Saturday, October 7, 2023

John E. Steinbeck- CÚC HOA

 

                                     









nguyên tác:
 The Chrysantemums 
by John E. Steinbeck 

chuyển ngữ Đinh hoa Lư 

                                      ***

Sơ lược tiểu sử của Văn Hào John E. Steinbeck

nhà văn John Steinbeck

Lời dẫn:
John Ernst Steinbeck, Jr. là nhà văn Mỹ. Ông sinh năm 1902 và mất năm 1968. Ông nổi tiếng trong văn giới Hoa Kỳ sau khi đoạt giải Pulitzer văn học với tác phẩm Chùm Nho Phẫn Nộ(The Grapes of Wrath, 1939) và qua Hướng Đông vườn Địa Đàng, (East of Eden 1952), Của Chuột và Người (Of Mice and Man, 1937).
Ông là tác giả của 27 tác phẩm bao gồm 16 tiểu thuyết, 6 tự truyện, 5 tác phẩm tổng hợp thuộc nhiều truyên ngắn. 
John Steinbeck thắng giải Nobel văn học vào năm 1962.
Nhà văn Steinbeck bắt đầu viết trước thời Khủng Hoảng Kinh Tế thập niên 1930s của Hoa kỳ. Như trong Chùm Nho Phẫn Nộ, ông miêu tả sự di cư ào ạt của nông dân Mỹ cùng cuộc sống khó khăn từ miền trung tây Hoa Kỳ nơi chịu khủng hoảng nông nghiệp tiếp theo lại đại họa DUST BOWL – những đám bụi khổng lồ che kín các tiểu bang Texas , Oklahoma lan tới cả bờ biển phía đông Mỹ quốc. Hàng loạt nông dân thất nghiệp phải bỏ quê hương đi kiếm sống tại California. Trong tác phẩm đó, ông nói lên một thực trạng bất công trong xã hội Tư Bản giữa giới chủ Nông Nghiệp và tầng lớp đông đảo làm thuê. Từ ngòi bút bộc trực và không kém sắc bén của ông nên có lúc ông bị giới tư bản 'ghép' cho ông là Cộng Sản. Thật sự, với khả năng miêu tả phong phú, Steinbeck chỉ có nhiệm vụ "lột trần" những sự thật mà thôi.
Trở lại truyện ngắn The Chrysanthemums này, Nhà văn John Steinbeck một lần nữa,  muốn nói về cuộc sống khó khăn của người dân Mỹ trong cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế. Công ăn việc làm quá hiếm hoi, người ta kiếm ra đồng bạc độ nhật qua ngày không phải là chuyện dễ dàng?
Gã thợ dạo chuyên mài dao kéo phải uống cong “ba tấc lưỡi” đánh trúng vào tâm lý yêu hoa của nhân vật nữ Elisa, người chủ vườn cúc. Gã  giả vờ ca tụng hoa cúc, sở thích của nàng  hầu mong nàng sửa cho một ít đồ. Mục đích của gã chỉ vì tiền, thế thôi. Trái lại, nàng Elisa thì đớn đau chua xót trong lòng do sau này biết được lòng yêu mến nghề nghiệp cùng nghệ thuật của nàng đã bị lợi dụng và chà đạp phũ phang.
                                        
                                                    ***

        Thung Lũng Salinas 




    Vài đám sương mù mùa đông mờ xám lướt thướt bay trên cao như tách rời  thung lũng Salinas ra khỏi bầu trời quảng khoát của thế giới bên ngoài. Sương mờ che kín dãy núi bao quanh thung lũng trông y cái nắp khổng lồ cho một cái nồi vĩ đại.

Trên các dãi đất bằng phẳng, người ta cày sâu vào làm tơi lên màu đất đen kim loại. Mấy nông trại nằm ở chân đồi cạnh con sông Salinas. Sắc vàng do những đám đất còn trơ gốc rạ đang tắm ánh nắng yếu ớt mùa đông. Thực ra chẳng có ánh nắng nào trong cái thung lũng này vào tháng Chạp. Bụi liễu khô rậm cạnh bờ sông rực rở hẳn lên từ đám lá nhọn hoắc, vàng đậm.

Đây là lúc của im lặng và đợi chờ. Làn không khí lành lạnh, êm đềm. Ngọn gió nhẹ nhàng từ hướng Tây Nam làm anh nông dân mơ màng về một trận mưa lớn sẽ tới; nhưng khi trời sương mù thì làm gì có chuyện mưa?

Bên kia sông dưới chân đồi, nông trại của nhà Henry Allen vẫn còn ít việc phải làm. Cỏ khô phải cắt cất vào kho cùng đất vườn cần cày xong để đợi trận mưa đầu mùa sắp đến. Đàn bò trên dốc giờ lông chúng thô ráp xù- xì.

Elisa Allen vừa làm  trong mảnh vườn hoa của nàng vừa ngó xuống phía dưới thì thấy Henry, chồng nàng đang nói chuyện với hai gả đàn ông. Hai người khách này ăn bận theo kiểu thương nhân. Cả ba đứng cạnh mái nhà chứa xe kéo.Hai người khách để một chân bên hông chiếc xe nhỏ hiệu Fordson, hút thuốc, bàn chuyện máy móc...
Elisa chỉ nhìn sơ qua rồi tiếp tục làm. Nàng độ tuổi ba mươi lăm, khuôn mặt đầy đặn thoáng mạnh bạo cùng đôi mắt trong như làn nước. Dáng nàng đóng khung trong bộ áo quần làm vườn thô kệch với cái nón đàn ông đen kéo thấp che cả mắt.Đôi giày làm vườn nặng chịch.  Bộ áo quần có vẽ hình gần như bị che phủ bởi cái cái tạp dề vải bông dầy có bốn túi lớn đựng nào kéo tỉa, nào xẻng, cào, hạt giống cùng dao. Nàng còn mang cả đôi bao tay da để bảo vệ hai tay.
Elisa dùng cái kéo ngắn mạnh cắt bớt mấy cuống cúc già. Thỉnh thoảng nàng trông qua mấy ông khách vừa tới trang trại. Mấy người đó còn đứng cạnh chiếc máy kéo. Mặt nàng giờ đẹp lạ lùng,đây đầy nét hăm hở, hồn nhiên. Khi làm với chiếc kéo cắt cây trông Elisa thừa hăng say và tràn đầy sức mạnh. Những cành cúc yếu đuối kia giờ thật nhỏ bé so với năng lực của nàng.

Dùng phần lưng của bao tay, nàng khẻ vuốt lại làn tóc đang rũ trước mắt làm vương một vết bẩn dưới cằm. Đàng sau là nhà nàng, màu trắng xây theo kiểu nông trang. Nó trông gọn gàng với những cây phong lữ màu đỏ xung quanh chiều cao chúng ngang tầm với mấy khung cửa sổ. Căn nhà coi bộ quét dọn kỹ. Mấy khung cửa sổ đánh bóng tinh tươm  cả cái bậc tam cấp trước nhà cũng có cái thảm chùi bùn hẳn hoi.

Elisa liếc mắt lại hướng cái chái và chiếc xe máy cày lần nữa. Hai người khách đã vào lại chiếc xe Ford. Nàng cởi bớt một chiếc bao tay, dùng đầu ngón tay lách mạnh mạnh vào đám cúc con mới nhú mầm xanh non quanh mấy cái rễ già. Nàng luồn lách ngón tay giữa đám lá non để biết chắc không còn loại sâu, côn trùng, rệp lá hay sên nào hại cúc. Elisa  phải giết hết  những thứ  này trước khi nó sinh sôi...



Chợt tiếng chồng vang lên sau lưng, anh im lìm tới gần Elisa không biết lúc nào? Hơi nghiêng người qua hàng kẽm gai bảo vệ vườn hoa hay chống lại bầy bò, lũ chó, gà:
-Lại trồng thứ đó nữa?
-Em lại thêm một vụ cúc nữa đây rồi, khá chứ em?
Elisa thẳng lưng dậy, nàng lại kéo bao tay ra:
-Vâng, vụ hoa năm này chắc hẳn là khá lắm.
Nàng cao giọng, sắc mặt đầy vẻ tự hào.
-Những thứ này là món quà cho em đấy.
Henry nhận xét.
-Năm nay em gầy được loại cúc vàng lớn đoá thật, anh đoán nó to đến mười phân lận. Anh ước sao em cũng tạo được trong vườn cây ăn trái nhà mình mấy trái táo to đến ngần ấy thì hay biết mấy.
Mắt nàng bỗng sắc sảo hơn:
– Làm được chứ anh. Đã nói, em giỏi về món này mà. Mẹ em cũng thế đó anh. Mẹ chỉ cắm cành xuống vườn là mọc ra cây trái ngay. Mẹ em thường nói phải bắt những bàn tay người làm vườn phải biết làm sao trồng cho được mà.
-Vậy thì, trồng hoa coi bộ chắc ăn.
– Henry, hai người nào nói chuyện với anh vậy?
-Bởi thế anh mới tới nói cho em biết đây. Mấy gã đó là người của Công Ty Thịt bò Miền Tây. Anh đã thuận bán bầy bò thịt ba mươi con rồi. Cũng suýt soát với giá anh muốn.
-Tốt thật.
Nàng buông nhẹ:
– Tốt thật cho anh đó.
– Và anh nghĩ rằng …
Henry tiếp tục:
– Anh mong trưa thứ Bảy này chúng mình sẽ về Salinas ăn tối tại tiệm. Ăn xong chúng mình sẽ đi xem phim coi như là ăn mừng chuyện này nhé.
-Tốt.
Nghĩ sao nàng lặp lại:
-Ồ vâng, vậy thì tốt quá!
Giọng Henry có vẻ đùa:
– Tối lại có một trận võ đài. Em có thích võ đài không nào?
-Ô, không.
Nàng như muốn nín thở:
-Em không thích võ đài đâu.
-Anh đùa thôi, Elisa. Chúng mình sẽ xem phim. Xem này, bây giờ là hai giờ, anh sẽ gọi thêm Scotty giúp lùa bầy bò trên đồi xuống. Sẽ mất hai giờ nữa. Chúng mình sẽ về phố khoảng năm giờ ăn tối ở khách sạn Cominos. Em thích chứ?
– Dĩ nhiên là em thích rồi, ăn một bữa xa nhà thú lắm.
-Tốt , thôi anh đi lấy hai con ngựa đã.
– Giờ em còn nhiều thời gian để bứng trồng một mớ cây này đã.

Nàng nghe tiếng chồng gọi Scotty cạnh kho rơm. Lát sau, có bóng hai người đàn ông cưỡi ngựa ngược lên triền đồi vàng chệch màu cỏ úa vàng vọt kia để lùa bò về.

                                                        ******
       Salinas Valley




Một cây cúc có một khoảng nhỏ đất pha cát vuông vắn. Elisa dùng cái xẻng nhỏ liên tục trộn đều đất, xong nàng ém quanh đễ giữ chặt từng gốc cúc. Nàng xới đều mười khoảnh đất song song với nhau để trồng những gốc cúc này. Nàng tiếp tục dùng kéo xén bớt lá và rể thừa và để từng cụm rác nhỏ bên cạnh.


Chợt có tiếng bánh xe “cót- két” nghe thật nặng nhọc từ con đường vẳng lại. Elisa khẻ nhìn lên.

một cảnh trong phim The Chrysanthemums 
Con đường quê xuyên qua mấy rừng liễu cùng bông gòn dày đặc tiếp giáp với con sông. Từ đằng xa có một cổ xe trông là lạ, gợi tính tò mò. Đó là một toa xe ngựa, loại toa chở hàng có lò xo nhún cho êm với một tấm bạt tròn cong cong che cao trông giống toa xe kéo thuở xưa. Con ngựa già và một con lừa hai màu trắng, xám, đang kéo toa xe. Ngồi trên toa xe này, gã đàn ông hàm râu lởm chởm. Trên đầu gã chỉ có vài miếng che sơ sài. Gã gắng điều khiển, kéo lê toán lữ hành chậm chạp tiến lên từng bước trên đường. Dưới toa xe, khuất sau phần trong mấy chiếc bánh xe đang chạy, có con chó lai ốm tong teo thong thả bước theo. Hàng chữ viết trên tấm bạt coi bộ vụng về, cẩu thả: 

 Nồi, chảo, dao , céo (sic), làm cỏ. SỬA HẾT MỌI THỨ

 Hai hàng chữ ở trên cùng chữ SỬA to tướng có vẻ tự tin ở dưới. Gã còn cẩu thả để những vết sơn đen chảy dài xuống chữ gã viết.


 Elisa ngồi xổm trên nền đất, lặng ngắm toa xe khập khểnh lăn bánh đi qua. Nhưng toa xe này không qua ngay. Nó đang rẽ vào con đường trước ngõ vào nhà nàng, mang theo tiếng cót- két chói tai từ mấy chiếc bánh xe ọp- ẹp kia. Con chó lai dưới gầm bánh giờ chui tọt ra ngoài, chạy ra hướng trước. Lập tức hai con chó chăn cừu trong nhà phóng vụt ra. Đuôi của ba con chó dựng đứng, hơi ngo ngoe, cẳng căng ra trong dáng điệu sẵn sàng nghênh chiến, hết sức thiện nghệ và cẩn trọng.

Toa xe xe thực sự dừng hẳn trước hàng rào của vườn Elisa. Giờ đây con chó mới này cảm thấy vô tích sự, đuôi cụp xuống, nó chun lại vào dưới gầm nằm đợi nhưng lông cổ vẫn còn dựng, hàm răng nó còn nhe ra ngoài.

Gã đàn ông trên xe nói vọng ra:

-Con chó này chiến đấu coi tệ thật phải không bà?

Elisa cười:

 -Tôi cũng thấy thế, nó đi theo ông bao lâu rồi?

Gã không bỏ qua cơ hội lúc nàng đang vui vẻ trả lời ngay:

-Cũng không phải tuần này qua tuần khác đâu thưa bà...

Vừa trả lời gã vừa men theo bánh xe trụt xuống. Hai con ngựa và lừa giờ đầu cụp xuống, trông chẳng khác gì những cánh hoa thiếu nước chút nào.Gã là một người đàn ông to lớn. Tóc râu tuy xám ngắt nhưng trông gã không già lắm. Bộ đồ đen nhăn tụm, lốm đốm vết dầu mỡ. Cùng lúc tiếng cười của gã ngưng, nụ cười cùng ánh mắt gã biến mất theo ngay. Đôi mắt tối thẩm, ủ ê, thần sắc của những kẻ rong ruổi lâu ngày trên xe hay đi biển lâu ngày. Đôi tay chai sạm của gã tựa lên hàng kẽm gai trông nứt nẻ, những vết nứt đen bầm.

 Gã giở chiếc mũ méo mó xuống:

-Thưa bà tôi từ ngoài lộ chính vào...có phải con đường đất này sẽ băng qua sông và dẫn tới xa lộ Los Angeles không hả bà?

Elisa giờ mới đứng dậy, vội bỏ cái kéo dày vào túi trước:

-Ồ vâng, con đường này sẽ tới đó, nhưng phải đi men theo con sông mới có chỗ cạn lội qua. Tôi không biết cỗ xe của ông có lội qua cát nổi không ?

Gã nhanh miệng đáp ngay, giọng cộc cằn:

-Tôi dám cá chắc, bà phải ngạc nhiên khi bầy súc sinh này sẽ lội qua được ngay.

-Thế thì khi nào xe ông sẽ tiếp tục đi lại?

Thoáng một giây gã cười:

- Vâng thưa bà khi nào chúng ‘đáng bắt đầu’ đi lại ạ .

-Vậy à.

 -Tôi nghĩ cách tốt nhất để tiết kiệm thì giờ ông nên ra lại đường Salinas và gặp được xa lộ chính theo hướng đó thì hay hơn.

Gã đưa ngón tay thô kệch vừa đè lên lưới thép ngăn gà vừa phân bua một cách nghề nghiệp:

- Tôi chưa vội lắm đâu thưa bà, hàng năm tôi vẫn đều đều đi từ Seatle về đến San Diego và trở lại. Cuộc đời tôi cứ mãi thế. Một chuyến đi mất hết sáu tháng. Tôi biết nhắm lúc thời tiết thuận lợi nhất bà ạ.

Elisa cởi bao tay, cái kéo làm vườn, cất lại vào túi trước cái tạp dề đang bận. Ngón tay nàng lần vào dưới vành cái mũ đàn ông sờ mấy lọn tóc dấu kín bên trong:

- Cuộc sống của ông nghe thú vị thật!

Dáng điệu gã giờ tự tin, gã nghiêng người qua hàng rào:

- Có lẽ bà đã đọc mấy chữ tôi viết bên xe rồi chứ bà. Tôi chuyên nghề đi sửa nồi dao kéo. Thế thì bà có cái gì cần sửa không thưa bà?

-Ồ không, không có, không có những thứ đó.

 Nàng vội trả lời ngay. Đôi mắt nàng chợt thoáng chụn lại nét bất nhẫn nào đó.

-Kéo cắt cây mau hư lắm bà ơi!

 Gã cố giải thích:

-Người ta càng cố làm kéo bén chừng nào thì càng làm cho kéo mau hư chừng đó, nhưng duy chỉ mình tôi có một dụng cụ đặc biệt, chuyên môn. Mọi ai khác dù có bảo chứng tôi cũng chắc là trò giả thôi bà ơi!

-Ồ không, kéo tôi tất cả còn bén lắm ông à.

-Vậy thì bà đem cái nồi cho tôi làm cho?

Giọng gã khẩn khoản van nài:

 - Cái nồi nào móp hay cái nào lủng. Tôi cam đoan sẽ làm cho nó mới ngay và bà khỏi cần mua mới. Nó tiết kiệm cho bà nhiều lắm đó.

-Không!

 Giọng Elisa nghe cụt lủn.

-Tôi đã bảo với ông tôi không có cái gì để sửa cả!

Mặt gã chợt buồn thiu, giọng nghe như rên rỉ:

-Hôm nay tôi chưa có món đồ nào để sửa cả bà ơi. Có lẽ tối nay tôi không kiếm ra bữa ăn tối rồi. Bà thấy đó, do tôi phải rẽ vào đường tắt này, chứ dọc theo xa lộ từ Seatle cho đến San Diego ai cũng để dành đồ chờ tôi sửa vì họ biết tôi sửa khéo và tiết kiệm được tiền cho họ nữa đó.

  -Xin lỗi.

 Elisa bỗng nổi cáu:

  -Tôi không có bất cứ cái gì cho ông sửa hết!

Mắt gã giờ đây đảo quanh soi mói trên mặt vườn. Ánh mắt dừng lại trên thửa cúc nơi nàng đang làm:

-Loại cây gì đó thưa bà?
cuc hoa
Vẻ khó chịu và bất nhẫn vội biến mất trên gương mặt Elisa:

  -À, chúng là cúc vàng, cúc trắng loại đại đóa đấy. Hàng năm tôi trồng những loại này và chưa ai quanh đây có hoa này lớn hơn tôi cả.

- Loại hoa cuống dài, chúng trông như những ngụm khói màu phải không thưa bà?

- Phải, phải ông tả nghe thật chính xác!

-Nó ngửi có vẻ khó chịu cho đến lúc nào chúng ta quen dùng nó nữa đấy.

Nàng chỉnh lại:

-Nó có mùi khá nồng, hoàn toàn không phải khó chịu như ông nói đâu.

Gã đổi giọng ngay:

- Tôi lại thích mùi ấy đó bà. 

Elisa khoe:

-Năm nay tôi trồng được loại cúc lớn đến mười phân đó ông.

Gã lại nghiêng ngưòi sâu thêm vào trong hàng rào:

-Này bà, dọc đường tôi vừa quen một bà.  Bà này có vườn hoa thật xinh chắc bà chưa hề thấy. Bà trồng đủ loại hoa nhưng không có loại cúc so được với cúc của bà tại đây. Tôi vừa vá cái đáy bồn tắm cho bà ta. Thật khó nhưng tôi làm được. Bà ấy có dặn tôi rằng, khi tôi đi qua nơi nào có cúc đẹp nhớ kiếm cho bà ấy một ít hạt giống. Bà ấy bảo tôi vậy đó thưa bà.

Đôi mắt Elisa giờ đây trở nên linh hoạt, háo hức:

 -Bà ấy dĩ nhiên không biết nhiều về cúc đâu. Ông có thể lấy hạt trồng ra nó, nhưng lấy mầm và trồng nó thì dễ hơn nhiều như ông thấy ở đây vậy.

-Ồ!  Gã kêu lên.

- Vậy thì tôi chắc không đem gì cho bà ấy được rồi.

-Sao lại không?  Elisa kêu lên.

-Tôi sẽ cho vào một ít cát ẩm, xong ông có thể mang chúng đi theo. Chúng sẽ ra rễ trong chậu, nếu ông tiếp tục giữ cho nó ẩm rồi bà ấy có thể bứng ra mà trồng thôi .

-Bà ấy chắc chắn sẽ có những chậu cúc đẹp lắm. Chính bà nói chúng là loại đẹp nhất phải không thưa bà?

-Đẹp. Nàng thốt lên.

-Ồ! phải đẹp chứ.

Đôi mắt Elisa chợt long lanh.

Nàng hất cái mủ rách sờn vội rủ làn tóc đen nhánh và thật đẹp ra ngoài:

- Tôi sẽ bứng nó đem vào chậu hoa, rồi ông có quyền đem theo, nào hãy vào đi.

Trong lúc gã lách mình qua hàng rào, Elisa hăm hở chạy vội theo hàng cây phong lữ lui hướng sau nhà. Khi trở ra, nàng mang ra một chậu đựng hoa màu đỏ. Nàng quên mang cả bao tay, quỳ trên nền đất, làm cho nền đất ẩm phẳng phiu. Elisa dùng ngón tay cùng cái xẻng nhỏ bứng đất vào chậu hoa mới tinh này. Xong xuôi nàng đặt vào đó mấy nhúm mầm cúc đang lên vào chậu. Đầu ngón tay nàng ấn mạnh chúng sâu hơn vào trong lớp cát ẩm kia xong, nàng dùng khủyu ngón tay ấn đều xung quanh.

Đợi khi gã đứng gần, nàng bảo:

-Những thứ tôi dặn ông, nhớ bảo bà ấy làm như vậy nhé.

   -Tôi cố nhớ lời bà dặn, thưa bà.

   -Tốt lắm, ông hãy nhìn xem. Những cái mầm này sẽ bén rễ trong vòng một tháng. Xong bà ấy sẽ bứng nó ra cách nhau chừng một bộ (foot) một cây vào thứ đất thật tốt như tôi làm ở đây, ông thấy không?

Vừa nói nàng bốc lên một nắm đất đen nhánh cho gã thấy.

- Những cây cúc này sẽ lớn nhanh và cao lắm. Giờ xin ông nhớ điều này. Dặn bà ta vào tháng bảy cắt chúng đi chừa lại cao khoảng tám phân (inch) thôi nhé.

  -Trước khi nó ra hoa phải không thưa bà?

  - Đúng, trước khi nó ra hoa.

Mặt nàng đầy vẻ thiết tha:

 -Chúng sẽ mọc thêm ngay. Khoảng cuối tháng Chín chúng bắt đầu ra búp non.

Chợt nàng ngưng nói và xem bộ hơi lúng túng:

-Khi cúc ra búp nó cần chăm sóc kỹ.

Ngập ngừng nàng tiếp:

 -Tôi không biết làm sao để nói thêm với ông.

Nàng nhìn sâu vào mắt gã như dò xét. Miệng nàng hơi hé xem chừng như muốn lắng nghe .

-Tôi sẽ gắng giải thích cho ông, có khi nào ông nghe nói ‘bàn tay trồng cây’ là gì chưa?

-Thật sự chưa bà ạ.

- Vậy thì, tôi bảo ông thứ cảm giác ông sẽ cảm nhận khi muốn ngắt bớt những búp nào mà ông không thích. Mọi chuyện ăn thua ở mấy đầu ngón tay ông. Ông sẽ nhìn ngón tay ông làm việc. Những đầu ngón tay này tự làm công việc của chúng. Ông sẽ cảm nhận chúng ra sao. Chúng ngắt và ngắt những búp hoa. Chúng chẳng bao giờ sai sót. Chúng dành cho cây cỏ, ông thấy đó không? Ngón tay ông và cây cỏ. Ông có thể cảm nhận rằng cánh tay ông. Chúng biết chúng không bao giờ làm sai. Ông có thể cảm nhận nó. Mỗi khi ông ưa thích rồi thì ông sẽ không làm trật. Ông có thấy đó không? Ông hiểu không vậy?

Nàng vừa quỳ trên nền đất vừa ngước mặt lên nhìn gã. Ngực nàng phập phồng đầy cảm kích.

Đôi mắt gã hẹp lại, tự giác quay đi:

-Có lẽ tôi biết, thưa bà, có đôi khi trong màn đêm trong toa xe ngoài kia...

Giọng của Elisa trở nên khản đục. Nàng ngắt lời gã:

- Tôi chưa bao giờ sống cuộc sống như ông, nhưng tôi biết ý ông muốn nói. Khi màn đêm xuống lại tối tăm..tại sao, những tia sáng nhọn hoắt của những vị sao lập lòe trong khoảng không im vắng kia. Tại sao, ông lại càng lúc càng lớn hơn thêm?Vì mọi ngôi sao lập lòe kia đã thẩm thấu vào trong ngừơi ông. Giống như thế. Nhiệt tình và tinh nhanh và cả...trìu mến nữa kia.

Tiếp tục quỳ trên nền đất , tay nàng với rộng hướng về phía chân gã đang đứng với cái quần đen dính đầy dầu mỡ. Những ngón tay ngập ngừng gần chạm vào thứ vải kia. Tay nàng chợt buông xuống nền đất. Nàng khom lưng thật thấp trông giống chú chó đang mừng chủ.

Gã vội nói:

-Như lời bà chỉ thật quý hóa quá! Làm bà quên luôn bữa tối đây rồi, không thể như thế này được.

Elisa vội đứng thẳng dậy, mặt nàng thoáng thẹn thùng. Nàng nhẹ nhàng đưa chậu hoa vào tay gã:

- Đây, xin ông đặt nó vào toa xe cạnh chỗ ngồi, nơi ông có thể canh chừng nó. Có thể tôi đi tìm cho ông thứ gì cho ông sửa đây.

Nàng tìm trong đống đồ cũ sau lưng nhà ra hai cái chảo nhôm méo mó xong mang lại cho gã:

-Đây, nhờ ông sửa cho.

Thái độ của gã giờ đây lại đổi khác. Gã trở lại tính cách nghề nghiệp của mình:

- Bà sẽ thấy nó mới toanh, vâng tôi sẽ làm ngay.

Cuối toa xe gã đặt một cái đe nhỏ. Trong cái hộp dụng cụ dính dầu mỡ có cái búa máy nhỏ. Elisa bước ra cổng xem gã làm.  Gã đang đập lại mấy vết lõm bên trong cái ấm nước. Miệng gã có vẻ tin chắc và thành thạo. Đến phần khó nhất, môi dưới gã bậm lại.

-Ông ngủ trong toa xe này hả?

-Ngay trong xe này, thưa bà. Mưa hay nắng tôi đều khổ sở như con bò đằng kia kìa.

-Thế thì thú quá, như thế thì quá thú đi, ước gì đàn bà cũng sống và làm như ông vậy.

-Đây không phải cuộc sống thích hợp cho đàn bà đâu.

Môi trên nàng hơi trề ra, làm lộ hàm răng:

- Sao ông biết? Sao ông lại nói thế?

-Tôi không biết bà ạ. Gã chống chế.

- Dĩ nhiên tôi không biết. Xong rồi , ấm mới của bà đây. Bà không cần đi mua ấm mới nữa nhé.
-Bao nhiêu đây ông?

- Ồ, bà cho năm mươi xu, tôi luôn lấy tiền hạ. Đó là nguyên do tại sao tôi luôn giữ được khách suốt từ trên xuống dưới dọc theo xa lộ ngoài kia đó bà.

Elisa mang trong nhà ra đồng năm mươi xu thả vào tay gã:

-Ông có thể ngạc nhiên đôi khi có những đối thủ. Như tôi có thể mài kéo nữa. Và tôi có thể dằn những vết lõm bên trong mấy cái ấm nhỏ. Tôi còn có thể bày cho ông những việc đàn bà nên làm.

Gã cất búa vào lại cái hộp đồ nghề dính dầu mỡ kia lại xô mạnh cái đe nhỏ cất đi:

-Đây là cuộc sống cô độc cho phụ nữ, thưa bà, nó còn nhiều sợ hãi nữa vì những con thú bò ở dưới sàn xe ban đêm đó.

Gã leo lên toa xe qua môt thân cây sát đó, giữ thân mình vào cái mông trắng của con lừa. Sắp đặt chổ ngồi xong nắm lại mấy sợi dây cương:

-Xin cám ơn lòng tốt của bà, thưa bà , tôi sẽ làm y như lời bà bảo; tôi sẽ đi trở lui gặp con đường Salinas.

-Hãy nhớ, nàng nói theo:

- Nếu ông đi lâu nhớ giữ cát cho ẩm nhé.

-Cát hả , thưa bà ?...Cát? Ồ, chắc chắn thôi. Bà bảo xung quanh mấy cây cúc chứ gì. Vâng tôi sẽ nhớ.

Giọng hắn như muốn phụ họa. Hai con vật ngoan ngoản tròng đầu vào hai cái ách đắt tiền của chúng. Con chó lai trở lại đi giữa hai bánh xe sau. Toa xe quay đầu lại từ từ bò ra đường cái, lui con đường nó vừa tới dọc theo con sông.

                                                      *****




SALAD BOWL của Salinas, quê huơng John E. Steinbeck

Elisa đứng trước hàng rào nhìn theo toa xe chậm chạp bò trên đường. Đôi vai nàng cố rướn lên, đầu nàng hơi ngã lui sau, đôi mắt nàng nheo lại cố thu hình ảnh đoàn lữ hành ra đi mờ dần. Môi nàng mấp máy.

-Tạm biệt, tạm biệt!

 Bất giác nàng thì thầm một mình:

- Hướng đó mới tươi sáng, mới tràn trề hi vọng.

 Nàng giật mình với tiếng thì thầm của mình, lắc đầu nhìn quanh xem ai có nghe nàng vừa nói một mình không? Họa chăng là chỉ mấy con chó nhà nàng. Đang nằm trên nền đất, mấy con chó hơi ngẩng đầu nhìn nàng xong, chúi mõm xuống tiếp tục ngủ. Elisa quay lại chạy vụt vào nhà.

Vào bếp, nàng lui đằng sau rờ thử cái thùng chứa nước nóng. Nước nóng bằng ánh nắng buổi trưa. Trong phòng tắm nàng lột phăng bộ áo quần đầy đất, vứt vào một góc. Dùng mảnh xốp, nàng kỳ cọ thật kỹ đôi chân, đùi, thắt lưng, lên ngực, hai cánh tay cho đến khi da nàng đỏ ửng. Giờ đây nàng đứng trước gương đợi khô cùng ngắm thân thể mình. Eo nàng nhỏ nhưng phần ngực nở nang. Xong quay ngang, nàng ngắm phần vai và lưng.

Sau cùng, nàng bận vào bộ áo quần đi chơi phố. Cử chỉ nàng chậm rãi, khoan thai. Trước tiên nàng dùng bộ đồ lót mới, đôi vớ dài xinh nhất cùng bộ đồ ưu tiên phù hợp với sắc đẹp của nàng. Nàng cẩn thận trau dồi mái tóc, viền hai lông mày và tô son đôi môi.

Gần xong trang điểm, nàng nghe chân bò rầm rập trở về chuồng, tiếng la hét của Henry cùng người theo phụ đang lùa bầy bò lông đỏ về, tiếng cửa chuồng đóng mạnh.  Tất cả âm thanh đó cho nàng biết rằng Henry đang về nhà.

Tiếng chân chồng nàng ngang trước hiên nhà và anh ta gọi:

- Elisa ơi, em đâu rồi?

-Em đang ở trong phòng, đang bận đồ đây, chưa xong đâu. Có nước nóng cho anh tắm ở trong, nhanh lên kẻo trể mất!

Nghe tiếng chồng tắm bên kia, Elisa vội đặt bộ đồ xám trên giừơng cho chồng, chiếc sơ mi, đôi vớ cùng cái ca -vát bên cạnh. Nàng không quên đặt đôi giày đánh bóng sẵn cạnh giường. Xong, nàng ra hiên, nghiêm trang và ngay ngắn ngồi đợi chồng.

Elisa nhìn về phía con đường men theo con sông, nơi rặng liễu vẫn một màu vàng cháy do lá chết lạnh. Dưới làn sương đậm, trông như dãi nắng dưới ánh mặt trời. Đó là sắc màu duy nhất trong buổi chiều xám ngắt. Nàng ngồi bất động, thật lâu mới thấy mắt nằng nhấp nháy.

Henry mở mạnh cửa, vừa tới gần vừa thắt ca vát khi mặt xong chiếc áo vét. Nét mặt Elisa thoáng nghiêm lại, dáng trầm tư. Henry lại gần chợt thốt lên khi ngắm nàng:

- Sao vậy, Elisa. Hôm nay trông em đẹp lắm!

-Đẹp? Anh nghĩ em đẹp hả? Anh nói "đẹp" có ý gì đây?

Henry vụng về:

-Anh không biết nữa? Anh muốn nói hôm nay em xem khác lắm, mạnh mẽ ,vui sướng hơn mọi khi.

-Em mạnh mẽ? Vâng, thì mạnh mẽ. Anh nói mạnh mẽ với ý gì vậy?

Anh ta càng lúng túng hơn:

 - Coi bộ em muốn thách đố anh rồi!

Giọng Henry nghe yếu xìu.

- Thôi cho anh đùa chút nghe. Trông em thật mạnh, đủ bẻ chân con bò; sướng vui như đang ăn một trái dưa hấu vậy đó.

Trong thoáng giây nàng mất vẻ cứng nhắc lúc đầu, nàng nói hết ý mình:

- Henry! Anh đừng nói thế. Anh không hiểu được lời chính miệng anh nói ra đâu.

-Em mạnh mẽ...

 kiêu hãnh nàng tiếp tục:

 -Thế mà từ lâu em chẳng biết mình mạnh đến thế.

Henry hướng về phía nhà che chiếc máy kéo.  Khi ánh mắt trở lại bên nàng, anh trở về thực tại:

-Đợi anh lấy chiếc xe kéo, em choàng áo vào,  anh đi nổ máy nhé.

Elisa bước vào nhà. Nàng nghe tiếng chồng lái chiếc máy kéo ra hướng cổng đợi nàng. Lận bận với chiếc mũ khá lâu, nàng làm chồng phải tắt máy cũng vừa lúc nàng vừa choàng được chiếc áo, vội bước ra.
                                               Salinas City 1930s

Chiếc xe kéo loại nhỏ chạy rập rình, lắc lư, trên con đường đất men theo con sông. Mấy đám chim bay toáng lên, mấy chú thỏ sợ hãi chạy biến vào mấy bụi dại bên đường. Hai con sếu nặng nề vổ cánh khỏi rặng liễu, buông mình xuống lại lòng sông.

 Xuất hiện xa xa trên con đường, nàng chợt thấy một đốm nhỏ?

Khi sắp vượt qua “cái đốm” mà nàng phát giác trước đây, nàng cố “lảng đi” nhưng đôi mắt nàng chẳng còn “tuân theo”. Buồn bả nàng thì thầm một mình:

- Hắn đã vứt nó mất rồi. Chẳng hề chi, chẳng quan trọng. Nhưng ít ra hắn ta còn giữ lại cái chậu.

 Nàng tự giải thích:

 -Hắn còn biết giữ lại cái chậu, đó là tại sao hắn không vứt nó xuống đường.

Chiếc xe kéo chợt vòng lại bắt nàng phải thấy toa xe của hắn xuất hiện lần nữa phía trước. Khi xe vượt qua, nàng cố xoay hết người qua chồng để khỏi nhìn lại cái đám người và vật hổ lốn kia.Trong thoáng giây mọi thứ đều qua. Nàng chẳng cần nhìn lại làm gì. Chợt Elias nói lớn, cố át tiếng máy xe:

- Hay! hay lắm! bữa tối hôm nay chắc hẳn phải là tuyệt vời.

-Rồi, em lại sao đây nữa rồi? Henry làu bàu.

Anh rời một tay lái, vổ nhẹ đầu gối nàng:

-Kiểu này anh phải năng dẫn em đi ăn tối mới được. Sự thay đổi này sẽ tốt cho hai đứa mình. Ở nhà chúng mình nặng nhọc quá mà.

-Henry?

-Chúng mình có thể uống rượu tối nay chứ?

-Chắc chắn thôi, không hề gì đâu.

Nàng Im lặng một lát, nàng tiếp:

-Henry nè, tại võ đài người ta đánh nhau tàn bạo lắm không anh?

-Đôi khi cũng có, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sao em hỏi vậy nhỉ?

-Vậy à, em đọc mới hiểu rằng vì sao họ bị vỡ mũi, máu chảy ròng ròng xuống ngực. Em còn hiểu được vì sao mấy chiếc bao tay ở võ đài nặng hơn vì ướt sũng máu.

Anh chồng nhìn quanh người nàng:

-Chuyện gì thế, Elisa? Anh không hay em đã đọc thứ đó.

Mang xe tới chỗ đậu xong, hai người đi về hứơng phải, lên cầu Salinas.

-Đàn bà có hay đi xem võ đài không vậy anh?

-Ồ, có chứ, có một số đi xem. Mà chuyện gì vậy hả em, Elisa? Em muốn đi xem hả? Anh không nghĩ là em thích đâu, nhưng em muốn thì anh đưa đi?

Vào chỗ ngồi, nàng cố gắng làm dịu câu chuyện một cách yếu ớt:

- Ồ không, không, em chẳng muốn đi đâu. Chắc chắn là em không muốn.

Nàng như muốn tránh cái nhìn của chồng.

-Có rượu như thế là đủ lắm rồi. Nhiều lắm rồi anh ạ.

Elisa chợt kéo cổ áo khoác lên cao để chồng khỏi thấy nàng đang khóc; tiếng khóc yếu đuối như một bà già.

John Steinbeck 1938

HẾT

source: 

     (1977).GREAT AMERICAN SHORT STORIES. Reader Digest Association.

bản dịch của Đinh Hoa Lư
edit 11/12/2017 

CHÚNG TA CẦN NÓI




CÔ ĐƠN

"Trưởng thành là khả năng suy nghĩ, nói năng thể hiện ý tưởng đúng với phẩm chất của mình. Tinh thần của bạn ngang đâu khi đang cáu giận mới là thuớc đo của sự trưởng thành.đó " 
Samuel Ullman  --thi sĩ, thương gia, nhà hoạt động nhân đạo Mỹ (1840-1924)

*
Thưa bạn, 

    TRONG GIAO TIẾP ĐỜI THUỜNG, đa phần chúng ta hay nghe người ta phàn nàn những ai 'nói nhiều, lắm chuyện'. Ra nước ngoài, tôi có nhận xét: người mình nói chuyện có phần lớn tiếng hơn người ta, dù nơi công cộng, văn phòng...nói chung những nơi có đông người.

  Bà con mình ít bắt chước người ta, không nói chuyện riêng nơi công cộng, nhất là khi xử dụng điện thoại cầm tay. Ngang đây người viết xin có một nhận xét:

bà con mình khi nói điện thoại thì 'oang oang'  như chỗ không người, thế mới lạ?

 Đó là nói điện thoại. Còn trong phòng đợi, phòng khám bệnh, nơi công sở ở nước ngoài thì sao? Hai người bạn gặp nhau thì tha hồ "xổ bầu tâm sự". Nếu có ba người trở lên thì tha hồ NÓI, như thể xung quanh không còn ai nữa. Khổ nổi! người bản xứ tại đây đâu hiểu chúng ta đang nói gì? họ  đang bị "hành hạ " trong tiếng cười, nói, ồn ào tại một nơi đang cần yên lặng- lịch sự, thế mới điều đáng quan tâm. Chắc họ khó chịu lắm nhưng do phép lịch sự, họ không nói ra, hay biểu tỏ thái độ đó thôi.

  NÓI là hành động để diễn tả bao ý nghĩ trong đầu chúng ta cho người khác biết và hiểu mình đang muốn gì, nghĩ gì. Nói nhiều quá thì cho là "lắm lời". Mà người mình hay có tật phàn nàn, ca cẩm, chút gì cũng chê, ít khen người khác? Tôi có thêm một nhận xét nữa rằng: người mình hay biểu lộ cảm xúc ra ngoài nét mặt nhiều hơn người nước ngoài. 

Có thể do xứ mình chật vật, gian nan hơn nước người ta, hay cái văn hóa xứ mình nó "vậy"? 

Người người dân bản xứ tại đây, trong nhà không biết sao?  nhưng khi ra đường họ giữ thái độ, nét mặt bình thản, nói năng nhỏ nhẹ hơn ta. Trái lại, nếu những người này mà nói lớn hay "hoa tay, múa chân" làm điệu bộ tức là "có vấn đề" rồi?(mental). Xứ người cũng lắm người có vấn đề tâm thần. Họ đi ngoài đường cứ nói độc thoại; thỉnh thoảng lại nói to lên một mình làm khách bộ hành giật mình lo sợ?

 Bà con mình ra nước ngoài khi nói chuyện với bạn bè còn có thói quen lấy tay vỗ vào vai, vào lưng vào đùi người đối diện, người nước ngoài họ "kỵ " điều này nhất. Thêm vào đó khi nói chuyện nên giữ khoảng cách một khoảng độ già nửa mét. Bạn cứ thử đi!  giả sử nói chuyện với một người Mỹ nào đó, bạn xích tới gần là họ thụt lui giữ khoảng cách ngay thôi.

 Người viết lại miên man mất! xin trở lại với chuyện NÓI...
   
    Nhưng nghĩ cho cùng, nói để "xì" bớt áp lực trong đầu ra cho khỏi căng thẳng. Đó là những khi ta cần bầu bạn để cùng nhau tâm sự. NÓi, xét ra nó rất cần thiết cho chúng ta. Giả thử-- một lần thôi- chúng ta bị giam một nơi không được nói, chỉ một ngày  là đủ gây khó chịu, bứt rứt trong người rồi! Ngang đây, chúng ta mới thuơng  những người câm vi` họ không có khả năng NÓI. Chúng ta thông cảm tại sao họ dồn động tác của hai bàn tay quá nhiều!  phải chăng đó là những gì bù lại khi khả năng NÓI của họ bị tạo hóa tước mất? 

   Vậy khi chúng ta may mắn có bạn bè  tâm sự thì nên cám ơn bạn mình đã gián tiếp giúp mình giải tỏa đi bao áp lực tâm lý trong người. Bạn bè ta đã có công ngồi  nghe ta giải bày, phân bua. Có khi  họ còn phụ họa hay góp ý giúp mình. Nhưng ta cứ nhớ trong lòng rằng khi bạn có sửa sai, giúp hay khuyên ta gì đó thì chớ vội nóng nảy, tự ái. Người bạn thấy mình sai, chỉnh giúp mình, thực sự là người bạn tốt. Chúng ta phải xét lại, những người bạn nhưng thấy mình sai đúng gì cũng gật đầu a dua, chưa hẳn là người bạn tốt. Họ chỉ a dua cho qua chuyện, không thực sự thương gì chúng ta do cứ để chúng ta càng lúc càng lún sâu vào sai lạc.

  Còn một điều chúng ta hay mắc phải, khi chúng ta giành NÓI MỘT MÌNH, không cho bạn mình nói chính là không công bằng chút nào?!  Bạn cũng như mình, ai cũng muốn NÓI cho vơi bớt những gì đang "ức chế" nội tâm. Những người bạn biết ngồi yên nghe ta nói, đó là những người bạn tốt bụng đó.  Khi "bạn bỏ chạy" rồi thì lấy ai bầu bạn cho ta?

  Trong clip ngắn của cuốn phim CAST AWAY, là một  ví dụ cho ta thấy khi cô đơn con người cần NÓI biết chừng nào ! nhưng chớ nên phụ rẫy bạn mình !

*

   trích trong bộ phim Cast Away do Tom Hanks thủ vai chính 

...
NEVER AGAIN, NEVER...

Tom Hanks chính thức lạc vào hoang đảo không người , trái banh Wilson giờ đây là "người bạn" cho Tom nói chuyện hàng đêm bên ánh lửa bập bùng. Tuy là độc bạch [monologues] , nhưng  trong đầu Tom tưởng tượng ra WIlson đang "nghe" anh  nói. Một mà lại "hai" khi Tom đã nhân cách hóa trái banh trước mắt. Khi cáu giận, anh "quăng mất" Wilson ra khỏi hang đá. Anh lại hối hận ; may thay, anh tìm lại được Wilson bên ghềnh đá, cạnh mép biển... 



KHI BẠN MẤT RỒI ĐAU KHỔ LẮM!


trái banh Wilson hay người bạn của Tom Hanks trong bộ phim CAST AWAY 

SORRY WILSON !

Tom Hanks vượt thoát hoang đảo trên một cái bè cùng trái bánh Wilson mà anh đã mấy năm trò chuyện với nó qua thời gian cô đơn trên hoang đảo. Qua cơn bão dữ, vật lộn với sóng gió anh tỉnh dậy thì trái banh trôi mất? anh bơi theo do đuối sức nên trái banh đã vượt tầm tay anh do không còn sức lực đâu khi một tay níu cái bè, cứu tinh cuối cùng, và một tay phải bơi theo trái banh đang xa dần theo dòng nước?

Anh nằm ngửa trên bè, khóc lóc thương tiếc 'người bạn Wilson' đã vĩnh biệt trôi xa!

=========================================== 


KẾT 

Có những 'va chạm' trong đời làm một số người sinh ra 'tịnh khẩu'- có nghĩa là không cần nói nữa!
Chưa hẳn quyết định này là hay. Tâm sự cứ giữ mãi trong người, lâu ngày thành ra chứng trầm uất, trầm cảm (depression). Hội chứng này, như một trái banh cứ căng mãi, căng mãi không có chỗ nào 'xì' ra' bớt đó thôi. Có hay hơn khi chúng ta tìm ra một cơ hội nào đó cho những u uẩn trong lòng 'xì' ra..

Sự chọn lựa này là NÓI.

NÓI VÀ VIẾT là cách thức để diễn tả tâm trạng, tâm sự. Không có cơ hội nói thì chúng ta viết. Không viết được thì tìm cơ hội mà nói. Đây là hình thức diễn đạt và diễn tả ra ngoài.

Vậy chúng ta hiểu như thế nào với câu "đa ngôn là đa quá" đó là nói nhiều quá cũng không hay. Nhưng không nói, hoàn toàn tịnh khẩu cũng không tốt gì. 

Hãy để ý những bệnh nhân mang chứng trầm uất, họ là những người thoạt nhìn qua rất 'TRẦM LẶNG' nhưng là sự trầm lặng nguy hiểm vì họ mang một hội chứng đang 'bào mòn' tâm lý của họ đó là chứng trầm cảm mà thôi.

Như vậy, NÓI là một hành vi mà tạo hoá sinh ra cho con người thì hãy tận dụng nó cho hợp lý và đừng vứt bỏ nó đi rất oan uổng. 

Nhưng bạn ơi hãy coi chừng, nói nhiều thì trở thành 'ba hoa' không hay chút nào. Người xưa dạy rằng "đa ngôn đa quá": nói càng nhiều càng dễ sai lầm nhiều. Ngoài ra chúng ta nên lựa lời mà nói, cùng 'uốn lưỡi 7 lần trước khi nói' thì hành động khôn ngoan đó bạn ạ

Một Kinh Nghiệm cho vấn đề NÓI Khi Ra Khỏi Nhà


Khi bắt tàu điện ở Nhật Bản, đặc biệt là các thành phố đông đúc như Tokyo hay Osaka, có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên với những "hành trình im lặng" mặc dù rất nhiều hành khách đang vai sát vai trong những khoang tàu chật kín. Có lẽ họ đang trên đường đi làm, đi du lịch một mình và không muốn bị quấy rầy?



Hơi trái với nội dung bài viết. Tiếng là chúng ta cần NÓI nhưng khi ra ngoài nhất là tại hải ngoại chúng ta sống với nền văn hoá khác cần nói ra sao?

Đó là nói năng nhỏ vừa đủ cho người đối diện nghe. Không nên nói quá to tại chốn đông người. Người mình mỗi khi tụ hội với nhau nhất là lâu năm gặp nhau thì mở hết 'volume' khi nói và dù MC có 'van xin' hay "năn nỉ" hết lời cũng không thể nào có hiệu lực?

Bạn hãy đi dự một đám cưới người Việt chúng ta tại hải ngoại? Người viết xin đoan chắc không khí hội trường lúc nào cũng bát nháo ồn ào, bàn nào cũng nói chuyện quá lớn không ai chịu khó lắng nghe người MC nói gì trên đó? 

Chúng ta khi nói tiếng nước ta ở xứ người nếu nói lớn với nhau trong phòng đợi hay nơi siêu thị phòng hội thì người ta khó chịu lắm dù họ không nói ra (phép lịch sự).  Người viết để ý, tại Mỹ những sắc dân nhập cư khi họ sử dụng tiếng "mẹ đẻ" để nói với nhau họ nói rất nhỏ do họ biết xứ này "English Only". Luật bất thành văn nhưng chúng ta phải tế nhị hiểu ra điều này!

Đây là kinh nghiệm giao tiếp tại nước ngoài. Và dù sao chăng nữa tại quê nhà chúng ta cùng một ngôn ngữ nhưng cũng cố gắng gìn giữ lịch sự khi nói chuyện với bạn bè. 

Thời nay iphone ai cũng có, nhưng khi chúng ta cần gọi phone thì ráng tìm cách đi nơi riêng hay nói vừa đủ nghe thôi. Nhớ đừng để người khác khó chịu do phải bị 'ép nghe'  chuyện riêng tư của mình đó bạn ạ./.


ĐHL

Friday, October 6, 2023

ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ CÒN ĐÂU


Tôi về lại Quảng trị sau bao nhiêu năm xa vắng . Nói sao hết bao cảm giác ban sơ thật nhiều xúc động cùng háo hức ban đầu.
Phố phường QT nay khác xưa nhiều quá không còn khả năng để so lại những hình ảnh trong ký ức người ra đi hơn bốn mươi năm trước. Chợ QT ngày xưa không còn nữa, cả thành phố nay tràn ngập mở mang mọi hướng không còn một vết tích gì của quá khứ. Phải nói không còn hay còn chút nào thì quá ít ỏi đổ nát
Quả đúng! nhất là chính mắt tôi chứng kiến Quảng Trị khi về lại mảnh đất xưa vào dịp trường cũ của chúng tôi, Nguyễn Hoàng, kỷ niệm 60 năm thành lập. Những con đường cũ nay tôi chẳng mảy may nhìn ra, nhất là nhà cửa san sát bên nhau ,thú thiệt không còn dư một mét đất nào. Những nhà trọ, khách sạn mọc lên nhiều từ đường 1 gần Cầu Ga cũ đi theo múi Trần hưng Đạo vô. Vài mảng vách Trường tư thục BỒ Đề cũ loang lỗ dấu đạn còn được giữ lại để ghi nhớ dấu tích chiến tranh... đó là những gì tôi có thể lấy tay sờ nó và có thể cảm nhận một vết tích còn lại sau bốn thập niên. Ngoài ra tôi chẳng còn một thứ gì để làm mốc rồi theo trí tưởng tượng hình dung lại và tự nhủ thầm:
-Quảng trị ơi, ta đã về đây!
Cái chợ tỉnh mới – (không biết bây giờ dân mình còn gọi là Chợ Tỉnh hay không?) vị trí của nó chẳng còn giúp tôi hình dung lại chỗ nào là trung tâm chợ xưa ? Thật tệ cho trí óc tôi ! có thể tôi đang choáng ngợp với số lượng xe máy quá nhiều ! tiếng còi "tinh tinh" inh ỏi suốt ngày. Mặc dù tôi còn nhớ có số đông di dân QT (năm 1973) vào Bình Tuy lập nghiệp , nhưng khi về lại quê huơng, người QT hiện tại rất đông! những thế hệ sinh sau, khi chúng tôi ra đi, hay di dân từ ngoài kia vô giờ họ đang cư trú khắp nơi, mua bán sinh hoạt, những tiếng nói còn pha lẫn ngoài kia vào , có điều ít có giọng nam.
Thế thì giờ người dân thành phố Quảng trị đang ở hiện nay là ai? "con bầy cháu đống " mới đó mới đây giờ toàn là thế hệ trẻ -mới. Trong tôi hình như có một cảm giác họ chẳng còn dính dáng gì mình nữa , mặc dầu họ đang sống trên đất QT và tôi là cư dân sinh ra lớn lên trên thành phố QT nay đang trở về.
Bốn cổng đường thành nay đã xây lại, nhưng lạ thay tôi có cảm giác đường nét không còn mềm mại - uyển chuyển như xưa. Với tôi, người sống trước cổng thành QT ngót hai mươi năm mới xa ; hình dáng thành xưa đã khắc ghi trong trí nhớ tôi. Quảng trị mới, có cổng thành mới, bao gạch đá đổ nát trong cuộc chiến nay đã vùi sâu dưới lòng đất, ai cũng tiếc cho một di tích ngàn xưa lưu vết tiền nhân.
Tôi theo con đường về làng quê. Tất cả mọi làng đang đang ồ ạt "bê tông hóa”. Nhà nhà thi nhau xây mới -mái ngói vách xi măng. Giờ tôi khó tìm ra mái tranh xưa ẩn hiện bên hàng cau hay bờ tre xanh ngắt. Những con đường vào làng đang lần lượt đổ xi măng thay nhựa đường. Tất cả đều đi lên theo tiện nghi cùng điện khí hóa về tận mọi ngõ ngách . Giờ đây ánh sáng điện đã về khắp nơi, từ thành phố đến nơi thôn dã. Bà con đang đầy ắp tiên nghi nhờ đường dây điện mang về.
Khi xưa vừa ra khỏi thành phố tôi phân biệt ngay là đang về làng. Những mái tranh , những con đường đất quanh co qua bao đồng lúa, bao làn khói lam chiều cho nồi cơm dùng rơm nấu bếp. Cái nghèo, cái mộc mạc đơn sơ khi về quê ngoại vẫn mãi lưu giữ trong lòng kẻ tha huơng bao tình cảm và nỗi nhớ nhung theo chân tôi qua đến xứ ngừơi, bao năm trôi nổi.
Sẽ có người trách tôi sao có những ý nghĩ khắt khe -cứng nhắc? quê huơng đổi thay rồi, từ làng đến tỉnh -sao vẫn khư khư cố chấp với bao chuyện xa xưa vô ích?
Thật tình tôi khó giải thích thứ tâm lý trong lòng người trở về như tôi. Tôi nhớ mang máng lúc tôi còn nhỏ, có đọc một chuyện kể ngắn một người đàn bà sau bao năm lưu lạc về lại quê làng. Nhìn lại hình ảnh cây đa bến cũ bà không cầm được nước mắt. Những hình ảnh thân yêu lúc bà ra đi từ thời son trẻ cho đến ngày bà lui bước trở về thôn xưa nó vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt". Tâm lý của người trổ về như tôi còn buồn hơn bà già trong câu chuyện kia vì bà về còn có “cây đa cũ- bến đò xưa” để an ủi, còn tôi thì chẳng có chi !
Nỗi buồn man mác, niềm nhớ vương vương, kẻ trở về khi tóc đã bạc , có một thứ tâm lý dùng dằng khó giải thích . Thứ tâm lý đang nghiêng ngã giữa mới và cũ , giữa mất và còn , giữa tiếc nuối vấn vương và ngạc nhiên khen ngợi !
Ngang đây tôi nhớ lại câu châm ngôn Pháp, tôi hi vọng nó phần nào biện minh cho tâm lý tôi trong ngày về :
-"con tim có lý lẽ riêng của nó mà chính lý trí cũng không thấu được" [le cœur a ses raisons que la raison ne connaît point ]
Thế mới hay về lại quê xưa tôi bỗng dưng hụt hẩng, khác với sự háo hức lúc sửa soạn khởi hành. Lý do do khó tìm lại hình ảnh đồng quê - hình ảnh phân biệt để biệt giữa nông thôn và thành thị. Có thể dần hồi chúng ta sẽ không còn nhận được làn hơi ẩm thấp từ cái vách đất, mùi ngai ngái của tấm phên lá, hay thứ cảm giác là lạ khi nằm trên cái giường tre ngày trước. Từ tỉnh về quê, khó cởi thoát được cảm giác cái vách xi măng xung quanh mình. Sự phát triển là đây- khi ranh giới giữa đô thị và thôn làng từ từ biến mất. Nhưng nó lại kèm theo sự mất mát tâm lý cho ai có cái thú "du lịch đồng quê " . Tôi có cảm tưởng rằng giờ đây mọi người đang thi đua "xi măng, cốt sắt hóa" tất cả - mọi huớng, mọi nơi. Tôi hình dung cuộc sống giờ như đang đuổi theo tốc độ của những chiếc xe máy. Mọi trao đổi giao tiếp đều hối hả, vội vàng, pha trộn, khô khan, cộc lốc.
Hình ảnh Quảng trị ngày xưa giờ thật sự xóa nhòa. Tôi cho rằng có đông người trở về cùng chung ý nghĩ với tôi. Từ bến đò bên dòng sông Thạch cho đến bãi Nhan Biều đều lạ lẫm. Thời học trò, bốn mươi năm trước tôi từng đứng bên ni sông ngó qua bên tê , bãi Nhan Biều đất bồi thoai thoải , sâu vào trong- những truông bắp một màu xanh ngắt.
Một đất nước đang chuyển mình - sống dậy - nhưng vội vã chẳng một mục đích nào và nhất là không biết về đâu? Quảng trị đang tìm cách hòa mình vào một nhịp sống khác xưa; cố gắng 'sánh bước' với nhiều thành phố lớn hiện nay- Đà Nẵng, Sài gòn, Hà nội... những giấc ngủ ngắn hơn -chờ ngày mai thức dậy lại lao vào một chuẩn mực mới của thế hệ- đi kiếm sống, sắm sanh, trả nợ, nhậu nhẹt lấy sức và lại tiếp tục kiếm tìm. ..
Chỉ có đi lâu trở về dễ nhận ra rằng mình đã lạ hẳn đi trong cách giao tiếp, bở ngỡ rụt rè- vì trong tâm người về nhận ra rằng “đường xưa lối cũ” không còn ! kể cả người xưa - những con người "thị xã"- giờ phiêu dạt nơi đâu ? họ ra đi biền biệt phương nào ?
Giờ tôi lại giã từ Quảng Trị, một thành phố mới, xa lạ với riêng tôi. Tôi ra đi vẫn mang theo hình ảnh một thị xã xa xưa mờ nhạt trong lòng./.

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...