Saturday, January 6, 2024

GS NGUYỄN CHÂU- NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN "HOA"

 


 


 

Hoa đã xuất hiện từ bao giờ trong vũ trụ thiên nhiên?

Hầu hết loài thảo mộc đều có hoa. Hoa là một phần của cây cỏ, nhưng loài người thường gọi tên của cây cỏ bằng tên hoa của chúng. Hầu hết con người đều nghĩ về hoa như là một hiện hữu của màu sắc rực rỡ và phô trương.

Người ta tán dương và yêu thích hoa vì hình dáng đẹp và lôi cuốn, vì mầu sắc rực rỡ, vì vẻ diệu kỳ và hương thơm.

Nhờ vẻ đẹp và hương thơm mà hoa đã được dùng để trang hoàng cho các buổi lễ, các dinh thự sang trọng, được phụ nữ cài lên mái tóc, đeo quanh cổ...để làm đẹp... Một vài loài hoa được dùng để dâng lên các đấng thiêng liêng tức là để thờ cúng.

Hoa cũng đóng một vai trò quan trọng trong các tương giao tình cảm của loài người, đặc biệt là trong tình yêu...

Không thể biết đích xác loài người đã biết dùng hoa từ lúc nào... nhưng trong thời hiện đại Hoa đã trở thành một thứ cần thiết hoặc "không thể thiếu" trong đời sống tình cảm và lễ nghi của xã hội nhân loại.

 

HOA LÀ GÌ ?

 

Theo định nghĩa, HOA là cơ cấu tái sản sinh của một hạt giống mang mầm cây cỏ (thảo mộc), có tính năng chuyên biệt “đực” hay “cái” với những phần nhiều màu sắc, có phấn, có chất ngọt ở chính giữa và thường có mùi hương. HOA là bộ phận trọng yếu của loài cây có quả, cho trái.

Ần trong HOA là trái non, trái non này chỉ phát triển sau khi các cánh hoa đã rụng hết.

 

MAI -LAN-CÚC-TRÚC

Bốn mùa đều có hoa riêng, theo sách Trung Hoa, thì Xuân có hoa Iris hoặc Magnolia (Mộc Lan), Hạ có hoa Peony và Sen, Thu hoa Cúc và Ðông có Mai và Trúc. Cách biểu tượng của người Việt thì hoa Mai thuộc mùa Xuân, Lan mùa Hạ, Cúc mùa Thu và Trúc mùa Ðông (trong bộ Tứ Thời: Mai, Lan, Cúc, Trúc)

 

Bốn “Bạn hữu của Hoa” là: Chim Yến (swallow), Hoàng Anh (oriole), Ong và Bướm.


Hoa và Phụ Nữ

 

Không biết từ bao giờ và do đâu mà người phụ nữ được đồng hóa với hoa?


Sự hiện hữu thể chất của một người con gái hay đàn bà đẹp được mô tả như một đóa hoa bởi vì chính bản thân và cấu trúc của nữ giới là hoa của loài người.

 

Yếu tính (essense) của hoa và đàn bà cùng một thể loại. Thật vậy, trong thiên nhiên Hoa là phần quan trọng của sự truyền sinh. Và để có thể thụ phấn cho trái, quả được hình thành đầy đủ, hầu hết hoa phải nhờ ong hay bướm làm trung gian chuyển phấn từ hoa đực đến nhụy hoa cái.


Thiếu các hoạt động của ong, bướm... hầu hết hoa sẽ không thể kết trái để truyền sinh cho mùa kế tiếp. Có lẽ vì sự cần thiết này mà tạo hóa đã cho Hoa tiết ra những chất có khả năng lôi cuốn ong, bướm bay đến... đó là mật ngọt và mùi hương. Ong và Bướm đã giúp cho nhụy đực (dưới dạng phấn hoa) truyền tới nhụy cái đang hé mở đợi chờ...

 


Người đàn bà cũng có thiên chức truyền sinh và cấu tạo cơ thể cũng tương tự như loài hoa mang noãn chờ thụ phấn, thụ tinh để “phôi” thành “thai”. Người đàn bà cũng toát ra những thứ lôi cuốn, hấp dẫn nam giới...từ nhan sắc, duyên dáng, nhân dạng cho đến “âm chất”. "Âm chất" là cái mà khoa học hiện đại gọi chung là “Love chemicals”[Sex Pheromones-->Sexuel Scent of Attraction).

Theo các nghiên cứu khoa học về tình dục và tình yêu: khi nam và nữ (đực-cái) gặp nhau thì não bộ sẽ điều động cơ thể toát ra một số kích thích tố, những kích thích tố này sẽ toát ra những hóa chất tình yêu để lôi cuốn đối tác...

Ở Trung Hoa, theo truyền thống, ngày Rằm tháng Hai âm lịch, có lễ hội Bách Hoa Thần (the Goddess of the Hundred Flowers - Chinese Symbols tr.111) trong dịp này, các thanh nữ cúi mình bái mạng Ngọc Hoàng Thượng Ðế (yu-huang-di). Trong các tranh ảnh về lễ hội, người ta thấy các vị thần khác đi trên những chiếc thuyền làm bằng lá chuối, hoặc trên những thuyền mây (vân thuyền) đến dâng hoa. Người ta còn thấy có một số danh sách khác nhau về tên các loài hoa của 12 tháng. Các danh sách này có nhiều khác biệt, nhưng tựu trung vẫn có một số yếu tố chung, chẳng hạn như trong hầu hết các danh sách này đều ghi hoa Apricot vào tháng thứ Hai (gần tương ứng với hoa của cuối tháng March); -peach-blossom vào tháng thứ Ba;- hoa Sen vào tháng Sáu,- hoa Quế vào tháng Bảy và hoa Cúc vào tháng Chín...

Trong huyền thoại La Mã, Hoa Mùa Xuân được nhân cách hóa bằng Nữ thần Flora, tương tự với Nữ thần Chloris của Hy Lạp. Nữ thần Hoa Xuân của La Mã (Blooming Roman Goddess of Spring) được vinh danh và tế lễ hàng năm vào thời gian của Floradia, một lễ hội nhiều mầu sắc và cung điệu khi người ta trang điểm cho mình bằng các sắc hoa và hưởng thụ một bữa tiệc lớn kéo dài 6 ngày. Nữ thần Flora, tươi đẹp và nhân từ hiện ra và được vinh danh trong một đoàn diễn hành lộng lẫy. (Concise Mythological Dictionary - Ultimate Encyclopedia of Mythology)


Ðối với thi sĩ Pháp Charles Beaudelaire (1821-1867) người đàn bà là Hoa của Tội Lỗi. Ông viết một tập thơ nhan đề “Les Fleurs du Mal” (Flowers of Evil - 1957) với gần 100 bài thơ liên quan đến chủ đề nhân loại và tội lỗi do người đàn bà đem lại. Beaudelaire với tập thơ này đã tạo nên trường phái “tượng trưng” trong thi ca. Beaudelaire đã nghĩ rằng "Chắc Thượng Đế cũng có giờ hối hận vì đã sinh ra thân thể con người?"


HOA TRONG ÐỜI SỐNG CON NGƯỜI

 


Một người con gái sẽ được mô tả “như đóa hoàng hoa” (huang hua mu) nếu nàng là trinh nữ. Người Trung Hoa dùng chữ “Yên hoa” (smoke-flower) để chỉ người con gái ở lầu xanh (gái bán dâm - prostitute) vì thấy rằng cuộc đời bất hạnh của họ, mong manh như như làn khói, bị tàn tạ tan biến trong chốn ăn chơi!

Những thành ngữ “vầy hoa giỡn nguyệt”, “tìm hoa, đòi liễu”, “ngủ giữa hoa và nằm dưới liễu” đều dùng để chỉ một người đàn ông ăn chơi với nhiều gái mãi dâm.

Trong văn chương Việt Nam, thành ngữ “khách chơi hoa”, “khách tìm hoa” cũng có nghĩa là những người đàn ông đi tìm gái làng chơi (gái giang hồ), chứ không có nghĩa thông thường là những người thích sưu tầm các loại hoa để thưởng ngoạn, chưng bày hay trồng tỉa. Ðộng từ “chơi hoa” cũng thường bị đồng hóa với việc người đàn ông tìm thỏa mãn tình dục một cách vô tình nơi những thân thể phụ nữ.

 

“Chơi hoa cho rữa nhị dần mới thôi”

Chu Mạnh Trinh đã thương xót thân phận Thúy Kiều ở lầu xanh qua những câu thơ bóng bẩy sau đây:

 

“Thương ơi, sắc nước hương trời,

Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa!

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?”

 

Tại các làng mạc ở Hoa Nam (Trung Hoa), hằng năm, vào ngày mồng Năm tháng Năm âm lịch có một hội gọi là Hoa Trận (Battle of flowers). Ðây là thời điểm rất gần ngày Hạ chí (summer solstice) là lúc dương khí cực thịnh và âm khí bắt đầu vươn lên cao. Hội Hoa Trận nầy tượng trưng cho sự giao hợp sinh sản, mùa màng phì nhiêu.

“Tâm hoa” (flower-heart) là một tên gọi dành cho âm hộ (vagina) (Chinese Symbols-tr.111).

Trong Bát Tiên, có vị hiện thân một người con gái mang trên vai một lẵng hoa, đó là Lâm Thái Hòa ( Lan Cai-he).

Dường như khắp nơi trên thế giới, hầu hết loài người đều thích hoa, hoặc có một tình cảm nào đó với loài hoa. Và từ đó, hoa đã trở thành bạn hữu của con người trong nhiều hoàn cảnh. Cuộc vui cũng có hoa, tang tóc, đau thương cũng có hoa. Sự hiện hữu trầm lặng của hoa, làm cho tâm tư con người như được an ủi, chia sẻ, nhất là khi một cành hoa, hay bó hoa đến với ta như một sứ điệp từ người yêu, người thương, hay người mến mộ... Hoa đến thay cho người để nói lên những tình cảm, những chia sẻ.

 

Hoa trên bàn thờ Phật, Chúa, Tổ Tiên; Hoa trong đám cưới, trong lễ rửa tội. Hoa trong tang lễ, Hoa trong tiệc tùng, ca vũ, Hoa bên giường bệnh nhân, Hoa để bày tỏ tình cảm biết ơn...

Người ta lấy tên hoa để đặt cho người: Lan, Hồng, Cúc, Ðào, Hải Ðường, Thủy Tiên, Lily, Iris, Rose...

Một đôi khi, con người còn muốn “nói bằng hoa”. Cho nên một số loài hoa đã trở thành “ngôn ngữ”. Về mặt này, nguời Tây Phương đã gửi gắm ý nghĩa tượng trưng vào một số loài hoa làm cho hoa trở thành một thứ tiếng vô thanh nhưng đầy sắc, hương, thầm lặng mà thấm thía...

Sau đây là một vài thí dụ:

- Hoa thu mẫu đơn (Anemone-Anémone) ý nói “hãy kiên trì” - màu Xanh chỉ “lòng chung thủy”; màu Ðỏ ý nói “tôi tin ở tình tôi”; màu Vàng : “Trời sẽ bù đắp cho lòng tôi”.

- Hoa táo gai (Hawthorn - Aubépine) ý nói “hãy thận trọng, lo xa”; màu Trắng: “ý tứ, giữ gìn”; màu Hồng: “Hãy giữ tình kín đáo”.

- Hoa cúc vàng hoặc trắng (Chrysanthemum, Button - Chrysanthème) ý nói “tình bạn cao quí”, “trân trọng tình bạn”.

- Hoa cúc xanh (thỉ xa - Bluet) ý nói: “E thẹn, không dám tỏ tình với”

-Trà mi (Camelia) ý nói: “tự kiêu, cao sang”- Trắng: “Anh phụ tình em”; Ðỏ: “Với anh, em đẹp nhất; Hồng: “Tôi tự hào về mối tình của anh (hoặc em)”.

-Hoa mào gà (Coquelicot-corn-poppy) ý nói: “Nồng nhiệt nhất thời”, “Hãy yêu nhau đi để ngày sau tiếc nhớ”.

-Hoa thược dược (Dahlia) ý nói “sung sướng”- Trắng: “Cảm tạ ơn lòng thương tưởng”; Hồng: “Tôi sung sướng vì tình yêu của mình (chồng hay vợ)”; Ðỏ: “Tình em (anh) làm cho anh (em) hạnh phúc”.

-Hoa mai (apricot-Abricotier): ý nói “lãnh đạm”, “tình không được đền đáp”.

-Hoa phong lữ (Geranium-Géranium) ý chỉ “Tình yêu”- Ðỏ thắm: “Lúc nào tôi cũng nhớ mình”; Hồng: “sung sướng được ở gần nhau”.

-Hoa Gờ-lai-ơn (Gladiolus - Iris - Glaieul) ý nói “cuộc hẹn hò” có hai màu đỏ thắm hay hồng. Số hoa trên cành đặt chính giữa bó hoa chỉ giờ gặp nhau.

-Hoa nhài (Jasmine ) ý nói “tình tha thiết hiến dâng”- Trắng: “hãy yêu tôi đi”; Vàng em muốn trao thân gởi phận cho anh”.

-Hoa Oải hương (Lavender-Lavande) màu xanh nhạt hơi pha đỏ, ý nói “Lòng thương yêu trân trọng”.

-Hoa Huệ tây (Lilly-Lis) ý nói “sự thanh cao”, “người trong trắng, thanh khiết”, tình cao khiết.

-Hoa Mimosa (Trinh nữ) màu vàng, ý nói “tình kín đáo, không ai biết được”.

-Hoa Ðỗ quyên (Rhododendron- Rhododendrum) ý nói “lịch sự, êm đẹp nhất đời”- Hồng : “tình yêu”; Trắng: “tình đau khổ”; Ðỏ sẫm: “tình tha thiết”.

-Hoa Hồng (Rose): ý nói “Tình yêu đẹp đẽ” - Trắng: “Tình bạn đang chuyển thành tình yêu”; Ðỏ thắm: “Tôi yêu em tha thiết”; Hồng phớt: “Tình lãng mạn nhẹ nhàng”.

- Hồng nhung: “Khao khát được yêu trọn vẹn”.

-Hoa Tuy-líp (Uất Kim hương-Tulip - Tulipe) ý nói “tình yêu nồng nàn, cuồng nhiệt”.

-Hoa tím (Violet - Violette) ý nói “tình thầm lặng, chôn giấu” - “tôi đang thầm yêu.”

 

Với những ý nghĩa tượng trưng được quy ước và phổ biến trong đời sống hàng ngày, như đã trình bày trên đây, người Tây Phương đã có thêm một thứ ngôn ngữ kỳ diệu để diễn tả tình cảm của mình, đó là tiếng nói của loài hoa, thầm lặng mà sâu xa, giải tỏa được nỗi u uất cho bao nhiêu người có tính e thẹn khi trực diện với đối tượng. Tặng hoa là một sự ngỏ ý, một gởi trao tín hiệu, cho nên phải lựa chọn cẩn trọng để hoa mang đúng thông điệp của trái tim...

 

Người Á Ðông cũng nhìn thấy nơi loài hoa những ý nghĩa tượng trưng. Hoa là đề tài thứ hai trong bộ tứ Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt của văn nhân thi sĩ và tao nhân mặc khách. Hoa với Thơ như đã có duyên nợ tiền thân. Thơ viết trên giấy hoa tiên.

Có một số loài hoa được ưa chuộng, trân quý và có những loài hoa bị khinh chê, dựa trên quan niệm đạo lý! Chẳng hạn, hoa cúc, vạn thọ, mẫu đơn, huệ, sen... được người Việt dùng trong các lễ cúng, cắm trên bàn thờ, trái lại hoa nhài (lài) vừa nhã vừa thơm ngào ngạt về đêm, lại không được cắm vào bình hoa, vì các cụ xưa gán cho tội lẳng lơ, khêu gợi! (theo Toan Ánh).

 

Người Trung Hoa, và Việt Nam lấy hoa sen tượng trưng cho người cao khiết, quân tử, vì “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, hoa lan tượng trưng cho “thanh thoát và vương giả”; người Nhật Bản lấy hoa anh đào biểu tượng cho Võ sĩ đạo, vì hoa anh đào khi lìa cành rơi xuống đất, luôn luôn giữ mầu hồng tươi, nghĩa là khí sắc không thay đổi.

Ðạo Phật lấy hoa sen làm biểu tượng, ngoài ý nghĩa chuyển tạo từ gốc bùn nhơ thành thanh tịnh, cao sang, có hương sắc, có nhị vàng mà không gọi mời ong bướm, hoa sen trong Phật giáo còn mang ý nghĩa sâu xa của “nhân quả đồng thời, tương tại” (Trong hoa sen còn non đã có hạt) trong triết lý Phật Giáo.

 

Lòng yêu hoa của con người có lẽ đã phát sinh song song với thi ca trữ tình, lãng mạn. Người trinh nữ, thần Vierge giống như một bông hoa tươi mát, dịu dàng, ngây thơ ngẫu nhiên đem bao hạnh phúc cho cuộc sống. Hoa là vẻ đẹp của vũ trụ thiên nhiên. Vẻ Ðẹp đích thực là những gì làm cho tâm hồn con người khoan khoái và hạnh phúc. Chàng trai thời sơ thủy, khi đưa tay ngắt một cành hoa đem tặng hoa cho một trinh nữ, đã nói lên sự vượt khỏi bản năng sinh tồn có chung với cầm thú.

Tặng hoa, cài hoa lên tóc, lên áo là hành vi vượt qua nhu cầu thô sơ của bản năng mà các loài đều có. Thật vậy, về phương diện nhu cầu ăn uống và thỏa mãn tình dục, thì HOA là cái vô dụng. Nhưng khi con người đã cần đến cái vô dụng ấy, tức là nó đã bước vào lãnh vực nghệ thuật. Người con trai hái hoa tặng, người con gái sơ thủy mỉm cuời đón nhận... như thế là con người đã nhập vào thế giới kỳ diệu của nghệ thuật.

 

Về Ý nghĩa Văn Hóa

 


Hoa đã từng là những biểu tượng của v Đẹp trong hầu hết các nền văn minh trên thế giới và hành động Tặng Hoa (flower giving) vẫn còn là những biểu lộ hòa ái, thanh nhã, ấm nồng thông thường trong hầu hết các tương giao nhân loại (social amenities). Dưới hình thức quà tặng, Hoa được dùng như những biểu lộ tình cảm giữa vợ chồng, giữa những thành viên khác trong gia đình và bạn hữu. Dưới hình thức trang trí, trang hoàng, Hoa phục vụ các cuộc lễ long trọng như lễ cưới, lễ sinh nhật, lễ tốt nghiệp, lễ đăng quang; trong lễ tang, Hoa được xem như biểu hiệu (as a tokens) của lòng tôn kính người quá cố. Dưới hình thức món quà cầu chúc và cỗ vũ (as cheering gifts), Hoa được gửi đến giường của bệnh nặng; ngoài ra Hoa còn là biểu lộ của lời cảm ơn hoặc tán dương hay cảm kích (expressions of thanhks or appreciation).

 

     Tuy vậy, con người khó mà bỏ hết thú tính, nghĩa là hoàn toàn thoát khỏi sự thúc đẩy của bản năng... cho nên thực tế mỗi đời người đều bao gồm đói khát và dục vọng. Thậm chí nhiều người, vì mê đắm, còn xem dục vọng là thiêng liêng... Một học giả Nhật đã ghi nhận rằng: trong thế giới loài người, các đền miếu để tôn thờ các vị thần linh khác, đều có thể sụp đổ, hư hại theo thời gian và hoàn cảnh, nhưng có một loại đền thờ rất kiên cố, rất khó sụp đổ, đó là cái miếu thờ cái thần tượng chí tôn, chí đại là CÁI TA, CÁI TÔI, cái “Bản Ngã”. Loại miếu đền này thường được đa số người đời canh phòng rất kỹ, bảo tồn vĩnh viễn, bảo vệ rất hết lòng! Những kẻ dám mạo phạm đến, sẽ khó mà được tha thứ!

 

SỐ PHẬN CỦA HOA

 

Con người hiện đại tự hào là đã chinh phục được vật chất, mà không nhận thấy rằng chính vật chất cũng đã và đang nô lệ hóa con người, nó điều khiển một cách chặt chẽ những hoạt động thường ngày của nhân loại.

Một sự kiện nghịch lý trong lịch sử thế giới mà nhiều người không nhận biết, đó là nhân danh điều Thiện để làm điều tàn ác?

Ðó là việc chơi hoa; người chơi hoa, nhân danh nghệ thuật, nhân danh thưởng ngoạn để tàn phá loài hoa: cắt hoa cắm vào bình, bắt hoa “giam” vào chậu. Buộc hoa nở theo ngày mình muốn, bằng cách trồng và tỉa...

Okakura Kakuzo đã bày tỏ sự xót xa đối với số phận của những loài hoa đẹp:

“Hỡi những bông hoa thanh lịch, những giọt lệ của các tinh tú kia ơi, Hoa đứng ở trong vườn, gật đầu chào đón bầy ong ca ngợi hạt sương và ánh mặt trời. Hoa hãy nói cho ta hay là Hoa có biết cái số mệnh đáng sợ đang chờ đợi Hoa đó không? Hoa hãy mơ mộng đi, hãy nhún nhảy vui đùa trong những ngọn gió hè nhẹ nhàng mát dịu được chừng nào hay chừng nấy đi, kẻo đến mai, một bàn tay tàn ác sẽ bóp nghẹt cổ Hoa, vặn cổ Hoa, xé từng cánh ra làm đôi và đem Hoa đi khỏi nơi gia đình êm ấm của Hoa. Ả khốn nạn ấy, có thể đẹp lắm. Ả có thể bảo Hoa đáng yêu lắm, trong khi ngón tay ả còn ướt đẫm máu Hoa. Hoa thử nói cho ta hay như vậy có phải là lòng khuynh mộ, tình thân thiết không? Có lẽ số phận của Hoa là bị nhốt trong mái tóc của con người mà Hoa biết là vô lương tâm. Cũng có thể kiếp vận của Hoa là bị giam vào cái bình chật hẹp nào đó trong chỉ chứa một chút nước tù hãm để làm dịu bớt phần nào cơn khát điên dại nó báo cho biết đời Hoa như thế là tàn.” (Trà Ðạo - Bảo Sơn dịch, tr.91-92).

Kể cả khi Hoa được đưa vào Ngự Uyển của một vương cung, số phận Hoa cũng sẽ bi thảm vì lòng tự tôn, tự kỷ của những tay vương giả, ưa cầu kỳ và khoe khoang.

Ở các xã hội Âu, Mỹ, sự tàn phá loài hoa còn kinh khủng gấp trăm lần các tay “chơi hoa” hay “hoa tượng” ở Ðông Phương.

Người ta đã thống kê và nhận thấy rằng số lượng hoa cắt hằng ngày để phục vụ cho các tiệc tùng, khiêu vũ, cưới hỏi, phúng điếu và tặng nhau, là một con số ghê gớm. Ðau đớn là tất cả những hoa đẹp, sang ấy, tàn cuộc vui, hoặc sáng sớm hôm sau đều vào những thùng rác với tất cả những đồ phế thải bẩn dơ, hôi hám! Rất nhiều khi, trưng bày hoa chỉ là để khoe khoang sự giàu có, sang trọng, chịu chơi và chịu chi, một thói ngông của thời đại mà thôi. Sau tiệc, Hoa sẽ về đâu, chủ nhân không cần biết đến...

Câu hỏi mà chỉ có thuyết luân hồi nghiệp báo của Phật Giáo mới trả lời được đó là: Tại sao Hoa đẹp đẽ, hiền lành và không có khả năng tự vệ như thế, mà lại bất hạnh như vậy?

 

HOA HẬU & HOA KHÔI

 

Từ sau năm 1975, tại Việt Nam, dưới chế đô cộng sản đã có hằng trăm cái gọi là cuộc thi Hoa Hậu và đã sản xuất ra hàng ngàn Hoa Hậu đủ thể loại mà các nước khác trên thế giới không có.Ngoài Hoa Hậu chính thức và Á Hậu, còn có Hoa Hậu Duyên Dáng, Hoa Hậu Thân Thiện... Miss Petite Vietnam 2023 (Hoa hậu Nhân ái Việt Nam), Hoa hậu Quốc gia Việt Nam, Hoa hậu Lụa di sản Việt Nam 2024, Hoa hậu Hoàn cầu Việt Nam, Hoa khôi Sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long, Hoa hậu Quý bà Trái đất Việt Nam…  vân vân.

Nhưng trước câu hỏi "Hoa Hậu là gì? thì chưa có một tổ chức thi Hoa Hậu nào đưa ra một định nghĩa thích đáng và có cơ sở tu từ (rhetoric).

 

"Hoa hậu" là gì?

Hàng chục năm nay, hai tiếng hoa hậu đã quá quen thuộc với công chúng, nhưng mấy ai để ý đến ý nghĩa thực của nó? Từng có định nghĩa rằng: Hoa hậu là từ ghép của hai từ đơn "Hoa" và "Hậu". Trong đó, "Hoa" chỉ nhan sắc bởi người phụ nữ thường được ví von đẹp như hoa hay hoa nhường nguyệt thẹn là từ mà Nguyễn Du miêu tả về Thúy Kiều. Còn từ "Hậu" được lấy trong từ Hoàng hậu - người phụ nữ được coi là quyền lực nhất, là mẫu nghi thiên hạ. Vậy khi ghép hai từ này với nhau, có thể hiểu Hoa hậu là muốn hướng đến một người phụ nữ đẹp cả sắc vóc lẫn tâm hồn, đồng thời phải có một kiến thức nhất định về văn hóa, xã hội...(Báo Dân Trí -VNCS)

Hậu: vợ vua Danh từ [sửa] hoa hậu. Người đoạt giải nhất cuộc thi nhan sắc. Tham khảo [sửa] "hoa hậu", Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí

Mỗi ngôn ngữ có thuật ngữ riêng dành cho người đẹp nhất của cuộc thi, ở VN hoa hậu hoặc hoa khôi. Hoa hậu (花后) nữ hoàng trong các loại hoa, còn dùng để chỉ cô gái đẹp nhất. Ở miền Nam VN, cuộc thi hoa hậu đầu tiên được tổ chức vào ngày 20.2.1955, người ... Author: Vương Trung Hiếu

Bách Khoa Từ Điển The TORMONT WEBSTER"S ILLUSTRATED ENCYCLOPEDIC DICTIONARY (Edition, Canada,1987).

Miss (viết hoa): 1/ A tittle or Form of address used when speaking to or of an unmarried woman or girl, used before her name. 2/ A tittle used in speaking to a woman, especially a young woman. used without her name. "I beg your pardon, Miss>". 3/ An unmarried woman or girl.4/ Miss: a tittle given to a young woman representing a town, a country, an institution or the like at certain events, especially Beauty Contests: Miss U.S.A; Miss Vietnam... (sđd trang 1086)

Miss:1/ là một danh xưng hay một hỉnh thức để xưng hô thường dùng khi nói với hoặc nói về một phụ nữ độc thân hoặc một cô gái, dùng trước tên của họ. 2/ Một danh xưng dùng khi nói với một phụ nữ độc thân, đặc biệt là một phụ nữ trẻ, dùng không có tên của người đó. Chẳng hạn "Tôi xin lỗi, Cô nương". 3/ Miss: chỉ một phụ nữ chưa lập gia đình hoặc cô gái. 4/ Miss: là danh hiệu tặng cho một người đàn bà trẻ đẹp đại diện cho một thành phố, một quốc gia hoặc một cơ sở, một thể chế hoặc một người giống như vậy tại một số Sự kiện tập thể, đặc biệt là Cuộc Thi Sắc Đẹp: như Miss USA, Miss Vietnam...

Chữ "HẬU" trong từ Hán-Việt có nhiều nghĩa, thông thường nhất: 1/ Hậu:sau đối với Tiền là trước [Sách Tam Thiên Tự];2/ Hậu: dày đối Bạc: mỏng vd: Phúc hậu: phúc dày / Bạc phúc:ít phước. Hậu: tốt hơn, trân trọng hơn như "Hậu đãi": được coi trọng hơn, đối xử tôn quý hơn ngược với "Bạc đãi": coi khinh, đối xử tệ hại. 3/ Hậu là các nước chư hầu: thời xưa, Vua gọi các chư hầu là "Quần hậu":các nước chung quanh. 4/ Hậu: vợ vua, người giúp vua có đời sau tiếp nối. Vua gọi vợ là "ái hậu"[không có chữ hoàng] tương tự với danh xưng trong triều đình, Hậu Thổ là Thần Đất như "Hoàng Thiên, Hậu Thổ": Vua Trời, Thần Đất.

Do đó, có thể nói HOA HẬU là Vua Hoa. Loài Hoa vượt trội hơn tất cả các Hoa khác trong trăm hoa, không nói đến cuộc thi. HOA được xem như biểu tượng của Vẻ Đẹp, nên người Anh quốc gọi là Beauty Queen, người Pháp gọi là Reine de Bauté: là một người đàn bà hoặc thiếu nữ đẹp lộng lẫy và duyên dáng, đặc biệt là người chiến thắng trong một cuộc thi sắc đẹp được tôn vinh như Nữ Hoàng (as Queen - Reine).

Về lịch sử, cuộc thi Nhan Sắc đầu tiên xẩy ra năm 1839 tại Cuộc Đấu Eglinton (Elington Tournament) và Nữ Công Tước của Somerset, Georgiana Seymour đã được tấn phong Vương miện "Queen of Beauty"Nữ Hoàng  Sắc Đẹp.

Các Lễ Hội Âu Châu (European Festivals) kể từ thời Trung cổ hầu hết đều dành cho cuộc diễn hành nhan sắc. Chẳng hạn, các cuộc lễ hội English May Day (Quốc Tế Lao Động) luôn luôn có sự tuyển lựa một May Queen. Tại Mỹ ngày truyền thống May Day cũng tuyển chọn một phụ nữ làm biểu tượng cho sắc đẹp và các lý tưởng của cộng đồng tiếp tục khi những người phụ nữ trẻ, đẹp tham gia vào các cuộc biểu dương công cộng.

Ngày trước, một cuộc Diễn Hành Nhan Sắc (Beauty Pageant) là một cuộc thi truyền thống có mục đích đánh giá và xếp hạng các đặc điểm thể hình của các thí sinh. Ngày nay, các cuộc thi còn hướng đến Vẻ Đẹp Tâm Hồn (inner Beauty) với các phạm trù (criteria) bao gồm nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính nết và các công tác thiện nguyện nhân ái... qua các cuộc phỏng vấn với các giám khảo và các câu trả lời cho công chúng trên sân khấu.

HOA KHÔI

Trong ngôn ngữ Việt Nam còn có danh từ "HOA KHÔI". Một số người xem Hoa Hậu và Hoa Khôi có phần giống nhau có lẽ do họ không hiểu rõ KHÔI là gì, thế nào gọi là KHÔI. Theo Hán - Việt từ điển, KHÔI có tới 6 nghĩa khác nhau.

1/ Khôi: to lớn, vạm vỡ (khôi ngô), quái lạ (kỳ khôi); 2/ Khôi: lấy lại được cái đã mất (khôi phục);3/ Khôi: cái mũ trụ của quân lính xưa để chống tên đạn; 4/ Khôi: đùa bỡn, pha trò (khôi hài); 5/ Khôi: người đầu sỏ một tổ chức. đầu đảng; Khôi là người đỗ đầu bảng, đầu khoa - Khôi Nguyên. Xưa, mở khoa thi cho các học trò năm Kinh, mỗi Kinh lọc lấy một người đứng đầu gọi là "Khôi" hoặc Kinh Khôi tức Ngũ Khôi. Đỗ Trạng Nguyên gọi là Đại Khôi. 6/ Khôi: Sao Khôi. Bắc Đẩu tinh từ 01 đến 4 lả Khôi tinh, thường gọi là Sao Khuê, chủ trì Văn Học nên những người học văn thờ sao này.

Hoa Khôi chỉ người con gái hoặc đàn bà có vẻ đẹp, có nhan sắc vượt trội được tôn vinh trong một tập thể, một khu vực, một trường học, một tổ chức cộng đồng. Tự nhiên được tôn vinh Hoa Khôi, không có thi đấu, tranh đua. Đây là chỗ khác với Hoa Hậu, phải thi đua, cạnh tranh.

 

HOA ÐẠO

 

Khác với Tây Phương, thú chơi hoa của Á Ðông tương đối nhẹ nhàng, nhưng nhiều lúc vẫn có thể hoài nghi về tình yêu đối với Hoa và lòng ích kỷ của con người. Chẳng hạn, con người chế tạo những cái chậu sành, sứ đắt giá để trồng hoa làm cảnh trang trí nhà cửa, lâu đài, dinh thự. Có phải là vì Hoa mà làm thế không? Yêu Hoa, tại sao lại bắt Hoa rời bỏ quê hương thiên nhiên đến ở một nơi xa lạ ngột ngạt và giả tạo? Sự hoài nghi này vẫn mãi tồn tại, mặc dù người ta thấy những công lao của người trồng Hoa, nuôi Hoa.

Người chơi hoa, trồng hoa, thường phải lo âu về thời tiết, mưa nắng, bão tố cho hoa. Người ta xao xuyến, nao nức khi thấy mầm hoa nhú ra, vui mừng khi thấy nụ hoặc lá xanh... Nhất là đối với loài hoa Quỳnh, đã lo vun quén, lại nặng lòng đợi chờ hoa nở...

Chơi hoa là một nghệ thuật tinh vi và tế nhị.

Tình yêu hoa đã được bày tỏ qua bao nhiêu thơ phú, văn chương. Từ đời nhà Tống, nhà Ðường người ta đã tạo ra những đồ gốm quý giá để đựng hoa. Các nước Hy Lạp, La Mã từ ngàn xưa cũng đã có những bình đựng hoa tuyệt đẹp và vô cùng sang trọng.

Sách Trung Hoa chép là có thời hoa được ở trong những cung điện bằng bảo ngọc không phải là bình hay chậu. Mỗi cây hoa có một người chăm sóc, lau từng chiếc lá bằng bàn chải lông thỏ, tiả từng nhánh, và bắt sâu... Sách ghi rằng: hoa “Mẫu đơn” phải có một mỹ nữ mặc lễ phục tắm tưới cho, còn Hàn Mai thì phải có một vị tăng xanh xao gầy gò tưới cho mới được...

Huyền Tôn Hoàng Ðế nhà Ðường đã treo những cái chuông bằng vàng nhỏ li-ti trên cành cây trong Ngự Uyển để đuổi chim cho hoa. Vào mùa xuân, vua thường đem nhạc công đến dạo những khúc êm ái để làm vui lòng hoa!

Trong lịch sử Trung Hoa, Ðào Uyên Minh (Taoyuen Ming) và Lâm Hòa Tĩnh (Linwosing) là hai “người yêu lý tưởng” của hoa. Uyên Minh và Hòa Tĩnh cực lực chống việc hái hoa và ngắt hoa. Theo hai ông, người yêu hoa một cách đích thực thì phải đến tận quê hương của Hoa để thăm Hoa! Không bắt Hoa đến với mình, không lưu đày hoa! Ðào Uyên Minh thường ngồi trước giậu tre, nói chuyện với Dã Cúc và Lâm Hòa Tĩnh thì thường bị lạc đường khi đi qua rừng mai ở Tây Hồ... giữa những xóm làng kỳ ảo...

Người Việt Nam tuy sống trong một xã hội nông nghiệp, gần gũi với thiên nhiên, nhưng cũng có cái thú chơi hoa, sưu tầm những chồi lan trong các khu rừng Trường Sơn, cao nguyên Lang Biang (Ðà Lạt). Lối chơi hoa, sưu tập các loại Lan của người Việt có tính cách nghệ thuật và thưởng ngoạn nhiều hơn là sùng bái. Người ta thích hoa, chơi hoa vì hoa trang điểm cho cuộc sống và trong một chừng mực nào đó, hoa đã đem lại niềm an vui cho con người. Hoa làm cho những nơi u tối bớt vẻ hoang vắng... Ngay cả giữa sa mạc nắng cháy, khô se, hoa cũng có mặt với nhiều màu sắc lộng lẫy (hoa xương rồng).

Phải chăng, con người muốn làm cho thế gian được cao quí hơn, cho con người giảm bớt dục vọng và sân si nên đã đòi hỏi hoa tham dự vào cuộc sống của mình bằng vẻ đẹp thầm lặng của Hoa. Trong ý hướng thiện mỹ đó, con người đã có những hành vi tác hại đối với hoa: Hái hoa, cắt hoa, đem hoa tặng nhau để bày tỏ thiện cảm, tỏ tình yêu, nỗi nhớ, tỏ lòng hâm mộ, tán tỉnh...

Về mặt công bình trong vũ trụ và chúng sinh... dù sao, con người vẫn có tội xâm phạm sự sống của Hoa. Nhiều triết nhân Ðông Phương và đặc biệt là các Trà Nhân, các Hoa Tượng cho rằng: con người phải chuộc lại nghiệp ác gây ra cho hoa bằng sự thanh tịnh và đơn sơ trong sự “sùng kính hoa”, xem Hoa như là cứu cánh, chứ không phải là phương tiện để thỏa mãn tham vọng ngông cuồng và khoe khoang của cá nhân. Chính quan niệm này đã đưa đến “Hoa Ðạo”

Trong tinh thần Tôn thờ Hoa, Hoàng Hậu Komio, vợ của một trong những Vua Nara uy nghi, tôn quí nhất của Nhật Bản, đã hát rằng: “Nếu ta hái hoa, bàn tay ta sẽ làm Hoa ô uế. Hoa ơi! Hoa cứ đứng như vậy giữa nội cỏ, ta dâng Hoa cúng dường Ðức Phật quá khứ, Ðức Phật hiện thế và Ðức Phật vị lai”

Một truyền thuyết về sự tôn thờ Hoa, kể rằng: Trong một tu viện ở Nhật Bản, -Tu Ma Tự - còn lưu lại một tấm bảng khắc một cáo thị như sau: “Người nào chỉ ngắt một cành của cây này mà thôi, thì sẽ vì thế mà bị tịch thu một ngón tay.” Ðây là một cáo thị nhằm bảo vệ môt cây hoa Mai kỳ diệu trong vườn. Nghiêm lệnh này được gán cho Yoshitsuné, một nhân vật trong truyện cổ tích Nhật.

Okakura Kakuzo đã viết: “Ai đã hiểu biết tác phong của các trà tượng và hoa tượng chúng tôi, chắc hẳn cũng nhận thấy lòng sùng kính của họ đối với Hoa thiêng liêng như một tôn giáo. Họ không hái hoa bừa bãi, mà thận trọng chọn từng cành, từng đóa, trong tâm trí luôn nghĩ tới cái thế, cái hình tượng mà họ sẽ phối hợp cho có ý nghĩa, cho mỹ thuật. Nếu lỡ hái quá số cần thiết, họ sẽ tự cảm thấy hổ thẹn.”

Hoa Ðạo khi cắm hoa thường kết hợp thêm cành và lá khác để tạo nên sự hài hòa. Hoa được cắm theo ý nghĩa và đề tài rồi đặt lên nơi danh dự nhất.

Tại Nhật nơi danh dự nhất trong phòng gọi là “tokonoma” (sàng gian), không có một vật gì khác được bày gần hoa, kể cả một họa phẩm, trừ phi có sự hài hòa. Hoa lên ngôi báu. Trà Tượng và Hoa Tượng khi bước vào gian phòng, sẽ cúi đầu chào hoa, trước khi chào chủ nhân!

Khi hoa tàn, người ta ân cần đem hoa ủy thác cho một giòng sông trong đẹp, hoặc đem chôn... có nơi xây cả đài kỷ niệm!(?)

Theo sách “Trà Ðạo” thì Hoa Ðạo và Nghệ thuật cắm hoa đã có đồng thời với Trà Ðạo tại Nhật Bản vào thế kỷ thứ 15.

Truyền thuyết Nhật Bản kể rằng các vị Phật đầu tiên đã khai sinh ra lối cắm hoa, khi các Ngài góp nhặt những cành hoa trong cơn bão tố, ân cần đặt vào những bình nước với lòng từ bi cứu độ...

 

GIÁO CHỦ HOA ÐẠO

 

Tín đồ đầu tiên của Hoa Ðạo là Soami, có đệ tử là Juko, một trà tượng. Giòng họ nổi tiếng trong Hoa Ðạo là Ikénobo và trong Hội họa là Kano. (Từ đó Ikébana: Nghệ thuật cắm hoa).

Ðến hậu bán thế kỷ thứ 16, Trà Thang và Thuật Cắm Hoa đã trở nên phổ cập và đạt đến trình độ cao. Trong Trà Thất không dùng hoa sặc sỡ, chỉ có hoa màu sắc êm dịu, đơn sơ... và thường chỉ có một cành nhỏ.

Vào thế kỷ 17, Trà Ðạo và Hoa Ðạo tách ra, độc lập với nhau. Rồi Hoa Ðạo hình thành nhiều trường phái.

1.- Trường phái Hình Thức (The Formalistic) theo cách cổ điển, chủ trương là Ikenobo.

2.- Trường phái Tự Nhiên (Naturalesque) mô tả hình dáng thiên nhiên, lấy tự nhiên làm kiểu mẫu. (Từ sự phân hóa này đã hình thành hai trường phái hội họa ở Nhật: Phù Thế hội (Ukiyoe) và Tứ Ðiều phái (Shiyo). với rất nhiều bức họa mô tả, ghi chép lại các loài hoa cỏ (như của Sansetsu và Tsunenobu).

 

NGUYÊN LÝ CẮM HOA

 


Nghệ thuật cắm hoa của Nhật Bản đã đưa ra một số nguyên lý chỉ đạo bao hàm những ý nghĩa nhất định. Nguyên lý chỉ đạo đó là Tam Tài: THIÊN - ÐỊA - NHÂN.

THIÊN là nguyên lý chính,

ÐỊA là nguyên lý tùy thuộc,

NHÂN là nguyên lý điều hợp.

Mọi lối cắm hoa đều phải theo đúng nguyên lý mới có ý nghĩa và giá trị. Thế nhưng, trong thực tế, rất ít người làm đúng. Vì nguyên lý cắm hoa này bắt nguồn từ một triết lý Ðông Phương bao hàm Trời, Người và Ðất theo tiến trình “tham thiên địa, tán, hóa dục”, nghĩa là con người ở giữa trời và đất phải cùng trời đất dự vào việc phân phối, chuyển hóa và nuôi dưỡng.

Hoa phải cắm theo một bố cục để thể hiện ba lối hiện thân của Hoa: 1- Hiện thân Chân chính với cách thế trang trọng, bộ vị của vẻ Ðẹp; 2.- Hiện thân trang nhã gọi là "Hành", bộ vị để giao tiếp; 3- Hiện thân đơn sơ mà duyên dáng với bộ vị riêng tư thân mật (Hoa khuê phòng) gọi là “Thảo”.

Lối cắm hoa của Hoa tượng phức tạp và khó thực hiện vì nó đòi hỏi suy tư và phải tuân theo một số quy ước nào đó để dùng hình thức, bố cục của hoa, lá mà diễn đạt ý tưởng trong đầu hoa nhân (người cắm hoa)

Trà nhân cắm hoa theo quan niệm hòa hiệp tâm ý và đời sống. Trà nhân cho rằng nhiệm vụ của mình chỉ là chọn hoa, hái và đặt vào bình hoa. Hoa sẽ tự nó “giải bày thân thế và tâm sự”. Chẳng hạn, vào một Trà thất vào một ngày cuối đông, trên sàng gian trưng bày một cành đào nhỏ bé mảnh mai, kết hợp với một nụ sơn trà. Hình ảnh tương phản của cuộc giao mùa Ðông tận, Xuân sinh.

 

Hoa “độc diễn” đã đẹp, nhưng nếu Hoa cùng với Họa (tranh vẽ) hay Ðiêu khắc thì sự thưởng ngoạn chắc sẽ tuyệt hơn, thú vị hơn./-

 

NGUYỄN-CHÂU

Friday, January 5, 2024

TỪ VAI TRÒ CỦA TRÍ THÔNG MINH NHÂN TẠO (AI) CHO TỚI LÙM XÙM ĐẠO VĂN TẠI MỸ


Đạo Văn -Plagiarism- trong học đường Mỹ quốc gay cấn lắm từ trích dẫn trích đoạn lấy của tác giả nào cũng phải có luật của nó chứ không phải chơi. Plagiarism không chỉ có vậy, ngoài ra nếu ai lấy ý của nguyên tác diễn đạt lại cũng phạm tội đạo văn vậy Diễn đạt lại một lần nữa không chứng dẫn cũng bị đạo văn?Chuyện này không biết AI là robot có tìm ra chăng Nếu dùng thế thì Trí Tuệ Nhân Tạo để tìm ra ĐẠO VĂN THÌ TƯƠNG LAI CÒN HÀNG NGÀN HỌC GIẢ PHẢI VA VÀO TỘI NÀY DO SÓT ĐÓNG VÀ MỞ NGOẶC KÉP TRONG TRÍCH DẪN CŨNG LÀ PHẠM TỘI
Hình Bà Claudine Gay (trái hình), cựu Hiệu Trưởng Đại học Harvard và Neri Oxman vợ của Tỷ Phú Do thái Bill Ackman là cựu giáo sư Đại học Công Nghệ MIT vừa mắc tội đạo văn


CHÀO BẠN ĐỌC

Từ cuộc chiến tranh Do Thái và Hamas đang dẫn đến nhiều biến cố chính trị giáo dục tại Hoa kỳ đến từ Bênh Chống Palestine hay Do Thái. Các đại học hàng đầu tại Hoa Kỳ như Harvard, MIT, University of Penn đang lãnh hậu quả đó

Sức ép từ Quốc Hội Hoa kỳ từ các nhà tài trợ tỷ phú Do thái đang căng thẳng với các hiệu trưởng các trường danh tiếng đó 

Trí Thông Minh Nhân Tạo (AI) đã vào cuộc với các thành tích phăng ra các chi tiết Đạo Văn (plariarism) từ các học giả đã có luận án tiến sĩ tại các đại học đó

một loạt 3 bà hiệu trưởng (trái qua) University of Penn, Harvard và MIT vừa bị Quốc Hội Hoa Kỳ kết tội là "chống Do Thái"

Claudine Gay phải TỪ CHỨC đề "bảo vệ quyền lợi" cho trường sau khi bà hiệu trưởng University of Penn là Liz Magill từ chức và bà Sally Kornbluth hiệu trưởng trường Công Nghệ Mass MIT đang bị chỉa "mũi dùi". Nhà tỷ phú Do THái Bill Ackman người đang chống đối mạnh nhất vào 3 vị hiệu trưởng nói trên..

Vấn đề phải chăng họ từ chức do Đạo Văn hay lý do chính trị cùng quyền lợi tiền bạc? Câu hỏi này người bình thường cũng hiểu thôi...

vợ chồng tỷ phú Do Thái Bill Ackman và Neri Oxman

Phải chăng "ăn miếng trả miếng"  do chỉ 2 hôm sau, tức là hôm nay vợ của tỷ phú Bill Ackman là Neri Oxman từng giảng dạy tại Đại Học MIT phải xin lỗi và xin trường sửa lại những lỗi về 'đạo văn' trong luận án Tiến Sĩ tại MIT 
Nhưng theo tin giờ chót của chính tờ Business Insider thì vợ của tỷ phú Do Thái đã phạm một loạt tới "28 tội đạo văn từ sách giáo khoa,, bài của kẻ khác tới Wilipedia mà không hề chứng dẫn"

Tuy nhiên từ đây chúng ta còn liên tưởng tới vai trò của Trí Thông Minh nhân tạo AI sẽ không còn đứng yên ngang đây. Sẽ còn rất nhiều lỗi lầm đạo văn như những ví dụ  trên cho hàng ngàn học vị tiến sĩ khác tại Hoa Kỳ 

Tại sao chúng ta nghĩ vậy?

Lý do, với robot điện toán với Trí Thông Minh Nhân Tạo chúng là vô hồn vô cảm dù bất cứ ai quên đi cái nhẹ nhất dấu  ngoặc kép "...", dấu ngoặc đơn ( '  ')  hay vài thứ nhỏ khác từ dấu chấm dấu phẩy cho tới cái nặng nhất là "ẳm hết" của người khác về làm của riêng một cách tự tiện tất cả sẽ bị liệt vào 2 chữ ĐẠO VĂN ...

Ngang đây,  chúng ta nên trở lại đề tài chính...


ĐẠO VĂN (PLAGIARISM) LÀ GÌ


MỘT SỐ QUY LUẬT CĂN BẢN VỀ ĐẠO VĂN GIÚP BẠN TRÁNH ĐƯỢC LỖI NÀY


Theo trang OX.AC.UK.COM  (Oxford Students) giải thích tội đạo văn là “trình bày bài viết tác phẩm, ý tưởng của nguồn khác không của riêng mình mà không có sự đồng ý của tác giả hay bằng hình thức ghép nó vào bài của mình  mà người đó không minh chứng đầy đủ. Đạo văn cũng bao gồm tùy tiện lấy các tài liệu dù đã hay chưa xuất bản kể cả bản thảo, bản in hay dạng kỹ thuật số đều cũng phạm lỗi. Đạo văn cũng bao gồm lợi dụng Trí Tuệ Nhân Tạo để tạo ra toàn bộ hay một phần của tác phẩm kẻ khác. Nếu sử dụng lại tác phẩm của chính bạn mà không trích dẫn cũng xem là đạo văn. Theo luật thi cử dù cố ý hay vô tình  là vi phạm lỗi..."


CÁC TỘI VỀ ĐẠO VĂN 



bà Claudine Gay (Harvard) PHẠM LỖI ĐÃ KHÔNG ĐỂ DẤU NGOẶC KÉP KHI TRÍCH DẪN Ở PHẦN DƯỚI 

(Business Insider -Education- January 5, 2024)


1-      TRÍCH DẪN NGUYÊN VĂN  mà không có xác minh trích dẫn nguồn cũng là đạo văn. Ngoài ra các trích dẫn phải trong ngoặc kép hay thụt vào lề (indentation) và ghi đầy đủ nguồn tác giả, sách... Độc giả phải được hiểu phần nào là độc lập của bạn và phần nào rút ra ý tưởng và ngôn ngữ nguồn khác.


2-      LẤY TỪ INTERNET mà không chứng minh rõ rệt. Những thông tin dữ kiện từ Internet phải tham khảo đúng nguồn Internet giá trị vào đưa vào thư mục cuối bài (bibliography).


3-      Diễn giải (lại) Tác phẩm người khác (paraphrasing


Nếu bạn nói lại (nhại lại) bài của người khác bằng thủ thuật thay đổi vài từ ngữ hay đảo ngược thứ tự cũng là đạo văn. Nếu bạn bắt chước bằng cách bám theo cấu trúc ý tưởng hay lập luận của người ta cũng là đạo văn. Khi diễn giải lại bài của ai đó trong cách như vậy bạn phải thừa nhận trước gốc tác giả trong bài của bạn để không cho người ta lầm đây là độc lập của bạn mới khỏi mắc tội đạo văn.


phần THƯ MỤC (bibliographies) cuối bài (research của tác giả ĐHL tại San Jose State University 2012)

4-      TRÍCH DẪN CÙNG THƯ MỤC KHÔNG CHÍNH XÁC Điều quan trọng bạn phải trích dẫn chính xác. Liệt kê đúng các nguồn trong thư mục và trích dẫn cuối bài (biblography- citation-footnotes), đoạn trích ở giữa bài phải cho biết đến từ đâu.


5-      TỘI THÔNG ĐỒNG (CONCLUSION) 

Chúng ta tạm hiểu là "đồng lõa". Trong trường học đưa bài đưa ý cho nhau cũng là tội thông đồng. Dùng bài người khác làm cho mình dĩ nhiên cũng phạm tội thông đồng.

 5- Chúng ta lưu ý, Bài dù của chúng ta nhưng chúng ta đã dùng và nộp trước rồi nay đem ra nộp lại lần khác cũng là "đạo văn". Chúng ta trích đăng bài của chính chúng ta lần trước nay dùng vào bài mới mà không tự trích dẫn cũng xem như là "đạo văn"...


nguồn ảnh hình trích phụ bản (index) cũng phải có xuất xứ trích dẫn
(research của ĐHL / Đại Học San Jose State 2012)

NGOÀI RA CÒN CÓ VÀI LỖI ĐẠO VĂN KHÁC TỪ HÌNH ẢNH CHO ĐẾN NGUỒN FACEBOOK EMAIL NÀO ĐÓ ...LẤY KHÔNG CÓ ĐỒNG Ý CŨNG LÀ ĐẠO VĂN 

==================   


TrÊN ĐÂY LÀ CHUYỆN BẰNG CẤP HỌC VỊ HỌC THUẬT CÒN SỰ THẬT TRÊN DIỄN ĐÀN BÀ CON TA HIỆN TẠI CHÚNG TA DU DI - LINH ĐỘNG RẤT NHIỀU CHẲNG AI ĐÚNG HOÀN TOÀN CẢ ĐÂU DO THỰC TẾ CHUYỆN ĐỜI NÀY LẠI KHÁC VIẾT LÁCH ĐỂ MÀ VIẾT LÁCH  THÔNG TIN Cho Bạn bè CHỨ ĐÂU VÌ ĐỒNG TIỀN BÁT GẠO bằng cấp chức vị NÀO CẢ phải không, thưa bạn đọc?


ĐHL 

biên dịch 5/1/2024


các NGUỒN tham khảo

PLAGIARISM 

https://www.ox.ac.uk/students/academic/guidance/skills/plagiarism

After Harvard and Penn president resignations, focus of ire shifts to MIT’s Kornbluth

After Harvard and Penn president resignations, focus of ire shifts to MIT’s Kornbluth (msn.com)

Academic celebrity Neri Oxman plagiarized from Wikipedia, scholars, a textbook, and other sources without any attribution




Harvard's president might not be the last to lose her job over plagiarism claims, thanks to the power of AI




Wednesday, January 3, 2024

KỶ NIỆM BÌNH THƠ CỦA MỸ

 

KỶ NIỆM VUI VUI KHI NGƯỜI GIÀ ĐI HỌC


Nhà Thơ Hoa Kỳ Lee Robert Frost (1874-1963)

CHUYỆN VUI ĐI HỌC Ở XỨ NGƯỜI 

TÉ RA MỸ CŨNG CÓ BÌNH THƠ NHƯ MIỀNG HÈ?


Bạn đọc thân mến,
Ngày trước lúc còn thời học sinh, mài "đủng quần"  ở ghế nhà trường trên quê nhà, tôi ngỡ rằng chỉ có thơ văn xứ mình  mới có chuyện bình thơ. Nhớ ngày đó thầy dạy quốc văn khi dạy về thơ xưa thường giảng về "cước vận, yêu vận" hay  "mưởu đầu mưởu hậu?" hay  vần -thanh TRẮC BẰNG ... vân vân...
Chuyện thơ văn xứ mình chẳng có gì nói thêm ở đây. Nhưng khi qua xứ Mỹ này, có một ngày học văn thơ nước người ta, mình tôi 'ăn sau chạy dọi' mới có cơ hội 'ngộ ra':  té ra người ta tuy "mắt xanh mũi lỏ" nhưng thơ họ cũng vần cũng khổ cũng trắc cũng bằng nào có kém chi ai? Chuyện tuy nghe tức cười, nhưng do mình chưa học nên chưa biết đó thôi. 
ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG HỌC MỘT SÀNG KHÔN
Người viết mới hay rằng mình còn dốt quá, cái vốn kiến thức chẳng là bao? 

 Kỷ niệm hơn mười năm trước kh còn học tại Đại Học Cộng Đồng Mission College, qua thơ ông thi sĩ Robert Lee Frost tôi mới biết ra mình là người 'thất học' nên chưa biết gì? Ngày đó,  Dr. Valter thầy tôi (dĩ nhiên là ông Mỹ chánh gốc đàng hoàng) bắt tôi phân tích và bình giảng bài thơ ông Robert Frost có đề là:

STOPPING BY WOODS ON A SNOWY EVENING

Bài này làm tôi "chúi mụi chúi lái" tái xanh mặt mày mấy ngày mới xong. May thay thầy thương tình tôi vừa già vừa người Việt nên cho điểm "pass" có nghĩa là đủ điểm, chứ không có dư.
Thật thế,  học tiếng người ta tập đúng văn phạm cách dùng từ ngữ, tập chỉnh câu, làm bài luận ra sao, đã khó rồi nay qua chuyện BÌNH VĂN làm tôi 'phát hoảng'? 
Bạn đọc hỏi làm sao lại phát hoảng? Trước tiên, người viết bài này xin trả lời rằng mong được điểm văn phạm, cách viết cho đủ điểm là chuyện khó khăn. Pass một bài viết cho đúng dạng một bài essay có nhập đề (introducing), thân bài (body) và kết luận (conclusion) good và đủ là mừng tôi đâu dám mơ chi hơn?
Nhưng học tiếng Anh  càng lên cao thì trường chương trình càng đòi hỏi cao hơn mới chuyển cấp hay lấy major (bộ môn chính) được. Sự đòi hỏi (requirement) là bắt buộc (mandatory). Ví dụ lớp English 1B này rất cần cho tôi mới đủ tín chỉ cần thiết cho bộ môn major và ra khỏi trường Cộng Đồng này rồi được chuyển lên Đại Học.
Thú thiệt với bạn đọc,  tôi cũng thích thơ ông Robert Lee Frost nên trước đây có dịch của ông  bài Đêm Lạnh Bên Rừng 
Bài thơ đó nguyên văn như sau
 Stopping by Woods on the Snowy Evening 

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.

My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.

He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound’s the sweep
Of easy wind and downy flake.

The woods are lovely, dark and deep.
But I have promises to keep.
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep.

Lee Robert Frost


ĐHL phóng dịch như sau

                                           ĐÊM LẠNH BÊN RỪNG

Rừng ai? ta đứng bên đường
Nhà người thấp thoáng cuối làng xa xa
Rừng ơi, họ chẳng thấy ta
Ngàn cây màn tuyết thướt tha bóng chiều 

Ngựa yêu bỗng thấy lạ nhiều
Tại sao? vó nghỉ chẳng gần thôn trang
Quanh đây băng giá mặt hồ
Đêm đen tối nhất trong năm nơi này

Rung yên chuông ngựa bồn chồn
Vẫn trông vó nhịp gỏ đều dặm đêm
Chỉ nghe tiếng gió mơn man
Tuyết rơi nhè nhẹ không gian yên bình

Thâm u, rừng bỗng thấy thương
Nhưng đời réo gọi giục ta lên đường
Dặm xa chẳng dám giấc nồng
Bước chân viễn khách giữ lời thề xưa.

Lee Robert  Frost
                                                                ***
Tưởng thế là 'ngon' ta đây là nhà 'dịch thơ' nổi tiếng đến nơi. Thiết tưởng cũng nên mở ngoặc ở đây bài dịch ra tiếng Việt trên không liên quan gì đến lớp học của tôi ngày đó. 
Tôi đã quá tự đắc ra sao?
Khi học lên chuyện bình thơ xứ Mỹ, người viết mới biết tự trách mình: 
Than ôi? Đời đâu dễ như thế để 'thằng tôi' này tự mãn quá sớm?
Có cơ hội lên lớp khác tôi bắt đầu học cách bình thơ Mỹ chẳng hạn tôi kể lại bạn đọc nghe có một hôm Giáo Sư Valter  ra cho tôi bài thơ THE AIM WAS SONG cũng cùng tác giả  là Thi sĩ Robert Frost để lớp chúng tôi BÌNH THƠ?

May mắn thay, Dr. Valter giảng dạy tận tình. Ông cho một bài mẫu, đại khái như thầy chúng ta cho một bài thơ đúng mẹo luật nào đó của VN mình. Từ bài mẫu đó, khi mình đã hiểu cách làm ra sao thì mình lấy đó làm cái khung cho mình bắt chước mà bình bài thơ khác. Vấn đề là mình phải hiểu ý chính của tác giả muốn dạy cho chúng ta điều gì là được. 
Bài bình thơ cũng chẳng khác chi ta, sau phần hình thức, giáo sư sẽ đánh giá xem bạn hiểu phần hai là nội dung sau cùng của tác giả nói gì? 

=============================  
hình: nhà thơ Robert Frost lúc về già 


Người viết không quên copy lại bài nộp của mình lúc đó làm kỷ niệm cho đời học sinh tại xứ Hoa Kỳ
Mai đây mốt nọ có cơ hội xem lại kỷ niệm này mà nhớ về ngôi trường của đất nước dung thân nơi gia đình vợ con được người ta bao dung giúp đỡ. 
Thân già này học hành không quan trọng chỉ mở thêm kiến thức chút nào thôi, nhưng bầy con dại qua xứ này học hành mới quan trọng hơn mình. Đây là điều xác định.

***

PHẦN BÌNH THƠ
- The Aim was Song

Before man came to blow it right
The wind once blew itself untaught,
And did its loudest day and night
In any rough place where it caught.

Man came to tell it what was wrong:
It hadn't found the place to blow;
It blew too hard--the aim was song.
And listen--how it ought to go!

He took a little in his mouth,
And held it long enough for north
To be converted into south,
And then by measure blew it forth.

By measure. It was word and note,
The wind the wind had meant to be--
A little through the lips and throat.
The aim was song--the wind could see.

Lee Robert Frost
 

============================================================ 


Phuc Dinh
ENGL 001B
Professor: Mr. Valter
due date: May 13th 2010

The Aim Was Song

       According to the editors Sylvan Barnet, William Burto, and William E. Cain in An Introduction to Literature, Robert Frost was born in California in 1874, but he began his teenager’s years in New England where his mother taught in some high schools in Massachusetts and New Hampshire. Frost grew up in New England, did some irregular jobs including teaching. He also attended Harvard for two years. He farmed in New Hampshire, published poems in some infamous newspapers, taught again and left for England in 1912. Before he came back America in 1915, he had become a well known poet in England. Resettling in the homeland, Frost lived in a farming land in Massachusetts, and he continued to write more famous poets. Frost’s poems were often affected by the nature; for example, “The Pasture” in 1913, “The Wood-Pile” in 1914, “The Oven Bird” in 1916, “Stopping by Woods on a Snowy Evening” in 1923, “The Aim Was Song” in 1923 etc.

Since Frost’s mother taught in schools and Frost did himself a part of living by teaching, I see a teacher’s image and hear his voice in “The Aim Was Song” (838). Before I come to an analysis, I should primarily find out its meaning and prosody to obtain a deepest comprehension from the advices in his poem.

When I begin to read the first line of the poem “Before man came to blow it right”, I may misunderstand that the man came to learn the wind to blow his own right. Contrarily, when I finish reading the first stanza  (khổ thơ), I understand that before the man comes, the wind blows without a master, lack of control and orientation because “The wind once blew itself untaught”. Without mastering, the wind becomes brutal and violent with “loudest day and night…in any rough place”. The man actually comes to tell the wind what are the mistakes like the wrong place and the fierce power because Frost writes in the second stanza: “It hadn’t found the place to blow” and “It blew too hard”. The man reminds the wind in line 7 that “the aim was song”, and he tells the wind “how it ought to go” in line 8. In the third stanza the man now practices artfully to conduct the wind to become a “song”. He doesn’t need too much strength but patience; furthermore, the correct orientation and direction can make the song continuously progressed to the future successfully. Finally, in the last stanza the man gives a lesson to the wind that it ought to change its living style to a certain formality like “word and note” including a meaningful life which “had meant to be” with adjustments with “a little through lips and throat” to harvest a beautiful aim.

    “The Aim Was Song” wouldn’t enough for me if I read it only for the meaning. Coming to the prosody (thi luật), I see it has four quatrain stanzas (khổ thơ loại 4 câu). First, I recognize the stanzas have perfect rhymes (vần) (exact rhymes); for examples, right/nightuntaught/caught in the first stanza. Also, for the metrical rhymes (nhịp điệu), the poem is written in the iambic tetrameter;(
 it is a line of poetry with four beats of one unstressed syllable, followed by one stressed syllable, and it is called iambic tetrameter) it means each line has four iambic feet (An iamb is a beat in a line of poetry where one unstressed syllable is followed by a stressed syllable.) To explain this point, for example I name the letter b for each unaccented syllable and the letter a for each accented syllable, then I type the accented syllables in the bold ones; thus, each line of the poem is seen like bbbba. Hence, the first stanza I read like this:

b / a    b / a    b / a    b / a
Be / fore man / came to / blow it / right
The /wind once / blew it / self un / taught
And/did its / lou dest / day and / night
In / an y / rough place / where it / caught

    In addition, all the sixteen lines have the masculine endings; it means the last syllable of each line is stressed syllable. I also find out caesuras ( 
caesura is perfect because it gives you natural breaks in poetry.  ngắt hơi, nghỉ không cần lệ thuộc nhịp điệu nữa in four lines 7, 8, 13, and 16; for example, “By measure. // It was word and note,” in line 13. The poem has six lines which end with clear syntactical pauses at the six lines: 4,6,7,12,15, and 16. Thus, the remaining lines are the run on lines (enjambments) because each of them goes to the next line without a distinct syntactical pause; for examples, “Before man came to blow it right”/“The wind once blew itself untaught,” and “Man came to tell it what was wrong:” they don’t have any clear syntactical pause. (cú pháp ngắt câu)  In each stanza, the first line rhymes with third line, and the second line rhymes with the fourth line; for instance, in the first stanza: “right” / “night”, “untaught”/ “caught”. Hence, each stanza has a different rhyme scheme (âm giai). If I named the last syllable of each line with a capital letter, the rhyme scheme would look like: 
A
B
A

C
D
C

E
F
E
F

 G
H
G
H.

      The appearance meaning and the prosody ( thi điệu ) explained above are only technicalities; therefore, I need to continue exploring the depth of the poem. For the literary aspects, “the wind” is used as a metaphor ( phép ẩn dụ ) for problems involving control, domination, alternating, redirecting because “the wind” is personified with human senses and motions like “untaught” “loudest” “caught” in the first stanza”, “wrong” “listen” “go” in the third stanza, and “lips and throat”, “see” in the last stanza. I am also aware of some conflicts implying in the poem when the man wants to harness or to oppress the freeness of the wind; for example, “untaught” and “loudest” are understood as a freedom situation which is set to a certain restriction situation. The man represents for a mastering society of human kind who comes to witness for the wrong things of untamed natural forces in the world like “what was wrong”, “place to blow”, “blew too hard-the aim was song”, and “listen-how it ought to go!” as I read in the third stanza. These conflicts should be understood that for those who are uneducated must be commented, tamed, and finally educated to the best situation.

     There is an educational tone which is confirmed by “right”, “untaught” in the first stanza; it helps me easily understand the advisory tone with “aim was song”, and “how it ought to go!” in the second stanza. I also feel an academic tone as “a little in his mouth”, “held it long”, and “by measure blew it forth” in the third stanza, finally the optimistic tone is felt in the last line as “The aim was song – the wind could see”. Frost writes the poem in the third-person (ngôi thứ ba )  point of view as “man”, “wind”, and “it”; however, the “He” in line 9 is vague because the wind might be the “He” instead of “the man”. Finally, “the aim was song” can become a motif throughout the poem because it appears in the line 7 and repeats in the last line.

     After exploring two previous parts of the poem, I figure out Frost desires to address a theme ( chủ đề ) that people should always learn, direct, and monitor things of life to a beneficial aim. “The Aim was Song” is a myth(  huyền thoại ) rather than a story because the wind is actually a metaphor for the human issues which relate to control, oppression of imagination, and endless mastering willingness. Under God, Frost would like to honor human superiority against the natural freeness. Because the wind is untamed, brutal, and fierce, people would transform it by taming, organizing, and teaching. The man in the poem probably is a master who will teach the wind because the wind is “untaught” as in line 2. The “right” in the opening line is that the man (the teacher) will come to correct the wind to follow what the man did right. In my point, the wind should give up its “untaught” world, and listen to the man’s comments as I reread the second stanza:
Man came to tell it what was wrong:
It hadn’t found the place to blow:
It blew too hard-the aim was song.
And listen-how it ought to go!

    Obviously, the teacher never wants the wind cries or screams too loud “day and night” when it dares to challenge with “any rough place” because it lacks of order and principles that are always uneducated things in the teacher’s view. To agree with Frost, I select this poem because I think people should work ordinarily with discipline and rules to create a beauty in life.

    However, the “He” in the third stanza makes me confused. I am not sure whether “He” is “man” or “wind”. If “He” were the man, he would teach the wind with his professional motions like in the third stanza. In other hand, if “He” were the wind, it would practice “right” like what it learned from the man (the teacher). To a more profound thought, the wind not only blows a song but also blows with poetic or artful word. From this point, the idea may reach to a universal meaning that if people would like more nice words, they had to think before speak.

    Although, Robert Frost is a poem, he seems being a philosopher; either way I think his works are great. Frost’s poem “The Aim Was Song” stands for the educational advices which are spoken by an experienced teacher instead of a famous poet. I really enjoy reading it with a fully agreement. In my opinion, I would like to suggest that we need to control ourselves out of fierceness, brutality, and violence. Remember, the state of being of over or unruly freedom may bring us failure rather than success. We would reach a glorious “aim” if we knew how to live according to principles and adjustments which are given by social educational institutions. Adjusting and monitoring are details of educational principles, and by which the teacher’s advices are highly appreciated to the aim of goodness for our lives.

sources:

Barnet, Sylvan, William Burto, and William E. Cain, Eds. An Introduction to Literature. 15th ed. New York: Longman, 2008.
Frost, Robert. “The Aim Was Song.” Barnet, Burto, and Cain 838.

==============================

May sao, tôi đủ điểm pass. Tôi không mong chi hơn được pass là mừng hú.

Đây chỉ là mới vở lòng vào chốn thi văn mẹo luật Hoa kỳ . Còn nữa mấy lớp trên đang hứa hẹn cho tui nhiều thứ mệt "bở hơi tai"?

Tôi nghiệm ra chớ nên tự hào văn thơ nước mình là nhất. Bình thơ, mẹo luật thơ  đâu phải ở xứ mình mới có? Qua xứ người tôi mới nghiệm ra có nhiều điều mình cần phải học.

***

PHÓNG DỊCH CHO BÀI

THE AIM WAS SONG

Đời Là Khúc Hoan Ca

Trước khi có khúc hoan ca nhân thế
Gió một mình chỉ biết thổi vu vơ
Gầm thét huyên thiên cho hết tháng ngày
Qua ghềnh thác qua bao đồi hoang dã

Người tới gần ân cần bảo gió
Gió chưa tìm ý hướng cho đời
Gào thét làm chi--đời là nhạc
Gió có nghe--tiếng sáo Nghê Thường

Người chỉ cần làn hơi điệu nghệ
đi khắp nơi hát xướng giúp đời
Đem niềm vui bốn phương tám hướng
cùng trọn vẹn niềm vui chung thủy

Và cứ thế, muôn ngàn nốt nhạc
Gió nghe người góp tiếng ca vang
Mấp máy môi, lời vàng thỏ thẻ
Nhạc cho đời--gió thấy từ đây.


ĐHL phóng dịch (bài dịch này không liên quan đến lớp học)

 JAN 16TH 2011

Đhl EDITION 1/4/ 2021

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...