Sunday, January 12, 2025

HỒI KÝ TÙ BINH- VỀ NHÀ

 

Về đây ngơ ngác chim bay tìm đànVề đây hoang vắng lạnh buốt cung đànTôi lắng nghe tâm tình nhân thếQua đáy tim chưa đục sông mêQua ước mơ duyên tình đơn sơ ...
( VỀ MÁI NHÀ XƯA - NS Nguyễn Văn Đông)

            Chiếc xe chạy khá nhanh, nó kiếm thêm một số khách 'khá bộn' trên đường vào. Hành lang giữa chật cứng. Người ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao tìm khoảng trống để. Tôi 'an phận', thoải mái hơn chút đỉnh nhờ lên xe trước. 'Lơ' xe lấy 'ngon ơ' của tôi đúng một trăm đồng bỏ vào túi. 

Chuyện tiền nong của anh ta với tài xế không liên quan gì tôi. Thế tôi lại âm thầm 'cám ơn' cái ghế 'súp' hiếm hoi do anh ta dành cho tôi lúc xe vừa rời bến.



Xe chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển trong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.
Cuối năm 1974 lấy phép từ TKQT, tôi đi phép từ Đà Nẵng vào Sài Gòn bằng xe đò.  Tôi dám 'bạo gan' đi xe? an ninh lúc đó tôi dám 'bạo gan' bận đồ lính đi trên xe do thiếu tiền thiếu phương tiện thì đành phải 'gan' thôi. Ngang đây, cảnh biển Ninh Chữ quá đẹp nên tôi nhớ mãi. Như vậy là gần Phan Thiết, "quê hương nước mắm" rồi. Từ Phan thiết vào đến Bình Tuy không còn bao xa.
Qua khỏi cầu Phan Thiết, chiếc xe đang vào Thành Phố. Trong xe tôi vẫn ngửi được mùi nước mắm từ mấy hãng gần múi cầu. Những đống hũ nhỏ, sơn trắng la liệt dưới kia. Người ta vẫn còn làm nước mắm đựng trong hũ (còn gọi là trĩn )đất như xưa. Chiếc xe dài đang chạy xuyên qua Thành Phố. Phố Phan vắng vẻ, buồn hiu. Những cửa tiệm thưa thớt, vài chiếc xe honda 67 màu đen còn sót lại chạy vù qua mặt chiếc xe hàng. Bạn cùng lớp với tôi, Nguyễn Cường Nam, ra trường sau tôi, hồi đó nghe tin Nam 'trấn nhậm' cây cầu nào ngoài Phan Rang? Giờ tôi không còn biết tin gì về Nam? Phan Rang xe đã qua rồi, đây là Phan Thiết; có thể Phan Rang, thị trấn nhỏ quá, nên tôi không để ý.

Rừng Lá !

Xe ngang Rừng Lá. Người ta đặt tên là Rừng Lá không biết do sao? Trước đây mỗi lần xe chạy ngang đây ai nấy cũng lo, cũng hồi hộp. Nỗi ám ảnh bị 'du kích' ra chặn đường, một ‘rừng lá của mật khu’ của 'người bên kia'. Vào đây "rừng lá' tôi cũng thoát do gặp may không có 'du  kích' nào ra đón. Chuyến đi phép 1974 tôi vừa kể đoạn trên, tôi "bận đồ lính" tôi thoát được một mối nguy hiểm tại Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, Bình Định. Có chiếc cầu bị du kích đánh sập, và 'du kích' cũng giả dạng người đưa đò ‘transport’ khách qua sông, có xe bên kia đón. 

Khách qua sông cùng tôi ai cũng bận đồ dân sự, họ ép tôi vào giữa nếu có "du kích" thì họ khỏi thấy. Do tôi 'điếc không sợ súng' chứ người dân họ biết hết, nơi nào có du kích họ đều ranh. Tôi lúc này đúng 21 tuổi, trẻ măng, bận bộ đồ xanh ô liu, trên ve áo còn mang hai 'quai chão" đen sì, may liền vào cổ áo, không gở ra được. Một anh trung niên, bận bộ vét trắng, mang kính cận ra dáng trí thức. Tôi nhớ anh nói giọng Quảng Nam cứ đi 'kè kè' bên tôi để che giúp bộ đồ lính của tôi. Giờ mấy mươi năm qua, thêu dệt chuyện này hay hư cấu làm chi nữa. Tôi chỉ có lời CÁM ƠN MUỘN MÀNG đến tình dân trên chuyến xe đò 1974 mà tôi đi phép từ miền trung vào nam thăm gia đình. Năm đó trong nhà ai cũng mừng cho tôi 'thoát nạn'. Nhưng về lại đơn vị TKQT tức trả phép, ba mẹ tôi phải 'rán sức' mua vé máy bay cho tôi ra lại Huế, chiếc DC 4 bốn cánh quạt bay vù vù gần 3 tiếng mới tới Phú Bài. Đó là chuyện 1974 chuyến phép cuối cùng của tôi và cả những ai phục vụ trong QLVNCH cũng nên. 




Và giờ đây là "rừng lá' của năm 1980, của mừng vui, không lo sợ hồi hộp gì nữa. Một 'thằng tù' vừa được 'RA TRẠI' và sắp về đến nhà. Dòng suy nghĩ của tôi đột ngột ngừng hẳn do anh chàng lơ báo cho tôi biết sắp đến Ngã Ba 46, họ sẽ cho tôi xuống đó.
Tới rồi! về nhà rồi ! một cảm giác hân hoan, hồi hộp khó tả trong lòng tôi.


NGÃ BA BỐN SÁU


Description: https://2.bp.blogspot.com/--BHMQ7FG7Bw/VgAxMqr4yQI/AAAAAAAAAPI/z1IwMZSTTDE/s640/lagi0km.png

Ngã Ba 46 – LA GI


Xe thả tôi xuống liền rồ máy chạy ngay. Tôi đứng bên đường nhìn theo chiếc xe dài, màu vàng nhạt khuất hẳn dưới con dốc xa xa.
Trời thật sự chiều. Con lộ chính đất nước giờ này thật vắng. Tôi băng qua đường. Ngã ba này giờ chỉ vài cái quán lèo tèo, vắng khách. Giờ này tôi không còn tìm ra một phương tiện nào để về La Gi cả.
Trong chuyến phép tôi vừa kể đoạn trên, tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về La Gi. Những chuyến xe lam đông khách từ ngã ba Bốn Sáu này đây. Hồi đó nhộn nhịp làm sao. Về LaGi một chặng đường 18 cây số. Hai bên đường đa số là người dân Quảng Trị theo chương trình Khẩn Hoang  LẬp Ấp  vào năm 1973.
Giờ tất cả đều vắng, ngã ba này không có ai ngoại trừ tấm bảng xi măng rất lớn đề dòng chữ:

-RỪNG LÀ VÀNG...ĐỐT RỪNG NHƯ THỂ ĐỐT DA THỊT MÌNH


Trong cảnh vắng vẻ một 'NGÃ BA 46', kèm theo sự lạ lùng của tấm bảng viết dòng chữ trên một thời xe lam, xe ôm rộn ràng lên về La Gi, trong đó có khá đông lưu dân QT.

Chuyện đi bộ theo con đường này về nhà là chuyện bình thường đối với tôi lúc đó. Những ngày trong Trại Ái Tử, những đoạn đường vác gỗ nặng từ rừng về trại cùng non hai mươi cây số; huống gì bây giờ, tôi bước thênh thang. vai 'nhẹ hều' cộng thêm niềm vui quá lớn.

Mặt trời chưa lặn hẳn. Tôi còn thấy được những xóm nhà hai bên con đường nhựa không rộng mà không quá hẹp. Vài đám ruộng cỏn con, xen vài luống mía. Những túp lều tranh còn vương khói, xen kẻ vài mái nhà tôn xi măng xam xám. Bên trái tôi một bóng núi nhòn nhọn. Rừng chiều dần dần đen sậm lại. Cảnh vật im lìm trong bóng hoàng hôn. Tôi cúi đầu bước nhanh trên con đường vắng ngắt không còn xe hay người đi. Hình như tôi muốn đuổi theo ánh sáng còn sót lại của một buổi chiều sắp hết.

Ngang cầu Suối Đó thì trời đã tối hẳn. Nhờ ánh trăng thượng tuần nên con đường không tối lắm. Con sông chảy qua cầu vào mùa này đã cạn nên tôi dễ dàng lội qua. Cái cầu đã sụp đổ. Ban ngày, có lẽ xe đò chạy vòng đường khác. Lội qua con sông cạn, leo lên lại con đường, tôi dựa lưng lên cái ba lô tạm nghỉ mệt trên con đường nhựa.

Động Đền trong kia, nơi bà con tôi ở rất đông. Ngày đó tôi thăm vùng này được hai ngày trước khi ra lại QT. Sau 1975 nhà ba mẹ tôi từ Mỹ Tho mới về tập trung tại đây. Động Đền, nơi người QT ở gần bên nhau. Rẫy rừng than củi, buôn bán nông phẩm là chính. Những cái quán cà phê tranh nho nhỏ, những cái chợ cũng nho nhỏ, những mái trường cho con em QT và những chuyện gì nữa sinh ra từ vùng đất mới này, tôi không tường tận gì lắm. Sau năm 1972, gia đình tôi 'chạy' thẳng đến Mỹ Tho, chỉ về tập trung ở đây sau năm 1975; và đây cũng là lý do tôi khai địa chỉ trong giấy Ra Trại là vùng này.
Mặt trăng thượng tuần gần lặn, tôi vội vả bật dậy tiếp tục bước nhanh.

Ngã Tư Quân Cảnh đây rồi !

Tôi rẽ phải vào con đường đất, nó không còn trãi nhựa nữa. Chỉ vài cây nữa là đến Động Đền. Nhưng nhà tôi ở xóm nào? tôi hoàn toàn mù tịt, trong địa chỉ là Xã Tân Mỹ thôi.
Con đường đất lồi lõm, khó đi trong bóng đêm. Tôi cứ men theo vậy đi mãi. Ánh đêm và thôn xóm tối đen hai bên đường. Trời về khuya, tôi càng lúc càng bước nhanh; hình như tôi đang mò lên một con dốc. Còn ánh đèn nào leo lét tôi đánh bạo bước vào hỏi nhà...

Một giọng nói Gio Linh của một chú trung niên trả lời:

- Ôi  phải o  Dỏ ...thôn Cam Bình phải khôn? chú đi lui xuống ngay dưới dốc là đến ngay thôi ...

Hú vía! tôi mừng quá “lia lịa” cám ơn chú kia. Người khách trong đêm như tôi, nghe mới ra tù chắc là một chuyện cho gia đình kia bàn tán 'đỡ buồn ' -có lẽ họ mới đi làm rẫy về, chưa ngủ? Tôi quay bước trở lui, mò mẫm tụt xuống con dốc, con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.

May quá! vẫn còn ánh đèn nào leo lét vừa thắp lên trong mái nhà tranh bên phải tôi. Tôi nhớ lúc qua đây, tôi không thấy có ánh đèn này, có thể họ vừa làm gì đó, mới thắp lên lại? Mừng rỡ, tôi gõ cửa...

Trong mái nhà tranh lụp xụp, ở căn giữa kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp, trên thắp một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng lù mù. Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, còn phảng phất đâu đây mùi thơm bún xáo do khách vừa ăn xong. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm 'ngủ' trong đêm. Thật lạ! không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người. Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi [2]người ôm ốm, cái áo cộc trắng bạc nhạt nhòa trong ánh đèn vàng vọt.Tôi vừa kịp nói xong, bác vội nói lớn lên giọng mừng rỡ với cái giọng Bắc 'di cư’:

-Ôi ! cậu là Phúc con o Nhỏ phải không? theo tôi, theo tôi, o Nhỏ ở ngay sau này rồi.

Bà vội cầm cây đèn dầu dẫn tôi đi ngay.


Con đường vào xóm tối om, nhưng chỉ một đoạn thôi. Một mái tranh lụp xụp, lờ mờ dưới nền trời khi ánh trăng thượng tuần vừa khuất.
Cầm cây đèn dầu trong tay, bác kêu lớn:

-O Nhỏ ơi, o Nhỏ! thằng Phúc về rồi o Nhỏ ơi !

 Nói xong bác vội ra lại nhà ngay. Hình như người hàng xóm muốn giây phút trùng phùng đoàn viên được tự nhiên hơn, hơn nữa trời quá khuya rồi bác phải ra lại coi nhà.

Cái cửa lá chỉ có thanh ngang bằng que tre cong queo gài ngang, xộc xệch rồi vội hé ra ngay. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu ban đêm tôi thấy hai đứa em trai đang ngồi bật dậy. Mặt chúng ngơ ngác như mộng du do bị đánh thức trong cơn ngủ say. Hai em tôi đang ngủ nhưng lại ở trần không có áo. Ba mẹ tôi quá mừng loay hoay do chẳng biết làm gì trước tiên. Mạ tôi nghẹn lời do sự mừng vui quá bất ngờ trong lúc bắt đầu say ngủ. Cả hai người, ba tôi thì cầm vai tôi lắc mạnh. Mạ tôi thì níu cả hai cánh tay thằng con trai mới ra tù cơ hồ sợ vuột mất xem có phải “nằm mơ” không?

Trong ánh đèn lù mù, tôi đang đứng dưới mái tranh ẩm thấp xiêu vẹo. Những cái đòn tay bằng tre lâu ngày màu ám khói dù ban đêm tôi vẫn nhìn thấy rõ.  Tôi lắp bắp chẳng biết trả lời câu hỏi nào trước cho ba mạ tôi. Ba tôi thì vội kéo hút nghe “lụp bụp” một điếu thuốc lào cho đã nỗi mừng to lớn trong đêm.  Mạ tôi vừa hỏi lui hỏi tới những câu hỏi trùng nhau lại vừa lay hoay như muốn kiếm cái gì cho tôi ăn trong đêm? Tôi còn nhớ rất in là chẳng có gì tạm gọi là ăn liền được như thời này. Muốn nấu lon gạo thì phải đi tìm củi lửa, rồi phải nhen nhúm…khoai khô sắn khô có thể có nhưng ngoài ra chẳng có chi tôi đưa vào miệng ngay lúc đó…một mái tranh nghèo đúng nghĩa. Hai thằng em, cứ nhìn chằm chặp vào người anh bao lâu nay mới gặp, chúng chẳng biết nói chi ngoài cái nhìn trân trân có phần e thẹn trong niềm vui bất ngờ. Thú thật tôi không ăn gì nhưng cũng chẳng muốn ăn do quá no từ niềm vui đoàn tụ. Ba tôi tự cho phép mình hút liên tiếp và phì phà nhả khói thuốc lào vừa hỏi chuyện. Mùi thuốc lào của ba tôi hút, không gì lạ đối với tôi lúc đó. Trong tù, chúng tôi vẫn chia nhau từng điếu thuốc lào do trại phát. Cũng là thuốc lào nhưng mùi thuốc của ba  tôi có cái cảm nhận rất khác, nó êm đềm và sảng khoái trong niềm vui quá lớn. Đoàn viên và tự do rồi trong vòng tay thương mến của gia đình ba mẹ và các em tôi.

Trong nhà ba mạ tôi chỉ còn ở với hai đứa em trai. Mấy đứa em gái ở xa. Bên vách lá, có gánh hàng mạ tôi có thể vừa bán bữa chợ đặt sát vách. Mạ tôi cứ mãi loay hoay không biết tìm thứ gì cho đứa con trai ăn được? Thuốc rê tiêu hành, đồ vặt ..những thứ con mạ không thể đưa ngay vào miệng được.

Nhưng mạ ơi xin mạ dừng tay. Con không đói mà rất no. Con chưa ăn gì nhưng lại tưởng chừng quá no do trong lòng con ngập tràn một niềm vui quá lớn khi đã về được với gia đình, bên các em cùng ba mạ./.


Edition by Đinh Hoa Lư 

4am NGÀY 25.3.2024 

SAN JOSE  USA


Saturday, January 11, 2025

CHÍNH KHÁCH VĨ ĐẠI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI NHÂN CÁCH LỚN

 

HÌNH

Ông Jimmy Carter, cựu tổng thống Mỹ một nhiệm kỳ nhưng được nhiều người ngưỡng mộ cho công việc nhân đạo của ông sau khi rời nhiệm sở, đã được tưởng nhớ đến trong lễ quốc tang hôm 9/1 như một người đặt sự trung thực và tử tế lên trên chính trị đảng phái.

Trong bài điếu văn, Tổng thống Joe Biden đã ca ngợi vị tổng thống thứ 39, người đã qua đời vào ngày 29/12 năm ngoái ở tuổi 100. Ông Biden nói rằng cuộc đời của ông Carter là ‘câu chuyện về một người  không bao giờ để những cơn sóng chính trị đẩy ông khỏi sứ mệnh phục vụ và định hình thế giới’.

“Một người có nhân cách,” TT Biden nói. “Ông cho chúng ta thấy nhân cách và niềm tin bắt đầu từ chính chúng ta và sau đó lan tỏa đến người khác như thế nào.” (theo VOA/ 11/1/2025)...

================= 


Chào bạn đọc

Chính khách và sự vĩ đại ngày xưa là BIỂU TƯỢNG mà giờ đây nếu không lầm đang bị giới chính trị gia hiện đại cố tình đem vào chưng vào tủ kiếng lịch sử.

Dựa vào hay cố tình lợi dụng vào thời đại thông tin Internet hay lợi điểm của Kỹ Thuật Số, giới chính khách ngày nay càng lúc càng gia tăng, bắt chước nhau cùng dối trá lừa phỉnh dân chúng hầu kiếm phiếu cho bản thân để chiếm đoạt cho được ngôi vị quyền lực dù bất cứ thủ đoạn nào. Sự thật trần trụi ngày nay càng lúc càng nhiều, khiến các chính trị gia không còn biết lòng tự trọng và sự liêm sĩ là gì nữa? 

Có thể không là cường điệu hay quan điểm tiêu cực nếu chúng ta công tâm theo dõi tình hình chính trị thời hiện đại. Thời thế tạo 'anh hùng' hay thời thế hiện nay đang tạo nên nhiều tên hoạt đầu hay thao túng cùng dối gạt quần chúng về chính trị? 

Chuẩn mực của họ là chiến thắng chính trường và lợi nhuận. Khi sự xấu xa đều phủ lên quá nhiều khuôn mặt điển hình chính trị thì không ai còn biết hổ thẹn là gì? 

Lừa dối, phủ nhận cùng cường điệu hay nói xấu là thủ thuật chung cho phần nhiều chính khách. Nói về dối gạt thứ chính khách 'ma đầu' hiện tại thường áp dụng chiến thuật 'nói dối triền miên' để trở thành một 'sự thật' dù sự thật đó bỉ ổi tới đâu?

Đối với loại chính trị gia 'ma đầu' thì lừa gạt hay đại dối trá triền miên là chiến thuật chính trị để chiến thắng cuối cùng. Hậu quả thể chế hay thượng tầng kiến trúc là thảm nạn do dần dà họ trở thành một tập đoàn lừa dối dân chúng và đất nước khi chiến lược chính trị đầy ắp một thứ 'VĂN HÓA TUYÊN TRUYỀN' . Trong cạnh tranh chính trị do cứu cánh của họ là chiến thắng quyền lực chỉ một mục đích cuối cùng là phục vụ cho đam mê bản thân hơn là phục vụ đất nước.

Ngày 19 tháng 11 năm 1863, cố Tổng thống Abraham Lincoln đã có bài phát biểu trước 15.000 người tụ họp để tham dự lễ khánh thành Nghĩa trang Quốc gia Chiến sĩ tại Gettysburg, tiểu bang PA. Trong đó có câu nói trở thành tinh thần nước Mỹ khi cố TT Lincoln  nhấn mạnh chính phủ nước Mỹ là chính phủ "..của dân, do dân và vì dân.."



Chính quyền CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN hiện tại đã bị chuyển hóa thành sáo ngữ do thực tế chính trị hiện tại nhất là Hoa Kỳ khó tìm lại được hay bị số đông chính khách nhóm lãnh đạo cố tình vứt vào sọt rác từ lâu.

Sự thui chột của tai mắt người dân từng bị lợi nhuận của giới truyền thông hiện đại hướng dẫn sai lạc khiến hàng trăm triệu người dân càng ngày càng bị các kết quả bách hại từ chứng ung nhọt chính trị xấu xa gây ô nhiễm càng lúc càng nặng nề khó bề cứu chữa. 


Cho đến một giai đoạn kinh hoàng hơn khi đa số cử tri đều phớt lờ trước tội lỗi hay sai lầm của chính khách dối trá thủ đoạn lại lấy đó làm một 'MẪU MỰC TỘI LỖI' hòng che chở tiếp viện cùng bênh vực. 



Ngày 9-1, Tổng thống Mỹ đương nhiệm Joe Biden, Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump và 3 cựu Tổng thống gồm ông Barrack Obama, ông George W Bush và ông Bill Clinton đã cùng tới dự tang lễ cố Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, tại Nhà thờ quốc gia Washington (ở thủ đô Washington D.C, Mỹ), theo hãng tin Reuters.


Chứng ung thư về chính trị từ đó di căn đến giai đoạn làm suy yếu luôn chính thể dù la một cả siêu cường là điều khó tránh. 

Tại sao có một nền chính trị cực đoan và bạo tàn? Lịch sử từng chứng minh rằng các bạo chúa hay nhà độc tài thế giới những lúc phát khởi đầu tiên là họ đã LỪA GẠT ĐƯỢC DÂN CHÚNG. Quần chúng trong lịch sử nhân loại từng bị một thời bị thôi miên và lừa gạt và cho đến nay dù là thời hiện đại nhưng HỘI CHỨNG BỊ THÔI MIÊN VÀ CUỒNG SI CHÍNH TRỊ KHÔNG HỀ THAY ĐỔI

Dù xưa hay nay khi quần chúng bị mê hoặc và thôi miên thì thảm nạn xã hội khó bề tránh né được. Hậu quả cuối cùng cho toàn thế giới lúc nào cũng có những đáp số kinh hoàng.

Các cuộc chiến cổ đại, những cuộc THẾ CHIẾN ĐỀU LÀ HẬU QUẢ DO TỪ CÁC ĐIỀU NÓI TRÊN.

Đối với Chính Khách trên thế giới nói chung những ai có nhân cách càng vĩ đại thì lưu danh muôn thuở. Ngôi vị quyền lực chỉ là tạm bợ chỉ có NHÂN CÁCH VÀ LÒNG TỰ TRỌNG YÊU DÂN THƯƠNG NƯỚC LÀ MÃI TRUYỀN NGÀN SAU những loại con buôn chính trị, những ma đầu gian xảo đại láo lừa gạt dân chúng tuy bước đầu họ có thành công nhưng sự thành công này chỉ là tạm bợ rồi tiếng xấu của họ cũng bị lịch sử phán xét và lưu xú ngàn sau.


HỔ TỬ LƯU BÌ NHÂN TỬ LƯU DANH 



TT Jimmy Carter và giải Nobel Peace Prize Ceremony, Oslo City Hall, Dec. 10, 2002. theo VOA...
Khi đó cộng đồng quốc tế đã triệu tập hội nghị về người tị nạn ở Geneva và ông Carter đã là nguyên thủ đầu tiên cam kết tăng số người tị nạn mà Mỹ tiếp nhận...

theo Ông Lê xuân Khoa ‘Hành động can đảm’

Giáo sư Lê Xuân Khoa ở bang California, người từng đứng đầu một trung tâm tư vấn về chính sách đối với người tị nạn dưới thời Tổng thống Carter, nói với VOA rằng ‘tất cả người Việt tị nạn đều nhớ ông Carter là một ân nhân’.

Ông Khoa nhắc lại lịch sử là vào năm 1979 khi mà làn sóng thuyền nhân Việt Nam ồ ạt đổ đến các nước đông nam Á, ‘đã có nhiều tàu tị nạn bị kéo trở lại ra biển và còn dọa bị bắn khiến cho nhiều người tị nạn đã chết’.

Khi đó cộng đồng quốc tế đã triệu tập hội nghị về người tị nạn ở Geneva và ông Carter đã là nguyên thủ đầu tiên cam kết tăng số người tị nạn mà Mỹ tiếp nhận từ 7 ngàn lên 14 ngàn người một tháng, tổng cộng 168 ngàn người một năm, ông Khoa kể lại những con số mà ông ‘nhớ rất rõ’...

Cựu tổng thống Jimmy Carter đã giúp hàng trăm ngàn người tị nạn Việt Nam đến Mỹ và thiết lập nền tảng để Mỹ tiếp đón người tị nạn về sau mà nếu không có ông thì đã có biết bao nhiêu thuyền nhân Việt chết trên biển, những người nắm rõ vấn đề trong cộng đồng Việt Nam cho biết...(VOA)


Câu trên không là sáo ngữ mà là sự thật. Cố tổng thống Jimmy Carter một con người nhân hậu, phục vụ dân không vì lợi ích hay quyền lực cá nhân. Ông từng nhận giải Nobel Hòa Bình vào năm 2002 và từng là ân nhân của Thuyền Nhân Việt Nam sau tháng Tư Đen 1975. 

Gia tài sản nghiệp của cố TT Jimmy Carter dù là một đại phú nông về đậu phụng, khi ông rời Bạch Ốc theo báo cáo hiện nay chỉ vỏn vẹn 10 triệu Mỹ Kim một con số khiêm nhường so với các chính khách tỷ phú hiện đại?

Giàu có tới đâu, khi từ giã cõi đời không ai mang theo được gì? 

Sinh không tử lại hoàn không!

Chỉ có TIẾNG THƠM nói cho cùng là NHÂN CÁCH chính đây mới tạo được một di sản quý báu cho muôn đời con cháu mai sau.

DÙ TÂY HAY ĐÔNG DÙ XƯA HAY NAY CÁC VĨ NHÂN THƯỜNG LÀ NHỮNG BẬC CÓ NHÂN CÁCH VĨ ĐẠI ĐỂ TIẾNG THƠM MUÔN ĐỜI CHO HẬU THẾ NOI THEO, LƯU DANH SỬ SÁCH.


ĐHL 11/1/2025



HÌNH ẢNH THẬT CỦA VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC

 

các thế hệ máy chụp hình cũ dùng phim cuộn, nay đang vào quên lãng 

 Bạn đọc thân mến

Chứng liệu lịch sử nước ta qua hình ảnh vẽ lại đôi lúc nó không đúng lắm. Nhờ vào kỹ thuật thuật số, hiện nay qua trí tưởng tượng làm lớp con cháu hiện nay có thể tưởng tượng tiền nhân sau khi được kỹ thuật số 'màu mè' thêm làm cho chúng ta khó có thể hình dung ra hình ảnh thật người xưa.  

 Có điều may mắn nhờ vào những tài liệu chính thống của người Pháp liên quan đến lịch sử và văn hóa Việt Nam chúng ta và nhờ đó chúng ta có thể thấy lại được hình ảnh THỰC của dân Việt cách đây hơn một thế kỷ.


Joseph Nicephore Niepce (1765-1833)



CÁM ƠN SỰ RA ĐỜI CỦA MÁY CHỤP HÌNH 


Mặc dù việc phát minh ra máy ảnh từng đóng góp qua nhiều thế kỷ, nhưng thế giới đồng ý rằng chiếc máy chụp ảnh đầu tiên được nhà phát minh  người Pháp Joseph Nicéphore Niépce sáng chế ra đầu tiên vào năm 1816.  Niépce đã phát triển các hình ảnh chụp ảnh trên giấy có lót clorua bạc (AgCl) và một bức ảnh mà ông tạo ra khoảng năm 1826 được coi là bức ảnh lâu đời nhất còn sót lại.


bức hình đầu tiên của thế giới do máy chụp hình của Joseph tạo ra 

Vào năm 1826 hoặc 1827 Joseph Nicéphore Niépce đã lắp đặt một chiếc máy ảnh trùm bóng tối trong cửa sổ nhìn ra khu nông thôn của nhà ông. Niépce  có mấy năm hoàn thiện hệ thống quang học của chiếc máy ảnh đầu tiên này và chế ra một lớp phủ nhạy bén với ánh sáng đặc biệt—sau tám giờ phơi sáng— đó là bức ảnh đầu tiên của thế giới đó là SÂN ĐIỀN TRANG  của Niépce, bao gồm cả đường viền của các tòa nhà và một cái cây. Trong bức thư cho ÔNG vào năm 1824 có viết “đó là một kết quả hết sức kỳ diệu”  


 Bức ảnh đầu tiên đó vẫn được trưng bày tại Đại học Texas ở Austin Hoa Kỳ.


*


NGƯỜI PHÁP  KHI QUA VIỆT NAM CÓ MANG MÁY CHỤP HÌNH, NHỜ ĐÓ TRONG SỬ LIỆU VN CÓ MỘT SỐ HÌNH ẢNH THẬT CỦA NGƯỜI XƯA ...


HÌNH ẢNH THẬT VỀ KHOA BẢNG THỜI PHONG KIẾN VÀ GẦN NHẤT LÀ THỜI TRIỀU NGUYỄN RA SAO


theo tài liệu các trang mạng khả tín thì...

Trong hơn 900 năm, từ khi bắt đầu mở khoa thi (1075) đến khoa thi cuối cùng tổ chức năm 1919, lịch sử khoa cử Việt Nam có 184 khoa thi với 2785 vị đỗ đại khoa (đỗ Tiến sĩ và Phó bảng), trong đó có 56 Trạng nguyên, gồm 7 trong số 9 thủ khoa Đại Việt và 49 Trạng nguyên.

Trạng nguyên là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa thi Đình thời phong kiến ở Việt Nam, kể từ khi có danh hiệu Tam khôi dành cho 3 vị trí đầu tiên. Người đỗ Trạng nguyên nói riêng và đỗ Tiến sĩ nói chung phải vượt qua 3 kỳ thi: thi Hương, thi Hội và thi Đình. 


Khoa thi đầu tiên mở năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông, nhưng người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh chưa được gọi là Trạng nguyên. Từ năm 1075 đến năm 1246, có bảy vị đỗ đầu các khoa thi, nhưng chưa có danh hiệu Trạng nguyên. Đến đời Vua Trần Thái Tông (1246 hoặc 1247?) mới đặt ra định chế tam khôi (ba vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên và người đầu tiên đạt danh hiệu Trạng nguyên là Nguyễn Hiền. Ông cũng là vị Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, đỗ Trạng nguyên khi mới 12 (có tâì liệu nói là 13) tuổi. Đến thời nhà Nguyễn không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa. Do đó Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Tuệ (vốn tên là Trịnh Huệ, nhưng do trùng tên với Tuyên phi Đặng Thị Huệ nên phải đổi là Tuệ) đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh 


tân đại khoa được vua ban Mũ Áo 


CẢNH THÍ TRƯỜNG CỦA NƯỚC TA THỜI NHÀ NGUYỄN



VUA DUY TÂN ĐĂNG QUANG LÚC 7 TUỔI




VUA THÀNH THÁI 21 TUỔI năm 1900


ĐOÀN TÚY TÙNG VÀ CÁC QUAN  RƯỚC VUA DUY TÂN ĐĂNG QUANG TẠI KINH ĐÔ HUẾ  LUC 7 TUỔI 




Bắc kỳ, các quan tân khoa kỳ thi Văn được ban mũ áo để vinh quy bái tổ ở trường thi Nam Định khoảng 1900


TRƯỜNG THI NAM ĐỊNH CÓ QUAN SỨ PHÁP TỚI THĂM 


                  LÍNH VÕNG QUAN ĐI TẠI KINH ĐÔ HUẾ

                                THẦY ĐỒ NGÀY XƯA



GỐC DÂN TA LÀ GIAO CHỈ (LES GIAO CHI, HAY ANAMITES)  (Giao Chỉ Quận) NGÀY XƯA GỐC DÂN VIỆT CHÍNH THƯỜNG GỌI LÀ GIAO CHỈ ( do 2 ngón chân cái thường châu lại với nhau) BÂY GIỜ RẤT HIẾM có





                       CẢNH RƯỚC DÂU NHÀ QUAN QUYỀN GIÀU CÓ
Chợ Lớn Sài Gòn năm 1888 - lúc này thuyền buôn của người Hoa đã tấp nập.

CHỢ ĐỒNG XUÂN HÀ NỘI 1866 ( chúng ta thấy đàn bà VN mặc váy và đàn ông áo dài)




Bắc kỳ cuối thế kỷ 19, tội ăn cắp bị xử đánh đòn, ảnh chụp trong khoảng 1870 đến 1890.
CĂNG NỌC RA ĐÁNH đây là luật pháp thời xưa và có thật trong đời sống dân gian. Kẻ phạm tội bị lý trưởng hay quan nha sai người  "căng nọc" ra đánh bao nhiêu hèo hay roi tùy theo tội nặng nhẹ


CÁC QUAN QUỲ TRƯỚC ĐIỆN THÁI HÒA THÀNH NỘI HUẾ LẠY MỪNG VUA HÀM NGHI 1900 





NHÀ THỜ ĐỨC BÀ NĂM ĐẦU TIÊN 

Nhà thờ Đức Bà sau này còn gọi là Vương Cung Thánh Đường được Giám Mục Isodore Comlombert khởi công vào ngày 7/10/1877 một khu đất cao nhất tại SG xưa. Đây là hình ảnh lúc hoàn thành đầu tiên 1882 chưa có tháp chuông. Hai tháp chuông nhọn bổ sung vào năm 1895



1895



CÁC SĨ TỬ VÀO TRƯỜNG THI NAM ĐỊNH KHOẢNG 1870 

SĨ TỬ THI ĐỖ RA MẮT QUAN TRƯỜNG THI NAM ĐỊNH

SĨ TỬ XEM TÊN BẢNG VÀNG 




MỘT BAN NHẠC CÔNG SÀI GÒN 1866

MANG TƠI ĐỘI NÓN  CỦA NGƯỜI VIỆT NAM  TRƯỚC 1960 


BẢN THẢO VIẾT TAY CỦA GIÁO SĨ PHÁP BÁ ĐA LỘC ---Pierre Pigneau de Behaine

              NGHỆ SĨ HÁT BỘI SÀI GÒN 1866

TUYẾN ĐƯỜNG SẮT ĐẦU TIÊN TẠI VN (về Mỹ Tho 1881)
Khi chiếm Việt Nam, người Pháp muốn xây dựng tuyến đường sắt đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khai thác vùng đất phì nhiêu giàu có. Sau những cuộc bàn thảo, năm 1881 Pháp cho xây đường sắt từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho dài hơn 70 cs. Đây cũng là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương, với tổng kinh phí gần 12 triệu Francs. Tất cả ật liệu xây dựng đều được chở từ Pháp qua

                                        HÀ NỘI XA XƯA 


Chiếc máy ảnh thế kỷ trước tuy cổ lỗ ra sao chăng nữa nhưng chúng ta cũng nhờ nó mới có được hình ảnh thật của tổ tiên nước ta vào thế kỷ trước.
Hình ảnh thật cho chúng ta có giây phút so sánh lại với thời nay tuy không sống động chút nào nhưng mà "thật" 
Chính nhờ cái thật đó mới tạo được trong trí tưởng tượng phong phú của thời hiện đại bức ảnh sinh hoạt của cha ông chúng ta đời trước.
Tiếp đến là máy quay phim ra đời...con người không ngừng khám phá, phát minh sáng tạo dần hồi cho đến một xã hội cực kỳ văn minh như thế giới digital hiện tại
Rất cám ơn sự phát minh của nhân loại. Bởi thế con người luôn học hỏi phát minh và tiến tới.

Trong nhiều phát minh tân kỳ khác có thể xã hội còn đón nhận những phát minh và phục chế lại hình ảnh của người xưa giúp ta tiếp cận với một xã hội từng khuất dạng hẳn trong sương mờ lịch sử một ngày nào đó tổ tiên chúng ta có thể như "sống lại" với thời khắc hiện tại 
Đố ai biết trước do rằng đó là khoa học và phát minh 

Đinh hoa Lư 
đón tết Quý Mão 2023

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...