Friday, July 14, 2023

NHÓM BẠN H.O. RA ĐI TỪ VÙNG ĐẤT RẪY HÀM TÂN BÌNH THUẬN

 

2/1994 gia đình anh Đăng đang tổ chức tiệc chia tay đi H.O với bà con thôn Cam Bình Hàm Tân  - vc Anh Đăng đang đứng sau lưng tác giả ĐHL. Người viết  ngồi cạnh a Trần Nguyên Nghị và bên phải  là các anh Hùng, a Cẩm  Ngồi xoay lưng lại là các anh đại úy Mạnh, thiếu tá Hạnh (mang kiếng),..


Chợ Cam Bình Hàm Tân 1995

Cùng nhớ về nhau nhóm H.O ra đi từ vùng nương rẫy Hàm Tân Bình Thuận 


Lữ phúc Cam (mất tại San Jose USA, 10.7.2023)

Nguyễn Đăng (mất tại nam California trước khoảng sau 2000)

Nguyễn Mạnh (mất tại Georgia vài năm sau khi qua Mỹ)

Nguyễn (?)Hạnh ( ở xóm ngư Triệu Hải Cam Bình, mất khi mới qua Mỹ) 

Trần văn Hào (ở Georgia USA)

Hoàng gia Độ (nam California)

Hoàng Thỉnh (mất tại Louisiana USA năm 2020)

Nguyễn Xê

Trần nguyên Nghị

Đinh trọng Phúc

Nguyễn (?) Bổn

Cao hữu Khang (mất 6.7.2023)

Trần ngọc Điềm

Nguyễn (?) Huệ (thiếu tá Huệ trước ở xã Tân Thắng Hàm Tân hiện ở khu Checker- San Jose)

 

***


Nhớ về một thuở chương trình H.O. mới ra đời nhóm ‘phó thường dân’ tại Hàm Tân lao xao bận rộn không phải là ít. Nhắc đến Hàm Tân người ta có thể nhớ đến Trại Tù Z30 dưới chân ngọn Mây Tào  lúc đó từ xã Hàm Minh vào đến các điểm dừng xe, Căn Cứ 1 Căn Cứ 2 đều nhớ. Người về từ các trại về Hàm Tân đều mang cái danh là ‘phó thường dân’ có nghĩa là phải đợi một vài năm mới được ‘trả quyền công dân’ làm kiếp dân thường.


Nhóm đi H.O tại các xã Tân Hà, Tân Thiện khá đông. Đa số đều ra Phan Thiết làm giấy tờ. Một thời gian nghe đồn phải ‘chạy dịch vụ’ thế là rủ nhau đôn đáo ra tận Đà Nẵng mà ‘chạy’. Tiếng ‘chạy’ ở đây nghĩa là sao ai cũng rõ. Người viết xin khỏi dông dài vấn đề này. Trong bài viết này, tác giả chỉ mong ghi lại hình ảnh những ngày đợi tin tức H.O tin Thái Lan, tin phái đoàn phỏng vấn và nhất là những buổi gặp mặt nhau “trà dư tửu hậu” bàn tán cùng âu lo.


Từ Tân Hà anh Lữ Phúc Cam và vài người bạn đạp xe đạp lên đến Động Đền, kéo theo anh Hoàng Thỉnh vài ba người nữa lên tận xã Sơn Mỹ. Lao xao bàn tán cũng là chuyện "đi H.O.". Thế là từ xã Sơn Mỹ, các anh Cao Hữu Khang, anh Nguyễn Bổn anh Trần ngọc Điềm, anh Trần nguyên Nghị  … cùng tới nhà thằng em nhỏ tuổi nhất tức là người viết bài này bàn bàn tính tính lo tình hình có đi thật hay không? Bao giờ đi, tại Sài Gòn đang đi H.O mấy rồi vân vân và vân vân. Bên chén trà lạt, gà qué rượu chè chẳng có nhưng ấm áp tình huynh đệ lạ kỳ.  Có thể những ngày đó trở về sau "nhóm H.O" chúng tôi tạm gác cuốc hay có làm rừng cuốc đất cũng làm cầm chừng ...bắt đầu lo chuyện bảo vệ sức khỏe mà đi, do đi là cả tương lai huy hoàng trước mắt dù chuyện đó còn trong vòng tin và không tin, quá hồi hộp nửa mừng nửa sợ nửa nghi nan...


Dưới xã Tân Mỹ, cụ thể hơn là vùng Động Đền, Cam Bình anh Trần văn Hào anh Hoàng Gia Độ hàng ngày không quên bên chén rượu tiêu sầu làm thêm vài bài thơ để lại cho đời trước khi đi Mỹ. Những buổi gặp nhau bên bình trà chế thêm nước sôi vài ba bận tại nhà anh Nguyễn Xê  đang ở xóm Chuối Cam Bình nhưng câu chuyện H.O vẫn chưa hết cơn sôi nổi, ngày nào cũng râm ran sôi nổi



Nhưng Thời gian tiếp theo, số thứ tự H.O đã định hình. Niềm tin của chúng tôi càng tăng thêm. Những H.O đầu tiên đã từ Sài Gòn đã có người đi và đang thành sự thật. Ngay tại Quảng Trị những người làm liều thử thời vận lại đi trong các chuyến đầu này.


buổi chợ quê Cam Bình Hàm Tân 1995 

Thế là chúng tôi bắt đầu tin. Nhớ làm sao anh Trần Nguyên Nghị và người viết cái buổi đi Đà Nẵng làm dịch vụ. Đêm khuya thang vắng khi gà chưa gáy canh đầu hai anh em lặng lẽ đi bộ về đến bến xe LaGi tạm vài ngày từ giã vùng đất rẫy SƠn Mỹ làm chuyến “viễn hành” ra Đà Nẵng. Ai cũng cái thế ‘bị gậy’ lên đường mang theo bao nhiêu hi vọng. Dĩ nhiên niềm hi vọng đó tăng thêm khi đã thành công chạy mượn hai ba chỉ vàng gói kỹ trong người trong một chuyến ra trung. Ngang đây chắc bạn đọc sẽ hiểu H.O mà không 'Dịch Vụ' thì xem như bù trớt hay đợi đến ‘dài cổ’ đó thôi.

 

Chuyện kể tưởng như mới đây mà té ra đã mấy chục năm rồi. Mấy chục năm trong đầu óc người viết cứ lởn vởn hình ảnh những ngày chống cuốc đợi thư từ Sở Ngoại Vụ gửi về, những ngày nhóm H.O chúng tôi cứ gặp nhau bàn tán lo toan. Rồi chuyện ra đi H.O chúng tôi đã là hiện thực. Những buổi tiệc mừng chia tay nhau từ những người ra đi trước. Sắm sửa ra đi, tiệc tùng tiễn biệt mong người đi trước gặp nhiều may mắn nới xứ lạ quê người  và nhất là hình dung cái cảnh ra đi khó lòng ‘gặp lại’. Người trước kẻ sau thế mà chương trình H.O là một sự minh chứng hùng hồn ra đi Mỹ là thực.


RỒI NHỮNG NGÀY VUI MỪNG CÙNG CÁC BUỔI TIỆC CHIA TAY ĐẾN CHO TỪNG NHÀ

Người viết tuy H.O 25 nhưng đi sau cùng do bận sinh thêm liên tiếp 2 cháu là Đinh viễn Dương (1991) và Đinh thị Lâm Thư (1994). Sinh đẻ và bổ túc hồ sơ liên tục từ 3 cháu thành 5 cháu làm sao mà không trễ nãi cho được. Người cậu ruột tên là Võ Bình đang ở San Jose USA cũng liên tục bổ túc hồ sơ cho cháu. Cả nhà nội ngoại gì cũng lo lắng bồn chồn do các buổi tiệc chia tay của các anh nói trên dần dà đi hết.

Nhờ đi sau nên người viết nhận và giữ các cánh thiệp mời LIÊN HOAN LÊN ĐƯỜNG cho đến nay vẫn còn cất giữ trong hồ sơ gia đình...(hình dưới) 

3 thập niên ra đi nếu tính tôi không ưa lưu giữ thì khó mà có được các hình ảnh này 










Người viết trẻ nhất, lấy vợ sau cùng nên chuyện đi sau các anh cũng hợp lý; đó là do phải lo chuyện sinh con đẻ cái mới chậm trễ lại đằng sau. Mấy anh đi trước có người ái ngại lo lắng cho đứa em trẻ tuổi bị ách tắc lại sau. Ai cũng cầu mong cho gia đình đứa em này may mắn. Như  vừa nói trên, từ H.O. 25 trụt lần đi với H.O. 31 nhưng rồi cũng xong, cũng qua được bến bờ tự do 2 vợ chồng cùng đàn con dại 5 đứa.


gia đình ĐHL được cậu mợ đón tại phi trường San Francisco  vào ngày 2.8.1995 


TÂM SỰ SAU CÙNG 

   Đêm nào khó ngủ nằm trằn trọc người viết hay nhớ về cảnh cũ ngưòi xưa đó là vùng đất Động Đền một nơi tuy cơ khổ nhưng từng giúp bao mảnh đời người dân QT qua bao tháng ngày gian nan. Nói đến vùng đất nuôi dân QT mình trong đó có những kỷ niệm khó quên đối với những người tù lỡ vận trở về địa phương với cái cuốc trên vai sắn khoai vui bên người thân và xóm làng. 

Ngày tháng đó gian nan cho  miếng cơm manh áo mà trường ốc cũng thiếu thốn như trong bài thơ của anh Trần Quảng Lượng hay là Trần văn Hào miêu tả lớp - trường vào đầu thập niên 1980 ở một vùng cát ven biển ra sao? 

 

TRƯỜNG HỌC CAM BÌNH

 

Trường học ngày nay nghĩ cũng hay

Khen ai khéo dựng khéo chưng bày

Bốn bề gió lộng, long tai óc

Hai phía trời soi, rát mặt mày

Thu đến mưa sa thềm nước đọng

Đông về gió cuốn mái tôn bay

Qua đây thấy cảnh lòng ngao ngán

Học ở trường này khổ lắm thay!

 

nhà thơ Trần Quảng Lượng 1984


Rồi

TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ VIỆT YÊN hay anh Hoàng Thỉnh



Cùng đồng hương Quảng Trị, cùng cảnh ngộ, người viết đã có dịp gần gũi chuyện trò với nhà thơ khi tay ai cũng dập dìu, bận bịu, bên cuốc bên rìu làm nương phát rẫy để mưu cầu sự sống trong vùng kinh tế mới đất cát bạc màu cùng núi rừng hoang hóa.

Chẳng hạn bài thơ Giữ Dưa của anh Hoàng Thỉnh đã vẽ lên một hình ảnh một hoàn cảnh rất CHUNG của những người từ trại tù cải tạo về lại địa phương sống gần nhau trong cuộc sống cơ hàn...


GIỮ DƯA

 

Nằm bên suối giữ dưa

Lắng nghe nước chảy gió đưa cây rừng

Động lòng nước mắt rưng rưng

Nước đi đi mãi bỏ rừng lại đây

Trăng ngà gác xế về tây

Quốc kêu bên suối đêm ngày quạnh hiu

Bốn bề gió thổi riu riu

Đèn khuya một ngọn hắt hiu giữa trời

Nhắn cùng các cậu làng chơi

Đêm khuya sương lạnh nghỉ ngơi ở nhà

Nơi đây chỉ có mình ta

Cùng non cùng nước chan hòa tình chung

 

 VIỆT YÊN



 

Anh Hoàng Thỉnh sau khi định cư tại Hoa Kỳ (khoảng 1994) nhưng lại định cư tại Louisiana một tiểu bang ít người VN hơn California.

Tuy vậy mỗi lần qua San Jose bắc California để thăm lại bằng hữu, bà con. Vào ngày 2/7/2011, khi qua lại lần hai thăm bằng hữu tại San Jose anh Hoàng Thỉnh mới biết tin gia đình người viết ở tại thành phố này nên vội nhờ người chở tới thăm gia đình tôi. Đối với người viết, những lứa đàn anh qua Mỹ hay tại vùng Cam Bình Hàm Tân nói trên như anh Hoàng Thỉnh đều coi tôi như đứa em H.O nhỏ tuổi nhất. Lần cuối cùng này, nhà thơ đã ưu ái trao tận tay ĐHL tập thơ của anh, như là kỷ niệm của một người bạn vong niên cùng chung chí hướng.


 Thương thay, khi Anh qua đời tại Louisiana vào năm 2020, trong yên lặng do hoàn cảnh địa lý quá xa và Đại Dịch Covid-19  nên ít người nghe tin kịp.



Vừa nghe tin anh Cao Hữu Khang qua đời ngày 6 tháng 7, 2023 tại Colorado thì hai hôm nay người viết lại nghe tin anh Lữ phúc Cam tạ thế ngày 10 Tháng 7 tại San Jose. Ôi cuộc đời quả thật hợp tan mấy chốc. Mọi chuyện tưởng chừng như mới hôm qua, bao hình ảnh cũ, những ngày rộn ràng lao xao tại Hàm Tân nhóm ra đi H.O. chúng tôi bàn bàn... tính tính giờ chẳng còn mấy ai? Tôi ngồi bồi hồi nhớ lại mấy năm đầu tiên, mới qua Mỹ chưa được bao lâu thì các đại niên trưởng như các anh Huệ, Mạnh, Đăng ra đi, nay đến lượt các anh Khang và Cam  tạ từ nhân thế, hai anh đi cách nhau chỉ vài ngày. Tác giả bài này vừa viết vừa tưởng tượng lại vóc dáng cao lớn của anh Cao hữu Khang mỗi khi dăt chiếc xe đạp từ rẫy về; trái với vóc dáng mảnh mai nhỏ bé của chị Khang sáng sáng mang những nông phẩm của chồng đem từ rẫy về, ra bán tại buổi chợ làng Sơn Mỹ, hay chợ Cam Bình dưới con dốc không xa. Tôi lại nhớ anh hình ảnh của anh Bổn, cố gồng lưng hì hục thồ khúc gỗ nặng từ rừng Sơn Mỹ đi ra. Nặng nề quá khi bánh chiếc xe đạp bị ngập trong cát trên con đường ngoằn ngoèo từ rừng Sơn Mỹ về nhà. Rồi mình lại nhớ cho thân phận mình, kiếp "tiều phu bất đắc dĩ" ngày ngày kiếm củi trong rừng mong tiền độ nhật...

dốc Tân Sơn đổ về Cam Bình -con đường kỷ niệm

Chuyện ngày qua nay là chuyện hôm nay, những người còn lại còn may mắn ngồi đếm tuổi đời nay đã hơn bát thập cộng thêm sức khỏe hao mòn...chỉ còn người viết, đứa em nhỏ tuổi nhất nay cũng đã thất thập trên đầu, chứ không còn nhỏ nữa.


Từ ngày đi tái định cư nước Mỹ,  nhóm HO chùng tôi những người rời cái cuốc, cây rìu cùng đám rừng xơ xác tàn tạ, ra đi từ Hàm Tân cho đến nay chẳng có bao giờ được một lần hội ngộ. Nước Mỹ bao la quá, thêm thay hoàn cảnh cách biệt một người mỗi tiểu bang lại thiếu điều kiện này nọ. Ôi nhớ làm sao những buổi gặp nhau ngày đó, những mẫu tin, lá thư hay tin tức quý hiếm từ hải ngoại xa xăm đều là liều thuốc vô giá cho những con người đang cạn dần mạch sống, bao hi vọng đều đặt vào hai chữ H.O...


Ra đi H.O  nói cho thật đúng đó  là vì cứu vớt tương lai con cháu. Phận chúng ta thì đã định rồi, vinh quang gì đâu cho khi mất nước. Trách nhiệm làm trai đối với tổ quốc bất thành thì còn chút gì là vui thú hay vinh hiển nội tâm.


Ôi có ai đó trong đêm nằm nhớ ngày xưa, biết bao nhiêu kỷ niệm trở về. Chút gió hay tiếng giọt mưa nào trong đêm  nếu chúng ta nghe được quả là âm thanh hiếm hoi cho những người đem thân lưu xứ.  Quả vậy, đó là lúc chúng ta nằm buồn trăn trở nhớ bao hình ảnh đã qua. Chuyện H.O. chuyện của những kẻ ra đi nay người còn kẻ mất (mà đa số đã mất), dù sao cũng là định luật cuộc đời. Chân trời góc bể, vọng cố hương đó là giây phút chúng ta vẫn nhớ về nhau, nỗi nhớ da diết về tháng ngày trên vùng đất khổ ./.

 

ĐHL 14 tháng Bảy 2023

edition 19.11.2023 San Jose USA

ĐỨA CHÁU VỢ MỘT NHÀ NHO


   


 ĐỨA CHÁU VỢ MỘT NHÀ NHO

 

       Cụ ngồi trầm tư trước kỷ trà ở căn giữa cũng đã lâu. Qua hai tuần trà rồi mà sao vẫn thấy cụ ngồi lâu hơn mọi sáng khác. Những cơn gió biển ngoài vịnh Nha trang bắt đầu thổi vào khi cái nắng trong thành phố đã lên cao.

      Nha trang- thành phố biển- xem chừng thơ mộng cho những lứa tuổi thanh niên yêu đời đầy sức sống. Riêng vợ chồng cụ tuổi đã quá cửu tuần thì chỉ nhớ cái thành phố ở tận ngoài trung - Quảng trị- một thành phố mà cụ ông lẫn cụ bà linh tính cho biết rằng vĩnh viễn không bao giờ trở lại.



  Cụ là một trong những nhà nho cuối cùng triều Nguyễn. Trí óc của cụ còn minh mẫn để nhớ cái năm cụ đổ tú tài cũng là khoa cuối cùng trong thời phong kiến.

   Từ Quảng trị đến Nha trang, ngoài cái vốn nho học cụ còn biết bói toàn hay bốc thuốc. Cụ tận dụng giúp đời chứ nó không làm ra tiền ra bạc trong cái thời phong kiến suy tàn.

  Trí nhớ của cụ lan man về đâu đâu, tận cái thời son trẻ dưới huyện Triệu phong một thời cụ sống trong một gia trang, có ruộng vườn có tá điền , và vốn liếng ruộng vườn trâu bò bao nhiêu hai cụ cũng đầu tư cho những đứa con trai theo con đường tây học  trong thời Đại Pháp, cái thời mà vua quan triều Nguyễn chỉ là những bóng mờ trong một xã hội đang theo Tây phương. Những mốt áo quần , lối ăn chơi thành thị, càng ngày càng làm cụ nhớ cái thời xa xưa hơn.

   Thời buổi chiến tranh nhà cụ không còn ở chốn ruộng nương mà thiên cư lên tỉnh thành sinh sống. Cụ bà tần tảo bán mua ở chợ QT , nuôi cụ ông sống cảnh 'thanh bần lạc đạo' có nghĩa là không giàu có hơn ai nhưng cũng đủ cho cụ ông làm thơ đọc sách , bốc thuốc cứu người.

 

   Cụ bà cũng có đứa cháu lên ở với bà. Cụ ông thuơng cụ bà nên thuơng luôn cháu vợ. Thành phố QT tuy nhỏ nhưng cũng đủ sinh sống để cụ bà bảo bọc cháu mình học hành đến nơi đến chốn, còn hơn ở chốn nhà quê biết bao giờ tiến thân được.

 

    Gần bên cụ Ông, đứa cháu bên vợ cũng lây được cái tính trầm lặng của bậc lão nho, ăn nói chừng mực , gần sách thánh hiền, dĩ nhiên là 'lõm bõm' vì thời đại đã sang trang.Thằng cháu ỏ gần bà o cũng lây luôn tính chịu khó của bà nên việc gì cũng làm cho kỳ được không càu nhàu rên rỉ. Đứa cháu hai cụ kể ra thật tốt số, cũng lên Đà Lạt ở với con trai cụ đang có sự nghiệp trên THành phố Hoa Đào từ lâu. Nhờ ngang vai vế với con trai cụ ở đây nên cả nhà con trai Cụ coi như ông chú, mấy năm trời "cơm dâng nước rót" cho cháu Cụ là người sinh viên tiếp con đường đại học trên này.

 

   Đó là kỷ niệm cho cụ ông khi cả nhà đã do thời thế chiến tranh chạy vô tận Nha trang. Còn đứa cháu vợ nhờ có nơi nương tựa để ăn học tuy sau này nhập ngũ theo đường chinh chiến nhưng cũng" có quan có chức" chứ không phải "lính trơn ". Vô tận Nha Trang , cụ ông thuơng vợ vì biết cụ bà nhớ đứa cháu trai hay cận kề, chiến tranh phiêu bạt, không biết giờ này phiêu dạt nơi đâu.

 

  Rồi thời thế lại đổi thay - thay đổi, biết bao nhiêu lần. Thiên hạ lại đổ xô nhau lìa xa xứ sở. Cuộc sống càng lúc càng khó khăn , cụ căn cốt nhà Nho khi nào lấy cái đạo thanh bần mà sống : cụ vẫn thản nhiên coi con tạo xoay vần mà nhìn cuộc thế.

 

  Tuổi hạc càng lúc càng cao, sáng nay là lúc cụ ngồi cụ nhớ cụ bà người đã bỏ cụ mà quy tiên trước cụ. Cụ tuy trầm tư vậy nhưng bụng nhớ cụ bà quay quắt , cụ nhớ về những ngày tháng cụ bà tần tảo nuôi chồng , khéo léo chắt chiu từng đồng từng cắc để lo cho từng bữa ăn cho cụ ông. Cái đạo tòng phu của người phụ nữ VN xa xưa đúng là những gì trong mẫu người của cụ bà là đây là những gì trong suy tư của cụ ông sáng nay trước bình trà buổi sáng…

  *

  Tuy hoàn cảnh cụ từng sống trong cảnh thanh bần nhưng đám tang cụ coi vậy mà lớn lắm tại thành phố Nha Trang vào thời này. Các vị chức sắc cho đến các nhà thơ văn lão thành đều tới viếng cụ. Cụ mất lúc sắp thọ đúng một trăm năm-bách niên giai lão - biết bao nhiêu di bút của một nhà nho còn đầy ắp trong cái rương cũ kỷ. Còn lạ một điều ! tuy cụ ông quy tiên rồi mà thơ văn đối họa vẫn còn được gũi tới địa chỉ nhà cụ. Ai cũng biết rằng cụ là nhà nho cuối cùng của triều Nguyễn , khi cụ mãn phần ai cũng ngầm hiểu đây mới chính thức cái thời điểm cáo chung nền Nho học VN. Cụ là bằng chứng bằng xương bằng thịt cho cái thời điểm cuói cùng đó. Cái lư to trước nhà khi nào cũng đầy huơng , người trong nhà phải thay nhau lấy bớt đi vì sợ cháy. Chỉ có trong nhà mới hiểu sâu sắc nỗi buồn thầm lặng của cụ ông những ngày cuối cùng không thấy mặt đứa con trai đang ở tận trời xa vì thời thế. Dĩ nhiên trong nỗi nhớ đó có cả hình ảnh đứa cháu vợ từng sống gần hai cụ bao năm.

 

   Gần hai mươi năm sau, thời thế thay đổi khá nhiều. Những con người rời xa xứ sở tưởng không bao giờ về nay họ đã lần lượt về thăm quê huơng bản quán. Các phi trường nay khá rộn ràng; nhất là phi trường trong nam tức là phi trường Tân sơn Nhất, Việt Kiều trở về thăm quê càng lúc càng đông. Thời gian này trong nước thiên hạ đã bớt khổ cũng là lúc người ta thực hiện cái chuyện "đền ơn đáp nghĩa". Biết bao tiền bạc thay lời nói , chuyển tải tình thuơng cho ai đã cưu mang đùm bọc cho những kẻ ra đi.

 

    Thế mà lạ đứa cháu mà hai cụ chắt chiu bảo bọc năm xưa nay "áo gấm về làng" chẳng một nén huơng về thăm hai cụ. Bao chuyến xe ngang qua thành phố kia nhưng đứa cháu chẳng màng.  Bao ân nghĩa, bao tình thuơng trong ngày tháng cũ nay đã phai tàn, thay vào đó là những cuộc vui chơi. Bao lăng tẩm đền miếu dù xa xôi cách trở đứa cháu kia chẳng lo gì chuyện tốn tiền hao bạc. Ăn nên làm ra - con cái thành tài - nhà cao cửa rộng, bao tự đắc của đứa cháu nay nhiều tiền lắm của nhưng lòng hiếu để , nợ ân tình thì "teo tóp" như chiếc lá khô !

 

  Con vật còn biết ơn chủ, gặp người nuôi nấng nó còn ngúc ngoắc đuôi.  Chua chát thay mang tiếng con người nhưng khi ân nghĩa bạc trắng như vôi thì lấy ân làm oán hay cố quên hết mọi thứ xa xưa cho đúng với cái bản tánh riêng mình!

 

gia đình người viết từng hân hạnh được liên tục mời ăn mừng tân gia 'đứa cháu' trong bài 



  Trên đồi cao xứ Mỹ, khi những chai sâm banh nổ dòn  lần lượt ăn mùng , khoe khoang những căn nhà mới "trên đồi" , thuộc loại đắt tiền dành cho giới giàu có .  Kèm theo những tiếng a dua thán phục những sự "đầu tư khôn ngoan"  và cũng là "cái tài cái mẹo luồn lách, trốn tránh" sự thật làm ăn trong một quê huơng mới,   một nơi từng dang tay đón tiếp mình. Đúa cháu và gia đình hả hê thỏa mãn nhà mới- villa mới hay những khi xênh xang du lịch “áo gấm về làng “,  về  trong lòng quê huơng - trong những chuyến xe  bóng nhoáng tới thăm những danh lam thắng cảnh , những thành phố xa xôi tận ngoài Bắc .  Chua xót thay, bên mộ phần hiu quạnh của hai cụ không  một nén nhang tưởng niệm !

 

  Ngọn gió biển Nha Trang vẫn nhẹ nhàng thổi , vẫn trầm lặng như tâm tư cụ nhà nho người hay suy nghĩ chuyện đời, coi đó là chuyện thuờng tình của cuộc đời ô trọc , Đó là cái lý cho một nhà Nho cuối cùng của thế kỷ hai mươi nước mình sống an nhàn , cam cảnh THANH BẦN LẠC ĐẠO đó thôi.

 

 Chắc chắn rằng khi chiếc xe du lịch chạy qua ngả ba Diên Khánh đứa cháu kia bất giác quay về huớng núi- phía trái, như cố tránh nhìn về phía tay mặt ,  huớng biển Nha trang có hai mộ phần ông bà Cụ .  Đứa cháu cố quên những  kỷ niệm, những ngày chiến tranh túng khó , những tình thuơng do quan niệm "máu loãng còn hơn nước lạnh" . Đứa cháu đó đang  ngoảnh mặt làm ngơ từ cái bụng nhỏ nhen, cái lòng e ngại, chuyện phiền toái  "vì phải đáp đền ân nghĩa" đó chăng  ?

 

  Chua chát thay cái sự đời.


ĐHL viết khi nghe kể một thói đời


August 7, 2013 

 

Thursday, July 13, 2023

QUÁN NGHÈO BÊN CON DỐC LỞ



chào bạn đọc

Thưa thật với bạn đọc tôi từng đăng bài hồi ức này khá nhiều lần với cái đề bài khác nhau. Dù sao chăng nữa đây là một câu chuyện thật của cuộc đời người viết sau ngày tù cải tạo về lại địa phương chung sống với gia đình cùng bà con làng nước. 

Những người "tù cải tạo" ngày đó thú thật còn cái mạng về nhà là điều may mắn. Chuyện  vốn liếng cuộc đời chỉ là  hai bàn tay không cùng một thân thể ốm yếu suy nhược sau những năm thiếu ăn cùng đày ải nơi rừng sâu núi thẳm. 

Nói thật tình những người ra tù về lại thành phố, đời sống bán buôn còn khá cho bản thân. Những ai về lại gia đình ở vùng đất đai trù phú thì cuộc sống sẽ sung túc hơn. Đó là chuyện đương nhiên, cuộc sống có liên quan với kinh tế nơi ta ở.  

Người viết, nói cho cùng có thể kém may mắn hơn những người tù về lại thành phố. Trước tiên là vốn liếng trong tay không gì hơn là cái rìu ngày ngày vô rừng đốn củi nuôi "vợ đỡ con". 

Sơn Mỹ ngày đó là một vùng đất ven biển, dân cư đa phần làm nương rẫy đốt than sinh sống. Chiếc xe thồ chở củi của tôi, cứ một lần 'hạ sơn', tức là đổ xuống con dốc Tân Sơn để về dưới kia, lại phải qua cái quán nghèo bên con dốc.

Ông lão bán quán chẳng ai xa lạ. Người ta gọi ông là ông Uy tức là ông Uy Sơn Mỹ. Trong mắt người viết nhân vật này khá đặc biệt. Đặc biệt không phải ông là chủ nhân cái quán nghèo kia mà do ông lúc nào cũng bận bộ đồ vá hàng trăm miếng và cái ống thuốc lào thật dài cạnh bên ông.


hình ảnh một cái quán nước nghèo nàn bên dốc SƠn Mỹ, xe ôm Minsk, một phương tiện chính, đang chở người đi buôn cá về thị xã LAGI sau lưng đèo 1 cần- xế (hình tác giả chụp trước khi đi Mỹ vào cuối tháng 7/1995)


    Trở về cái thời còn nhỏ dưới khung trời thành phố Quảng Trị thân yêu, ngày đó tôi là đứa học trò nhưng lại mê bộ truyện Võ Lâm Ngũ Bá (Kim Dung) nhất trong nhiều tập truyện võ hiệp của Tàu. Thật lạ quá, tôi từng đọc lui đọc tới không biết chán. Từ trường Nguyễn Hoàng về nhà, có khi tôi không theo đường Duy Tân, lại theo Lê thái Tổ đi lên hướng Chơ Tỉnh, xong men  theo Trần Hưng Đạo đi xuống. Trên đường Trần H Đạo, tôi hay ghé tiệm sách Tao Đàn hỏi mấy tập kế của Võ Lâm Ngũ Bá về chưa? 

   Trong Ngũ Bá Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công coi về Cái Bang, là "sếp" của phái Ăn Xin . Hồng Thất Công có môn "Đả Cẩu Bổng Pháp" tức 'võ đánh chó'. Dĩ nhiên, người Cái Bang thì hay gặp chó,  mà găp chó thì phải có võ để trị. Nhưng trong truyện "Đả Cẩu" này lại là món võ mà quần hùng phải khiếp. Đó là chưa kể đến Giáng Long Thập Bát Chưởng từng sánh vai với Nhất Duơng Chỉ, thần công cái thế, của Vuơng Trùng Dương sau này là tổ sư của Toàn Chân phái mà đứa cháu là Truơng Tam Phong kế truyền và là tổ sư của Võ Đang Phái...

   Miên man chuyện võ hiệp của Tàu, các bạn sẽ hỏi có liên quan chi câu chuyện hay ký ức "cái quán nghèo" trong đề bài đâu? Xin thưa, đó là hình ảnh cái áo của Trưởng Lão Cái Bang là Hồng thất Công luôn luôn vá víu, rách rưới và từ hình ảnh của Lão Cái Bang làm tôi chợt so sánh với cái áo của người người chủ cái quán nghèo bên dốc kia.

*

  Những ngày di dân Quảng Trị vào Bình Tuy, cụ thể hơn là Hàm Tân và chi tiết hơn nữa là xứ Động Đền, những làng xã QT bên bờ đại duơng, vùng vịnh Hàm tân. Tôi ghi nhớ hình ảnh của một 'Hồng thất Công thứ hai' chăng?

  Bạn đọc sẽ thắc mắc tại sao lại là 'Hồng thất Công thứ hai'? Ý tưởng của tôi sao 'ngồ ngộ' khi so sánh hình ảnh một ông già bán quán bên đường quê huơng với một nhân vật võ hiệp.


              NGƯỜI QT TỪ ĐÀ NẴNG DI DÂN VÀO BÌNH TUY NĂM 1973

  Bà con sống trên Dốc Sơn Mỹ (trước là xã Tân Sơn-Hàm Tân) ai mà chẳng biết ông. Ông là người Bắc Di Cư, từng sống tại QT. Nhà ông cũng theo bà con QT vào đây thời Khẩn Hoang Lập Ấp,  thập niên 1973 cho đến bấy giờ. 

Theo con đường đất đỏ, tức là tỉnh Lộ 23 (giờ là tỉnh lộ 55) Bình Châu-Hàm Tân. Trước khi đổ dốc, xuống chợ Cam Bình để về thi trấn LaGi, người ta thấy căn nhà tôn nho nhỏ của ông bán hàng ẩn mình dưới vài gốc mít.  Sinh kế của ông ngoài cái quán nhỏ trước mái hiên nhà, vài thẩu kẹo, vài nải chuối, chẳng có món hàng nào đắt giá. Tôi không biết nhà ông có vào rừng canh tác làm rẫy hay không? Mỗi lúc đi ngang, tôi chỉ thấy ông ngồi giữ quán, tay cầm ống thuốc lào, thỉnh thoảng rít một 'hơi' thuốc dài lê thê cùng buông ra làn khói bay bay...

Thân phận tôi chẳng khác gì hơn? Đó là hình ảnh một gã tiều phu đang khom mình thồ chiếc xe củi nặng. Tôi cố dùng hết sức mình, ghì chiếc xe thồ bắt đầu đổ dốc. Mỗi ngày ngang qua nhà ông, hình ảnh 'đậm nét' làm người viết nhớ mãi là gì? tôi sẽ lần lượt kể lại cho bà con QT mình nghe 'chơi'...



Ông bán hàng đang 'rít' ống thuốc Lào, mắt tôi không thể bỏ qua cái áo ông mặc. Những lớp vá chằng chịt, chồng lên nhau không còn một chỗ trống. Hình như ông chỉ mặc cái áo hơi quái dị đó ?  Những miếng vải kaki xanh vuông, hết lớp này chồng lên lớp khác. Hình như càng rách, ông lại càng vá thêm! Tôi không mặc nhưng hình dung chiếc áo kia ắt hẳn phải nặng chình chịch mà thôi!

xin mượn hình ảnh này làm hình ảnh của người viết ngày đó. "anh hùng mạt vận" vào rừng đốt than làm củi...bạn đọc hãy tưởng tượng xe củi của người viết đang ngang qua cái quán nghèo trong truyện ...




Tôi thông cảm cho ông, có thể do đây là một hành động âm thầm, ông đang chống lại cái gì đó? Sự nghèo túng, thiếu thốn của một miền đất khổ hay hoàn cảnh chung cho toàn thể bà con lối xóm quanh ông ? Vá- chắp tiếp nối vá- chắp? Chiếc xe thồ củi của tôi chẳng hơn gì thân phận ông ? chiếc ruột xe vá 'chằm vá đụp' đến nỗi mấy thợ vá và sửa xe đạp trên xã Sơn Mỹ như anh Hạ (Thuỷ) gần Chùa Huệ Đức, anh Lợi, anh Oai đều là thợ sửa xe đạp trước chợ Xã từng lắc đầu một cách ái ngại. Chiếc xe tôi cùng 'thân phận vá chắp' do hai chiếc lốp xe không còn chỗ nào để vá? Cái thời: mua cái ruột xe đạp, cái đùm, sợi xích, cái rô líp "Trung Quốc' là cả "một gia tài"?!


 Lớp trẻ lớn lên sau này không có cơ hội sống qua "CHẾ ĐỘ TEM PHIẾU".  Mỗi năm 'tiêu chuẩn' vài tấc vải, ai không may có thể khác màu. Cái áo ' trường kỳ kháng chiến' của Ông có thể là câu trả lời cụ thể và hình tượng nhất cho sự thiếu thốn này. Cán bô- công nhân viên chức- cách gọi thời đó, có thể khá hơn một ít. Một ít thôi; nghĩa là mỗi năm hơn dân vài ba tấc vải,dăm ba lạng thịt heo (nhưng ai cũng ưa nhiều mỡ , rán để dành), một vài lạng trà đường . v v.. 

 Người viết ngang đây cũng chưa nói hết ý mình. Cái áo cùng cái quán nghèo ven đường ngày đó làm tôi nhớ lại   Cụ "Hồng thất Công" trong Võ Lâm Ngũ Bá, đề cập ở đầu bài. Cửu Chỉ Thần Cái mà sống lại, đem áo ra so ư ? cũng thua cái áo của 'cụ bán hàng' mà tôi miêu tả vào thời chúng tôi  thôi.  Bạn thử tưởng tượng xem:  cái quần đùi ka ki bạc phếch, bên trên là cái áo vá chằng chịt, chồng chất lớp lớp thời gian, lưu dân QT sống tại vùng này, rẫy rừng làm bạn.

Ông lão ngày ngày ngồi trước cái quán nghèo, lơ đãng ngó ra từng đoàn xe đạp thồ, những toán phụ nữ gánh gồng ngang qua truớc mắt ông. Những đoàn dân quê lao lực, củi than cùng nông phẩm thi nhau đổ dốc. Dưới kia là phố thị La Gi; đêm về từng hàng ghe tàu ra khơi, hàng vạn ngọn đèn măng -sông câu mực thi nhau lấp lánh...






Biển Hàm Tân vào mùa câu mực



Quá khứ của Ông, cũng sống cùng người dân QT ngoài kia, đồng cam cộng khổ theo bà con mình vào tận Bình Tuy, khai sơn phá thạch, tạo nên một quê huơng thứ hai nói 'rặc giọng mình'; trừ ông, vẫn cái giọng Bắc rất chuẩn. Quá khứ của ông có gì nổi trội? chẳng ai biết ngoại trừ câu chuyện là ông "nấu thịt chó rất ngon", đơn giản chỉ có thế. Tôi cũng xin nhắc lại chuyện ông nhạc tôi kể lại cho tôi rằng: ông nấu thịt chó 'cừ khôi' đến nổi có ông cố vấn Mỹ thời trước đóng tại Quảng Trị  'từng yêu chó, quý chó' mà phải 'chết mê chết mệt' vì món thịt chó của ông!


một 'thời thịt chó' của Ông bán hàng thời sống tại QT trước 1972

Có thể trong bút ký này, Ông hay bà con  không bằng lòng về chuyện cái "áo vá" ; nhưng nghĩ lại vào thời này bà con mình và ngay cả người viết đều cùng cảnh ngộ. Một hoàn cảnh của rách rưới, cơ khổ, chắp vá cùng mong cầu ...

Dù "áo vá" nhưng tôi nghĩ không ai có thể vá áo chồng chắp, chằng chịt bằng Ông, một hình ảnh làm cho tôi nhớ mãi. Một ý nghĩ hơi 'tếu' thoáng qua: nếu ai đó đi  'thi vá áo' thì khó lòng thắng được ông? Ngay cả Cửu Chỉ Thần Cái, trưởng phái Cái Bang trong truyện Kim Dung ngày trước giá như sống lại chắc cũng chào thua ông lão bán hàng bên dốc Sơn Mỹ ngày đó. 

*

 Chuyện ngày qua, vài thập niên trôi nhanh như gió thoảng. Một con dốc bên triền đất lở lói, có cái quán nghèo chỉ vài nải chuối đong đưa trên vài ba thẩu kẹo rẻ tiền... có ông lão bán hàng với chiếc áo vá đầy ấn tượng. Ông đang mơ màng...cụm khói thuốc lào từ từ bốc cao. Làn khói thuốc như muốn theo đám mây trời đang bảng lảng trôi về phương trời Quảng Trị ./.

Wednesday, July 12, 2023

VNCH - UKRAINE CHUNG HOÀN CẢNH KHÁC SỐ PHẬN

 

NHÂN TƯỞNG NIỆM 50 NĂM THỎA ƯỚC BẤT CÔNG BA LÊ- THƯƠNG CHO SỐ PHẬN VNCH


THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973 

-MỸ: NGOẠI TRƯỞNG WILLIAM P. ROGERS

-VNCH: NGOẠI TRƯỞNG TRẦN VĂN LẮM

-CSVN: NGOẠI TRƯỞNG NGUYỄN DUY TRINH

-MTGPMN: NGUYỄN THỊ BÌNH

                                                                    ***


Cám ơn anh kịp lớn giữa thù hằn

Thắp đôi vai gồng gánh nỗi điêu linh
Bóng vinh quang lắp sâu trong huyệt lạnh
Hay ngồi đau thầm lặng giữa thanh bình...

(Trầm Tử Thiêng / Cám Ơn Anh )

Thưa bạn đọc

Hôm nay là ngày 27/1/2023 đúng Năm Mươi Năm ngày ký Thỏa Ước Ba Lê 27/1/1973 chúng ta có dịp ôn lại số phận của VNCH

Trước tiên chúng ta nói về cái từ “Thỏa Ước, Thỏa Thuận, Hiệp Định…” Ba Lê tất cả đều không đúng với thân phận hẩm hiu của VNCH người đồng minh nhỏ bé của Thế Giới Tự Do phải chiến đấu trong cô độc sau khi VNCH bị ép buộc ký kết trong thua thiệt để nước Mỹ rút quân và đem tù binh về nước.


Diễn biến và sự thể của Hòa Ước bất công này dĩ nhiên là bước dọn đường cho Chiến Thắng cuối cùng của Hà Nội, chiếm trọn miền nam nhuộm đỏ hoàn toàn VN theo Chế Độ Cộng sản là điều đương nhiên không thể tránh khỏi.


Một đất nước một chế độ bị xóa tên một cách tức tưởi, sự tấn công và xâm lăng của chủ nghĩa CS đứng đầu là Liên xô và Trung cộng đã đắc thắng. Một VNCH mất đi dù có bao biện bao mỹ từ nào đó cũng không xóa hết bao bất công của bàn cờ chính trị thế giới giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản.


Sau tháng Tư đen 1975 các chính trị gia tướng lĩnh sử gia thế giới viết nhiều và thương cảm cho số phận VNCH nhưng mỉa mai thay tất cả đều là “nước mắt cá sấu” do VNCH đã mất rồi?


Thân phận cầm đầu VNCH một đồng minh nhược tiểu mọi thứ đều lệ thuộc vào viện trợ Hoa Kỳ ra sao chúng ta thử đọc lại lá thư hăm dọa của TT Richard Nixon gửi TT Nguyễn văn Thiệu bắt buộc ông phải ký thỏa ước Ba Lê như sau:

-…Nhiệm vụ của tướng Haig tới có mục đích nói cho ông biết, ông phải hợp tác với ý định cuối cùng của tôi là tiến hành chứ không còn thay đổi. Nếu thấy cần thiết Hoa Kỳ có thể đơn phương thực hiện…Qua tướng Haig (Alexander Haig), tổng thống chỉ còn một cơ hội cuối cùng để trả lời cho tôi những gì tôi đã quyết định còn không thì ĐƯỜNG AI NẤY ĐI. Tôi (Nixon) nhấn mạnh lần nữa tướng Haig tới Sài Gòn không nhằm thương thảo với tổng thống…thế nên bây giờ tổng thống phải quyết định một là hợp tác hai là để chúng tôi TỰ KÝ KẾT VỚI KẺ THÙ KHI HỌ PHỤC VỤ ĐƯỢC LỢI ÍCH RIÊNG CHO NƯỚC MỸ”

(tài liệu giải mã Bạch Ốc thư Nixon to Presiden Nguyen Van Thiêu 7/12/1972)



Còn gì cay đắng hơn cho thân phận VNCH biết Ký kết hiệp định là đưa quân thù vào thế chiến thắng mà không ký thì cũng chết do cả một triệu quân và cả miền nam “một viên đạn một lít xăng…cũng không còn được viện trợ”

Trong hồi ký của Henry Kissinger người ‘Quân Sư” cho Thỏa Ước Ba Lê có đoạn:

 

 “ …về riêng tư, tuy tôi (Kissinger) dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông do ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi…Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ xưa nay ấp ủ. Lòng Trung Thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất”

(Henry Kissinger. Years of Upheaval)




Vâng, chính tay ông Kissinger cũng hiểu rõ giá trị về "lòng trung thành" nói khác đi là tình bạn, lòng thủy chung theo ông từng tạo ra "giá trị căn bản của Hoa Kỳ đối với thế giới"  tuy ông khuyên Hoa Kỳ "cố gắng đừng cho nó vuột mất" thế nhưng VNCH đã mất rồi và Mỹ đã làm "vuột mất" nửa thế kỷ trước?!


50 năm nửa thế kỷ, so sánh một VNCH thời đó và Ukraine hiện nay cả hai đều chống lại làn sóng xâm lăng của Nga Tàu. Đó là một sự thật nằm trong góc khuất của chính trị. Putin xâm lăng Ukraine để mở rộng dế chế của Nga chẳng khác gì giấc mộng nhuộm đỏ của Liên Xô ngày trước. Phận rủi của VNCH đã đành, nhưng sự bất công của Đồng Minh làm sao không xét đến. Cùng bảo vệ cho thế giới tự do cũng như Ukraine bảo vệ cho NATO và Tây Phương hiện tại. Nhưng hoàn cảnh của VNCH thật tình bi đát do đồng minh tính toán từng viên đạn từng lít xăng kèm theo lời dọa dẫm trong lúc này Ukraine đòi hỏi gì có đó, càng viện trợ càng đòi hỏi tăng thêm , NATO nhất là Hoa Kỳ không biết bao nhiêu tỷ đô la là đủ?


Lịch sử đã sang trang,  bao nhiêu đau thương, bi thiết hay bất công hay những những chính khách năm xưa đều giã từ nhân thế đi vào cõi hư vô không còn phiền hà buồn giận. Thế mà lạ thay có lúc lịch sử thường lập lại để thế nhân nhận ra điều nhân quả.

Năm mươi năm trước QH Hoa Kỳ từng lạnh lùng cắt giảm viện trợ cho VNCH đáng thương thậm chí chỉ còn 300,000 đô la cũng không? và hôm nay này mức Quân Viện cho Ukraine từ theo CSIS (Center of Strategic & International Studies) nay đã lên 68 tỷ usd qua 3 gói viện trợ…và sự viện trợ này không hề chấm dứt càng lúc càng tăng thêm. QH Hoa Kỳ ngay cả người dân Mỹ không biết bao nhiêu tỷ nữa là vừa cho cái hố chiến tranh sâu rộng này. Chúng ta mừng cho Ukraine có được Hoa Kỳ và NATO cùng chung sức dốc toàn lực chống lại sự bành trướng của sức mạnh xâm lăng của Nga nhưng lại động lòng thương cho thân phận VNCH phải chiến đấu trong cô độc trước sức mạnh của vũ khí Tàu Nga và đội quân xâm lăng đông đảo của Bắc Việt cùng lực lượng 'tay sai hà nội" có cái ngụy danh là 'Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam"?





pháo hỏa tiễn cơ động tối tân HIMARS của Hoa Kỳ

sau pháo hiện đại HIMARS, TT Biden tuyên bố nhiều xe tăng hiện đại Abrahams M1 sẽ đến Ukraine 

Và nay Ukraine đang đòi thêm F 16...

Nếu có con mắt về quân sự chúng ta nghiệm ra rằng nhu cầu của Ukraine sẽ bất tận đối với một Putin hiếu chiến và có thực lực về vũ khí.

Nhu cầu của Ukraine dù không đòi xương máu của thanh niên Hoa Kỳ nhưng khách quan nhận xét nó sẽ là một hấp lực triền miên và Hoa Kỳ và NATO sẽ phải đeo đến cùng như con bài 'khát nước' ...


Nước Mỹ nói chung, tính toán với VNCH chừng nào giờ thì rộng rãi phóng khoáng với Ukraine chừng đó Phải chăng là hai hoàn cảnh khác nhau? Chưa hẳn nếu chúng ta nghĩ rộng ra nhiệm vụ hi sinh của Quân Dân VNCH là tiền đồn BẢO VỆ TỰ DO DÂN CHỦ CHỐNG LÀN SÓNG ĐỎ XÂM LĂNG CỦA ĐẾ CHẾ NGA VÀ BÁ QUYỀN TRUNG CỘNG. 

Cuộc chiến Nga Ukraine hiện nay đã hơn 500 ngày máu lửa nhưng chưa hề có dấu hiệu kết thúc. Hấp lực vũ khí NATO và Hoa Kỳ bắt buộc phải đổ vào Ukraine chưa có dấu hiệu sụt giảm lại càng gia tăng về khối lượng và thể loại cao hơn khốc liệt hơn. 

Đến lúc này chúng ta mới giật mình nghĩ lại 

TỪ VNCH CHO ĐẾN UKRAINE PHẢI CHĂNG LÀ MỘT LỜI NGUYỀN NHÂN- QUẢ



ĐHL  edit

NHÂN 50 TƯỞNG NIỆM HIỆP ƯỚC BẤT CÔNG BA LÊ 27/1/1973 


QUÁN TIẾT CANH MỤ THẦY NGÀY XƯA (edition)

  một chút tản mạn lai rai   Thưa bạn đọc nhất là bạn ghiền tiết canh,  Chuyện tô tiết canh có gì lạ đâu sao mà nhắc mãi?  nhưng thưa bạn ng...