Monday, December 2, 2024

KỶ NIỆM XA XƯA VÀ CHÙA SẮC TỨ TỊNH QUANG TỰ

 


Kính nhớ hương hồn Ngoại tôi

BÀI NÀY tác giả đăng lại lên đây, để lưu dấu hình ảnh của một mái chùa Sắc Tứ Tịnh Quang khác với hôm nay. Ngày xưa hình ảnh Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang Tự là một hình ảnh tiêu sơ xung quanh hoang vắng, vài ngôi làng thưa thớt xa xa. Nửa thế kỷ qua nhanh, Ái Tử bây giờ là thị trấn đang ào ạt xây dựng, ngôi chùa lịch sử nay phải lọt vào giữa chốn nhà cửa, công sở dinh thự náo nhiệt khác thường.

Chạnh lòng nhớ lại ngày xưa còn nhỏ, có lần tôi một mình đi bộ qua cầu Ga, rồi lần theo Quốc Lộ. Qua khỏi Cầu Ái Tử, tôi đi băng qua bãi cát và cồn cỏ Ái Tử để tới một thôn làng sau lưng Chùa Sắc Tứ. Ngày đó tôi qua nhà đứa bạn tiểu học có nhà bên làng. Thời này chưa có căn cứ Mỹ đóng. Quanh chùa  là những cồn đất hoang vu, xa xa trong kia làng mạc thấp thoáng. Đi xuyên qua vùng đất hoang, có những con sơn ca thay nhau bay lên cao đập cánh đứng yên trên không kêu lảnh lót. Con này kêu xong từ từ hạ cánh tiếp liền có con sơn ca khác tiếp tục bay lên... lại đập cánh đứng yên hót liên hồi...

       ÁI TỬ hôm nay không còn là cánh đồng vắng như xưa nữa
Ngôi chùa Sắc Tứ nay lại bị che lấp giữa một thị trấn phát triển và càng lúc càng đông đúc chẳng khác chi chốn phồn hoa. Quả thật, nếu ai về lại ghé thăm Chùa Sắc Tứ nay quang cảnh đã thay đổi quá nhiều do phải 'lọt' ở giữa những khu dân cư , dinh thự chi chít hỗn độn của thời đại mới "đất hẹp người đông"

ĐHL

https://lh3.googleusercontent.com/-f9onhmUfP5o/YK_ZUqvLS_I/AAAAAAABcJI/7YowAx1D4AcL6hXV5-RA9yly_qkBH4XMwCLcBGAsYHQ/w243-h400/image.png

NHỚ  NGOẠI TÔI bà Vãi Chùa Sắc Tứ  trước 1972 và những MÓN CHAY

    Sau khi ông ngoại tôi qua đời vào năm 1949, gần mười năm sau mệ ngoại tôi tu tại gia. Thời gian này Mệ hay về nấu nướng cho quý thầy dưới chùa Tỉnh Hội. Trụ trì gồm hai thầy, tôi còn nhớ hình thầy Thích chánh Trực (?)và một thầy khác . Ngoại tôi cho treo hình hai thầy trụ trì trong chùa Tỉnh Hội ở căn giữa nhà, đối diện bàn Phật.

Khoảng thời gian 1967- 1968  căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa, có vài quân nhân Hoa Kỳ hay qua thăm cảnh chùa và chụp hình ảnh này. Những quân nhân này sau này về lại Mỹ và họ đưa lên mạng Internet hình ảnh Chiến Tranh VN trong đó có hình này

  Gần  năm 1960, ngoại tôi chính thức xuống tóc và qua tu bên chùa Sắc Tứ. Làm bà vãi, có nghĩa là Mệ nấu ăn cho các thầy và các chú tu trong chùa. Ngoại nấu chay khéo và ngon nên thầy nào cũng thích. Đứa cháu như tôi, cho đến giờ cũng không quên mấy món mệ nấu. Mỗi lần Mệ vè nhà, tôi cứ "lẩn quẩn"  gần mệ ngoại để có dịp người cho món chay ăn.



một lính Mỹ đóng ngoài căn cứ Ái Tử gần chùa tới thăm khoảng sau 1968 lúc Ngoại tôi còn ở đây, mấy chú tiểu này cũng rất thân với ngoại tôi. Các chú này là đệ tử của thầy THích Ân Cần tu sau các chú Đăng và Tăng đều làng Trà Trì Hải Lăng

https://1.bp.blogspot.com/-FD9dlRcBZmM/XmVeV-DMySI/AAAAAAABQpE/2Yddei6qT_QPkzTWoEZva4LUcA5shZEIgCLcBGAsYHQ/w273-h400/IMG_20200308_135930055_HDR.jpg

hình Chú Tăng (làng Trà Trì ) một buổi thăm nhà ngoại tôi tại Cửa Hậu P Đệ Tứ QT (1969)

 Tôi hi vọng nhắc lại không quá lời, vì ngoại tôi nấu không ngon làm sao tôi nhớ đến bây giờ? Mấy bắp chuối ( người Bắc gọi là hoa chuối), sau khi hấp xong, Mệ xé nhỏ ra trộn với rau răm rồi mệ nói thịt gà bóp. Củ bình tinh (hoành tinh) bánh tráng, không biết làm sao Ngoại  cuộn lại chiên lên thành món ram chay ngon còn hơn ram mặn. Tôi còn nhớ mệ tôi cho ăn thịt gà bóp bằng mỳ căng, hay món phở chay, bánh bột lọc chay...ôi thôi đủ thứ ! tôi không còn nhớ hết? Chuyện đặc biệt , có món "cá chiên" của mệ làm, giờ tôi lại quên, không biết làm từ gì?
  Làm sao các thầy quên được mệ tôi ? Sau khi chùa thu hoạch đậu nành, mệ tôi cũng làm ra mấy hũ tương ngon, đậm đà , để dành ăn suốt năm . Chỉ có rau muống bò nổi trên mặt nước trong hồ sen , mệ luộc chấm với tương này, ai cũng thích, không có gì hơn. Ăn chay thì kể chuyện tương, chao.  Tôi còn nhớ hình ảnh mệ tôi làm chao sao lắm công phu ! Những lát khuôn đậu,  mệ lót trên tro qua  lớp vải quyến .  Ngày sau, mệ tôi cẩn trọng xếp từg lớp vào thẩu. Những lớp muối tiêu, ngay cả rượu nữa...thêm bao thứ tôi còn nhớ lan man trong đầu. Nhưng thứ chao được tay ngoại tôi làm , khi mở thẩu ra thì thật đúng mùi chao ! Những lúc cúng kỵ tôi có dịp ăn thử . Thứ huơng vị đậm đà nhưng lại nồng, thứ nồng rất riêng của chao làm cho tôi khó quên .  Sau này dù đi đâu, tôi lại chưa gặp thứ chao nào bằng ngoại tôi làm, thế mới lạ.


NGOẠI TÔI THỌ GIỚI SA DI TẠI CHÙA KIM TIÊN HUẾ

Sách Đại Nam  nhất thống chí  của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: Chùa Kim Tiên ở ấp Bình An, huyện Hương Thủy (nay thuộc phường Trường An, TP.Huế) tương truyền do Hòa thượng Bích Phong dựng (khoảng cuối thế kỷ XVII), bản triều Thế Tông (chúa Nguyễn Phúc Khoát, 1735-1765) sửa lại, sơn thếp xanh vàng rực rỡ. Phía trước chùa dựng lầu Vọng Tiên, có giếng cổ sâu hơn 30 trượng, nước rất trong mát, tương truyền các tiên nữ thường tắm đêm ở đây nên gọi là giếng Tiên (trích Báo PG Giác Ngộ)

THƯƠNG QUÁ "NỐT NHANG" TRÊN ĐẦU NGOẠI 

  Năm đó khoảng 1970, Mệ tác giả may mắn và hân hạnh được quý thầy tại Tổ đình Sắc Tứ cho đi theo dự mùa Kiết Hạ tại Chùa Kim Tiên trong Huế. Tiếng là bà vãi bếp núc cho Chùa nhưng tu thì phải "hành". Gần mãn mùa Kiết Hạ tại Chùa Kim Tiên, Mệ tôi cũng được thọ GIỚI SA DI sau khi qua đợt thử sức tịnh tâm qua lệ  "đốt nhang" lên đầu? Sau khi thử sức tu hành nghĩa là cái tâm huớng niệm hay định tâm ngang mức độ nào bằng cách dùng cây nhang đang cháy, dúi lên và phải dốc tâm niệm phật cho quên cơn nóng khi lửa dúi vào da đầu.  Mừng cho ngoại tôi đã thành công viên mãn  lên được Sa Di  và ngoại được Chùa cấp Y Bát.

 Mệ về nhà mang một vết tròn lỡ lói trên đầu, tôi phải xức thuốc cho mệ , nhưng trong lòng đứa cháu ngoại cũng tự hào khi mệ ngoại mình vừa được một "nốt tu hành" trên đỉnh đầu. Quả là một chứng cớ rõ ràng nhất về niềm tin và tấm lòng nhất tâm tu tập cùng thành tâm niệm phật.

CHÚ HỢI

 NHỚ  'CHÚ HỢI' NUÔI Ở CHÙA SẮC TỨ NĂM XƯA 


https://1.bp.blogspot.com/-LuCVmnqkogA/XmVgpXkQPOI/AAAAAAABQpU/qUgfzdxwUzoCJJvSTXQsvLFzqV8wYExDgCLcBGAsYHQ/s1600/images.jpg

 

CHÚ HỢI cái tên từ thầy Trụ Trì Thích Ân Cần cho đến các chú và mệ ngoại tôi hay kêu chính là con heo đen trong chùa. Chùa nuôi chú HỢI chỉ một mục đích lấy nguồn phân bón trồng cây. "Chú Hợi' xem như là kẻ gần gũi ngoại tôi nhất vào thời gian ngoại tu bên chùa. Chuồng chú được đặt gần bếp phía nhà trai bên phải chùa. Khi nào chuồng cũng có rơm rạ, phân bổi, ngoại tôi là người trực tiếp cho 'Chú' ăn. 

    Chú Hợi sống thọ đến nỗi nanh chú dài ra. Mỗi dịp qua thăm chùa, tôi để ý thấy nanh 'chú' dài ra một ít. 'Chú' chỉ nằm không còn đứng được. Coi bộ cái chuồng chật hẹp đối với 'Chú'. Có lần ngoại tôi khoe " chú được thầy cho quy y rồi" . Tuy nhỏ, nhưng lòng tôi cũng cảm thấy hân hoan giùm cho chú Hợi. 
   Cát trắng sau chùa không có nguồn 'phân bón' của 'chú' xem như chẳng ra chi. Những vồng khoai tía, những cây vú sữa cũng nhờ phân chuồng từ đây . Những sào sắn thì đành chịu do không đủ phân đắp bồi cho sắn .  Phân lót từ chuồng này, Thầy bảo chỉ ưu tiên cho khoai tía khoai từ và mấy cây ăn trái thôi  . Cát trắng không đủ hoa màu, Chùa nhờ lòng hảo tâm của khách thập phương, nhất là các thương gia bên Chợ Tỉnh. Thương gia mễ cốc Nguyễn Xuyến là người thầy trụ trì hay nhắc tên nhất. 

 Chú Hợi qua đời trước biến cố 1972. "Công quả" của 'Chú'  ít nhiều chi cũng có với chùa. Bao nhiêu vồng khoai tía, khoai từ, mấy cây vú sữa và bóng ngoại tôi lom khom bên chuồng ...
Cho đến 1972 ly loạn, thầy, điệu, bà vãi mỗi người một phương. Ngoại tôi theo gia đình  vào Đà Nẵng, Trại tạm cư Non Nước, phi trường hoang phế Non Nước lưu dấu bà con Quảng Trị non 2 năm thì gia đình ngoại và cậu tôi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp vào vào Bình tuy (1974) cũng như hoàn cảnh bao nhiêu người dân Qt khác vậy. 

Chùa hoang phế hư hại sau 1972 cho đến 1975 người viết khi còn tù cải tạo tại một trại gần Nại Cửu Phường. Nơi này cũng gần Thôn Xuân Khê tạm coi là gần vùng trung du, cách chùa khoảng năm cây số. Lần đó nhờ vào lúc trại phân công đi tìm dây thép kẽm gai còn sót tại căn cứ Mỹ cũ nên có ghé tạt vào thăm chùa. Thời gian này hai thầy Thích Chánh Trực và Thích Ân Cần cùng trụ trì tại đây với một số chú tiểu còn nhỏ tuổi. Hai thầy cùng với các chú tiểu tự túc canh tác sống qua ngày. Chánh điện trước chùa còn hư hao, người dân quanh làng chưa ai hồi cư đông đủ...

*** 

Từng thập niên liên tục đi vào quá khứ. Hình ảnh các thầy trụ trì Tổ Đình Sắc Tứ kể cả ngoại tôi, bà vãi giữ chùa đã dần khuất trong vùng quên lãng. Lạ thật, tôi cứ nhớ hoài những món chay của mệ ngoại mình.  Có một điều tôi không thể bỏ qua, là tôi nhớ và thương cho vết nhang "từng đốt" trên đầu Mệ, tôi vẫn không quên sức nóng nốt nhang đang cháy đó . Sự thử sức quá gay go, giá như tôi thì chẳng bao giờ "dám thử " ! Ngoại tôi thật dốc lòng tu mới quyết tâm chịu đựng như thế , sức nóng ghê gớm từ nốt cháy của đầu nhang kia ! trong khoảnh khắc nhất tâm, quán tưởng đến Phật ,  niệm liên hồi , mồ hôi nhễ nhai , tội và thương cho Mệ quá! 

NGÀY NGOẠI TÔI “TRỞ VỀ” TỔ ĐÌNH SẮC TỨ


Những ngày chạy loạn 1972, Mệ cũng như bao lưu dân QT khác phải lìa bỏ quê hương vào tận miền Nam. Mệ theo gia đình vào Bình Tuy theo Chương Trình Khẩn Hoang Lập Ấp 1973. Cho đến 1986 mệ mãn phần tại Xuân Sơn Bà Rịa nhưng lòng cứ đau đáu về Tổ Đình Sắc Tứ.  

Hai mươi năm sau, khoảng 1992, Ngoại tôi được cải táng về lại Tổ Đình Sắc Tứ như lòng Mệ hàng mong ước.

Cậu người kể là Võ Hoa đã cải táng Mệ, đem Mệ về lại Tổ Đình nơi Người từng gắn bó với quãng đời còn lại. Nhớ năm đó trời nóng như thiêu đốt, cái giếng vuông nhỏ bé thân thiết với ngoại tôi xưa trong cạnh bờ trúc khô quắt, nước không còn một giọt. Lạ thay ! ngày đem cốt Ngoại về, cái giếng của  Chùa đang khô bỗng cho nước như mừng  người xưa nay đang trở lại Chùa  hay  Tổ Đình thân yêu "dang tay" đón ngoại tôi về. Mái chùa thương yêu ngày xưa đón Ngoại về, một nơi ngoại tôi hàng ngày với tấm lòng thương yêu, tém nhặt từng cọng rau, chắt chiu từng món tương chao, dưa muối, giúp cho quý thầy và các chú ngon miệng.


https://4.bp.blogspot.com/--9Ny6fKvYh4/U8n4X67PsnI/AAAAAAAAW0I/-Y8VyK90IPU/s1600/10516667_10202268153808458_8760844632895457055_n.jpg

thập niên trước 1972 , từ chùa Sắc Tứ nhìn ra đường QL 1 , chúng ta thấy chỉ là bãi cát hoang sơ


 Mỗi lần nhìn lại hình ảnh bức tượng Quan Âm trước hồ sen của chùa, tôi lại nhớ những ngày hè qua thăm Mệ. Lảng vảng trong đầu tôi hình ảnh mấy con cá phi lượn lờ dưới lòng hồ hơi cạn nước. Mặt hồ lác đác mấy đóa sen trắng, những khóm tím hồng hoa sún. Dưới tượng Đức Quan Thế Âm , cái lư hương lớn chỉ còn lại chân nhang. Khung cảnh chùa sao tiêu sơ, thanh tịnh quá !
   Ngắm cảnh xong tôi đi qua bên phía phải chùa bên rặng trúc thưa gần cái giếng miệng vuông nho nhỏ. Hàng ngày, ngoại tôi lom khom rửa rau, rồi bóng người lẳng lặng vào lại phía căn nhà trai bên phải chùa. Trên kia vẫn là rặng Trường SƠn muôn thuở. Thỉnh thoảng  sau từng đám dứa dại, có mấy con chim sơn ca lần lượt bay lên cao. Chúng vỗ cánh đứng yên trên lưng chừng, hót liên hồi rồi từ từ hạ xuống đất. 

 Chiến tranh tăng cường độ, căn cứ Mỹ xây nhiều quanh chùa. Tiếp đến là năm 1975 với bao nhiêu biến đổi. Giờ thì nhà cửa, dinh thự đã bao quanh chùa dày đặc!  May thay, Tổ Đình Sắc Tứ vẫn còn, nay đã trùng tu.

Vật đổi sao dời, cảnh chùa biến đổi mấy lần. Hiện tại mấy ngôi bảo tháp di tích Tổ Đình vẫn còn, làm cái gốc cho Chùa tái lập. Dân cư càng lúc càng đông, càng ít đi sự thanh tịnh ở đây. Càng về sau, tôi thấy thương khung cảnh hoang sơ thanh tịnh của Tổ Đình Sắc Tứ năm xưa. Nơi đó có ngoại tôi, bà vãi của chùa, một bà vãi nấu ăn nhưng lại được một nốt nhang trên đầu , chứng tích của một người nhất tâm niệm Phật.

 ĐHL 18/7/2014

edit 3/12/2024

PHỐ XƯA QUẢNG TRỊ MỘT THỜI COI "BÁO CỌP"

 

Chào bạn đọc

Thật sự mà nói, nhóm chữ "coi báo cọp" là từ khá xưa, trước 1975 miền nam hay nói. Thời này bên quê nhà chúng ta có thể hiểu đại khái đó là "coi báo ké" chứ không có gì khác. Nói rõ ra, chữ "coi báo cọp" dành cho khách ghiền đọc tin tức mà chẳng hề bỏ tiền ra mua cho tiệm sách một tờ báo nào hầu giúp cho tiệm khá thêm "chút chút". Xin bạn đọc thông cảm cho người khách ngày xưa đó, lý do chính yếu là khách chẳng có tiền. Con mắt thì muốn coi nhưng cái túi không chẳng hề "cho phép"? "Nghèo là cái tội"- nói như nhà văn hay triết gia nào đó.

Trong số những người khách ghiền đọc tin tức mà túi trống không chính là tác giả viết bài này. 

HÌNH- chiếc vespa vừa qua cổng Quân Trấn QT, phía phải chiếc vespa là cổng Tòa Hòa Giải Rộng Quyền (tòa án), sau lưng ngang cái băng rôn màu vàng là Tiệm Sách Tao Đàn

Ôi nhớ làm sao một thời chinh chiến khi khói lửa chiến tranh ngập tràn trên quê hương đau khổ Việt nam mà vùng "Giới Tuyến" lại chịu thảm nạn hình như là hàng ngày. Tiếng bom gầm đạn réo chẳng lúc nào ngơi nghỉ. Ban ngày từng loạt đạn pháo binh gần xa dội về thành phố hay từ trong thành cổ bắn đi. Những đoàn chiến đấu cơ phản lực sau những phi vụ oanh kích lại nghiêng cánh như "chào thành cổ" trước khi bay ra hạm đội hay vô lại phi trường Đà Nẵng. Đêm về người học sinh vừa học bài nhưng tai lại lắng nghe từng hồi bom B 52 dài lê thê từ Trường Sơn vọng về rung rinh nền đất. Vừa học bài nhưng cậu học trò vừa để ý tới từng hồi hú của pháo hỏa tiễn 122 ly của phía bên kia  bắn vô thành phố, vội quăng sách vở kêu mau mọi người chui nhanh xuống hầm trú ẩn...

Người viết kể dông dài như thế chẳng qua để giải thích lý do cái "bệnh ghiền tin tức" theo dõi thời sự một thời lại cần thiết đến thế.
Hàng ngày, nghe tin chiến sự thì có cái radio. Radio thì dành cho bậc cha mẹ hay các vị công chức có đồng lương hàng tháng. Những vị này còn có tiền đặt báo tháng. Cỡ học sinh, 'bô lô chi trớt' ngoài cái nghề 'nhà báo' hay 'báo nhà' -tốn cơm hao vải- đào đâu ra tiền? Thế là phải đi COI BÁO CỌP đó thôi.

Chữ CỌP ở đây dĩ nhiên ngày trước ai cũng hiểu từ chữ copier tiếng Pháp mà ra. Sinh viên học sinh thời đó cần tài liệu nhưng thiếu tiền thì vào tiệm sách lấy cớ xem sách nhưng mục đích là copy vài dòng hay tài liệu nào đó để về làm bài. Nghèo lấy đâu tiền? Thời nay thư viện ê hề sẵn sàng giúp sinh viên về chuyện đó.


Người viết xin thưa lại chuyện COI BÁO CỌP chẳng hề liên quan gì đến sưu tra tài liệu như hôm nay cả. Ngày đó, chiến tranh là câu chuyện thời sự nóng bỏng nhất. Ngang qua tiệm sách, không ghé không được. Người kể chuyện từng đứng trước cái sạp báo, mê làm sao những tờ báo mới ra đọc ngấu nghiến mấy cái tựa đề tin tức CHIẾN SỰ NÓNG BỎNG...

Nào Gio linh, Đông Hà khói lửa, nào Chiến Dịch Hạ Lào, chuyện căn cứ Carol, Khe Sanh căng thẳng chiến sự, chuyện rút quân di tản... Người học sinh gần đến tuổi thi hành quân dịch, hàng ngày chứng kiến những chiếc GMC chất đầy xác tử sĩ hi sinh đi về hướng Trại QUÂN CỤ. Chuyện oái ăm, Trại Quân Cụ lại gần môt bên Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ? Cứ thế, một bên hàng ngày tiếp nhận từng toán thanh niên đi vào trình diện rồi họ sẽ ra chiến trường. Trớ  trêu thật, phía trại Quân Cụ hàng ngày người lính thợ hàn hỏa tốc hàn kín những chiếc hòm kẽm bỏ vào những chiếc quan tài bằng gỗ màu lam. Những chiếc hòm kẽm kia sẽ theo C 130 vào nam quê hương của những tử sĩ TQLC.


HÌNH- Tiệm sách Tùng Sơn bên phải có dấu đỏ

    Trên cái bàn bỏ báo, có nhiều tên như CHÍNH LUẬN, SÓNG THẦN, TRẮNG ĐEN, ...mới in theo chiếc xe đò Huế Quảng Trị vừa ra tới bến xe Nguyễn Hoàng vội phân phối ngày tới các tiệm sách Sáng Tạo Lương Giang, Tùng Sơn, Văn Hóa, Tao Đàn, ...Người chủ sau khi để dành cho khách báo tháng còn bao nhiêu bỏ ra ngay ngắn trên cái bàn gỗ trước tiệm. Trên mặt bàn những sợi dây cao su  màu đen nhằm ép các tờ báo xếp hai ngay ngắn do sợ gió bay. Cảm giác khó khăn cho anh chàng "COI BÁO CỌP" chính là lúc này đây...

Giở sợi cao su đen lên lấy tờ báo ra để coi bên trong thì đường đột hay suồng sã với chủ tiệm. Nét mặt khó chịu của người chủ bên trong họ đang phục vụ cho khách mua sách hay đang bán vài thứ gì đó. Khách coi cọp kia đành 'nuốt nước bọt' xem mấy hàng tin tức CHÍNH YẾU CHỮ LỚN trên nửa tờ báo, chúng được xếp ngăn nắp, bẹp dí dưới những sợi dây cao su màu đen to bản.

Hình_ người đàn bà đội nón đang đi qua tiệm sách Lương Giang bên kia người  đạp xe đạp đang qua Sáng Tạo 

Truyện dài đăng nhiều kỳ thì nằm ở trang trong. Thứ này không cần thiết do những tờ báo cũ có thể được cho lật ra coi. Nhưng cái khó chịu nhất vừa cho chủ vừa cho khách "Coi Cọp" là báo mới nó rất cần cho ai có chút tiền mua giúp cho Tiệm? Chưa hề có sự phẫn nộ hay phiền hà của chủ tiệm đối với khách coi cọp. Tâm lý khó xử hay sao cũng từ lương tâm con người thời đó sinh ra. Có thể báo cũ rẻ tiền hơn còn báo mới thì chẳng ai bớt cả. Thật tiếc, người viết quên hết giá cả một tờ báo Sóng Thần, Chính Luận, Trắng Đen vào thời đó là bao nhiêu? Nhưng có điều chắc chắn nó phải rẻ hơn giá bao thuốc capstan hay tô bún bát phở vào thời đó. Dù 25$ hay 50$ một tờ báo nhưng đối với học sinh làm gì có tiền?

Nửa thế kỷ sau, thế hệ con em bây giờ làm sao hiểu được tâm lý của một người, một thời "COI BÁO CỌP". Giờ đây, chính yếu nhờ vào ngòi viết của ta. Tác giả phải cố mà viết cách nào để cháu con thời này thông cảm được cái thiếu của một thời chưa hề có sóng Internet, wifi ...hay vô số phương tiện điện tử giống lúc này. Một thời, tờ báo in ra từ thủ đô Sài Gòn theo máy bay dân sự ra đến miền trung xong theo xe hàng phân phối ra Huế. Hôm sau báo mới đó lại theo chiếc xe Renault "hỏa tốc" ra tận TP Quảng Trị. Nhanh lắm cũng mất non hai ngày trời. Tờ báo mới in xong rạng hôm qua tại Sài Gòn, ra đến Quảng Trị, tỉnh Địa Đầu Giới Tuyến có nhanh chi cũng hai giờ chiều hôm sau mới đến. Hai giờ chiều hôm sau, là thời gian nhanh nhất cho các tiệm sách Sáng Tạo Lương Giang Tao Đàn Tùng Sơn có BÁO MỚI.

báo mới từ Huế sẽ theo xe hàng Renault ra tận bến xe Nguyễn Hoàng Quảng Trị

Báo và tin MỚI đúng nghĩa tức là "Hôm Qua". Mặt trận mới nhất tức là hôm qua. Những nạn nhân chiến cuộc, những chiến sĩ nằm xuống, vừa nhắm mắt giã từ một đất nước nghiệt ngã đau thương trong cuộc chiến tương tàn, đã là HÔM QUA! Đoạn đường từ Sài Gòn ra đến tỉnh Địa Đầu Giới Tuyến có nhanh chi cũng từ hôm qua.

***

    Ai là người trong cuộc mới thấm thía một thời "COI BÁO CỌP". Thoắt đó thoắt đây mà đã nửa thế kỷ qua rồi. Từ những tiệm sách cho đến quán hàng hay chợ đò thân thương của một thành phố hiền hòa nay đã vùi sâu trong vùng quên lãng.

Phố Quảng ra đi và gót chân 'giải phóng' tràn ngập. Hình ảnh các đơn vị CSBV tràn ngập tp Quảng Trị ngang ngã tư Quang Trung -Trần hưng Đạo nơi mua bán phồn thịnh, có nhiều tiệm hàng. Trong hìnhTiệm Tân Mỹ ngó qua tiệm sách Tùng Sơn Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 

Hôm nay nếu ai có tấm lòng nào đó ghi lại chút gì cho thành phố ngày xưa nay đã vùi sâu dưới 'nấm mồ dĩ vãng' âu cũng là giúp nhau trở về với bao kỷ niệm nhạt phai. Có những hình ảnh một thời khó quên cho thành phố thân yêu, hay một Đoạn Đường Cầu Dài máu lệ. Biết bao mẫu chuyện đau thương của máu cùng nước mắt từng bị dập vùi hay cố tình cho người đời quên hết bằng NHỮNG  MỸ TỪ THAY THẾ CHO THAM VỌNG XÂM LĂNG?

Hôm nay có nói ra như thế cũng trễ, cũng thừa. Chúng ta chỉ mong ít hay nhiều gì, bạn và tôi hãy cảm thông cho những ai từng đi "COI BÁO CỌP", một thời Quảng Trị ngập tràn khói lửa chiến tranh./.

Đinh hoa Lư 14/10/2024

San Jose USA

==================== 


NÚI RỪNG VÀ NHỮNG NGƯỜI TRANH SỐNG

AUDIO ĐỂ BẠN ĐỌC  NGHE KHỎI CẦN ĐỌC


Ký ức của Đinh hoa Lư


"Gánh cực mà đổ lên non. 
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo " (ca dao)

Cũng như số phận không biết bao nhiêu người đồng cảnh ngộ khác, nghề rẫy bái , tiều phu không phải là căn kiếp của tôi. Vì miếng ăn, những ngày tháng đó tôi phải lăn lộn vào rừng kiếm sống. Tiếng là để 'nuôi vợ đợ con' nhưng 'thành phẩm' làm ra từ rừng chẳng khá chút nào. Đã thế cái số 'khốn nạn' đen đúa cứ đeo mãi tôi khiến tôi càng không làm ra 'cơm cháo ' gì ?


Câu chuyện CÁI RẪY LUỘC này là câu chuyện thật của tôi hay của bao lưu dân Quảng Trị từng sống tại vùng nông thôn rẫy núi thuộc xã Sơn Mỹ H. Hàm Tân cách đây hơn 4 thập niên. Câu chuyện kể lại tôi chẳng cần thêm mà chẳng bớt. Tôi muốn  viết ra trước là mua vui hay phác họa cho bạn đọc nào chưa từng sống ở vùng nông thôn sau 1975 hình tượng.  

Cuối hết trong chừng mực nào đó, người viết mong ước  dùng bài viết mà vẽ lại một hình ảnh kỷ niệm làm lưu cảo cho đời mình cùng thế hệ sau này có thể hình dung một thời đói khổ sau 1975 ra sao để tiết chế chừng mực lại trong đời sống đầy đủ dư thừa hiện tại.


ĐHL


  VỊ TRÍ NÚI  ĐẤT TRONG BẢN ĐỒ HÀM TÂN


       Khi nào cũng vậy, lúc trời sắp chuyển vào mùa mưa, cánh rừng hoang càng về trưa càng oi bức hơn. Quá ngọn Mây Tào trong kia, huớng Long Khánh -Biên Hòa, sấm chớp với những cụm mây đen xa xa cũng đủ tỏ dấu hiệu mùa mưa đang đến. Phía rừng Bình Tuy này, thiên hạ còn lo dồn hết công sức dọn nhũng cái rẫy mới đốt để đón những hạt mưa đầu mùa.

    Bạn làm rừng cùng xã với tôi đang hả hê với những mẫu đất mới, mun tro mới, khi bao cây cành lá khô đều cháy gọn hết sạch. Những tính toán "cũng mới" cho vụ bắp và lúa sắp tới .  Những khuôn mặt lem luốc bụi tro, không dấu được nét tin vui, yêu đời khi khi họ tin rằng mùa tới sẽ bội thu. Làm sao người nông dân QT ở vùng này không mà nao nức cho được? Những hạt bắp no tròn, óng ả sau khi bóc lớp vỏ lụa tươi xanh, những nhánh lúa rẫy nặng hạt, từ nước trời tưới xuống ban bố trên đám mun tro đám đất mới đốt dọn...Mưa xuống, trận mưa đầu mùa là lộc trời. Mưa đầu mùa càng lớn chừng nào thì ấm no tới nhiều cho người thôn chúng tôi chừng nó. Những ước ao mong đợi nay đã được đáp đền. Từng tia chớp vang trời, mây đen ngùn ngụt dâng lên từ hướng ngọn Mây Tào, Long Khánh đó là tiếng vọng và hình ảnh của mừng vui.

***

  Riêng mình tôi lại buồn do rẫy tôi đã bị 'đốt luộc' sớm hơn rẫy họ gần hai tháng trời. 

 Bạn đọc sẽ hiểu tại sao tôi BUỒN và "rẫy luộc" là gì ?

  Sau thời gian đi "đường biên", nghĩa là tôi phát hai lối nhỏ là hai cạnh song song nhau, coi như là "giành phần" mình trước khi chính thức chặt hạ . Non mẫu rừng này, một mình tôi nếu làm xong là cả một "gia tài". Tiếp đến những ngày phát luồng tức là rong cây nhỏ khỏi vướng bận khi chặt hạ cây lớn.  Thêm một ngày qua đi là thêm nhiều cây rừng ngã rạp, cái mẫu rẫy "tương lai" càng lúc càng lộ rõ dưới ánh sáng mặt trời.


  Làm rẫy là vậy, chẳng có luật lệ nào. Người dân quê tự thỏa ước với nhau để tạo ra lệ, một thứ "luật rừng" đúng nghĩa của nó , cùng thực tế như thúng lúa, mớ bắp làm ra từ rừng vậy thôi. Ai cũng lo dành phần đất rừng trước. Nhà đông người thì họ khoanh vùng rộng hơn. Có khi người ta vì lòng tham chỉ phát luồng cho có đường biên thật rộng, nhưng cái lõm rừng quá rộng ở giữa họ chỉ để dành thôi. Đây là trường hợp của những "cái bụng tham lam ", mấy kẻ này không được lòng trong thôn xóm lắm.

Trở lại chuyện của tôi, số làm rẫy thuộc loại "tơ -lơ- mơ" búa không ra búa rìu không ra rìu , ì ạch hạ xong những cây lớn mới là "chiến công hiển hách" đối với tôi. 


Hình như bạn đọc còn nhớ trong những bài ký ức trước tôi hay nhắc đến điếu thuốc rê và cuộc đời làm rẫy? Đúng vậy, mỗi lần "hạ" xong một cây lớn là tôi vấn một điếu thuốc rê "to đùng", đứng dạng chân hút phì phèo , ngắm trời nhìn đất khoái trá vô cùng.


BỊ MẤT PHẦN CƠM TRƯA 




  KỶ NIỆM xót xa khi mồ hôi nhể nhại cho tháng ngày trong rẫy chưa đáng nói bằng sự chua chát khi bị ĂN TRỘM PHẦN TRƯA tôi bới theo khi lúc vào rừng. 


  Tiếp tục phát cái rẫy năm đó gần xong. Một bữa trưa sau khi gắng phát xong một đường luồng tôi lui lại lùm cây vói tay lấy cái bao cát đựng cơm trưa thì nó "không cánh mà bay mất" ! Một thoáng lạnh người ,
  
-lấy chi ăn mần tiếp chiều ni hè?
  -đứa mô chơi ác thu (dấu) của miềng rồi?

  Tôi ngó quanh, cố tin rằng thằng bạn nào gần tôi tìm cách dấu nó để chọc tôi cho vui thôi. Càng tìm tôi càng không thấy gì. 
Tôi cố tin hình ảnh cái bao cát ny lon xanh của  Mỹ , treo tòn teng đâu đó. 

     Thất vọng...b
uồn!

 Thế là 
tôi bị trộm phần ăn trưa rồi ! Một nỗi đắng cay len lén dâng lên trong tôi. Những con người đói khổ, họ sẵn sàng trộm bất cứ cái gì dù biết rằng đó là phần trưa người khác - cùng khổ cùng bạn làm rừng như họ. 

  Tôi không còn nhớ rõ cảm giác của tôi lúc đó ra sao ? Giận , buồn, bực bội hay thuơng xót cho những người "cùng khổ"?

 Chuyện đáng nhớ là tôi không tiếc phần cơm mà tiếc cái "lon gô", cái muỗng i -nốc (inoxidable -không sét) của Mỹ, hai thứ tôi rất quý, vào thời đó làm gì kiếm ra? 


  Thế là tôi phải dọn dẹp về sớm , mất tiêu buổi làm chiều. Còn may, chiếc xe đạp thồ dấu trong bụi rậm không mất.


Rẫy của tôi bị Luộc -  ĐÓ LÀ SỰ TRẢ THÙ CỦA THẰNG HAI CHÀM 



                                         CÂY DẦU
   

   Một ngày khi những cây cuối cùng sắp chặt hạ gần hết. Tuy vậy, đám rẫy chưa hẳn là khô dòn để đốt. Đang cắm cụi phát nhành cây vương trên gốc dầu cao, bỗng phía sau xa tôi nghe tiếng lửa cháy răng rắc và làn khói xanh bốc lên cao dần...

   -Chết cha! lửa !lửa! hình như rẫy miềng!?

  
 Tôi phóng nhanh thối lui phía sau. 

  Thôi đúng rồi!

 Ngọn lửa bốc lên từ đằng cái khe nhỏ nơi những thợ săn Tân Thắng hay men theo. Nơi  đó cũng là điểm đầu của cái rẫy mới của tôi gỗ lá khá khô. Lữa và khói bốc lên càng lúc càng cao. Ngọn lửa càng lúc càng hừng hực cháy pha lẫn tiếng nổ lốp bốp của cành lá còn tươi càng lúc càng dồn dập. Tôi chỉ còn nước tìm chỗ chiếc xe thồ kéo nó ra khỏi bụi cây, quên luôn chuyện gai góc , tìm đường thoát... 

-Bọn nó đốt rồi, đúng bọn thợ săn Tân Thắng rồi! 


nghề lấy dầu rái 
 
Mối thù hằn giữa nông dân QT đi phát rẫy làm rừng gia tăng càng lúc càng cao với nhóm thợ săn kiếm nghề lấy dầu. Những cánh rừng bạt ngàn của Hàm Tân, nơi vô số cây dầu sản xuất ra loại dầu rái đi ghe và nghề làm biển đang cần. 
Dầu rái là thứ bôi cho ghe thuyền khỏi mục là những thứ nghề đi biển. La Gi là thị trấn biển ghe thuyền khá đông nên có nhu cầu về dầu rái. Đây là sinh kế của nhóm thợ rừng xã Tân Thắng.  Họ không là người Quảng Trị, phần nhiều là con cái người Chăm dân bản địa Bình Thuận Phan Thiết bao đời nay. Thợ lấy dầu này họ không phá rừng trồng bắp lúa vốn liếng sinh nhai của họ nằm ở những cây dầu, nơi mà tự  nguyện chia vùng với nhau lần lượt đi lấy dầu về bán thôi. Nghề làm rẫy đã đốt phá, chặt hạ, cưa gỗ biết bao nhiêu cây dầu? Rẫy đồng bào QT càng nhiều, đất bạch hóa càng tăng và những cây dầu, mạch sống những thợ rừng kia, cũng biến mất, và sau cùng là sự gia tăng lòng căm ghét từ những người bị mất nguồn sống.



Họ đốt "rẫy non" cho bỏ ghét. Họ muốn trả thù, trong đó tôi là một nạn nhân. Dù sao, ngang đây bạn đọc chắc chưa hiểu tường tận hết sự trả thù ra sao?

  Ngày hôm sau tôi lên rừng sớm để biết tình trạng rẫy mình. Bạn làm rẫy cho biết thằng Hai Chàm nó đốt rẫy của tôi chứ không ai khác. Thằng Hai Chàm ở Tân Thắng, nó "một mình một ngựa" từng thề sẽ trả thù cho cái nghề lấy dầu rái của họ bị "mất cơm". Dĩ nhiên 'thủ phạm' đốt cây dầu của những thợ lấy dầu này là người làm rẫy chứ ai vào đây nữa ?


Những vết nứt trong lòng bàn tay không có thì giờ lành hẳn. Đau lưng mỏi gối mới có một mẫu rừng mới như hôm đó. Thế mà chỉ một 'mồi lửa' thằng Hai Chàm đã trả hận và tôi là kẻ khổ đau của một sự thù hằn đến từ chén cơm manh áo.


Hai Chàm... rõ ràng tôi chỉ nghe tên chứ không hề biết mặt. Dù sao cái tên đó cũng chứng tỏ họ không là người QT mà là người sắc tộc.

  Bỏ thì thuơng, vương thì tội

 thế là tôi tiếp tục phải dọn sớm cái "rẫy luộc", cành ngọn cháy không hoàn toàn, nham nhở, phải tốn công gấp bốn năm lần khi dọn rẫy cháy đúng thời lúc cây cành khô róm. Đã thế, khi đã "cháy luộc" thì càng ít mun tro, như vậy đất không thể nào tốt để gieo hột được. Đó là tại sao có bạn rừng gặp rẫy bị "luộc" họ đành bỏ đi, không làm nữa.

  Một mùa "thu hoạch" cái "rẫy" khổ nạn đó, tôi chỉ còn vài gánh dưa, hơn chục thúng lúa, vài ký đậu xanh ... chẳng đủ vốn -công "cơm đùm gạo bới" của vợ tôi giúp chồng vào rẫy, làm rừng, bao ước vọng tính toán của hai vợ chồng nay chẳng còn chi. Thu hoạch từ đám đất rẫy bị luộc 'khổ đau' đã ít. Ngày đem chục thúng lúa rừng về lại mưa to gió lớn. Nhớ làm sao hình ảnh đáng thương cho mấy đứa em vợ...nước lũ dâng mau, hai đứa em vợ không ngại nguy nan đội từng bao lúa trên đầu lội qua dòng nước chảy xiết chỉ còn bao lúa và cái đầu lặn hụp nhô lên dòng chảy... Cám ơn trời phật, qua được dòng nước lũ tôi và hai đứa em vợ- cậu Lô cậu Lu bình an vô sự. Người anh rể như tôi mang được cái xe đạp thồ qua suối là may lắm rồi.

Thu hoạch xong. Tạm gọi là thu hoạch, một mùa rẫy nói như phần trên là "không ra cơm cháo gì", tôi vẫn lên thăm lại cái rẫy đáng buồn đó. Ngắm lại những thân cây dài thườn thượt không cháy được vẫn choán hết diện tích cái rẫy, lòng tôi buồn làm sao? 

Cho đến một ngày? 

Vâng đúng vậy thưa bạn đọc, cho đến một ngày đứa em vợ tôi đi 'nghĩa vụ' bên Cambodge về. Cậu nó vô nghề vô nghiệp không lương không lá chi sau ngày mãn nhiệm vụ. Trần thiên Danh đã cặm cụi cùng anh rể vào lại đám rẫy đó, cưa hết những thân cây này đốt lại thành than vụn. Hai anh em hì hục đem về bán được mớ tiền khiêm tốn do than không đẹp bằng nghề đốt than chuyên nghiệp. 
                                                     ***
  Đót phá rẫy người khác chưa khô đó là sự 'trả thù giữa người và người' khi tranh nhau nguồn sống của rừng thiêngNgười làm rẫy ngoài đổ mồ hôi công sức mẻ rìu hư rựa còn nỗi lo nơm nớp sợ bị phá hoại bị trả thù. Những phận người tranh nhau nguồn sống từ những đám rừng thâm u nói trên. Con người còn giành giựt "quê hương" của muôn thú lại còn thêm nỗi sợ trả thù của thiên nhiên khi lo chống chọi lại sự phá hoại của thú rừng chim muông nữa.  Bầy thú hoang tinh quái lắm , chúng chỉ đợi những lúc rẫy có được cái ăn là xuât hiện.  Nào khỉ bẻ bắp, nào heo rừng ủi trốc sắn, khoai. Tôi kể đến sự phá hoại của mấy bầy keo xanh ,từng bầy cũng phá bắp không kém khỉ ; một bầy keo bay sà xuống thì khung cảnh chắc khác gì   'máy bay oanh tạc' ! Những trái bắp năng tròn trong phút chốc bị những cái mỏ khoắm xé toạc rách nát tơi bời trông đến 'nhức mắt , nát lòng'   . Những con sóc 'bí hiểm' chẳng kém, bao trái dưa lấy hạt đến hồi chín đều bị chúng moi ăn hột .

                                  
Thế là bà con dân làng vô làm chòi coi rẫy. Đêm đêm tiếng phèng la, tiếng mõ cóc cóc, cái gì gõ được đều đem ra chòi 

.
 Cánh rừng tĩnh mịch ban đêm , mùa rẫy thuờng bị khuấy động từ bao âm thanh:

   -huầy huầy 

    -ơi ơi ơi !!! cóc , cóc, phèng phèng ..

Tất cả cộng lại, tạo thành một tạp âm LẠ LÙNG MA QUÁI  hay có thể là một KHÚC "NHẠC RỪNG KHUYA".


Rừng khuya, người và thú canh nhau, rình rập từng giây phút. 
Dù ngày hay đêm, nhất là đêm về con người phải canh chừng để giữ cho được miếng ăn. Nguồn sống giữa rừng hoang chính đó là mồ hôi hòa chen nước mắt sau bao lần cây rừng ngã gục, lửa hừng hực cháy,  rồi mun tro...

  Tôi muốn nhắm mắt lại để trí nhớ khơi lại bao hình ảnh, âm thanh ngày đó ra sao? Đúng thật, như một khúc NHẠC RỪNG quay lại, đó chính là những miếng rẫy đượm bao kỷ niệm chua cay, rơm rớm u buồn khiến mỗi lần bưng chén cơm lên, tôi càng thêm trân trọng "hạt ngoc trời ban" ./.


DHL 11/10/2014

edition mùa Dịch Covid-19 
28/3/ 2021 USA
 

 40 NĂM SAU, 2021 tại xã Tân Xuân - Sơn Mỹ (Hàm Tân) mới  đều thấy trải rộng một màu xanh của mì hai bên đường, bạt ngàn tít tắp như lấn át những vườn keo non.  hình rẫy của Anh Trương Văn Đồng, một chủ trang trại nông nghiệp đươc lên mặt báo Vietlinh.vietnam


           đường qua xã Sơn Mỹ năm 2021

Sunday, December 1, 2024

ĐA TẠ TÌNH DÂN

 

Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng.

Ngày nao súng phải lạnh lùng

Nắng hạ vàng rưng rưng mây trắng...

(Anh Việt Thu) 



Tam Quan 1974

    Chiếc xe chạy suốt Phi Long đậu nối tiếp vào đoàn xe đang tắt nghẽn bên này cầu Tam Quan rồi tắt máy hẳn. Tiếng lao xao đầu nhỏ sau lớn dần:

      -Cầu sập rồi, mới hồi hôm?

     - Mẹ nó,  dzậy là phải 'tăng -po" (transport) rồi?

Ông tài xế xuống trước tiên:

      -Thôi chịu bà con à, mời bà con qua bên kia cầu có xe Phi Long chờ, ai giữ lấy vé và số ghế y cũ và nhớ lấy hành lý của mình nghe bà con?

Đa số khách đi là thường dân, họ thúc thủ bước xuống chấp nhận rủi ro. Chuyện cầu bị 'giải phóng' giật sập trong thời chiến này nghe như cơm bữa, họ chỉ mong qua được cầu có xe Phi Long tiếp chuyển bên kia. 

      -Có đò ngang dưới kia đưa bà con qua, nhớ xe đề Phi Long nghe bà con.

Người tài xế nhắc nhở hành khách trong xe mình một lần chót, mặt ông tài không biết buồn hay vui?  gần hết năm rồi gần qua năm mới đón tết tây 1975 nhưng làm ăn vẫn không yên theo chuyện cầu sập do mìn? 

Khách không dám phàn nàn, họ biết đang di chuyển qua vùng 'mất an ninh' nên phải coi chừng cái miệng?


một chiếc xe đò Nam Lộc 


Hành khách dù già trẻ gì đều là dân thường.  Phần nhiều đều nói giọng Quảng Nam hay Bình Định. Họ chú ý đến một ông lính thật trẻ: thời buổi này dám bận đồ nhà binh đi xe hàng? Điều đặc biệt trên cổ áo lại còn mang hai cái lon chuẩn uý?

      -Sao chuẩn uý lại bận đồ nhà binh dzậy?

Một người đàn ông bận cái vét trắng, ông quàng bên vai cái xắc đen, mang kính cận. Ông có vẻ là một nhà báo hay nghề nghiệp dân sự nào đó? ông ta hỏi ngay người sĩ quan trẻ đang bộ bận bồ đồ lính màu xanh ô liu kia.

      -Thưa ông, tôi mới có phép ngoài Quảng Trị vội vô ngay Đà Nẵng mua vé xe Phi Long đi ngay vô SG ông à.

      -Ôi! ôi! anh không biết vùng này mất an ninh lắm không? "Họ' vừa làm sập cầu hồi khuya, người dân đưa đò ngang dưới sông này là trong làng người "bên kia' cả đó anh biết không? 

Ông nói nhanh vừa ái ngại nhìn người chuẩn uý trẻ, anh ta dáng người ôm ốm lỏng khỏng, da mặt xanh xao có vẻ mới qua cơn bệnh nào đó, giờ nghe ông nói chợt xanh hơn.

Mấy bà già vài cô chú đi cạnh ông bận áo vét kia nghe vậy lắc đầu lo lắng giùm. Họ đi sát vào hai người cho màu áo lính của anh  được khuất vào giữa đám đông dân thường đang bước thấp bước cao xuống bờ sông.

        -Đi mau giữa chúng tôi, chuẩn uý... rùng người thấp xuống?

Ông bận áo vét nói xong, mấy ông già và đám nói trên không ai bảo ai đều áp sát vào anh lính trẻ cho anh đi giữa.


    -"Họ" đó, mấy người lái đò kia đều là 'du kích' cả tui biết mà.

Ông già có bộ râu bạc, nói nhỏ giọng đi cho anh lính và ông bận cái vét trắng vừa đủ nghe. Bộ râu trắng của ông rung rung không biết vì gió hay vì lo sợ?

Một chú trung niên dáng nông dân tiếp lời ông già:

      -Tuần trước một dzụ trong Cầu Bồng Sơn, công binh mới sửa cầu xong giờ cái này. Cũng may là cầu này nhỏ, sông qua bên kia chỉ chút xíu à!

Có khoảng năm con đò ngang rộn ràng đưa người qua lại. Con sông khá nhỏ, nước đục ngầu không biết do phù sa hay đò quậy nước nhiều. Những người bận quần đùi đội nón lá, nam có nữ có. Họ im lìm làm việc. Lạ một điều khách không lo chuyện tiền đò do lái xe lo liệu. Một điều rất lạ không thấy một bóng người lính nào giữ an ninh trên hai múi cầu vừa bị mìn hôm qua?

Người khách trên chuyến xe Phi Long này chẳng còn thì giờ hỏi han anh lính ngoài kia Quảng Trị mới vào đây. Anh chàng tuy mang áo lính nhưng trên khuôn mặt kia còn phảng phất nét non nớt thư sinh. Nghĩ cũng có lý, nếu không 'non nớt thư sinh" sao dám 'xâm mình' bận đồ lính đi xe đò thế này?

     -Hú hồn...

Bà con vẫn để anh đi giữa cho đến cửa xe chiếc Phi Long chờ bên kia sông. Khi anh lọt vào xe xong họ mới lo cho mình, lục đục bỏ đồ lại lên xe tìm số ghế...

Nghe giọng anh nói  bà con trong xe tin chắc anh "ngoài kia" mới vô. Bà con biết Quảng Trị nhất là từ năm kia sau cái vụ "Mùa Hè Đỏ Lửa" và "Đại Lộ Kinh Hoàng" người dân mấy tỉnh từ Quảng Nam cho đến Quảng Ngãi cho đến Bình Định ai mà không hay? Người Quảng Trị vô Đà Nẵng mấy năm này đông quá đi đâu họ cũng gặp cũng nghe cái giọng giống anh.

Thời chiến tranh, đường xe lửa dẹp từ khuya, chỉ còn mấy chiếc xe đò Nam Lộc, Phi Long còn 'gồng' mình chạy suốt Sài Gòn -Đà Nẵng. Chuyện "tăng po' xem như 'cơm bữa" chỉ mong ông trời phò hộ cho khỏi bị mìn du kích? Nhưng người dân chỉ còn một thứ phương tiện là xe hàng. Máy bay là chuyện hiếm hoi chẳng ai nghĩ đến?



một chiếc xe đò Tiến Lực bên múi cầu Truồi   1969


Bà con trên chuyến xe không ai bảo ai đều thương và muốn bảo vệ cho anh lính trẻ. Khi nhìn nét mặt trẻ măng kia có thể họ nghĩ tới hình ảnh con em họ: một thời chiến chinh, biết bao người phải "gác bút nghiên" đi vào cuộc chiến? 

Ông khách bận vét trắng giờ mới có thì giờ lau lại cặp kính. Là người Đà Nẵng, Ông không lạ gì người Quảng Trị mấy năm nay trú ngụ rất đông tại Hoà Khánh và Non Nước hai căn cứ quân đội và phi trường cũ. Con ông cũng vào lính, lâu lắm mới có chuyến phép về thăm nhà tại Đà Nẵng. 

Hai người nói chuyện qua lại với nhau. Anh lính trẻ cho ông khách đó hay, do mấy tháng bị sốt liên miên, anh được về nằm ngót hai tháng tại bệnh xá Tiểu Khu QT. Hết  sốt, cầm trên tay tờ phép thường niên mười lăm ngày đầu tiên trong đời anh vội đi ngay vào nam. Bà con anh đã vô hết Bình Tuy. Anh còn đi xa hơn:vô tới Sài Gòn để về Mỹ Tho do gia đình đã chạy giặc 1972, tá túc vô tận trong đó. 

Có thể anh lính này thuộc loại 'điếc không sợ súng", liều lĩnh?  Chẳng phải thế, di nơi anh phục vụ là tỉnh ngoài cùng, chẳng có phương tiện nào trong vấn đề quân vận để xin đi. Thật ra chẳng để phí mười lăm ngày phép chờ đợi và cuối cùng không quen biết ai để xin đi theo các chuyến bay quân vận trong Huế để vào nam cho nó an toàn? 


Chẳng ai hay và chỉ có anh biết, nằm bệnh xong, cầm tờ giấy phép của Tiểu Khu cấp trong tay anh chẳng có gì ngoài cái ba- lô trống rỗng và một bộ đồ lính trong người...



Một Mùa Hè Đỏ Lửa khi bà con, gia đình, tất cả đều ra đi. Một phương nam xa vời và hôm nay anh đang hướng về đó.  Một con đường quê hương đầy bom mìn và sụp đổ nhưng anh lính trẻ kia trong một ngày cuối năm Một-Chín-Bảy- Tư anh còn một may mắn trong đời: đó là lúc anh được  đi giữa lòng đồng bào và được chở che. Những lứa trai lần lượt ra đi trong thời loạn lạc. Những đợi mong, nhung nhớ từ người nhà đến những đứa con phải ra tiền tuyến, cách biệt với người thân nay là hình ảnh chân thành thể hiện trong cùng một chuyến xe.

   Thời gian phôi pha qua bao thăng trầm dân tộc, còn sống, còn hướng về quê hương người lính năm xưa vẫn nhớ mãi hình ảnh chuyến xe đò vô nam đầy ắp tình nghĩa đồng bào.  Những ngày dài chinh chiến trên đất mẹ thương yêu, vẫn còn bao tấm lòng rộng mở, những bàn tay nhân ái của những người mẹ người chị đáng cho anh lính trẻ Đa Tạ suốt đời./.


KÝ ỨC edit


BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...