Wednesday, February 14, 2024

HÔM NAY LÀ NGÀY VALENTINE

VỀ BÀ XÃ TÔI 



  Nói vi ch ÂN thiết tưởng chúng ta hân hnh được đc nhiu bài viết rng rãi trên sách báo và các trang mng. Vi tính cách góp ý, tôi mo mui đưa thêm mt ch ÂN rt gn gũi và thiết thc cho mi người, thiết nghĩ không biết có nên không? đó là ân nghĩa v chng. 



  Nghĩ cho cùng sau nh
ng cái ân có tính kinh đin mà đo đc Khng Mnh vun bi cho con người Á Đông thì Ân Nghĩa v chng nó cũng nng và thâm thúy lm. Với tm lòng biết ơn, chúng ta cùng nhau đ cao ân nghĩa v đo v chng trong vô vàn s biết ơn khác. 


  Cùng nh
li, cân nhc bao tình cm hay ân nghĩa nng nh trong đi: khi ta đói kh thì ai là người chu chung cnh ng vi ta? chính là V HAY CHNG .Lúc hon nn ai là người "lóc tht ct da" hay "đng mũi chu sào"? trước cũng là VƠ hay Chng.


  N
ếu đo xưa nói " bt hiếu hu tam, vô hu vi đi" thì ai là người chín tháng cưu mang , hao mòn thân xác, đ cho ta con cái ni dõi chính là người phi ngu cho ta. Ai buôn gánh bán bưng, thc khuya dy sm to tn nuôi con ta ln lên vi đi cũng do công lao v hin ; đây là nhng ân nghĩa thc tế nht cho ta ghi nhn. Đó là chưa k cái ơn dìu du t nhng câu châm ngôn mang nng tính Vit tc như "sng gi nc thác gi xương "-nhng ngày trên đi thân xác này cũng thuc v chng, đến phút ra đi cũng bên chng , phn người con gái Á Đông khi ra đi ly chng là thế.  Đó là ý nghĩa cm đng biết bao khi thân phn n nhi, " quê cha thì b quê chng thì theo " nó không nng n ép buc như " ti gia tòng ph,  phu t tòng t " nhưng s dìu dt tình cm cùng s rung đng ca tâm hn chúng ta, nht là các đng phu quân, ng ra cái ân nghĩa trong đo v chng ca văn hóa VN. 

                             thân cò ln li b sông

 Mui ba năm mui đang còn mn,
Gng chín tháng gng hãy còn cay.
Đôi ta nghĩa nng tình dày,
Còn xa nhau đi na, cũng ba vn sáu ngàn ngày mi xa.
 [ca dao ]

    

   Chúng ta không làm l đo v chng ca Khng Giáo có phn ít bàn hơn vì ch đt trng tâm vào Tam Cương Ngũ Thung. Nhưng khi xã hi phát trin, vượt qua  thi đi phong kiến mt thi đi mà thiên t là đng chí tôn (Tam Cương ), tình cm con người thung tp trung vào phm vi gia đình hơn; đây là chuyn thc tế, nht là khi xã hi chu nng v văn hóa Tây phương.

    Th
t vy, tình cm v chng ngoài đo hiếu vi cha m t tiên ra, còn mt dng nghĩa ân hàm cha ý nghĩa ca đo đc là đo v chng; là tình cm gn gũi nht, thiết thc nht trong kiếp nhân sinh. Khách quan mà nhìn, đó chng qua là s phát trin thi đi văn hóa ca Khng T ngang đó khi chế đ xã hi còn trng nam khinh n hay đa thê, tam cung lc vin v v..nhưng vào văn hóa Lc Vit là "gng cay mui mn"  nó thâm thúy li càng nhân bn biết bao. 




Đó là ch
ưa k bàng bc trong kho tàng văn chương truyn khu Vit Tc nhng câu như

   "chàng ơi ph thiếp làm chi?
Thi
ếp là cơm ngui đ khi đói lòng "

hay 

"
đói lòng ăn na trái sim
u
ng lưng bát nước lên non tìm chng"


Dù có ph phàng nhưng cái nghĩa v chng vn nng, người v vn c tìm cho ra chng qua bao ghnh thác gian nan, mt trái sim cũng ct mt na, miếng nước cũng dành mt na cho chng. Cm đng làm sao khi hình dung cái cnh hàn vi, no đói có nhau, nghĩa "tao khang" là vậy. Và dù 'râu tôm nấu với ruột bầu' chồng vợ bên nhau những ngày gian khổ, chia ngọt, xẻ bùi thấm thía làm sao với tình chồng nghĩa vợ.



Ðôi ta là nghĩa tao khang
Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau...

 

Thiết tưởng, ân nghĩa v chng trong văn hóa Vit, dung d nhưng thâm trm theo cung cách "gng cay mui mn", lan tri theo chiu dài lch s đt nước mà văn hóa Trung Hoa khó tìm. Chúng ta khó tìm trong văn hoá Trung Hoa giai do quan nim "trng nam khi nữ", quan nim thn phc mt chiu đã đóng khung mt cách cng nhc, nô lệ về thân phn ph n, ngàn năm ăn sâu trong xã hi nước họ.

 
Khi đt Vit lâm vào cnh bin dâu, cuc thế đi di, biết bao gương tiết ph trung trinh, "thân cò ln li" qua bao thác ghnh thay chng nuôi con, hu h cha m chng cc kh xiết bao!  cũng là gương sáng đ cao thêm cái nghĩa v chng cho người đàn bà nước Vit.



  Ngay trong t
đin Tây phương ch ĐO V CHNG có th dùng 'devoir conjugal' ; nhưng khi dùng ch NGHĨA V CHNG thiết nghĩ chưa t nào phù hp ...? 

Ân càng n
ng, nghĩa thêm sâu, đo v chng trong văn hoá Vit càng nhiu câu chuyn đáng cho người đi trân trng và biết ơn. Trong tinh thn Ngày Valentine, người viết xin mo mui góp thêm đôi li thô thin ./.

Đinh Hoa Lư 
Valentine & edit 24/2/2024 




 

ÔN CÓC XÃ SƠN MỸ và MỘTTHỜI NGĂN SÔNG CẤM CHỢ

 




hình ảnh này mượn trên Internet, chỉ có tính minh họa mà thôi

*
  


   Thường ngày    trên mấy chuyến xe hàng  từ Hàm Tân lên Đức Linh hay từ Đức Linh về, khách đi không lạ gì "Ôôn Cóc". Cái tên nghe lạ tai nhưng cũng có nguyên cớ của nó.  Tuy mất cả hai chân nhưng nhờ sức mạnh hai tay nên gã phóng nhanh lên đúng   phong phóc lên sàn chiếc xe hàng không chút sơ sẩy. Có ai đứng mà trông cái cảnh đó thì trông chẳng khác chi hình ảnh một con cóc đang nhảy.

   Tật nguyền như thế nhưng ông ta
 là người khách thường trực của tuyến xe Hàm Tân- Đức Linh. Nói đến đi lại thời đó, ai cũng nhớ xe cộ quả là thứ hiếm hoi. Vào thời buổi NGĂN SÔNG CẤM CHỢ, đi lại thiếu xe, nhưng người khách khác lạ này lại hay có mặt trên mấy chuyến xe hàng mới là điều khác thường ?

 Bạn đọc chắc hẳn còn nhớ, muốn đi đâu xa, trước tiên phải gõ cửa Công An. Ai cũng mong xin cho ra tờ Giấy Đi Lại.  

Một thời trên vạn nẻo đường quê hương đều thiếu phương tiện. Khó khăn làm sao cho mấy cái vé xe tại Bến Lagi! Vé thì ít, lại phải  ưu tiên một, hai cho cán bộ, cho hưu trí, phục viên... đủ thứ,  phần còn cho dân thì vé chỉ còn vài cái.

HẾT VÉ THÌ ĐI 'CHUI', CỨ LÊN XE, VÉ NƠI MIỆNG TA TRẢ GIÁ
người ta nói "chuyện thường ngày ở Huyện..." có thể nói như trên. Người dân phải biết phận mình. Cái điệp khúc thiếu vé, chờ đợi, xin xỏ van nài chi rồi nó cũng quen dần trở thành một cái lệ 'bất thành văn'. Nói cho dễ hiểu hay thời sự hơn đi lại khó khăn là một trong hàng vạn cái khó khăn đương thời, đó là "chuyện thường ngày của Huyện" một thành ngữ của cái thời bao cấp "quỷ tha ma bắt" đáng nguyền rủa trên.

o..o đến phiên tui o ?
cái thời "THỦ KHO TO HƠN THỦ TRƯỞNG"

   Đi lại thì ít xe, mua bán thì NGĂN SÔNG CẤM CHỢ. Hình ảnh mấy ôn du kích hay quản lý thị trường một thời là 'hung thần' cho những ai mang danh là "con buôn" hay vận chuyển nông phẩm từ vùng này sang vùng khác Ai cũng khát khao hạt gạo, ký đường, chút dầu hay tấc vải che thân... Mọi thứ đều thiếu, hiếm, tiêu chuẩn...khó quên câu: 

 THỦ KHO TO HƠN THỦ TRƯỞNG

 Đó là một sự thật 'trần truồng'  trong một xã hội TEM PHIẾU làm đầu.

*

 NHƯNG BÀ CON CHỚ COI THƯỜNG Ôôn 'CÓC' KHI HIỂU RA CÁCH  GàCÓ "CƠM TRẮNG CÁ TƯƠI"

 Đi lại khó khăn, thế mà Ôôn "Cóc" lại luôn có mặt trên mấy chiếc xe hàng Hàm Tân-Đức Linh mới hay?

 Làm sao mà  gã leo lên xe? Thế mà chỉ "vụt" một cái, hai cánh tay khỏe mạnh đã đưa cái thân mình cụt ngủn lên sàn xe nhanh  'hơn sóc'?  Ai trong xe cũng khen,ông ta giỏi.  Người khách bất hạnh đó chẳng bao giờ giành ghế của ai, gã biết thủ phận thu mình ở một góc sàn xe, lổ đổ rác rưới. Khách ngồi trên ai cũng thương hại cho gã. Lơ xe chẳng màng hỏi han, hắn đã quen thuộc cái bản mặt 'ù lì' của người khách này rồi. Lúc thu tiền xe, gã chỉ biết đưa mấy chiếc răng vàng khè ra cười... thế là xong chuyện!?

Đẩy ông ta xuống ư? Chuyện này quá ác, ai làm? Hay là đem ông ta vô Công An? Thôi thôi rắc rối, CA đâu lo chuyện này? Chú tài xế và lơ xe nhiều lần cầu an làm thinh cho qua chuyện. Chẳng mất mát chi bao nhiêu? thôi cho Ôôn một góc trên xe, không ai muốn làm chuyện ác nhân thất đức lại mong xe đi mau qua trạm. 

 Đó là lúc ĐI. Độ hai hôm sau trên chuyến VỀ, 
Ôôn "Cóc" còn đèo thêm hai cái "ruột tượng" đựng đầy gạo.
 
Ôôn "Cóc" ba hoa:

-Bà Con Cho! 

Bà con cho sao cứ cho hoài? Bà con nào? Ai tin?

Khách trên xe tạm thời tin lời gã nói. Cứ cho là gã nói THẬT đi. Gã lên Đức Linh "kiếm ăn".  Tàn tật thế, làm gì cuốc đất làm nông cho được? Phải đi xin bà con thôi? 


qua trạm quản lý thị trường Lán Gòn, xe sẽ ngang cầu Suối Đó trước khi về thị xã La Gi

    

Xe qua Tân Hà, Tà Mon ngang trạm Lán Gòn, cái trạm người đi buôn Hàm Tân đặt cho cái biệt hiệu 'Láng cón'. Đây là điểm mà bao nhiêu 'trái tim' trên chuyến xe về (cũng như đi) hồi hộp, lo lắng, nhưng  ông "Cóc" thì 'tỉnh bơ"!

 Mấy người cán bộ Quản Lý Thị Trường chẳng ai 'thèm' hỏi chi về hai cái 'ruột tượng' gạo mà người cụt chân đang ngồi đè lên.
 
Gã 'đi xin bà con về ăn"- nói vậy thì bà con hay mấy chú du kích gắng mà 'tin' vậy. Rồi chẳng ai làm khó ông ta chút nào. "Cùi không sợ lở", ai dám đụng 'vị khách' này xem nào? tiền xe ư? Ông ta lần nữa, nhe hai hàm răng ra cười là xong!

Chuyến về lại Bến Lagi, hình ảnh lạ lùng đập vào mắt người khách lạ nào mới tới. Khi xuống, con người mất chân này
 chẳng nhờ ai. Chỉ dùng hai bàn tay, gã nâng người lên và phóng xuống. Hai cái ruột tượng gạo thì đứa lơ quăng giúp cho.

 Móc xong hai xắc gạo lên hai vai, gã tiếp tục dùng hai cánh tay di chuyển thân mình nhanh thoăn thoắt hướng về chiếc xe lambro  đang đợi khách lên Xã Sơn Mỹ...

*

Kể ngang đây, người viết tin bạn đọc hiểu ra tại sao ông ta
 được đặt tên là  "CÓC". Rõ ràng,  con người này phóng đi chẳng khác chi "con cóc", nhất là lúc lên và xuống xe hàng.

   nhớ một thời 'xe than'


 Mấy chiếc xe Lambro đời cũ lên Sơn Mỹ hay bị vạ oan do Ôôn 'Cóc' "đi chùa". 

Sao mà "chùa"? Do gã đi mà chẳng tốn đồng nào? 

Sao mà bị vạ oan?

Người viết xin giải thích:

Mấy chuyến xe hàng chạy than Hàm Tân- Đức Linh tuy bị ông ta 'đi chùa' không trả tiền lần nào nhưng còn 'vớt vát' nhờ đông khách. Đa phần khách đi vé "chợ đen" xe hàng còn 'kiếm chác' được. Mấy chiếc xe Lambro đời cũ lên- về Sơn Mỹ hay bị mất tiền xe  do ông chuyên xin đi nhờ? 

ngày đó chiếc xe lam hàng ngày từ LaGi phải leo con dốc đấy đất cát để lên lại xã Sơn Mỹ 


   Bạn đọc có thể cảm thông nếu nhớ ra xe lambro chỉ chở được hơn mười người khách thôi. Ôôn "Cóc" lọt thỏm vào trong sàn xe ngồi ngó ra nhưng chú tài chưa bao giờ dám đòi tiền. Không phải vì sợ ông, mà do chú lái xe lam NỂ tình bà con thôn xóm. Người quê mình nặng tình làng nước.  Ai nỡ đòi tiền con người tàn tật lại là người quen biết trong làng? 

Tiếng chiếc xe lambro cũ kỹ kêu bành bạch. Rồi nó gầm rú lên cho được con dốc Sơn Mỹ. Tiếng  máy nghe 'thảm thiết' làm sao!

 "rột rạt, leng keng"... hơn mười mấy người trong xe nín thở. Ai cũng có cảm tưởng chiếc xe ba bánh đến hồi 'rã rời' máy móc đến nơi?! 

Chiếc xe lam leo dốc lâu chừng nào thì chú Đỉnh, người tài xế càng nóng ruột chừng đó. Lên xong dốc, chỉ còn non hai cây số là đến Chợ Sơn Mỹ thôi. Chú Đỉnh mong làm răng chiếc lambro lết lên cho đến được Chợ, thả khách xong rồi về nhà ngay. Chú lại tức tốc lo sửa máy, thêm dầu chêm nhớt. Ngày mai chiếc xe Lambro lại tiếp tục hành trình nặng nề khoai sắn đổ dốc về chợ tỉnh Lagi.

 Hai xắc gạo của 
Ôôn "Cóc" này ít lắm cũng gần ba chục ký.  Ba chục ký gạo là con số mà ai cũng thèm. Ông ta đã đem được mớ  gạo về đến nhà. Nhà gã không xa chợ Sơn Mỹ bao nhiêu. Hai hàng cây bạch đàn theo con đường đất dẫn vô nhà gã "Cóc" cũng chẳng 'lạ" chi với nhiều chuyến gã ta mang gạo về như thế.

 Té ra con người tàn tật này là một tay BUÔN GẠO thứ thiệt'! 

Không gì là quá bí mật cả. Ai  trong thôn cũng biết, nhưng bà con làm thinh để Ôôn "Cóc" kiếm chút cơm hay ý nghĩa đẹp hơn là "nuôi vợ đợ con" đó mà!

   Một chuyến đi như thế ông ta 
lời chẳng là bao, nhưng "năng chuyến hơn đầy đò"!

 Người mình ai mà không hiểu câu này?  Cụt hai chân, bà con không ai nỡ lòng 'bươi móc', mấy 'eng' du kích tại cái trạm 'Lán Cón' nói trên 'dư sức' biết nhưng cũng lơ đi làm phước  cho người đi xe 'đặc biệt' đó kiếm ăn.

*

  Nói chuyện 'nuôi vợ đợ con', người viết mới có vài dòng về đời sống riêng tư về gia đình của người tàn tật này. Sau cái thời "KHẨN HOANG LẬP ẤP"  tiếp đến cái thời điểm 'trời nhào đất lộn' 1975, khi mọi sự 'lắc lư chao đảo' yên lặng lại rồi, vùng đất cũ Động Đền -Sơn Mỹ chỉ còn lại lớp dân an phận cho số kiếp còn lại của mình. 

Trong lớp di dân này dĩ nhiên có người tàn tật mất cả hai chân này. Nhưng Trời còn dành cho gã một cơ hội, như tia sáng cuối đường hầm tăm tối. Mụ T. là gái 'quá sổi' còn sót lại trong thôn, nhờ vậy mới chịu chấp nhận lấy người đó làm chồng.

 Mái nhà tranh, không biết ai dựng nên cho hai vợ chồng, khiêm nhường nằm tận cuối rìa làng bắt đầu con đường vô rẫy. Nhà hai vợ chồng ngoài cùng,  tiếp đến là những vạt tranh đất đai bạc màu cùng những gò đất mối mọc lên 'vô tội vạ' khoai sắn khó lòng mọc nỗi...


CHA CÚ ĐẺ CON TIÊN


Hình như luật thừa trừ của ông trời luôn  có do Mụ T.  tuy "quá thì" nhưng vừa lúc lấy Ôôn lại còn 'đẻ được'. Lạ nữa? Mụ T. cho ra đời hai đứa con gái dễ thương làm sao! Đứa nào da cũng trắng bóc, đôi mắt to đen nhánh, cặp lông mày cong vòng. Ai nhìn cũng thích và ưa bồng. Đã đẹp, hai đứa con gái đó lớn lên vài ba tuổi lại thấy hai cái núm má đồng tiền to lồ lộ, nên càng xinh thêm. 


 Mụ T. bồng con ra chợ Sơn Mỹ không ai tin là con mụ T.. Xong chuyến 'buôn gạo' từ Đức linh về, Ôôn chỉ ở nhà lo giữ con cho vợ ra chợ kiếm 'mắm muối' thêm. Ôôn ngó vậy mà rất cưng con, đó là hai 'hòn ngọc' quý nhất trong đời. "Cha cú đẻ con tiên" ông bà ta nói mà thật. Trong làng xầm xì bàn tán. Ôôn lại bon chen xin cho hai cô "công chúa" cưng vào lớp mẫu giáo trong xã. Con lão đẹp đến thế! cô Nghĩa vừa làm cô, vừa làm hiệu trưởng trường mẫu giáo làm sao chối từ cho được?


*

Mấy đồng bạc 
Ôôn kiếm ra nhờ vào mấy chục ký gạo từ Đức Linh về đến miền cát trắng ven biển Hàm Tân là mạch sống. Cái thời 'quỷ tha ma bắt' - những chuyện khốn nạn trên xe hàng- những xắc gạo cỏn con bị du kích lạnh lùng lôi xuống. Những bàn tay chới với của những người bị liệt vào giới "con buôn" trong thời "củi quế gạo châu" thế mà Ôôn thoát được tất cả mới hay.


 Một thời, Ôôn 'Cóc' chỉ biết nhe hàm răng lởm chởm, vàng khè, cười trừ với mấy ông "quản lý thị trường",  du kích hay với lơ xe. Có thể con người tật nguyền này từng một thời mãn nguyện với số phận, tuy mất cả hai chân nhưng biết đâu chính hai cái chân mất đi là 'vị thần cứu độ' cho Ôôn một thời HẠT GẠO QUÝ NHƯ VÀNG. Có nói hay viết gì chăng nữa, hình ảnh Ôn Cóc một chuyện có thật vùng quê tôi ở từng ghi đậm nét thiếu đói của một buổi giao thời. Gần nửa thế kỷ qua có thể hiện nay còn có nhiều người muốn xóa hay quên đi chuyện cũ.  Thế mà có ai đó còn cái tâm ghi lại, hoài niệm ngày tháng cũ ắt hẳn sẽ buông tiếng thở dài. Người kể chuyện chỉ  thương cho dân mình từng oằn mình tìm kế sống còn với thuở Can Qua ./.


Đinh hoa Lư 10/7/2015
edition 14.2.2024

Tuesday, February 13, 2024

HAI TIẾNG TẬP TÀNG NGHE SAO XA LẮC LƠ

HAI TIẾNG TẬP TÀNG ĐỐI VỚI THỜI NAY LÚC MÀ THIÊN HẠ ĐANG Ở VÀO THỜI KỲ ĂN SANG MẶC ĐẸP CÙNG THỪA MỨA VẬT CHẤT CÓ THỂ LÀ HAI TIẾNG NGHE RẤT LẠ 

 

nồi canh tập tàng của tôi gồm: rau dền, rau má, rau lang, rau sam, rau cải

    Có thể vậy lắm. Nếu ai còn nhớ hai tiếng "Tập Tàng" thì hai chữ đó nghe sao 'xa lắc xa lơ'. Đối với thời nay chắc mấy kẻ còn hiểu ý nghĩa của nó. Mà nhớ, biết làm gì những mảnh vườn 'ốm o' những tâm tình 'gầy guộc' chuyện của miếng đất cỏn con đào lên bới xuống không biết bao lần. 

Một ngày xưa tất cả gộp lại phải chăng đó là một bản "giao hưởng u buồn".  


 Ra đi tôi mang theo quê hương của ngày tháng cũ. Đúng thế, của ngày tháng cũ mà thôi. Do đó là tổng hợp của bao hình ảnh phai dần theo trí nhớ đong đưa do tuổi già vội tới. Một quê hương xa vời vợi nhưng đọng lại trong tiềm thức, thực sự lắng sâu trong hoài niệm của xúc cảm dạt dào. Một điều chắc chắn, nếu tôi về lại quê nhà chắc hẳn chẳng còn tìm được dấu xưa.

Ngày đó có bóng mẹ già tần tảo sớm hôm. Có hình ảnh người cha, chiều chiều ngồi nhìn đời trôi qua khung cửa lá, người lặng ngắm bóng tà dương hiu hắt rơi bên xóm nhỏ vắng người.

*

BA MẠ TÔI VÀ CÁI VƯỜN XƯA



Sau mái tranh nghèo là mảnh vườn bạc màu của nhà chúng tôi hồi đó. Mấy cây xoài chẳng bao giờ thấy trái. Hàng năm những cây xoài là 'vùng đất' cho bầy rầy xanh bu kín phá hoại không ra nổi bông. Mấy cây ổi ốm yếu trồng từ hồi mẹ tôi buôn trái cây từ Mỹ Tho về đến Bình Tuy. Nhưng cũng nhờ mấy cây ổi đó mạ tôi cũng kiếm vài ba lon gạo. Còn ba tôi thì bán cho mấy đứa học trò vài đồng để dành mua thuốc lào.

Ba tôi kiếm đâu ra một cây mướp đắng loại trái nhỏ tí teo. Thứ mướp này thân nhỏ chẳng khác chi sợi chỉ, mọc vắt vẻo trên vài ba nhánh nè. Lạ thật? giống mướp này cành khẳng khiu như thế, chỉ vài ba trái loe ngoe, có to lắm cũng chỉ bằng ba ngón tay chụm lại.

 

Cây mướp đắng như thế, dĩ nhiên chẳng giúp gì cho mạ tôi cả. Đám rau đắng bên hông nhà mọc tốt, nó còn cho mạ tôi kiếm được ít tiền.


Ngày vợ chồng tôi về thăm quê hương, tháng 1 năm 2017, chỉ nghe mẹ tôi nằm trên giường ngâm nga, ậm ừ mãi về trái khổ qua. Phải chăng mạ tôi tuy mụ mẫm tuổi già nhưng vẫn nhớ ba tôi  và cây mướp đắng 'ốm o nay đã không còn...


Đói lòng ăn trái khổ qua 

Nuốt vô thì đắng, nhổ ra họ cười ...


Ba tôi đã đi xa về miền dĩ vãng hơn hai mươi mấy năm rồi. Tôi cứ mường tượng hình ảnh con chim sâu hay bay về láo liên, nhảy nhót trên nhánh khổ qua. Mấy trái đắng nhỏ bé, cong queo vẫn mãi đu đưa theo gió.


Mấy mươi năm về lại vườn xưa. Đám rau đắng còn mọc xanh tốt nhưng bóng Mạ không còn. Cái chợ quê  đã mấy thu qua, vẫn  nhớ bước chân mẹ già, hàng ngày tần tảo...


TÔI VẪN NHỚ VƯỜN XƯA, VẪN THƯƠNG HAI CHỮ TẬP TÀNG

Ai đó có hoài niệm, riêng tôi thì thương nhớ về hai chữ "tập tàng". Nói sao chăng nữa, đó là tình cảm gắn bó với nguồn sống chắt chiu nhưng đó là ân tình sâu đậm cho cả nhà tôi còn sống đến hôm nay

  "Chúng ta đi mang theo quê huơng", ở đây người viết mong bạn đọc nhìn cái vườn này, rồi các bạn sẽ thấy những loại rau bình thuờng nhất tại quê nhà đều có ở xứ người ta.


ĐHL trong khu vườn xứ Mỹ 


  Tại sao tôi nói vậy? Những thứ như rau lang, rau má, rau dền, rau cải, rau chanh, húng lủi ngay cả rau SAM vị chua chua bông vàng cũng có tại vườn người viết hôm nay.


  Tôi lại thích đặt tên cho cái vườn này là vườn rau "tập tàng "hay VƯỜN TẬP TÀNG ,  vì mỗi khi "nổi hứng " là tôi hai mỗi thứ mỗi ít vô "nấu canh chơi ". Vì sao mà "nấu canh chơi" vì khi bà xã tôi "nấu canh thiệt" thì tôi đây chỉ tới bàn ngồi ăn thôi. Còn lúc bà xã tôi bận, hay đi đâu thì "vắng chủ nhà , gà bươi bếp" thế là Hai Lúa tôi chạy ra vườn "trổ tài ". Vừa nấu canh tập tàng "ăn chơi " giải trí vừa có lúc ôn lại chuyện xưa cũng đõ buồn.



vườn tập tàng của tôi chẳng có gì xa lạ 



   Khác với "VƯỜN ĐỊA ĐÀNG" của các vị phú gia, người viết chỉ sở hữu được cái 'VƯỜN TẬP TÀNG' đơn sơ này thôi. Bình dị đời thường chừng nào càng hay, càng hợp ý người viết chừng đó. Những loại rau quá bình thuờng, thế mà khi chúng "cất cánh bay xa" mọc tại quê người sẽ cho tôi thứ cảm giác ra đi mà vẫn mang theo hình ảnh vườn xưa, rồi chính tay tôi đã nấu được nồi canh "tập tàng xứ Mỹ"./.

ĐI CHIẾN DICH CỦA CÁC SVSQ VNCH

  ĐI CHIẾN DỊCH- TƯỞNG NIỆM 50 NĂM NGÀY KÝ THỎA ƯỚC 'CỘT TAY' BA LÊ 27/1/1973- 2023 ĐI CHIẾN DỊCH    những 'con cá vàng'  Kh...