Thursday, January 23, 2025

50 NĂM - TAN RỒI GIẤC MỘNG HAI MƯƠI

 



… Hai mươi tuổi đờiMẹ sinh con yêu dấu à ơiGiấc mộng tuyệt vờiGiấc mộng là mộng hai mươi...
...(Trầm tử Thiêng- Rồi Hai Mươi Năm Sau)

hình tác giả may mắn tìm ra và trích lại được từ một cuốn phim tài liệu "GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ của miền bắc 

 hình đoàn tù binh Đại Đội 2/ TĐ 105 ĐPQ trong đó có tác giả ĐHL (mũi tên đỏ) đang bị dẫn ra Đông hà ngày 24/3/1975 đang đi đoạn ngang Bến Đá

hình cắt từ cuốn phim tài liệu nói trên


 Ba Mẹ ơi,

Hai mươi năm công lao nuôi con khôn lớn. Ngày về quê hương bên nòng súng giá băng con gác canh trên chốn núi rừng trong niềm tin giữ đất. Giờ chẳng còn chi. Hai mươi năm tiếng à ơi ru con và ngày tháng dãi dầu vươn lên trên vùng đất khổ. Những ngày chạy loạn, những người thân vĩnh viễn chia xa, những khổ đau bà con mình gom góp lại để hôm nay chỉ là một kết cuộc phũ phàng...




      Chuẩn Úy Lê văn Ngọc người trung đội trưởng cùng đại đội  2 /  TĐ105 với tác giả  



hạ sĩ Con (nấu ăn cho  Đại Úy Lê kim Chung)

    Một khu lán trại rõ dần trước mắt đoàn tù binh, đầu nguồn sông Thạch Hãn.

Đoàn tù binh xuống hết đèo Ba Lòng thì trời đã về chiều. Nguồn sông hẹp và cạn nên chúng tôi chỉ lội một chút chi là qua bên kia sông. Đầu nguồn vào tháng này nước vừa ít vừa chảy chậm, trông chẳng khác gì một dòng suối lớn.Tôi cố lục lọi tìm theo trí nhớ xem thử còn một bãi đá ven sông, vô vàn viên đá lớn tròn trịa nó ở đâu? Tôi còn nhớ ngày xưa còn bé khi theo cha lên thung lũng này người ta gọi là bến Đá Nổi nhưng giờ chẳng thấy?











Dakrong Đầu Nguồn Sông Thạch 

Trước mắt chúng tôi chỉ là một cánh rừng hoang vắng cây cỏ rậm rịt hoàn toàn không thấy bóng làng mạc, dân cư nào. Từ 1960 cho đến nay là mười lăm năm; đúng mười lăm năm "vật đổi sao dời" nhiều thứ cho VNCH. Khoảng 1963, tôi mới học lớp ba đó là năm Đảo Chánh, tôi nghe đâu Ba Lòng cũng chẳng còn. Tỉnh Quảng Trị từ đó ít nghe ai nhắc đến Ba Lòng. Có thể đó là lúc ‘xóa sổ’ cho một vùng dân mới thành lập, lúc MTGPMN vừa thành lập. Rồi từ đó do chiến sự leo thang càng lúc càng tăng nên quận Ba Lòng không còn trong tầm kiểm  soát của tỉnh Quảng Trị nữa.

Sau này Tuyến McNamara thành lập đi kèm với việc “bạch hóa” hoàn toàn quận Gio Linh. Khu Định Cư Cam Lộ đó là những gì tôi còn nhớ trong cái tuổi học trò...

Đoàn tù qua hết bên này sông thì chúng tôi được vào một khu "lán trại" của đơn vị bộ đội bỏ hoang ven sông. Có ai đó nghe đồn “hàng binh Trung Đoàn 56” của trung tá Phạm v Đính có ở đây? Tiếng đồn còn ‘gay cấn’ hơn nữa là số quân này có tham gia với quân “Cách Mạng trong trận đánh úp Cửa Việt của VNCH trong đêm rạng ngày 27/1/1973 trước khi Hiệp Định Ngưng Bắn ký kết? Những lời đồn nghe “cười ra nước mắt” tin không tin tùy người nhưng “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” chả có gì chứng cớ? Chỉ có một chuyện đúng, tôi đóng quân tại Vĩnh Hòa Phường là chốt cuối cùng tại mạn biển, còn Cửa Việt thuộc phía họ.

Cái “miệng hại cái thân” có anh chàng tân binh mới học xong ở Dạ Lê, Phú Bài lại nghe đâu khai là “trung úy” thế là bị theo đoàn tù binh chúng tôi đi tận đây! Thanh minh chẳng có cán bộ nào tin, họ chỉ tin vài tờ giấy “bàn giao” trong đó có mấy dòng nguệch ngoạc của anh du kích hay cán bộ nào trong Huế ghi trong giấy lúc bắt anh ta mà thôi?

Chuyện tù binh cũng có khi “trong cái rủi có cái may”.  bị bắt trước nhưng chúng tôi lại bị 'lội bộ' ít hơn. Từ Lai Phước đi bộ lên đây mất hơn hai ngày đường. Nghe đâu sau này tù binh từ Huế ra quá nhiều. Đi bộ từ trong đó ra ‘toe cả chân’ lại phải ngược theo đường Chín lên tới Tà Cơn, Khe Sanh?! Chỉ tính từ  Cam Lộ lên Khe Sanh cũng phải xa thêm 65 cây số nữa...chúng tôi đi trước nhưng chỉ ngang đây, số người còn ít ỏi nên dễ thở hơn sau này, thật còn may!

Mấy tuần của tháng Tư này chúng tôi ở đây. Từ trên “khung” của cán bộ xuống các lán đất chúng tôi chẳng có hàng rào nào. Chúng tôi đủ loại lính từ TQLC, Bộ Binh, Địa Phương. Phần nhiều là lính và hạ sĩ quan. Có một số sĩ quan nhưng ít hơn...

30 THÁNG 4, 1975 


    -Đúng 11 giờ 30 tổng thống 'ngụy quyền' Sài Gòn Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ...


Tiếng the thé của xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội vang từ “Khung” vang xuống khắp các lán sáng nay làm tôi chợt lạnh người! Tôi thật sự choáng váng không dám tin vào sự thật. 

  
  -Thế là hết!

Hai tuần của tháng Tư bị giam tại thung lũng này, hai tuần của nhiều suy nghĩ, lo âu, nhung nhớ lao lung cho đến hôm nay. Hai tuần căng thẳng đi qua, tôi vẫn cố gắng hình dung một Sài Gòn đang chiến đấu trong đó. Vẫn nghe những tin chiến sự mà những cán bộ  hàng ngày khoe khoang sức tiến nhanh của quân đội của họ.

 Có hai cán bộ chính trị viên hay kêu chúng tôi lên “Khung”.Lý do, Ngọc và tôi tuy là hai trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất trong đám tù binh. Hai chính trị viên nói giọng Bắc, hơi thâm trầm. Họ cần chúng tôi cung cấp những thông tin nào mà chúng tôi biết được về phía quân lực chúng tôi. Thời gian đã lâu tôi không còn nhớ họ hỏi chúng tôi những gì ? nhưng đại khái về cách thức bố trí mìn bẫy, quân số đơn vị, những gì tôi biết.

Cứ mỗi lần lên 'khung' ông ta khoe với hai chúng tôi sức tiến quân phía họ.  Quân miền bắc ngang tỉnh nào, trên cái bản đồ trong phòng, ông ta bôi đỏ tỉnh đó.

Mới hai, ba hôm trước tôi còn nhớ ông ta bôi đỏ Bình Tuy, rồi Long Khánh...

Hi vọng của tôi theo từng ngày tan biên
 dần.  Những ngày tôi vẫn cò chút hi vọng miền nam còn lại 'phần nào đó' trong xa kia...

Bao nhiêu hưng vong
Đón đợi thu vào tầm tay
Rồi con lớn khôn hai mươi tuổi đời
Như mẹ ngày nay

Con ra sa trường à à ơi
Con say tiếng gọi dị thường
Như say giấc ngủ đêm này
À à ơi giấc ngủ trên tay (Trầm tử Thiêng)

Những đêm tôi nằm nhẫm lại những mốc thời gian vừa qua:

-24/3/ 1975 Những ngày này còn bị giam tại thôn An Lạc chân cầu Đông Hà cũng người chính trị viên này bắt Ngọc và tôi thu vào băng nhựa kêu gọi anh em tại biển Thuận An 'buông súng' . Ông ta từng bôi những chữ " được đối xử tử tế theo 
TINH THẦN QUY ƯỚC GENEVA..." phải đổi lại "... theo SỰ KHOAN HỒNG CỦA CÁCH MẠNG'. 

                                    

Cuối tháng Ba, tôi con` hi vọng '
RANH GIỚI NGƯNG BẮN' sẽ là đèo Hải Vân?
Rồi tin Huế mất 26/3, Đà nẵng mất 29 tháng 3 /1975... tất cả sự kiện này các tù binh đều được cho hay. Có thể họ cố tình lung lạc tinh thần chúng tôi.

Một nửa tháng Tư bị giam tại các lán thung lũng này. Những ngày đi cùi gạo. Những kho gạo do Thuợng Cộng cầm súng Ak canh giữ . Những người bộ đội CS người Thuợng  mặt mày lầm lì, khẩu AK đeo ngang trước bụng, ngón tay hờm vào cò súng. Mắt họ lườm lườm nhìn chúng tôi, im lìm. Có thể họ không nói được tiếng Việt. Trước kia  tôi được biết những bộ đội Thượng Cộng rất trung thành không gì lung lạc họ. Giờ đây nghe mấy cán bộ dẫn chúng tôi đi nhận gạo khoe họ đúng là trung thành, từng giữ các kho gạo dự trữ này mấy năm nay tại thung lũng này một cách kiên trì không hao hụt gì . Gạo mốc meo mục nát , thay bao nhiều lần . Đây là gạo dự trữ nhiều năm để 'đánh miền Nam'. Theo thời gian nay cứt chuột quá nhiều, đen như những hạt đậu, giờ cho tù binh ăn. cán bộ CS ở đây có cho chúng tôi biết, những kho gạo này dự trù cho "chiến dịch HCM kéo 
DÀI ÍT LẮM LÀ 2 NĂM"! 

Đoàn tù  đi cùi gạo, thung lũng Ba Lòng rộng lắm; sáng chúng tôi đi chiều mới về lại trại, mất cả ngày. Thung lũng này đã mất hết vết tích. Quá khứ tuổi thơ khi tôi lên đây lúc Quận Ba Lòng vẫn còn.  Chi Công An và Quận kề nhau, gần gũi xóm làng.  Những ruộng bắp đậu xanh ngút ngàn. Những buổi các chú trong Chi ba tôi đi săn heo và gà rừng, những nồi thịt heo rừng các chú kho với lá lốt rừng...Giờ thì chẳng còn chi ngoài rừng rậm, những cái khe trôi ngoằn ngoèo trong thung lũng, bao dòng nước trong vắt, lạnh mát đôi chân. 



         cảnh trao trả tù binh 2 phía tại bờ sông Thạch Hãn QT vào tháng 3 năm1973  ( hình Phạm Thắng Vũ)—


***

TỪ Khi thua trận và chúng tôi bị bắt tại Trạch Phổ, Phong Bình ngày 23/3/1975, thời gian đầu tôi vẫn tin có ngày trao trả như năm 1973 vì miền Nam sẽ còn phần nào đó, ranh giới ngưng bắn hai bên sẽ rút vào nơi nào đó ?

Tôi vẫn là người tù binh, vẫn những cảm nghĩ và hình dung ra ngày trao trả giống như ngày trao trả tại bờ sông Thạch Hãn vào năm 1973 khi vừa ký xong Thỏa Thuận Paris.

Có khi tôi lại tưởng tượng ra hình ảnh ba mẹ tôi trong nam sẽ lảnh HAI năm lương' cho những người lính mất tích hay bị bắt làm tù binh Hi vọng theo  cùng niềm tin có một 'ranh giới mới' cho đôi bên ở một nơi nào đó?  

Đà nẵng mất! sự mong muốn tuyến ngưng bắn Hải Vân "tiêu ma". Có tin đồn hai phía sẽ ngưng bắn ở 'Phan Rang' rồi Phan Rang Bình Tuy mất?

Hi vọng cái NGÀY TRAO TRẢ như năm 1973 tan biến dần hồi.

***

Trên cái loa phóng thanh dành cho học tập trong trại vẫn cái giọng the thé của người phát thanh viên nữ giọng Bắc:

   -
Đúng 11 giờ 30 Tổng Thống Sài Gòn Dương văn Minh ...

Rồi những bản nhạc 'như có Bác ..trong ngày vui đại thắng...' dồn dập phát lại... 
Cán bộ  trong trại reo hò, các 'vệ binh' reo hò. Những cái radio của cán bộ mở to 'hết volume'! 

Hôm nay trại không đi đâu hết. Tất cả chúng tôi được ở trong trại để  liên tục nghe loan tin 
ĐAI THẮNG phía họ.

Tôi không nhớ tôi có khóc hay không? tôi chỉ nhớ mình tôi lạnh ngắt, cảm giác tê tái và buồn hụt hẫng quá sâu. Tuy đã là tù binh nhưng trong tôi một miền nam 'vẫn còn', gia đình tôi trong kia -Bình Tuy- 'vẫn còn'... Ba Mẹ ơi, hai mươi năm nuôi con khôn lớn. Ngày về quê hương bên nòng súng lạnh giá gác canh trên núi rừng biên giới trong niềm tin giữ đất. Giờ chẳng còn chi. Hai mươi năm tiếng à ơi ru con và ngày tháng dãi dầu vươn lên trên vùng đất khổ. Những ngày chạy loạn, những người thân vĩnh viễn chia xa, những khổ đau bà con mình gom góp lại để hôm nay chỉ là một kết cục phũ phàng.

Giờ gia đình tôi trong nam ra sao? Trong kia vẫn mất tin tôi hơn môt tháng rồi. Nhà thằng Ngọc thì ở Huế, nó buồn trước tôi vì tin Huế mất ngày 26 tháng 3 hơn một tháng trước.

Nay đến phiên tôi, Sài Gòn đầu hàng xem như số phận Bình Tuy đã xong!  Ba mạ và các em tôi ra sao? nhà tôi hơn một tháng nay chắc quay quắt vì tin tôi. 

     - Thôi rồi, tất cả sụp đổ!

Hình ảnh ngày trao trả tù binh trong đó có Ngọc và tôi giống như tại bờ sông Thạch Hãn hai năm trước nay tan thành tro bụi.
Thực tế trước mắt tôi hôm đó là hình ảnh rộn ràng, âm thanh huyên náo của các cán bộ CS trên 'Khung' như quay cuồng  xoắn tít, tạo thành một 'ảo giác' nào đó làm tôi lịm ngất hay chóng mặt rụng rời. Tôi như nằm mơ. ..Có tiếng mừng rỡ của một số lính thủy quân lục chiến. Họ là lính, họ mừng vì họ sẽ được cho về nam như lời các cán bộ kia hứa hẹn trước: rằng "ít tội lỗi hơn cấp chỉ huy".
 Những người lính kia dù là 'thứ dử' họ cũng phải về trước thôi. Sụp đổ rồi, thế là xong. Mảnh giấy trắng, cán bộ nguệch ngoạc vài chữ những người lính này sẽ về nam. 



Còn chúng tôi  những người sĩ quan sẽ ở

 lại.  Chúng tôi chấp nhận tháng ngày trước mắt ra sao cũng được.  Chúng tôi không phải là lính, những người đã thụ huấn với trình độ chính trị khác với những người lính. Sự chấp nhận đó là lẽ ĐƯƠNG NHIÊN là CÔNG BẰNG giữa trách nhiệm và thụ hưởng, giữa vinh quang và hậu quả mà thôi.   


Những cán bộ chính trị viên  sẽ "Lên Lớp" trong tư thế khác. Họ là kẻ chiến thắng. Trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi:


-THỦ ĐÔ SÀI GÒN ĐÃ ĐẦU HÀNG !



Chỉ vài hôm trước trong tôi vẫn còn nhiều điều hi vọng bám víu vào


 tâm trí người tù binh. Mới hôm qua trong lòng tôi vẫn còn một hi vọng 

vào 'trao trả, trao đổi'- một giá trị gì đó  khi quân đội VNCH và một miền nam vẫn còn. Một hình ảnh hai bên trao đổi tù như từng xảy ra hai bên dòng Thạch Hãn vào năm 1973 khi vừa ngưng bắn.

GIỜ ĐÂY ĐÃ HẾT

Bao tính toàn ước mơ, chỉ mới hôm kia nay tan vỡ như sau giấc mộng Nam Kha. 

Chiến tranh, thắng bại lẽ thường; thua nếu không chết tại trận thì làm tù binh, chỉ mừng là còn sống còn có ngày 'trở về'.

Mây đen giăng trời à à ơi
Đã ngóng chờ con
Len vào giấc ngủ
Giấc ngủ lộng ngà kiêu sa... (Nhạc TTT)


Thế là hết, tất cả đều tiêu tan, sụp đổ tan tành như 

một giấc mơ vào buổi sáng 30 tháng Tư,1975 trong Thung Lũng Ba Lòng, đầu nguồn sông Thạch, quê huơng tôi. Ôi đau buồn cho ngày 'gãy súng'. Chuyện đời lính chỉ mong vào hậu thế phán xét. Hôm nay trong lao tù chúng tôi cố gắng nuốt nỗi nhục vinh để sống, hòng mong đời còn cho cơ hội chứng kiến cái cảnh "con tạo xoay vần"  mà thôi /.

edit 

Đinh Hoa Lư 24/1/2025 SAN JOSE USA

LÍNH ĐÓN XUÂN TRÊN ĐỈNH CAO

 


Tất cả đều thiếu, chúng tôi phải mò đi "ký sổ" tại chốt đại đội rồi đến tháng xem như hết tiền. Họ nói chẳng ngoa "Tiền Lính là Tính Liền"



Mời anh mời chị, mùa xuân lên đây thăm tôi
Nơi đây xa xôi khuất nẻo thưa người
Núi rừng mịt mù sương...
Mời em một lần rời xa
Nơi đang yên vui
Lên đây thăm lính ở trên rừng
Để cùng ngọt bùi sớt chia...

(Thư Xuân Trên Rừng Cao/ Trịnh Lâm Ngân)




    Mười ngày có một chuyến xe GMC tiếp tế từ Diên Sanh lên. Xe phải leo tới đỉnh Ông Do, nơi BCH Tiểu Đoàn 105 đóng. Hàng sẽ bỏ xuống cái bãi trống trước mặt căn cứ Ông Do. Các đại đội sẽ tới nhận hàng do chiếc xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được. Trung đội sẽ men theo đường tranh tới chốt đại đội đem hàng tiếp tế về chốt mình.

    Chúng tôi chọn cách đi tắt như thế để an toàn cho mình.  Chốt đại đội tức là nơi Ban Chỉ Huy đại đội đóng. Chúng tôi tới, chỉ vài người nên Đại Úy Lê Kim Chung chẳng phàn nàn do còn yên không có tiếng súng. Tới đại đội, không khí sao vui hơn; chuyện dễ hiểu do đây là nơi chỉ huy trực tiếp của tôi.


    Chúng tôi sẽ mua thiếu nghĩa là "ký sổ" những thứ chúng tôi cần. Chuyến tiếp tế có mang theo lương từ hậu cứ lên chúng tôi sẽ thanh toán nợ thiếu từ đại đội. Nào kẹo đậu phụng nào sữa Ông Thọ thêm bịch bột gạo lứt Bích Chi, thuốc hút capstan, ruby queen (ruby đỏ), ruby quân tiếp vụ, tệ lắm là bastos. Tôi chẳng quên chai dầu Nhị Thiên Đường như lời ba mẹ dặn dò ngày lên đường nhập ngũ:

-Đi mô con nhớ mang theo chai dầu nhị phòng khi trái gió trở trời...

Ôi gió núi mưa rừng lạnh lẽo có chai dầu gió trong túi áo thì "ấm lòng chiến sĩ" biết bao. Nhớ lại những thứ lính cần "hầm bà lằng" đủ thứ...không quên bộ bài xẹp mới Một lần đi một lần nguy hiểm, vượt rừng tranh tới được chốt này.




Vùng cao, quanh tôi toàn là những rừng tranh bạt ngàn. Nhiều hố bom B52 đào xới loang lổ, màu đất đỏ gạch. Những hố bom nay đã khô cạn nước chờ cơn mưa rừng sẽ có nước và cùng vang lên nhiều tiếng ểnh ương làm khúc nhạc rừng hoang giúp vui cho lính.

Hai, ba cái ba lô nhận đồ tiếp tế từng tiểu đội đã về đến chốt. Những nét mặt hân hoan, vui vẻ sau dịp hội ngộ với nhau, những người bạn đang đóng bên chốt kia. Cứ kỳ tiếp tế chúng tôi thay phiên nhau đi nhận hàng, không ai được "ân huệ" đi hoài được.

    Vài ba lon thịt heo, thịt ngựa quân nhu chia về từng tiểu đội. Lính phải biết tính toán, chi li làm sao ăn cho đủ mười ngày. Chỉ nửa ký thịt heo từ chợ Diên Sanh lên thôi. "Ô Kê Salem" chúng tôi cùng nhau liên hoan một bữa đầu tiên cho đả. Có nửa trái bí ngô, góc trái bí đao nữa, chúng dành cho ngày thứ hai. Còn ruốc bột ngọt đó là những thứ ta cứ xem như là hàng "chiến lược" phòng thủ đường dài. Đời lính địa phương quân đóng miệt núi, vẫn nhờ vào từng đám rau má xanh tươi mơn mởn mọc xen trong rừng tranh. Cái nồi nhôm méo mó theo bước hành quân từ biển lên núi. Giờ đây nó biến thành song canh rau má ngon lành. Ruốc và bột ngọt trở thành "người bạn" không thể thiếu là đó.

    Đời lính Địa Phương Quân có những điều tự bằng lòng với hoàn cảnh hết sức bình thường. Do tụi này chẳng hề đòi hỏi hay ước muốn cao sang. 



Bao rau má tươi ghê, mấy anh em vừa bò lên chóp núi bên kia tảo về. Chất tươi đúng nghĩa ở đây. Những cọng rau má mọc dưới gốc tranh chúng xanh non và tươi mát ngọt ngào không chê vào đâu được. Chúng tôi chưa có dịp nào trời thật lạnh để thưởng thức được món nấm mối dưới gốc tranh. Bao nhiêu là rừng tranh, chỉ có công tìm và lủi sẽ có hết.

LỬA và CỦI



Ở rừng tha hồ củi. Khác với những ngày ở biển người lính thiếu củi phải gom từng nhóm lá dương để nấu nướng. Rừng nhiều củi nhưng phải biết giữ lửa. Có người lính đi phép lại mang cái hộp quẹt đi theo thế là cả chốt THIẾU LỬA?
Một kỷ niệm khó quên. Những ngày không có hộp quẹt nhưng nhờ vào một thân cây cổ thụ khô  đang âm ỉ cháy ngầm dưới chân chốt. Hàng ngày người lính nấu ăn mò xuống lấy than lên. Cho đến vài ngày sau, khi người lính trả phép về đến chốt mang theo cái hộp quẹt trở về.


KHE TRAI THA HỒ XUỐNG TẮM


       khe Trai có dấu mũi tên xanh


Một con khe bao quanh dưới chân đồi. Nó sẽ vòng vèo xuyên qua bao rặng núi trước kia rồi sẽ đổ vào dòng Thạch Hãn. 


    hình có tính minh họa KHE TRAI

Lần mò theo sườn đồi chúng tôi đã xuống tận con khe. Làn nước trong xanh chảy chậm vào lúc cuối hè. Một khám phá lý thú đó là một cái hố nước sâu ngay khúc uốn của dòng nước. Nước chảy bao nhiêu năm tạo thành một cái giếng tự nhiên rất sâu,  trong xanh màu ngọc bích. Cái hố nước trong không ai khám phá ra ngoại trừ người lính. Mình khó diễn tả cho hết mức độ trong xanh của cái hố nước quá sâu như vậy. 

    Chúng tôi tha hồ tắm, chẳng e dè sợ hãi nào cả. Hạ sĩ Thú lặn và bơi quanh cái hố nước trong này. Đôi lúc anh chàng càng lặn sâu nín thở hơn cả phút đồng hồ. Làn nước trong leo lẻo làm chúng tôi nhìn rõ anh chàng  đang lặn dưới đáy. Dòng Khe Trai mát lạnh, chầm chậm lướt qua chân bọn tôi. Nước im lìm chảy, toán lính lao xao dưới mấy tàng cây. Có tiếng công kêu vang dội tận mấy hẻm núi xa xa.  Tắm xong chúng tôi vội lấy nước vào đầy mấy ống đạn leo lên lại chốt. Sau lưng chúng tôi, sự tiếng róc rách hay lao xao nhẹ của dòng nước tiếp tục trở về. Khoảng hai ngày chúng tôi trở xuống, lạy trời mọi sự bình an.

MÀN MƯA BIÊN GIỚI

Mưa rừng rơi mãi không thôi. Màn mưa biên giới một màu xám ngắt, giăng màn che khuất mấy chốt bạn gần bên chốt trung đội tôi.

 Trong căn hầm ẩm thấp, tôi ngồi đợi mưa qua. Ngày qua ngày tôi vẫn nghe âm thanh "xè xè" nho nhỏ, phát ra chiếc máy truyền tin PRC25 của trung đội. 






Máy truyền tin đợi liên lạc về đại đội hay tiểu đoàn. Cũng nhờ thế,  chúng tôi bớt đi sự cô độc và cảm giác lạc lõng.

 Lính gác dưới cơn mưa. Những chiếc poncho im lìm, có khi như bất động. Căn hầm chìm ẩn trong làn mưa rạt rào. Tôi không còn thấy nổi rặng núi bao quanh tôi. Tôi chẳng còn nhìn thấy Đỉnh Động Tiên trước mặt. Những tia chớp liên hồi, tiếng sấm nổ rền vang vang qua nhiều rặng núi. Một vùng rừng núi tối mịt mù, chìm lỉm trong màn mưa nặng nề, hung hản...

Mưa ngơi dần, tiếng tí tách của những giọt nước vẫn còn rơi rớt trên vành nón sắt. Lính giữ chốt lắng nghe động tĩnh của rừng thiêng. Anh cố căng mắt nhìn xuyên qua màn mưa sâu thẳm. Sấm sét rơi rớt sau cùng còn vọng vang, lan qua bao rặng núi. Nơi đây vẫn còn bao người trai giờ đang sâu lắng nhớ nhung trong màn mưa biên giới.

Mưa rừng, người lính chẳng còn cơ hội ngắm nhiều đám mây bềnh bồng trôi về miệt biển. Dưới xa kia là một khoảng đồng bằng. Quê hương lãng đãng hiện ra dưới những màn mưa lướt thướt trong gió rừng. Khoảng cách của nhớ thương ôm ấp bao kỷ niệm một thời học sinh nay xa dần trong vùng kỷ niệm. 


 Ngày về lại quê hương trong màu xanh áo trận. Tuổi học trò từ đó đã xa như một trận lốc, cuốn theo bao mộng mơ hoa gấm. Giấc mộng phù du chỉ ngần ấy ba năm, cuốn phăng tất cả. Lính khó quên thứ cảm giác nôn nao, lạ lẫm của anh lính trẻ ngày đầu về đơn vị. Rồi cảm giác hôm nay nơi chốn rừng thiêng. Trường Sơn trùng điệp  nhưng chìm đắm trong màn mưa xối xả, mịt mù.

 Chốt lạnh chiều mưa, lính thiếu nhiều thứ. Người lính chỉ biết kéo tấm poncho, rồi lặng yên mong mưa qua mau. 


Xuân về rồi

                           mai rừng

 Làm sao quên được phút giây trừ tịch của năm Một Chín Bảy Lăm. Giây phút chuyển mình năm cũ và mới; nhưng phút giây đó ai có ngờ đâu là đó là lần trừ tịch cuối cùng của đời lính chiến VNCH và rồi sẽ không bao giờ có lại trên đỉnh cao quê hương một lần nào nữa. 

Xuân Một Chín Bảy Lăm đang về trên mọi nẻo đường đất nước. Không riêng một ai mà cho cả miền nam có một trừ tịch cuối cùng để rồi tức tưởi chia tay tiễn đưa một MÙA XUÂN CỘNG HÒA về miền dĩ vãng. 

 Trên đỉnh cao chốt này và xa xa nhấp nhô nhiều đỉnh cao khác, có những đứa như mình vẫn còn đang đối diện với những đồi tranh trải dài bất tận. Chiều về, lính lắng tai nghe tiếng con chi bìm bịp kêu buồn. Đêm về, anh cố căng mắt hướng về bóng tối của rừng khuya sâu thẳm. Có tiếng chim Từ Quy gọi đàn trong đêm, lính đợi ánh dương lên để biết mình đã qua một đêm vô sự. 

Người lính tiền đồn vẫn biết xuân quê hương đang về muôn nơi trên vạn nẻo đường đất nước. Nhưng trên đỉnh cao người lính không thể đón được cái cảnh  tết đến xuân về. Xuân Này Con Không Về không thể là lời nói đầy sáo ngữ khi bên chiến hào những người lính trẻ chẳng hề nghĩ đến một mùa xuân./.

đinh hoa lư TÁI BIÊN

23/1/2025

ĐI CHIẾN DICH CỦA CÁC SVSQ VNCH

ĐI CHIẾN DỊCH- TƯỞNG NIỆM 50 NĂM NGÀY KÝ THỎA ƯỚC "TRÓI TAY QLVNCH"- BA LÊ  27/1/1973 ĐI CHIẾN DỊCH những SVSQ  KHÓA 8/72 ĐI CHIẾN...