Tuesday, July 11, 2023

HIỆP ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ TRẦN ĐÌNH TÚC VÀ PHÚ LỘC BÁT CẢNH

 

HIỆP ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ TRẦN ĐÌNH TÚC (1818-1899)


 

Trần Đình Túc (陳廷肅, 1818-1899), quê làng Hà Trung xã Gio Châu huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị, quan đại thần nhà Nguyễn (thời Tự Đức), từng giữ các chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà NộiNinh Bình), Hiệp biện Đại học sĩ. Trần Đình Túc là một trong những đại thần chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp, khi Pháp xâm lược Việt Nam. (WIKIPEDIA MỞ  11.7.2023)

                                         cụ Linh Đàn Nguyễn Hữu Kiểm 

Theo cuốn thơ Trôi Giữa Dòng Đời của nhà thơ Hạ Thái Trần quốc Phiệt thì Phú Lộc Bát Cảnh trích trong bộ Tiên Sơn Thi Tập của Hiệp Biện Đại Học Sĩ Trần Đình Túc nhờ vào sự cho phép trích lục từ Viện Hán Nôm Hà Nội

 


SAU ĐÂY ĐHL XIN GIỚI  THIỆU VÀ TRÍCH ĐĂNG TÁM (8) BÀI TỪ NGUYÊN NGỮ HÁN VIỆT CỦA CỤ LINH ĐÀN NGUYỄN HỮU KIỂM VÀ KÈM THEO PHẦN  DIỄN THƠ CỦA  HẠ THÁI  TRẦN QUỐC PHIỆT TẤT CẢ ĐỀU TRÍCH TỪ  TẬP THƠ  “TRÔI GIỮA DÒNG ĐỜI” CỦA NHÀ THƠ HẠ THÁI


ĐHL  11.7.2023

 



I-               ỨNG ĐÔI SƠN 

 

ĐẠI LONG TRỪU MẠCH TỰ TÂY LAI

TĨNH TRẤN KHÔN DUY KHỞI ỨNG ĐÔI

PHẠT MỘC ĐINH ĐONG TRUYỀN VIỄN HƯỞNG

LĂNG VÂN KHÍ THẾ TÍCH TẰNG KHÔI

KỲ PHONG BẮC DIỆN TRIỀU KIM KHUYẾT

TÚ SẮC TÀ DƯƠNG TRÁM THỦY ÔI

TUNG NHẠC GIÁNG THẦN CHUNG VƯỢNG KHÍ

XƯƠNG KỲ ĐỊNH ĐÃI BÁN (THIÊN) KHAI



DIỄN THƠ CỦA HẠ THÁI Trần quốc Phiệt

 

Núi Ứng Đôi (Núi Truồi)

 

Vẫy mạch rồng từ hướng chánh tây

Vun bờ trấn giữ núi Truồi đây

Âm thanh đẵn gỗ lùa theo gió

Linh khí đùn tầng chạm tới mây

Kim điện ghi lòng, đầu Bắc gập

Tà dương mơ dáng, nước đầm vây

Thiên nhiên bí ẩn nhiêu khê chuyện

Thịnh vượng  về lâu cuộc diện xây

 

 


                               núi Truồi 

 

 

II-            HÀ TRUNG HẢI NHI

 

HÀ TRUNG NHẤT ĐÁI THỦY CHU VI

PHỤNG TÍCH GIA DANH HIỆU HẢI NHI

XUYÊN TRẠCH HÀM DUNG THÔNG ĐẠI TIỂU

THƯƠNG MINH HÔ HẤP CỘNG DANH KHUY

TÙY BA THỦY MẪU PHÙ ĐÀM DIỆN

THỪA NGUYỆT NGƯ ÔNG HẠ ĐIẾU KY

ĐẢO TỰ OANH HỒI DOANH  TÁ SỨ

TRIỀU TÔN VẠN PHÁI CHUYỂN ĐÔNG QUY

 

Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

Hải Nhi Hà Trung (Đầm Phá Hà Trung)

 

Hà Trung một dải nước vây quanh

Ban hiệu Hải Nhi đã nổi danh

Chứa cá thông đầm thông lạch nhỏ

Thu luôn thủy sản suốt dòng xanh

Lùa theo sóng nước xăm sào gậy

Nương với trăng sao thả lưới mành

Đảo nhỏ vây quanh dân trú ngụ

Nước xuôi Đông hải sóng tròng trành.

 

Bản Đồ Quận Phú Lộc (Bộ TTM / VNCH) 

III-          HƯNG BÌNH NGUYÊN

 

GIÁP NGẠN AN LƯƠNG TỰ CỔ DANH

TRUNG GIAN HẤP CHÚ THỬ HƯNG BÌNH

SƠN DUNG THỐNG UẤT TRI NGUYÊN VIỄN

THỦY VỊ CAM BÌNH KIẾN ĐỂ THANH

THÔNG HÓA THƯỢNG KHAI GIAO DỊCH SỞ

LỢI NÔNG HÀ TRÚC YỂN LƯƠNG HOÀNH

NHÂN PHÙNG TRỊ THẾ CƯ THÊ ỔN

LẠC SỰ NGƯ TRIỀU KHẢ ĐỘC CANH

 


Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

3- Nguồn Hưng Bình

 

Giáp với An Lương thế định hình

Sông tuôn dòng chính tận Hưng Bình

Cây rừng chằng chịt xanh xao lạ

Nước suối ngọt ngào trong trẻo kinh

Hàng hóa lưu thông thêm thịnh vượng

Nghề nông trồng trọt được phồn vinh

Gặp thời thịnh trị người nương náu

Canh Độc Ngư Tiều chẳng trọng khinh


Núi Túy Vân nằm về phía Ðông Bắc huyện Phú Lộc, tên cũ là Mỹ Am Sơn, năm 1825 vua Minh Mạng đổi tên là Túy Hoa Sơn, năm 1841 vua Thiệu Trị đổi lại là Túy Vân Sơn có dựng bi ký thắng tích. Trên đỉnh núi có ngôi cổ tự. Chung quanh khu vực núi có thể tìm thấy một số di vật Champa và dấu vết của một ngôi tháp nổi tiếng của người Champa trên núi Linh Thái, một ngọn núi nằm phía Ðông núi Túy Vân 
 https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Nui-Tuy-Van/newsid/9514A44D-39FE-406F-BD43-100E6236F053/cid/1239F3FD-0A95-4137-A263-1409F22087F3 

 

IV-           THÚY VÂN SƠN  TỰ 

 

SƠN LẠC BÌNH SA KHỞI THÚY VÂN (sic)

CHÂU LÂM THỐC HƯỚNG TỊCH DƯƠNG HUÂN

TU TRÌ KỆ NGỮ CAO ĐÊ HƯỞNG

BÁT NHÃ CHUNG THANH  VIỄN CẬN VĂN

TUẦN HẠNH LIỆT TRIỀU THƯỜNG TRÚ TẤT

NGỤ ĐỀ TAM TẠNG BÍNH BI VĂN

PHẠN MÔN CÔNG ĐỨC  TRI VÔ LƯỢNG

Y BÁT HÀ TRÚ ĐÁP THÁNH QUÂN

 


Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

4- Chùa Núi Thúy Vân

 

Nổi giữa cát chuồi ngọn Thúy Vân

Rừng châu lấp lánh bóng chiều dâng

Pháp hoa lời kệ êm đềm vọng

Bát nhã hồi chuông thanh thoát ngân

Triều ngự tuần du dùng quán hạc

Vua hài thủ bút tạc bia văn

Phước ban cửa Phật là vô lượng

Tu nguyện trì nguyền đáp nghĩa ân.

 

 

V-             THUẬN  TRỰC  QUAN  ĐÊ

 

THÁNH NHÂN XỬ SỰ VIỄN ĐẠI TAI

NHĨ MỤC TẦM THƯỜNG SỞ NAN THỨC

THUẬN THẾ TRÚC ĐÊ HẠN BẮC NAM

HOÀNH TRƯỜNG NHẤT ĐÁI NHƯ THẰNG TRỰC

TRUNG GIAN THIẾT ĐẬU BIỆT CAM HÀM

SÚC TIẾT THU KHAI, HẠ BẾ TẮC

THƯỢNG DU TÒNG THỦ LỢI NÔNG CÔNG

TUẾ LŨ ĐĂNG NHƯƠNG NHÂN LẠP THỰC

MIẾN HOÀI DU DỰ THỊ NIÊN NIÊN

TỈNH TỈNH CANH THỜI ĐIẾU DẶC THIÊN

DU DU HỀ HẢI UÔNG UÔNG (THỦY)

TRƯỜNG SỬ ĐỖ HÀ TƯ ĐẾ ĐỨC

 

 

Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

5- Đê Công Thuận Trực

 

Thánh nhân xử sự quá tài ba

Tai mắt tâm thường khó nhận ra

Nam Bắc đê ngăn theo địa thế

Giăng ngang một dải sợi dây sà

Cống chia mặn ngọt đặt ngay giữa

Chứa tháo hè thu tùy lượng mưa

Nguồn thượng nông canh sinh lợi nhuận

Được mùa đủ gạo có dôi ra

Ôn cố tri tân nên chuẩn bị

Buông câu cày cấy chẳng lơ là

Nước biếc mây xanh tình gắn bó

Ơn vua là đấy nghĩ đâu xa

 

                        trên đỉnh Hải Vân 

 


VI-           LINH  THÁI

 

THIÊN  NAM  CUỘC  LƯỢNG  BAO  HÀM  ĐẠI

NHÂN  VẬT  GIANG  SƠN  TỔNG   NGOẠI

HỒ  NÃI  LINH  THÁI  KHƯỚC  TRIỀU  DƯƠNG

TẠO  THIẾT  LINH  NHÂN  SỞ  BẤT  GIẢI

ỨC  HƯỚNG  THƯƠNG  MINH  ÁI  THỦY  TRIỀU

ỨC  YẾM  BÌNH  ĐIỀN  XUẤT  TỤC  THÁI

HỮU  LINH  KHẲNG  THỌ  THỬ   TÌNH

ỨNG  CHUYỂN  PHONG  ĐẦU  TÙY  HỔ  BÁI

 

 (NAM NHẤT TÁC ỨNG)

 


Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

6- Núi Linh Thái

 

Trời  Nam lượng chứa lắm điều hay

Nhân vật non sông tụ lại đây

Linh Thái xây kìa ngăn sóng dạt

Thiên cơ dựng đấy tạc lời bày

Hướng ra biển cả chân trời vỗ

Dừng lại đồng bằng gối phục xoay

Hiển ứng vô tình sao để bụng

Đầu non hổ bái nhiệm mầu thay!


 

              cảnh đẹp Lăng Cô trước 1975

 

VII-        HẮC BẠCH THẠCH

 

KỲ NHĨ THẠCH KỲ NHĨ THẠCH HẮC

THUẦN HẮC HẮC HỀ, BẠCH THUẦN BẠCH

THIÊN LONG KIM THỦY, TRĨ SONG HÀN

NGUYÊN THỊ TRẠCH SƠN THÔNG NHẤT MẠCH

CHÀNG HÁM PHONG ĐÀO VĨNH BẤT MA

THÔN LẠC TƯƠNG VỌNG THIÊN VẠN GIA

TRI CHỈ AN DƯƠNG SỔ BÁCH  

KINH THÀNH  NHẤT VỌNG ĐẠI BAO LA

 

Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt

 

7- Đá Đen Đá Trắng

 

Đá trắng nằm kề cạnh đá đen

Mỗi bề thuần khiết giữ màu tên

Rồng trời nước bạc thông hai cõi

Đàm núi cây xanh suốt một miền

Sóng gió bình thường luôn dạt tới

Ghe thuyền thận trọng tránh sang bên

Ngàn năm vẫn rõ trong tầm mắt

Cổ võ nhân gian gắng sống hiền

 

 

VIII-      PHƯỚC TƯỢNG

 

ĐÔI  SƠN  TRỪU  XUẤT  NHẤT  CHI  LONG

NHẤT  ĐỐN  NHẤT  KHỞI  TƯƠNG  TIẾP  TỤC

HOÀNH  KHAI  DỊCH  LỘ  THẾ  TỒI  NGÔI

LẬP  VỌNG  SƠN  HÌNH  NHƯ  TƯỢNG  PHỤC

ĐƯƠNG  NIÊN  GIÁ  HẠNH  NGẪU   ĐÌNH  THAM

PHỤNG  TÍCH  GIA  DANH   PHƯỚC  TƯỢNG  NHAM

SƠN  KHÊ  ĐÁO  THỬ  HẠN  NAM  BẮC

PHÚ  LỘC  THẤT  TỔNG   QUY   BẮC  TAM

  TÍCH  BĂNG  HỒNG  PHỤC  ĐỘ  HÀI

TRÙNG  TRÙNG  DINH  TRẠI  KHỞI  LINH  THÁI

THÚY  VÂN  SƠN  THẾ  CỰC  NGUY  NGA

HỒI  CỐ  ĐÔI  SƠN  NGOẠI  TRIỀU  BÁI

THOÁI  THAI  CĂN  CỐT  HẠ  BÌNH  SA

THÔN  LẠC  TƯƠNG  VỌNG  THIÊN  VẠN  GIA

TRI  CHỈ  AN  DƯƠNG  SỔ  BÁCH  

KINH  THÀNH  NHẤT  VỌNG  ĐẠI  BAO  LA


 

đèo Phước Tượng hiện nay 

Diễn thơ của Hạ Thái Trần quốc Phiệt  

 

8- Phước  Tượng

 

Núi Cao Đôi này một chi long

Lặn nổi theo nhau khắn khít lòng

Đường vượt đất cao qua trạm dịch

Dáng nằm voi phục uốn lưng cong V

 

 

Lần vua ngự giá đến đây xem

Phước Tượng ban tên giáng chỉ kèm

Khe núi Bắc Nam ngăn giới Tổng

Bảy về Phú Lộc, Bắc ba thêm

 

Vó ngựa duỗi chân băng xuống biển

Hoành doanh Linh Thái chốn hùng oai

Thúy Vân thế núi hàng cao lớn

Ngoái cổ Cao Đôi chầu lạy ngoài

 

Gốc rễ thoát ra xuống cát bằng

Xóm làng liền lạc lối đi băng

Biết dừng với biển hàng trăm dặm

Vọng hướng kinh thành rộng rãi chăng.

 

 hết trích

ĐHL  11.7.2023


nguồn 

Book

Trần quốc Phiệt. Trôi Giữa Dòng Đời. 1st Edition. Nhà Sách Tự Lực, San Jose, 2020 (Trang 189-206).

Internet

wikipedia mở (11.7.2023)




 

Monday, July 10, 2023

TÂM SỰ CỦA TUỔI HAI MƯƠI TRONG NGÀY THUA TRẬN



 Con ơi à ơiĐây là giấc ngủ ban đầuMẹ ru conBên ngoài gió thổi năm non
… Hai mươi tuổi đờiMẹ sinh con yêu dấu à ơiGiấc mộng tuyệt vờiGiấc mộng là mộng hai mươi...
...(Trầm tử Thiêng- Rồi Hai Mươi Năm Sau)
*hình trích lại được từ phim tài liệu của CSVN
  
Ba Mẹ ơi, hai mươi năm nuôi con khôn lớn. Ngày về quê hương bên nòng súng lạnh giá gác canh trên núi rừng biên giới trong niềm tin giữ đất. Giờ chẳng còn chi. Hai mươi năm tiếng à ơi ru con và ngày tháng dãi dầu vươn lên trên vùng đất khổ. Những ngày chạy loạn, những người thân vĩnh viễn chia xa, những khổ đau bà con mình gom góp lại để hôm nay chỉ là một kết cục phũ phàng...

(tác giả ĐHL , tù binh có mũi tên chỉ  ngày 24.3.1975 đoạn Cầu Dài )


                     Ngọc người trung đội trưởng cùng đại đội với người viết  


    Một khu lán trại rõ dần trước mắt đoàn tù binh, đầu nguồn sông Thạch Hãn.
Đoàn tù binh xuống hết đèo Ba Lòng thì trời đã về chiều. Nguồn sông hẹp và cạn nên chúng tôi chỉ lội một chút chi là qua bên kia sông. Đầu nguồn vào tháng này nước vừa ít vừa chảy chậm, trông chẳng khác gì một dòng suối lớn.Tôi cố lục lọi tìm theo trí nhớ xem thử còn một bãi đá ven sông, vô vàn viên đá lớn tròn trịa nó ở đâu? Tôi còn nhớ ngày xưa còn bé khi theo cha lên thung lũng này người ta gọi là bến Đá Nổi nhưng giờ chẳng thấy?











Dakrong Đầu Nguồn Sông Thạch 

Trước mắt chúng tôi chỉ là một cánh rừng hoang vắng cây cỏ rậm rịt hoàn toàn không thấy bóng làng mạc, dân cư nào. Từ 1960 cho đến nay là mười lăm năm; đúng mười lăm năm "vật đổi sao dời" nhiều thứ cho VNCH. Khoảng 1963, tôi mới học lớp ba đó là năm Đảo Chánh, tôi nghe đâu Ba Lòng cũng chẳng còn. Tỉnh Quảng Trị từ đó ít nghe ai nhắc đến Ba Lòng. Có thể đó là lúc ‘xóa sổ’ cho một vùng dân mới thành lập, lúc MTGPMN vừa thành lập. Rồi từ đó do chiến sự leo thang càng lúc càng tăng nên quận Ba Lòng không còn trong tầm kiểm  soát của tỉnh Quảng Trị nữa.

Sau này Tuyến McNamara thành lập đi kèm với việc “bạch hóa” hoàn toàn quận Gio Linh. Khu Định Cư Cam Lộ đó là những gì tôi còn nhớ trong cái tuổi học trò...

Đoàn tù qua hết bên này sông thì chúng tôi được vào một khu "lán trại" của đơn vị bộ đội bỏ hoang ven sông. Có ai đó nghe đồn “hàng binh Trung Đoàn 56” của trung tá Phạm v Đính có ở đây? Tiếng đồn còn ‘gay cấn’ hơn nữa là số quân này có tham gia với quân “Cách Mạng trong trận đánh úp Cửa Việt của VNCH trong đêm rạng ngày 27/1/1973 trước khi Hiệp Định Ngưng Bắn ký kết? Những lời đồn nghe “cười ra nước mắt” tin không tin tùy người nhưng “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” chả có gì chứng cớ? Chỉ có một chuyện đúng, tôi đóng quân tại Vĩnh Hòa Phường là chốt cuối cùng tại mạn biển, còn Cửa Việt thuộc phía họ.

Cái “miệng hại cái thân” có anh chàng tân binh mới học xong ở Dạ Lê, Phú Bài lại nghe đâu khai là “trung úy” thế là bị theo đoàn tù binh chúng tôi đi tận đây! Thanh minh chẳng có cán bộ nào tin, họ chỉ tin vài tờ giấy “bàn giao” trong đó có mấy dòng nguệch ngoạc của anh du kích hay cán bộ nào trong Huế ghi trong giấy lúc bắt anh ta mà thôi?

Chuyện tù binh cũng có khi “trong cái rủi có cái may”.  bị bắt trước nhưng chúng tôi lại bị 'lội bộ' ít hơn. Từ Lai Phước đi bộ lên đây mất hơn hai ngày đường. Nghe đâu sau này tù binh từ Huế ra quá nhiều. Đi bộ từ trong đó ra ‘toe cả chân’ lại phải ngược theo đường Chín lên tới Tà Cơn, Khe Sanh?! Chỉ tính từ  Cam Lộ lên Khe Sanh cũng phải xa thêm 65 cây số nữa...chúng tôi đi trước nhưng chỉ ngang đây, số người còn ít ỏi nên dễ thở hơn sau này, thật còn may!

Mấy tuần của tháng Tư này chúng tôi ở đây. Từ trên “khung” của cán bộ xuống các lán đất chúng tôi chẳng có hàng rào nào. Chúng tôi đủ loại lính từ TQLC, Bộ Binh, Địa Phương. Phần nhiều là lính và hạ sĩ quan. Có một số sĩ quan nhưng ít hơn...

30 THÁNG 4, 1975 

    -Đúng 11 giờ 30 tổng thống 'ngụy quyền' Sài Gòn Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ...


Tiếng the thé của xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội vang từ “Khung” vang xuống khắp các lán sáng nay làm tôi chợt lạnh người! Tôi thật sự choáng váng không dám tin vào sự thật. 

  
  -Thế là hết!

Hai tuần của tháng Tư bị giam tại thung lũng này, hai tuần của nhiều suy nghĩ, lo âu, nhung nhớ lao lung cho đến hôm nay. Hai tuần căng thẳng đi qua, tôi vẫn cố gắng hình dung một Sài Gòn đang chiến đấu trong đó. Vẫn nghe những tin chiến sự mà những cán bộ  hàng ngày khoe khoang sức tiến nhanh của quân đội của họ.

 Có hai cán bộ chính trị viên hay kêu chúng tôi lên “Khung”.Lý do, Ngọc và tôi tuy là hai trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất trong đám tù binh. Hai chính trị viên nói giọng Bắc,
 hơi thâm trầm. Họ cần chúng tôi cung cấp những thông tin nào mà chúng tôi biết được về phía quân lực chúng tôi. Thời gian đã lâu tôi không còn nhớ họ hỏi chúng tôi những gì ? nhưng đại khái về cách thức bố trí mìn bẫy, quân số đơn vị, những gì tôi biết.

Cứ mỗi lần lên 'khung' ông ta khoe với hai chúng tôi sức tiến quân phía họ.  Quân miền bắc ngang tỉnh nào, trên cái bản đồ trong phòng, ông ta bôi đỏ tỉnh đó.

Mới hai, ba hôm trước tôi còn nhớ ông ta bôi đỏ Bình Tuy, rồi Long Khánh...

Hi vọng của tôi theo từng ngày tan biên
 dần.  Những ngày tôi vẫn cò chút hi vọng miền nam còn lại 'phần nào đó' trong xa kia...

Những đêm tôi nằm nhẫm lại những mốc thời gian vừa qua:

-24/3/ 1975 Những ngày này còn bị giam tại thôn An Lạc chân cầu Đông Hà cũng người chính trị viên này bắt Ngọc và tôi thu vào băng nhựa kêu gọi anh em tại biển Thuận An 'buông súng' . Ông ta từng bôi những chữ " được đối xử tử tế theo 
TINH THẦN QUY ƯỚC GENEVA..." phải đổi lại "... theo SỰ KHOAN HỒNG CỦA CÁCH MẠNG'. 

Cuối tháng Ba, tôi con` hi vọng '
RANH GIỚI NGƯNG BẮN' sẽ là đèo Hải Vân?
Rồi tin Huế mất 26/3, Đà nẵng mất 29 tháng 3 /1975... tất cả sự kiện này các tù binh đều được cho hay. Có thể họ cố tình lung lạc tinh thần chúng tôi.


Một nửa tháng Tư bị giam tại các lán thung lũng này. Những ngày đi cùi gạo. Những kho gạo do Thuợng Cộng cầm súng Ak canh giữ . Những người bộ đội CS người Thuợng  mặt mày lầm lì, khẩu AK đeo ngang trước bụng, ngón tay hờm vào cò súng. Mắt họ lườm lườm nhìn chúng tôi, im lìm. Có thể họ không nói được tiếng Việt. Trước kia  tôi được biết những bộ đội Thượng Cộng rất trung thành không gì lung lạc họ. Giờ đây nghe mấy cán bộ dẫn chúng tôi đi nhận gạo khoe họ đúng là trung thành, từng giữ các kho gạo dự trữ này mấy năm nay tại thung lũng này một cách kiên trì không hao hụt gì . Gạo mốc meo mục nát , thay bao nhiều lần . Đây là gạo dự trữ nhiều năm để 'đánh miền Nam'. Theo thời gian nay cứt chuột quá nhiều, đen như những hạt đậu, giờ cho tù binh ăn. cán bộ CS ở đây có cho chúng tôi biết, những kho gạo này dự trù cho "chiến dịch HCM kéo 
DÀI ÍT LẮM LÀ 2 NĂM"! 

Đoàn tù  đi cùi gạo, thung lũng Ba Lòng rộng lắm; sáng chúng tôi đi chiều mới về lại trại, mất cả ngày. Thung lũng này đã mất hết vết tích. Quá khứ tuổi thơ khi tôi lên đây lúc Quận Ba Lòng vẫn còn.  Chi Công An và Quận kề nhau, gần gũi xóm làng.  Những ruộng bắp đậu xanh ngút ngàn. Những buổi các chú trong Chi ba tôi đi săn heo và gà rừng, những nồi thịt heo rừng các chú kho với lá lốt rừng...Giờ thì chẳng còn chi ngoài rừng rậm, những cái khe trôi ngoằn ngoèo trong thung lũng, bao dòng nước trong vắt, lạnh mát đôi chân. 



         cảnh trao trả tù binh 2 phía tại bờ sông Thạch Hãn QT vào tháng 3 năm1973  ( hình Phạm Thắng Vũ)—


***

Khi bị bắt tại Trạch Phổ, Phong Bình ngày 23/3/1975, tôi vẫn tin có ngày trao trả như năm 1973 vì miền Nam sẽ còn phần nào đó, ranh giới ngưng bắn hai bên sẽ rút vào nơi nào đó ?

Tôi vẫn là người tù binh, vẫn những cảm nghĩ và hình dung ra ngày trao trả giống như ngày trao trả tại bờ sông Thạch Hãn vào năm đó.

Có khi tôi lại tưởng tượng ra hình ảnh ba mẹ tôi trong nam sẽ lảnh HAI năm lương' cho những người lính mất tích hay bị bắt làm tù binh Hi vọng theo  cùng niềm tin có một 'ranh giới mới' cho đôi bên ở một nơi nào đó?  

Đà nẵng mất! sự mong muốn tuyến ngưng bắn Hải Vân "tiêu ma". Có tin đồn hai phía sẽ ngưng bắn ở 'Phan Rang' rồi Phan Rang Bình Tuy mất?

Hi vọng cái NGÀY TRAO TRẢ như năm 1973 tan biến dần hồi.

***

Trên cái loa phóng thanh dành cho học tập trong trại vẫn cái giọng the thé của người phát thanh viên nữ giọng Bắc:

   -
Đúng 11 giờ 30 Tổng Thống Sài Gòn Dương văn Minh ...

Rồi những bản nhạc 'như có Bác ..trong ngày vui đại thắng...' dồn dập phát lại... 
Cán bộ  trong trại reo hò, các 'vệ binh' reo hò. Những cái radio của cán bộ mở to 'hết volume'! 

Hôm nay trại không đi đâu hết. Tất cả chúng tôi được ở trong trại để  liên tục nghe loan tin 
ĐAI THẮNG phía họ.

Tôi không nhớ tôi có khóc hay không? tôi chỉ nhớ mình tôi lạnh ngắt, cảm giác tê tái và buồn hụt hẫng quá sâu. Tuy đã là tù binh nhưng trong tôi một miền nam 'vẫn còn', gia đình tôi trong kia -Bình Tuy- 'vẫn còn'... Ba Mẹ ơi, hai mươi năm nuôi con khôn lớn. Ngày về quê hương bên nòng súng lạnh giá gác canh trên núi rừng biên giới trong niềm tin giữ đất. Giờ chẳng còn chi. Hai mươi năm tiếng à ơi ru con và ngày tháng dãi dầu vươn lên trên vùng đất khổ. Những ngày chạy loạn, những người thân vĩnh viễn chia xa, những khổ đau bà con mình gom góp lại để hôm nay chỉ là một kết cục phũ phàng.

Giờ gia đình tôi trong nam ra sao? Trong kia vẫn mất tin tôi hơn môt tháng rồi. Nhà thằng Ngọc thì ở Huế, nó buồn trước tôi vì tin Huế mất ngày 26 tháng 3 hơn một tháng trước.

Nay đến phiên tôi, Sài Gòn đầu hàng xem như số phận Bình Tuy đã xong!  Ba mạ và các em tôi ra sao? nhà tôi hơn một tháng nay chắc quay quắt vì tin tôi. 

     - Thôi rồi, tất cả sụp đổ!

Hình ảnh ngày trao trả tù binh trong đó có Ngọc và tôi giống như tại bờ sông Thạch Hãn hai năm trước nay tan thành tro bụi.
Thực tế trước mắt tôi hôm đó là hình ảnh rộn ràng, âm thanh huyên náo của các cán bộ CS trên 'Khung' như quay cuồng  xoắn tít, tạo thành một 'ảo giác' nào đó làm tôi lịm ngất hay chóng mặt rụng rời. Tôi như nằm mơ. ..Có tiếng mừng rỡ của một số lính thủy quân lục chiến. Họ là lính, họ mừng vì họ sẽ được cho về nam như lời các cán bộ kia hứa hẹn trước: rằng "ít tội lỗi hơn cấp chỉ huy".
 Những người lính kia dù là 'thứ dử' họ cũng phải về trước thôi. Sụp đổ rồi, thế là xong. Mảnh giấy trắng, cán bộ nguệch ngoạc vài chữ những người lính này sẽ về nam. 


Còn chúng tôi  những người sĩ quan sẽ ở

 lại.  Chúng tôi chấp nhận tháng ngày trước mắt ra sao cũng được.  Chúng tôi không phải là lính, những người đã thụ huấn với trình độ chính trị khác với những người lính. Sự chấp nhận đó là lẽ ĐƯƠNG NHIÊN là CÔNG BẰNG giữa trách nhiệm và thụ hưởng, giữa vinh quang và hậu quả mà thôi.   


Những cán bộ chính trị viên  sẽ "Lên Lớp" trong tư thế khác. Họ là kẻ chiến thắng. Trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi:


-SÀI GÒN ĐÃ ĐẦU HÀNG!



Có nhiều điều hi vọng vẫn bám víu vào


 tâm trí người tù binh. Người tù vẫn tin 

vào 'trao trả, trao đổi'- một giá trị gì đó  khi quân đội và một miền nam vẫn còn. 

Chiến tranh, thắng bại lẽ thuờng; thua nếu không chết tại trận thì làm tù binh, chỉ mừng là còn sống còn có ngày 'trở về'.


Tất cả đều tiêu tan và sụp đổ tan tành như 

một giấc mơ vào buổi sáng 30 tháng Tư,1975 trong Thung Lũng Ba Lòng, đầu nguồn sông Thạch, quê huơng tôi. Ôi đau buồn cho ngày 'gãy súng'. Chuyện đời lính chỉ mong vào hậu thế phán xét mà thôi. Hôm nay trong lao tù chúng tôi cố gắng nuốt nỗi nhục vinh để sống, hòng mong đời còn cho xem cái cảnh "con tạo xoay vần"  đó thôi./.

edit  11.7.2023 by

Đinh Hoa Lư

Sunday, July 9, 2023

HỘI NGỘ QUẢNG TRỊ TOÀN THẾ GIỚI


CHỦ ĐỀ: 

          QUẢNG TRỊ MẢNH ĐẤT TÌNH NGƯỜI 


ĐỊA ĐIỂM  3 NHÀ HÀNG 

-SEAFOOD PARADISE RESTAURANT  TP  WESTMINSTER  1/7/2023

-GOLDEN SEA RESTAURANT / 2.7.2023 TP ANEHEIM 

-PARACEL SEAFOOD RESTAURANT TP WESTMINSTER 3.7.2023

TOURS  

VISIT MIDWAY AIRCRAFT CARRIER MUSEUM SÁNG 3.7.2023

LAS VEGAS TOUR SÁNG 4.7.2023 - 6.7.2023


 VỚI RẤT NHIỀU HÌNH ẢNH ĐƯỢC CAMERAMAN TRẦN CHÍ HIẾU GHI LẠI

XIN VÀO LINK SAU 


https://photos.app.goo.gl/j2DW2qbtkQZynZr8A





TỪ ĐỈNH CAO QUÊ HƯƠNG




Tất cả đều thiếu thốn. Phải mò đi ký sổ đại đội rồi đến tháng xem như hết tiền. Họ nói chẳng ngoa "Tiền Lính là Tính Liền"

hình ảnh sưu tầm: Quân Bắc Việt đang tiến chiêm Chốt Động Ông Do (Qt) 1972 lúc này người viết chưa ra đơn vị

Mời anh mời chị, mùa xuân lên đây thăm tôi
Nơi đây xa xôi khuất nẻo thưa người
Núi rừng mịt mù sương...
Mời em một lần rời xa
Nơi đang yên vui
Lên đây thăm lính ở trên rừng
Để cùng ngọt bùi sớt chia...

(Thư Xuân Trên Rừng Cao/ Trịnh Lâm Ngân)


***
 Mười ngày mới có một chuyến xe GMC tiếp tế phải tới đỉnh Ông Do, nơi BCH Tiểu Đoàn 105 đóng, nhận hàng do chiếc xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được. 

Tuy nhiên hàng "ký sổ" thì chúng tôi có thể từ chốt trung đội, men theo vài triền đồi tranh hướng tới chốt của đại đội. Chúng tôi chọn cách đi tắt như thế để an toàn cho mình.  Chốt đại đội tức là nơi Ban Chỉ Huy đại đội đóng. Chúng tôi tới, chỉ vài người nên Đại Úy Lê Kim Chung chẳng phàn nàn do còn yên không có tiếng súng. Tới đại đội, không khí sao vui hơn; chuyện dễ hiểu do đây là nơi chỉ huy trực tiếp của tôi.
 Chúng tôi sẽ mua thiếu nghĩa là "ký sổ" những thứ chúng tôi cần, tháng tới lương từ hậu cứ mang lên sẽ thanh toán.  Nào kẹo đậu phụng nào sữa Ông Thọ thêm bịch bột gạo lứt Bích Chi, thuốc hút capstan, ruby queen (ruby đỏ), ruby quân tiếp vụ, tệ lắm là  bastos. Tôi chẳng quên chai dầu nhị thiên đường gió núi lạnh lẽo... hầm bà lằng đủ thứ. Một lần đi một lần nguy hiểm, vượt rừng tranh tới được chốt này.

***  

Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Trên cao nhìn về đồng bằng là cả một mãng mù sương. Những ngày quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.

Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội tôi.


BẠN VỚI BAO THUỐC CAPSTAN
Vào những năm này sao lính phần nhiều ghiền thuốc hút Capstan đến thế. Hút xong bao thuốc đọc ngược rồi lại đọc xuôi, tất cả dân hút đều thuộc và đồng ý những chữ đầu của bao CAPSTAN là:

-Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát? ...CAPSTAN
    ĐỌC NGƯỢC LẠI LÀ
-Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn! ...NATSPAC

  Dù có nhiều câu khác nhưng hai câu trên là hai câu phổ thông nhất mà người lính bộ binh nào vào cái thời ghiền Capstan đều chịu. Điếu thuốc khói vàng cả hai đầu ngón tay, nhưng không có không được? Capstan là lúc còn có tiền, nếu túng quá thì Basto xanh hay tệ hơn nữa là Basto đỏ cũng còn để phì phà cho đỡ cơn ghiền.

            không  ảnh QT trước 1972

   
Nước uống thì chúng tôi phải vác ống đạn bò xuống chân núi để múc nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp làm sao? Không phải chúng tôi sợ cọp hay ngại beo mà là sợ bị đối phương phục kích? Nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chịu 'chết khát' thôi. Nhược điểm của đóng quân trên đỉnh cao là thế. Chúng tôi biết làm sao hơn cái chiến thuật vào thời đó có cái tên là “CHỐT và KIỀNG” một danh từ trong quân trường những người sĩ quan sau này đều được học.

Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Động Ông Do vào thời gian đó. Theo tôi nghĩ, có thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi? Do nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận thì eo hẹp làm sao.

Chuyện lính là vậy, dù sao chăng nữa còn “cái mạng” để hàng ngày được ngắm trời mây sông núi là may mắn lắm rồi.


TIỂU KHU QT ĐÓNG TẠI CỒN CÁT HẢI LĂNG  1973


LẶNG NGẮM  QUÊ  HƯƠNG 

Lúc bình an, thư thả tôi đứng một mình trên đỉnh cao, im lặng  ngắm phía dưới chân núi. Có một con sông nhỏ. Đó là một khám phá lý thú cho riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân tôi tìm ra tên của con sông đó- Sông Nhùng. Ngày xưa tôi quen miệng gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là tên tôi không bao giờ quên. Ngày còn nhỏ- những năm lớp nhì- lớp nhất- tôi hay vào Diên Sanh. Những năm đó, xe hàng từ Quảng Trị vô phải chạy qua Cầu Nhồng. Con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh, qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Xe qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ.

Huyển thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên. Người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma. Có khi ma nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện thời xưa khi còn Pháp, tôi chưa ra đời. Rồi thập niên 1964-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng người hay lái xe vào Cầu Nhồng, đi bộ lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi?

Hôm nay Cầu Nhồng chắc đã vào quên lãng khi Quốc Lộ 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh. Khi viết những dòng này, tôi không biết chiếc cầu đó còn không? Có điều tôi chắc chắn Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu". do Quốc Lộ không còn đi qua nó nữa.

Tôi thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa là cả một bức tranh thuỷ mạc.

Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông như thế. Trước khi đổi quân lên núi, tôi từng đóng quân mạn biển. Khi tai nghe sóng trùng dương và mắt ngắm biển trời bao la bát ngát, tôi mợt chợt nghiệm ra tình yêu nước dâng trào trong cơn gió lộng. Lên đây, vùng cao: một lần nữa khi đứng trên đỉnh cao ngắm xuống một con sông đang lượn lờ uốn khúc, tôi mới nhận ra quê hương sao đẹp quá! HỒN THIÊNG SÔNG NÚI ngàn đời mãi xanh.

..So với tuyến Barbara vùng núi Mỹ Chánh và Phong Điền ngó lên tuyến Động Ông Đô là tuyến núi ngoài cùng. Chốt trung đội 2 của tôi lại là ngoài cùng của tiểu đoàn 105 do đó xem như tôi là 'đứa ngoài cùng biên giới'? Cái mõm chốt của chúng tôi ngó lên Động Tiên cao chớm chở. Động Tiên thuộc về "bên kia" nên rậm rạp hoàn toàn. Họ không bao giờ biết "đóng chốt" là gì ngoài cái việc ẩn nấp và bụi rậm làm nhà hay khe suối, vực sâu làm đường di chuyển...


Từ chốt này tôi lại nhìn về được hướng Trấm có khúc sông hình chữ U của dòng Thạch Hãn. Con sông uốn mình ở đây và đi tiếp về Cầu Ga. Từ độ cao này nếu cố gắng, tôi còn nhìn thấy hình dáng cái cầu Ga đen sì gãy đổ xuống sông từ năm 1972.

Ở vị trí mới này tôi chẳng còn nhìn về được hướng Hải Lăng nữa. Tôi chẳng còn nhìn xuống được khởi đầu của Sông Nhùng đang uốn lượn dưới kia.

Nơi chốt mới đối đầu với Động Tiên tôi chỉ thấy được mạn An Đôn Tích Tường và cái cầu đen sì gãy đổ xuống dòng sông. Con sông mang tên Thạch Hãn sẽ âm thầm chảy qua chiếc cầu gục ngã đó, rồi men theo những đống gạch vụn cùng lau lách đìu hiu. Một thành phố mà hơn ba năm trước còn lao xao tiếng guốc tới trường. Những toán học trò còn vô tư cắp vở đi học, trong đầu chỉ là những hoài bão ước mơ ngây thơ trong trắng...

Còn lắm điều tưởng nhớ về đống tro tàn của một thành phố thân yêu mà ba năm trước nó còn nguyên vẹn. Rồi tất cả đều phải lìa xa? Còn lại gì? họa chăng là tiếng gió hú đêm trường như thanh âm của những oan hồn kêu khóc.  Rồi từ một đỉnh cao quê hương ngày tôi trở lại, hướng về đống gạch đá đổ nát đó, người lính càng nghĩ, càng ngắm, rồi trầm ngâm ngổn ngang bao cảm xúc trong đầu? Tất cả chỉ là vị đắng, đến bởi bao nỗi tiếc nuối, oán hận khôn nguôi và cũng là lạnh giá như nòng súng bên người.
                                                 
Có thể lớp con cháu sau này sẽ ngạc nhiên khi tôi chỉ nhắc chuyện chiếc cầu đã gãy cùng một thành phố lịch sử từng là một đống hoang tàn từ độ 1972. Một ngày hè, có những người dân khốn khổ phải lìa xa quê hương bản quán trong nước mắt bi thương, khổ hận của một đoạn đường tràn đầy máu lệ. Nếu mai kia nếu có ai thương về Quảng Trị xin hãy cùng nhau thắp lên một nén hương lòng.

 Quảng Trị ơi ngày đó xa rồi ./.


Đinh Hoa Lư
edition 16/4/2022 
San Jose USA

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...