huế thì càng tốt. Cách Huế không xa,nhưng  hình ảnh phong kẹo mè xững- cái tên Song Hỷ giờ sao quá xa vời?

 Chiếc xe GMC đó còn mang ra chốn này những niềm vui cho lính.  Những cánh thư gia đình hay người yêu của mấy anh lính trẻ. Tôi thì cô đơn hơn!  mới ra trường, hai mươi mốt tuổi đời. Thực ra tôi chưa có mối tình đầu nào làm "hành trang mang vai" để nhớ thương cả!


Basto Luxe 

   Sáng dậy, quả đúng là một "ngày hội" cho đại đội 2 này. Mỗi trung đội chỉ cắt vài người  ra bãi biển chờ đồ tiếp tế.  Thế nhưng, khi tất cả tập trung sát mé biển cạnh chốt của tôi, thì sao mà ồn ào nhộn nhịp. Tiếng cười tiếng nói, "mày tau- í ới" lẫn tiếng văng tục ‘loạn xà ngầu'? Chốt tôi ở sát mép biển, xe sẽ tới chờ cạnh đó nên thong thả hơn, chỉ cần đi vài ba bước là đến chỗ đợi. 



                     Bastos xanh trước 1975


Đứng sát mép biển tôi hướng mắt trông về hướng nam. Chiếc GMC vừa đổ hàng xong cho BCH Tiểu đoàn 105 ở Ba Lăng. Xe đang theo mép biển đi ra hướng chúng tôi. Lúc đầu nó chỉ là một chấm đen, trong thoáng chốc càng  lúc càng cáng rõ dần.

      -Xe đến rồi tụi bây ơi !

Có tiếng anh lính nào reo lên. Trung Sĩ Nhất 
Thỉu, Hạ Sĩ Quan tiếp tế đại đội, nhảy xuống xe. Anh Thỉu dáng khô khan, nước da ngâm đen, vừa phân phối thức ăn vừa nói lớn để mọi người cùng nghe:
   - Kỳ ni đồ ăn tươi là bính ngô và thịt heo thôi nghe!

Thức ăn tươi chia về từng tiểu đội độ nửa ký thịt heo và góc trái bí ngô, chỉ trong ngày đầu là hết sạch. Còn lại gồm hai ba lon thịt heo, thịt ngựa của quân nhu, thêm ít ruốc và 'vị tinh' ( bột ngọt). Mấy thứ này thì phải tiết kiệm, ăn làm sao cho đến giáp vòng tiếp tế khác. Gạo thì chia: cứ mỗi đầu người/ một ngày/ một ca ‘y-nốc’ (inoxidable) -


ca inox và bình nước nhựa 

 "Đong Đầy- Gạt Sát".

Thưa bạn có hiểu bốn chữ trên chăng? Một ca inox này vun lên thì vun nhưng người phát gạo gạt bằng ngang miệng là khẩu phần ăn về gạo cho một người lính trong một ngày. Nó tương đương với 700 gram gạo chứ không có cân như tại chợ...

 Thế là xong, đơn giản lắm!

   -A! còn một ít thư cho anh em đây! 


   Tr. Sĩ Nhất Thỉu đưa thư xong, lo chuyển đồ cho BCH
   đại đội. 

  Giờ mới đến lúc chúng tôi lo chuyện "đổi chác" thùng 'phuy' cá, 
kết quả sau những đêm hốt cá từ mấy bàu nước lợ nói trên.  Sau khi "kỳ kèo- thêm bớt", Tr. Sĩ Thỉu chịu đổi thùng phuy cá với 2 ‘tút’ thuốc lá Bastos luxe. Chúng tôi chê  Bastos xanh hút không "phê".

   -Nhưng phải chờ kỳ tiếp tế sau mới có đó 

   nghe!

 Anh hứa với chúng tôi.
 

Gần cả Trung đội 3 lay hoay, hì hục... cuối cùng thùng cá nặng nề cũng lên được chiếc xe đang trống phía sau. Tôi thở phào nhẹ nhõmthà chịu thiệt một ít mà có thuốc chia nhau hút còn hơn ôm hết cá mà ăn thì chỉ có ngồi đây mà ngứa "gãi sưng" cả người thôi!

-Nhớ mấy tút thuốc nghe Trung Sĩ? chúc bồ mua may bán đắt, vào chợ Diên Sanh mà ‘thẩy’ (bán vứt) nó đi nghe?

  
Một vài anh lính đại đội đến kỳ về phép có dịp may nhảy lên đi 'ké' chiếc xe tiểu đoàn để về TKQT đang đồn trú tại Diên Sanh. Chiếc xe GMC chạy rồi tôi còn đứng nói vói theo. Lính xa nhà chia ngọt xẻ bùi, có nhau từng điếu thuốc, thân thiết như anh em, nhất là cùng mang thân phận làm lính sát cánh bên nhau trong thời chinh chiến. Tôi hơi tức cười khi nhớ lại lời nói ngắn gọn " kiểu nhà binh " khi chúng tôi nghe chung một chiểc radio bé nhỏ: 
-Mở cái đài -sang ngang !-không Thúy ...thì Tuyền!

Tôi cũng xin giải thích câu này cho rõ ý: lính chúng tôi muốn nói là "mở cái máy radio , sang băng không có Thanh Thúy thì Thanh Tuyền"
 Tôi cười một mình khi nhớ đến tiếng nói hồn nhiên chất phát của mấy người lính trẻ mới về đơn vị, vừa ngó theo bóng chiếc xe tiếp tế chạy xa dần, khuất hẳn trong màn gió cát vàng nhạt.

 Chúng tôi mang thức ăn vừa được tiếp tế về lại chốt. Lòng tôi như ấm lại khi nhìn mấy nửa trái  bí ngô trồng vừơn nhà ai trong Diên sanh. Miếng lá chuối còn xanh, gói miếng thịt của con heo nào đó  được nuôi lớn từ ruộng đồng Hải lăng.  Bao gạo đã vơi bớt. Vui nhất cho ai có thư nhà. Riêng tôi thì không, lính độc thân đúng nghĩa. Hôm nay Lợi, Phê. Sơn lo vá lại mấy mãng lưới rách đã từng bị chôn vùi trên bãi biển này. Tối nay chúng tôi sẽ đi kéo tôm tại mấy bàu nước lợ gần vị trí chúng tôi ở. Tôm thì tha hồ! chỉ đi dọc theo bàu cạn vét lên là có ngay mớ tôm nhảy long chong, lấp lánh dưới ánh trăng đêm.
    Yên lặng trở về trên một làng hoang vắng có tên Vĩnh Huề Thôn. Cứ thế, ban mai tôi có dịp chiêm ngưỡng cảnh bình minh huy hoàng trên mặt biển; chiều về tôi lại ngắm ánh tà dương từ từ khuất dạng sau dãy Trường Sơn. Phương đó đang ngóng chờ những gót giày đơn vị chúng tôi nay mai trở lại.




    Ngoài kia biển một màu xanh ngắt, SÓNG BIỂN QUÊ HƯƠNG mãi còn vổ nhịp nhưng chẳng còn ai đứng đó. BIỂN MẶN như giọt mồ hôi của ngư dân những người đi xa chẳng hẹn ngày về. Người lính năm xưa có một lần đứng ngắm một vùng sóng nước mênh mông như đợi dân về - BIỂN NHỚ./.

đinh hoa lư
re edit Jan 26/2013

RE EDIT  12/4/2020 mùa Dịch Corona Vũ Hán USA


giải thích:
(*)- ban ngày chúng tôi có lúc cần gì đó đi theo mép biển về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 105 đang đóng tại Thôn Ba Lăng; có những ngày gió mạnh thổi phăng các triền cát lộ  những bộ xương người vô chủ, đó là cán binh bên kia chôn vội 

(**) -vụ cháy này tại Động Ô Do mấy tuần lễ Một vụ cháy quá lớn và lâu dài có chốt TQLC nghe đâu bị thiêu chết mấy người? đêm đêm tôi vẫn thấy làn lửa đỏ trên xa  vì vào mùa hè nam

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...