Thursday, July 13, 2023

QUÁN NGHÈO BÊN CON DỐC LỞ



chào bạn đọc

Thưa thật với bạn đọc tôi từng đăng bài hồi ức này khá nhiều lần với cái đề bài khác nhau. Dù sao chăng nữa đây là một câu chuyện thật của cuộc đời người viết sau ngày tù cải tạo về lại địa phương chung sống với gia đình cùng bà con làng nước. 

Những người "tù cải tạo" ngày đó thú thật còn cái mạng về nhà là điều may mắn. Chuyện  vốn liếng cuộc đời chỉ là  hai bàn tay không cùng một thân thể ốm yếu suy nhược sau những năm thiếu ăn cùng đày ải nơi rừng sâu núi thẳm. 

Nói thật tình những người ra tù về lại thành phố, đời sống bán buôn còn khá cho bản thân. Những ai về lại gia đình ở vùng đất đai trù phú thì cuộc sống sẽ sung túc hơn. Đó là chuyện đương nhiên, cuộc sống có liên quan với kinh tế nơi ta ở.  

Người viết, nói cho cùng có thể kém may mắn hơn những người tù về lại thành phố. Trước tiên là vốn liếng trong tay không gì hơn là cái rìu ngày ngày vô rừng đốn củi nuôi "vợ đỡ con". 

Sơn Mỹ ngày đó là một vùng đất ven biển, dân cư đa phần làm nương rẫy đốt than sinh sống. Chiếc xe thồ chở củi của tôi, cứ một lần 'hạ sơn', tức là đổ xuống con dốc Tân Sơn để về dưới kia, lại phải qua cái quán nghèo bên con dốc.

Ông lão bán quán chẳng ai xa lạ. Người ta gọi ông là ông Uy tức là ông Uy Sơn Mỹ. Trong mắt người viết nhân vật này khá đặc biệt. Đặc biệt không phải ông là chủ nhân cái quán nghèo kia mà do ông lúc nào cũng bận bộ đồ vá hàng trăm miếng và cái ống thuốc lào thật dài cạnh bên ông.


hình ảnh một cái quán nước nghèo nàn bên dốc SƠn Mỹ, xe ôm Minsk, một phương tiện chính, đang chở người đi buôn cá về thị xã LAGI sau lưng đèo 1 cần- xế (hình tác giả chụp trước khi đi Mỹ vào cuối tháng 7/1995)


    Trở về cái thời còn nhỏ dưới khung trời thành phố Quảng Trị thân yêu, ngày đó tôi là đứa học trò nhưng lại mê bộ truyện Võ Lâm Ngũ Bá (Kim Dung) nhất trong nhiều tập truyện võ hiệp của Tàu. Thật lạ quá, tôi từng đọc lui đọc tới không biết chán. Từ trường Nguyễn Hoàng về nhà, có khi tôi không theo đường Duy Tân, lại theo Lê thái Tổ đi lên hướng Chơ Tỉnh, xong men  theo Trần Hưng Đạo đi xuống. Trên đường Trần H Đạo, tôi hay ghé tiệm sách Tao Đàn hỏi mấy tập kế của Võ Lâm Ngũ Bá về chưa? 

   Trong Ngũ Bá Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công coi về Cái Bang, là "sếp" của phái Ăn Xin . Hồng Thất Công có môn "Đả Cẩu Bổng Pháp" tức 'võ đánh chó'. Dĩ nhiên, người Cái Bang thì hay gặp chó,  mà găp chó thì phải có võ để trị. Nhưng trong truyện "Đả Cẩu" này lại là món võ mà quần hùng phải khiếp. Đó là chưa kể đến Giáng Long Thập Bát Chưởng từng sánh vai với Nhất Duơng Chỉ, thần công cái thế, của Vuơng Trùng Dương sau này là tổ sư của Toàn Chân phái mà đứa cháu là Truơng Tam Phong kế truyền và là tổ sư của Võ Đang Phái...

   Miên man chuyện võ hiệp của Tàu, các bạn sẽ hỏi có liên quan chi câu chuyện hay ký ức "cái quán nghèo" trong đề bài đâu? Xin thưa, đó là hình ảnh cái áo của Trưởng Lão Cái Bang là Hồng thất Công luôn luôn vá víu, rách rưới và từ hình ảnh của Lão Cái Bang làm tôi chợt so sánh với cái áo của người người chủ cái quán nghèo bên dốc kia.

*

  Những ngày di dân Quảng Trị vào Bình Tuy, cụ thể hơn là Hàm Tân và chi tiết hơn nữa là xứ Động Đền, những làng xã QT bên bờ đại duơng, vùng vịnh Hàm tân. Tôi ghi nhớ hình ảnh của một 'Hồng thất Công thứ hai' chăng?

  Bạn đọc sẽ thắc mắc tại sao lại là 'Hồng thất Công thứ hai'? Ý tưởng của tôi sao 'ngồ ngộ' khi so sánh hình ảnh một ông già bán quán bên đường quê huơng với một nhân vật võ hiệp.


              NGƯỜI QT TỪ ĐÀ NẴNG DI DÂN VÀO BÌNH TUY NĂM 1973

  Bà con sống trên Dốc Sơn Mỹ (trước là xã Tân Sơn-Hàm Tân) ai mà chẳng biết ông. Ông là người Bắc Di Cư, từng sống tại QT. Nhà ông cũng theo bà con QT vào đây thời Khẩn Hoang Lập Ấp,  thập niên 1973 cho đến bấy giờ. 

Theo con đường đất đỏ, tức là tỉnh Lộ 23 (giờ là tỉnh lộ 55) Bình Châu-Hàm Tân. Trước khi đổ dốc, xuống chợ Cam Bình để về thi trấn LaGi, người ta thấy căn nhà tôn nho nhỏ của ông bán hàng ẩn mình dưới vài gốc mít.  Sinh kế của ông ngoài cái quán nhỏ trước mái hiên nhà, vài thẩu kẹo, vài nải chuối, chẳng có món hàng nào đắt giá. Tôi không biết nhà ông có vào rừng canh tác làm rẫy hay không? Mỗi lúc đi ngang, tôi chỉ thấy ông ngồi giữ quán, tay cầm ống thuốc lào, thỉnh thoảng rít một 'hơi' thuốc dài lê thê cùng buông ra làn khói bay bay...

Thân phận tôi chẳng khác gì hơn? Đó là hình ảnh một gã tiều phu đang khom mình thồ chiếc xe củi nặng. Tôi cố dùng hết sức mình, ghì chiếc xe thồ bắt đầu đổ dốc. Mỗi ngày ngang qua nhà ông, hình ảnh 'đậm nét' làm người viết nhớ mãi là gì? tôi sẽ lần lượt kể lại cho bà con QT mình nghe 'chơi'...



Ông bán hàng đang 'rít' ống thuốc Lào, mắt tôi không thể bỏ qua cái áo ông mặc. Những lớp vá chằng chịt, chồng lên nhau không còn một chỗ trống. Hình như ông chỉ mặc cái áo hơi quái dị đó ?  Những miếng vải kaki xanh vuông, hết lớp này chồng lên lớp khác. Hình như càng rách, ông lại càng vá thêm! Tôi không mặc nhưng hình dung chiếc áo kia ắt hẳn phải nặng chình chịch mà thôi!

xin mượn hình ảnh này làm hình ảnh của người viết ngày đó. "anh hùng mạt vận" vào rừng đốt than làm củi...bạn đọc hãy tưởng tượng xe củi của người viết đang ngang qua cái quán nghèo trong truyện ...




Tôi thông cảm cho ông, có thể do đây là một hành động âm thầm, ông đang chống lại cái gì đó? Sự nghèo túng, thiếu thốn của một miền đất khổ hay hoàn cảnh chung cho toàn thể bà con lối xóm quanh ông ? Vá- chắp tiếp nối vá- chắp? Chiếc xe thồ củi của tôi chẳng hơn gì thân phận ông ? chiếc ruột xe vá 'chằm vá đụp' đến nỗi mấy thợ vá và sửa xe đạp trên xã Sơn Mỹ như anh Hạ (Thuỷ) gần Chùa Huệ Đức, anh Lợi, anh Oai đều là thợ sửa xe đạp trước chợ Xã từng lắc đầu một cách ái ngại. Chiếc xe tôi cùng 'thân phận vá chắp' do hai chiếc lốp xe không còn chỗ nào để vá? Cái thời: mua cái ruột xe đạp, cái đùm, sợi xích, cái rô líp "Trung Quốc' là cả "một gia tài"?!


 Lớp trẻ lớn lên sau này không có cơ hội sống qua "CHẾ ĐỘ TEM PHIẾU".  Mỗi năm 'tiêu chuẩn' vài tấc vải, ai không may có thể khác màu. Cái áo ' trường kỳ kháng chiến' của Ông có thể là câu trả lời cụ thể và hình tượng nhất cho sự thiếu thốn này. Cán bô- công nhân viên chức- cách gọi thời đó, có thể khá hơn một ít. Một ít thôi; nghĩa là mỗi năm hơn dân vài ba tấc vải,dăm ba lạng thịt heo (nhưng ai cũng ưa nhiều mỡ , rán để dành), một vài lạng trà đường . v v.. 

 Người viết ngang đây cũng chưa nói hết ý mình. Cái áo cùng cái quán nghèo ven đường ngày đó làm tôi nhớ lại   Cụ "Hồng thất Công" trong Võ Lâm Ngũ Bá, đề cập ở đầu bài. Cửu Chỉ Thần Cái mà sống lại, đem áo ra so ư ? cũng thua cái áo của 'cụ bán hàng' mà tôi miêu tả vào thời chúng tôi  thôi.  Bạn thử tưởng tượng xem:  cái quần đùi ka ki bạc phếch, bên trên là cái áo vá chằng chịt, chồng chất lớp lớp thời gian, lưu dân QT sống tại vùng này, rẫy rừng làm bạn.

Ông lão ngày ngày ngồi trước cái quán nghèo, lơ đãng ngó ra từng đoàn xe đạp thồ, những toán phụ nữ gánh gồng ngang qua truớc mắt ông. Những đoàn dân quê lao lực, củi than cùng nông phẩm thi nhau đổ dốc. Dưới kia là phố thị La Gi; đêm về từng hàng ghe tàu ra khơi, hàng vạn ngọn đèn măng -sông câu mực thi nhau lấp lánh...






Biển Hàm Tân vào mùa câu mực



Quá khứ của Ông, cũng sống cùng người dân QT ngoài kia, đồng cam cộng khổ theo bà con mình vào tận Bình Tuy, khai sơn phá thạch, tạo nên một quê huơng thứ hai nói 'rặc giọng mình'; trừ ông, vẫn cái giọng Bắc rất chuẩn. Quá khứ của ông có gì nổi trội? chẳng ai biết ngoại trừ câu chuyện là ông "nấu thịt chó rất ngon", đơn giản chỉ có thế. Tôi cũng xin nhắc lại chuyện ông nhạc tôi kể lại cho tôi rằng: ông nấu thịt chó 'cừ khôi' đến nổi có ông cố vấn Mỹ thời trước đóng tại Quảng Trị  'từng yêu chó, quý chó' mà phải 'chết mê chết mệt' vì món thịt chó của ông!


một 'thời thịt chó' của Ông bán hàng thời sống tại QT trước 1972

Có thể trong bút ký này, Ông hay bà con  không bằng lòng về chuyện cái "áo vá" ; nhưng nghĩ lại vào thời này bà con mình và ngay cả người viết đều cùng cảnh ngộ. Một hoàn cảnh của rách rưới, cơ khổ, chắp vá cùng mong cầu ...

Dù "áo vá" nhưng tôi nghĩ không ai có thể vá áo chồng chắp, chằng chịt bằng Ông, một hình ảnh làm cho tôi nhớ mãi. Một ý nghĩ hơi 'tếu' thoáng qua: nếu ai đó đi  'thi vá áo' thì khó lòng thắng được ông? Ngay cả Cửu Chỉ Thần Cái, trưởng phái Cái Bang trong truyện Kim Dung ngày trước giá như sống lại chắc cũng chào thua ông lão bán hàng bên dốc Sơn Mỹ ngày đó. 

*

 Chuyện ngày qua, vài thập niên trôi nhanh như gió thoảng. Một con dốc bên triền đất lở lói, có cái quán nghèo chỉ vài nải chuối đong đưa trên vài ba thẩu kẹo rẻ tiền... có ông lão bán hàng với chiếc áo vá đầy ấn tượng. Ông đang mơ màng...cụm khói thuốc lào từ từ bốc cao. Làn khói thuốc như muốn theo đám mây trời đang bảng lảng trôi về phương trời Quảng Trị ./.

Wednesday, July 12, 2023

VNCH - UKRAINE CHUNG HOÀN CẢNH KHÁC SỐ PHẬN

 

NHÂN TƯỞNG NIỆM 50 NĂM THỎA ƯỚC BẤT CÔNG BA LÊ- THƯƠNG CHO SỐ PHẬN VNCH


THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973 

-MỸ: NGOẠI TRƯỞNG WILLIAM P. ROGERS

-VNCH: NGOẠI TRƯỞNG TRẦN VĂN LẮM

-CSVN: NGOẠI TRƯỞNG NGUYỄN DUY TRINH

-MTGPMN: NGUYỄN THỊ BÌNH

                                                                    ***


Cám ơn anh kịp lớn giữa thù hằn

Thắp đôi vai gồng gánh nỗi điêu linh
Bóng vinh quang lắp sâu trong huyệt lạnh
Hay ngồi đau thầm lặng giữa thanh bình...

(Trầm Tử Thiêng / Cám Ơn Anh )

Thưa bạn đọc

Hôm nay là ngày 27/1/2023 đúng Năm Mươi Năm ngày ký Thỏa Ước Ba Lê 27/1/1973 chúng ta có dịp ôn lại số phận của VNCH

Trước tiên chúng ta nói về cái từ “Thỏa Ước, Thỏa Thuận, Hiệp Định…” Ba Lê tất cả đều không đúng với thân phận hẩm hiu của VNCH người đồng minh nhỏ bé của Thế Giới Tự Do phải chiến đấu trong cô độc sau khi VNCH bị ép buộc ký kết trong thua thiệt để nước Mỹ rút quân và đem tù binh về nước.


Diễn biến và sự thể của Hòa Ước bất công này dĩ nhiên là bước dọn đường cho Chiến Thắng cuối cùng của Hà Nội, chiếm trọn miền nam nhuộm đỏ hoàn toàn VN theo Chế Độ Cộng sản là điều đương nhiên không thể tránh khỏi.


Một đất nước một chế độ bị xóa tên một cách tức tưởi, sự tấn công và xâm lăng của chủ nghĩa CS đứng đầu là Liên xô và Trung cộng đã đắc thắng. Một VNCH mất đi dù có bao biện bao mỹ từ nào đó cũng không xóa hết bao bất công của bàn cờ chính trị thế giới giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản.


Sau tháng Tư đen 1975 các chính trị gia tướng lĩnh sử gia thế giới viết nhiều và thương cảm cho số phận VNCH nhưng mỉa mai thay tất cả đều là “nước mắt cá sấu” do VNCH đã mất rồi?


Thân phận cầm đầu VNCH một đồng minh nhược tiểu mọi thứ đều lệ thuộc vào viện trợ Hoa Kỳ ra sao chúng ta thử đọc lại lá thư hăm dọa của TT Richard Nixon gửi TT Nguyễn văn Thiệu bắt buộc ông phải ký thỏa ước Ba Lê như sau:

-…Nhiệm vụ của tướng Haig tới có mục đích nói cho ông biết, ông phải hợp tác với ý định cuối cùng của tôi là tiến hành chứ không còn thay đổi. Nếu thấy cần thiết Hoa Kỳ có thể đơn phương thực hiện…Qua tướng Haig (Alexander Haig), tổng thống chỉ còn một cơ hội cuối cùng để trả lời cho tôi những gì tôi đã quyết định còn không thì ĐƯỜNG AI NẤY ĐI. Tôi (Nixon) nhấn mạnh lần nữa tướng Haig tới Sài Gòn không nhằm thương thảo với tổng thống…thế nên bây giờ tổng thống phải quyết định một là hợp tác hai là để chúng tôi TỰ KÝ KẾT VỚI KẺ THÙ KHI HỌ PHỤC VỤ ĐƯỢC LỢI ÍCH RIÊNG CHO NƯỚC MỸ”

(tài liệu giải mã Bạch Ốc thư Nixon to Presiden Nguyen Van Thiêu 7/12/1972)



Còn gì cay đắng hơn cho thân phận VNCH biết Ký kết hiệp định là đưa quân thù vào thế chiến thắng mà không ký thì cũng chết do cả một triệu quân và cả miền nam “một viên đạn một lít xăng…cũng không còn được viện trợ”

Trong hồi ký của Henry Kissinger người ‘Quân Sư” cho Thỏa Ước Ba Lê có đoạn:

 

 “ …về riêng tư, tuy tôi (Kissinger) dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông do ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi…Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ xưa nay ấp ủ. Lòng Trung Thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất”

(Henry Kissinger. Years of Upheaval)




Vâng, chính tay ông Kissinger cũng hiểu rõ giá trị về "lòng trung thành" nói khác đi là tình bạn, lòng thủy chung theo ông từng tạo ra "giá trị căn bản của Hoa Kỳ đối với thế giới"  tuy ông khuyên Hoa Kỳ "cố gắng đừng cho nó vuột mất" thế nhưng VNCH đã mất rồi và Mỹ đã làm "vuột mất" nửa thế kỷ trước?!


50 năm nửa thế kỷ, so sánh một VNCH thời đó và Ukraine hiện nay cả hai đều chống lại làn sóng xâm lăng của Nga Tàu. Đó là một sự thật nằm trong góc khuất của chính trị. Putin xâm lăng Ukraine để mở rộng dế chế của Nga chẳng khác gì giấc mộng nhuộm đỏ của Liên Xô ngày trước. Phận rủi của VNCH đã đành, nhưng sự bất công của Đồng Minh làm sao không xét đến. Cùng bảo vệ cho thế giới tự do cũng như Ukraine bảo vệ cho NATO và Tây Phương hiện tại. Nhưng hoàn cảnh của VNCH thật tình bi đát do đồng minh tính toán từng viên đạn từng lít xăng kèm theo lời dọa dẫm trong lúc này Ukraine đòi hỏi gì có đó, càng viện trợ càng đòi hỏi tăng thêm , NATO nhất là Hoa Kỳ không biết bao nhiêu tỷ đô la là đủ?


Lịch sử đã sang trang,  bao nhiêu đau thương, bi thiết hay bất công hay những những chính khách năm xưa đều giã từ nhân thế đi vào cõi hư vô không còn phiền hà buồn giận. Thế mà lạ thay có lúc lịch sử thường lập lại để thế nhân nhận ra điều nhân quả.

Năm mươi năm trước QH Hoa Kỳ từng lạnh lùng cắt giảm viện trợ cho VNCH đáng thương thậm chí chỉ còn 300,000 đô la cũng không? và hôm nay này mức Quân Viện cho Ukraine từ theo CSIS (Center of Strategic & International Studies) nay đã lên 68 tỷ usd qua 3 gói viện trợ…và sự viện trợ này không hề chấm dứt càng lúc càng tăng thêm. QH Hoa Kỳ ngay cả người dân Mỹ không biết bao nhiêu tỷ nữa là vừa cho cái hố chiến tranh sâu rộng này. Chúng ta mừng cho Ukraine có được Hoa Kỳ và NATO cùng chung sức dốc toàn lực chống lại sự bành trướng của sức mạnh xâm lăng của Nga nhưng lại động lòng thương cho thân phận VNCH phải chiến đấu trong cô độc trước sức mạnh của vũ khí Tàu Nga và đội quân xâm lăng đông đảo của Bắc Việt cùng lực lượng 'tay sai hà nội" có cái ngụy danh là 'Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam"?





pháo hỏa tiễn cơ động tối tân HIMARS của Hoa Kỳ

sau pháo hiện đại HIMARS, TT Biden tuyên bố nhiều xe tăng hiện đại Abrahams M1 sẽ đến Ukraine 

Và nay Ukraine đang đòi thêm F 16...

Nếu có con mắt về quân sự chúng ta nghiệm ra rằng nhu cầu của Ukraine sẽ bất tận đối với một Putin hiếu chiến và có thực lực về vũ khí.

Nhu cầu của Ukraine dù không đòi xương máu của thanh niên Hoa Kỳ nhưng khách quan nhận xét nó sẽ là một hấp lực triền miên và Hoa Kỳ và NATO sẽ phải đeo đến cùng như con bài 'khát nước' ...


Nước Mỹ nói chung, tính toán với VNCH chừng nào giờ thì rộng rãi phóng khoáng với Ukraine chừng đó Phải chăng là hai hoàn cảnh khác nhau? Chưa hẳn nếu chúng ta nghĩ rộng ra nhiệm vụ hi sinh của Quân Dân VNCH là tiền đồn BẢO VỆ TỰ DO DÂN CHỦ CHỐNG LÀN SÓNG ĐỎ XÂM LĂNG CỦA ĐẾ CHẾ NGA VÀ BÁ QUYỀN TRUNG CỘNG. 

Cuộc chiến Nga Ukraine hiện nay đã hơn 500 ngày máu lửa nhưng chưa hề có dấu hiệu kết thúc. Hấp lực vũ khí NATO và Hoa Kỳ bắt buộc phải đổ vào Ukraine chưa có dấu hiệu sụt giảm lại càng gia tăng về khối lượng và thể loại cao hơn khốc liệt hơn. 

Đến lúc này chúng ta mới giật mình nghĩ lại 

TỪ VNCH CHO ĐẾN UKRAINE PHẢI CHĂNG LÀ MỘT LỜI NGUYỀN NHÂN- QUẢ



ĐHL  edit

NHÂN 50 TƯỞNG NIỆM HIỆP ƯỚC BẤT CÔNG BA LÊ 27/1/1973 


ĐẶC SẢN QUÊ TRUỒI

 

Bắt nguồn giữa hai đỉnh núi cao là Bạch Mã(1448 m) và động Truồi (1170m) sông Truồi uốn khúc nhiều đoạn rồi xuyên qua cầu Truồi, êm ả đi qua mấy thôn Xuân Lai, Bàn môn xuôi vể hạ lưu và đổ vào đầm Cầu Hai

ĐẶC SẢN QUÊ TRUỒI


(Tác giả: NGUYỄN TRƯỜNG - Nam Phổ Cần)

Kỉ niệm về làng Truồi(Sưu tầm)

Truồi: bắc giáp với sân bay phú bài, Nam thì giáp với Đà nẵng. Phú lộc-TT.Huế, mãnh đất có lượng mưa nhất nước bởi đỉnh đèo Hải Vân, bán kính đồng bằng 1-3km Đông thì giáp biển và tây thì giáp với núi và Lào.

1.     Sông Truồi của xứ truồi, là con sông to thứ 2 của tỉnh TT.Huế, sau sông Hương. Chảy từ nguồn ra biển và cung cấp nước thành Hồ Truồi.

2.     Hồ Truồi: Hồ được xây và giữ nước ngọt và cung cấp nước ngọt cho các Huyện phía Nam TT.Huế.

3.     Chè truồi, là loại chè nổi tiếng bởi được trồng trên đất phù sa của núi rừng
     Xứ Truồi mít ngọt thơm dâu
Anh đi làm rễ ở lâu không về..



4.     Thiền viện Trúc Lâm, ngay giữa hồ Truồi có 1 hòn đảo và được xây dựng thành Thiền viện Trúc Lâm. Ai muốn vào Thiền viện phải qua con đường thủy.

5.     Phá Tam giang: Nổi tiếng cả nước bởi vì nó được bắt đầu từ đầu tỉnh TT.Huế và kết thúc vào cuối tỉnh thừa thiên huế.

6.     


Núi Truồi, Đỉnh Bạch Mã: cao thứ 2 Việt Nam sau Pa-xi-păng: Phải nói các bạn lên đến đỉnh Bạch Mã thì là nơi nghỉ lý tưởng và tuyệt vời, hoa lan bốn mùa.
7.     Cảnh Dương: Bãi biển nối tiếng với nhiều bài hát biên thùy dương.
8.     Lăng Cô: Vịnh Lăng Cô (Làng Cò) đã nối tiếng không phải bàn.
9.     Chân Mây: Cảng nước sâu nhất Việt Nam, nhưng ko hiểu vì sao vẫn ít tàu cập bến.
1
11. Khe vàng: Quê tôi đã có một thời từ năm 1985 đến 1995 khai thác vàng ngay tại sân vườn, chỉ cần đi vào rừng 1 km là có vàng….nhưng giờ nhà nước đã cấm.

12. Quê tôi có hải sản và đặt biệt là các loại mắm, bánh lọc….và mắm sò chỉ có Lăng cô mới có….

Dâu Truồi là loại trái cây đặc sản của một vùng đất phía nam tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ xưa dâu Truồi đã đi vào câu hát dân gian :


"Dâu Truồi vừa ngọt vừa thanh
Em nghiêng giỏ hái tặng anh quả này
ước gì gặp mẹ gặp thầy..."

Hay :

"Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu
Anh đi làm rể ở lâu không về."
  

Từ Huế đi theo Quốc lộ1A về phía nam 25km là đến Truồi, một địa danh trù phú nhất của huyện Phú Lộc, với gần 4 vạn dân sống tập trung dọc hai bờ sông Truồi. Nhờ phù sa bồi đắp sau mỗi mùa lụt hằng năm nên vùng đất này quanh năm cây trái sum suê.
Trong nhiều loại trái cây có hương vị ngọt ngào, thơm ngon ở đây thì dâu Truồi được xem là loại trái cây đặc trưng của xứ Truồi mà khách trong nam ra, ngoài bắc vaò đều biết tiếng. Hằng năm cứ đến tháng 5 âm lịch là mùa dâu chín rộ. Trong một chùm dâu sai quả thì quả nào có điểm son là quả ngọt nhất. Vị ngọt của dâu điểm son khó so sánh được với bất cứ vị ngọt của một loại trái cây naò khác. Người ta nói, ăn quả dâu tiên xứ Truồi thì "ngậm mà nghe", nghe hết cái tinh chất của thiên nhiên chắt lọc từ một mạch đất mà tạo nên cái vị ngọt độc đáo kia. Ăn nhiều quả dâu tiên người ta thấy mát ra, và có lẽ vì thế nên thiên nhiên cho loài trái cây này chín đúng vào giữa mùa hè. Những chủ vườn dâu thường bận rộn chăm sóc lúc dâu chín, đề phòng chim chóc phá hại. Khi thu hoạch dâu cây nào, người ta hái hết cây ấy, vì nếu hái lẻ tẻ vài chùm rồi bỏ đó thì cơ hồ như đêm đến loài dơi sẽ tìm tới ăn sạch. Mùa dâu chín, con buôn kéo nhau đến ngã giá từng cây để mua sĩ rồi đem chợ bán. Đây là mặt hàng trái cây bán chạy, có lãi nên rất đắt khách. Xưa nay ở Truồi đến mùa dâu chín, quả dâu được dùng làm quà để đi thăm người thân ở xa ; học trò dùng đi thăm thầy nhân kỳ nghỉ hè ; là lễ vật cúng gia tiên nhân tết Đoan Ngọ. Và đặc biệt trong lễ ăn hỏi giữa nhà trai và nhà gái, gặp mùa dâu chín, quả dâu là lễ vật được" nhân cách hóa" theo một ý nghĩa độc đáo để hai bên su gia có thể gởi gắm nỗi lòng của nhau. Nếu nhà trai ở Truồi đi hỏi vợ vùng khác thì người ta mang theo lễ vật, trong đó có một khay dâu chín mọng để biếu nhà gái với ý nghĩa mong muốn có được cô dâu ngọt ngào, hiền thảo. Nếu nhà trai ở nơi khác hỏi vợ ở Truồi thì nhà gái chọn những quả dâu điểm son để mời nhà trai với ý nghĩa mong muốn "của ngon" này phải được người thưởng thức xứng đáng. Vì thế ở đây mới có câu hát :  

"năm xưa thầy mẹ bảo em 
chọn mua lấy quả dâu tiên xứ Truồi
để nhà anh tới chịu lời"


Quả dâu tiên đã đi vào đời sống tinh thần của người dân xứ Truồi như thế và đang có giá trị của loài cây đặc sản. Do đó, trong phong trào cải tạo vườn tạp để trồng những cây  có giá trị kinh tế cao hiện  nay, nhiều hộ gia đình mạnh dạn tìm cách nhân giống cây dâu tiên để trồng nhiều hơn trong vườn nhà mình. Hy vọng cây dâu tiên sẽ được trồng rộng khắp ở đây và quả dâu tiên xứ Truồi sẽ là mặt hàng trái cây đáp ứng càng nhiều nhu cầu ưa chuộng của khách thập phương, nhất là trong dịp hè ở các điểm tham quan du lịch trong tỉnh Thừa Thiên  Huế. 

 
CHÈ TRUỒI

 
             BÓ CHÈ TRUỒI NHÌN CŨNG KHÁC MỌI NƠI 

Nói đến thổ sản của xứ Truồi là người ta nghĩ tới hai loại cây trái đặc sản nổi tiếng xưa nay : dâu Truồi và chè Truồi. Khắp mọi miền quê đâu cũng có hai loại cây trái trên, nhưng người  sành thưởng thức hương vị miệt vườn ở đất Thừa Thiên Huế bao giờ cũng kén : đã là dâu phải là dâu Truồi ; đã là chè xanh phải là chè xanh xứ Truồi mới chịu. Trái dâu tiên ở đây cho vào miệng ngọt lịm như thế nào thì ai cũng biết cả rồi. Còn hương vị bát nước chè xanh đem ra mời nhau đậm đà khó quên ra làm sao thì những ai còn xa lạ với xứ này có thể chưa biết hết. 


Hồi xưa, tất cả các làng quê dưới chân núi Ấn Lãnh, dọc theo hai bờ sông Hưng Bình đều gọi làng Nam Phổ Cần là làng Truồi. Từ cái làng Truồi "gốc" ấy mà không biết từ bao giờ đã "Truồi hóa" núi Ấn sông Hưng thành núi Truồi sông Truồi và cả một vùng đất rộng người đông này thành địa danh xứ Truồi hiện nay. Giờ đây những ông già bà cả trong vùng vẫn quen gọi làng Nam Phổ Cần là làng Truồi, làng của nhiều loại cây trái, trong đó cây chè xanh được xem là cây đặc sản của một vùng đất vì hương vị độc đáo riêng biệt của nó. Và không ai lạ gì trong các buổi chợ ở đây, người mua chè thường giành mua trên tay nếu mặt hàng này từ làng Truồi đem bán. Cũng khỏi cần hỏi tới hỏi lui, chỉ nhìn qua là biết chè làng Truồi để mua rồi. Khi nâng bát nước chè xanh lên môi nhấp một ngụm, người sành điệu có thể phân biệt được đâu là chè xanh làng Truồi với các làng khác trong vùng. 

Giống nhau, cùng là chè làng Truồi cả, thế mà phải là chè Phủ mới có hương vị độc đáo. Phủ là một khoảnh đất bằng phẳng rộng chừng 6 ha chuyên canh cây chè, tiếp giáp với đồi núi cuối làng. Người đi mua chè lứa của các chủ vườn thường chọn mua cho được chè Phủ. Đã là chè Phủ thì không chê vào đâu được. Cây chè cứ mơn mởn, sây lá đều nhau từ gốc đến ngọn chỉa lên trời. Dưới nắng sớm mai, lá chè xanh vàng đến mát mắt, làm cho những cô gái hái chè cảm thấy "sướng tay", hứng lên hò đưa tình đối đáp với nhau không biết chán là gì. 

Muốn chọn lá chè để nấu uống, người làng Truồi bao giờ cũng chọn lá chè ở chính giữa vườn, nơi cây chè không bị che khuất ở trên. lá chè phải nhỏ bản, có màu vàng non, tươi mà giòn, thì nứoc chè mới cho màu sắc vàng xanh, uống vào hơi chát mà ngọt mãi nơi cổ họng.







hình khoảng 1959 gánh nước từ sông Truồi lên chợ Lộc Điền , báo LIFE Hoa kỳ 

Chọn được lá chè vừa ý rồi mà không có nước nấu vừa ý thì cũng bằng không. Nước nấu chè xanh mà dùng nước giếng có chút nhiễm phèn thì coi như bỏ. Bây giờ người ta dùng nước máy đun sôi để pha chè. Còn ngày xưa người ta cho rằng đã là chè Truồi thì phải nấu với nước sông Truồi mới "đúng điệu" của nó.. Và để có nước sông Truồi như thế, người ta phải dùng trái bầu khô, bơi ra chính giữa dòng lấy nước về. Nước nấu bằng nồi đất nung. Chè rữa sạch, vò sơ, cho vào ấm sành. Nước sôi đổ vào lắc đều, chắt bỏ nước đầu, chỉ dùng nước thứ hai. Trong ấm chè không nên thêm gừng, vì mùi gừng sẽ khử mất mùi thơm tự nhiên của chè xanh. Nước chè pha ra cái bát sành để thật nguội uống mới đã cơn khát. Hương của bát nước chè xanh làng Truồi tỏa ra thơm thơm, uống vào thấy chát chát ngọt ngọt, khiến những ai quen dùng cứ nhớ, thành "nghiện, ăn xong mà không có bát nước chè xanh là không chịu được.
Chè xanh làng Truồi lâu nay vẫn được xem là loại nước uống phổ biến đối với mọi thành phần xã hội. Từ ngoài đồng đương mùa gặt hái của nông dân đến các bếp ăn tập thể, các cuộc hội nghị đông người, các nhà hàng ăn uống, cả khách sạn hạng sang ngừơi ta cũng phục vụ nước chè xanh. Gần đây, do tiếp cận với nhiều kênh thông tin, thấy công dụng của chè xanh có khả năng chống nhiễm xạ và phòng tránh một số dạn ung thư ở người, nên chè xanh rất được nhiều người ưa dùng.

Người làng Truồi đi thăm bà con mình ở các nơi khác thường mang theo chục bó chè làm quà. Người các nơi khác đến chơi ở làng Truồi  cũng thường được chủ nhà  biếu"cây nhà lá vườn" ở đây đem về. Đúng như câu tục ngữ"đất có lề quê có thói" là vậy.

Cây chè, hoa chè,bát nước chè xanh đã đi vào thi ca, làm nên bản sắc văn hóa riêng của làng Truồi thì không ai ở Thừa Thiên Huế lại không biết.
 
MÍT TRUỒI



 
  Nếu như dâu là một trong những món ăn được ưa thích của các bạn tuổi “teen”, thì mít lại không phân biệt lứa tuổi, từ các bạn gái thích ăn vặt đến những cụ già răng đã lung lay cũng đều thích, đặc biệt là mít Truồi. Nếu nhìn bề ngoài thì khó mà phân biệt được đâu là mít Truồi, đâu là mít Nam đông, mít Bình Điền….Chỉ khi nào cắt quả mít ra, ta thấy màu vàng rộm, múi vừa phải, hương thơm nồng nàng, thì đó gần như là mít Truồi. Và để chắc chắn hơn, ta nên ăn thử một múi. Nếu như đầu lưỡi của bạn thấy vị ngọt mát, thanh thanh, múi mít mềm mại, và hòa trộn trong đó là “nước mật” ngọt lịm thì  đích thực đó là mít Truồi rồi các bạn ạ!

Cũng như những nơi khác, Truồi có hai loại mít: mít ướt và mít ráo. Mít ráo thì có mít mật, mít dừa, mít đường... Do đó có rất nhiều hương vị để bạn thưởng thức. Các cụ già răng thường hơi yếu nên rất thích ăn mít ướt vì nó mềm hơn. Khi ăn mít ướt người ta còn làm thêm chén muối ớt để tăng thêm sự đậm đà.
Ai đã từng một lần được nếm thử vị ngon ngọt của dâu, mít xứ Truồi thì chắc sẽ không bao giờ quên được hương vị thơm ngon làm say đắm lòng người của hai loại trái cây này. Nếu có dip ghé thăm Huế vào độ tháng bảy, xin mời bạn ghé thăm làng Truồi quê tôi để khám phá và thưởng thức một hương vị đặc trưng của làng Truồi, rất lạ và không thể lẫn vào đâu được...

(trích) 

================================== 
phụ bản  HÌNH CỦA ĐHL

miếu thôn Xuân Lai
                               Đình Bàng Môn
                           
cá hanh sông Truồi, món kho ám rất ngon

đò ngang đi qua thôn Xuân Lai bên kia sông là Chợ Lộc Điền (năm 2000)

Động Truồi và Bạch Mã



"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...