Friday, June 16, 2023

QUẢNG TRỊ MÙA HÈ RA ĐI



RA ĐI

Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.
Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi. 

Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.

Thôi đành phải ra đi!




Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

Người Phố Quảng dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.

Huế dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?


Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê nhà ai mà không đứt từng khúc ruột.



học trò chiến nạn Quảng Trị tại Đà Nẵng 1973


 Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm  thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại? Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.


                            NGƯỜI QT RA ĐI KHẨN HOANG LẬP ẤP BÌNH TUY 1973


Những thanh âm, tiếng nói, người ra đi mang theo hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương thứ hai. Lạ thật? người Quảng Trị vẫn giữ được những phong cách cùng bản ngữ nghe sao tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể góc hai kẻ xa lạ chợt nhận ra nhau thoáng nghe qua giọng nói. Ấm nồng quê hương tìm lại, bất chợt trong phút giây qua một thoáng âm thanh, tuy ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.

Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.

Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối tiếp thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn tiếp nối hoài bão của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.

ĐHL  EDIT 

2/10/2021

Thursday, June 15, 2023

BÁNH KHOÁI CỬA THƯỢNG TỨ MỘT NGÀY XƯA RẤT HUẾ

 

BÁNH KHOÁI THUỢNG TỨ 


Chào bạn đọc
Người viết muốn dùng và đặt tên lại tiêu đề bài viết đã lâu về Bánh Khoái Thượng Tứ "MỘT NGÀY XƯA RẤT HUẾ"  do chủ ý về rất Huế ngày xưa, thực sự lâu rồi. Bạn đọc có thể thắc mắc tại sao ngày đó "rất Huế" là ở chỗ nào?
Đó là lúc sự pha trộn 3 miền chưa hỗn độn như hôm nay. Người ta có thể đem món ăn ngày xưa ghép vào món ăn hôm nay và gán cho nó cái tên một thuở xa xưa là "BÁNH KHOÁI THƯỢNG TỨ" nhưng nếu không lầm thì nếu ai đã từng ăn bánh khoái ngày xưa ngay tại địa điểm này thì mới thấy thời gian và cuộc thế thay đổi đã làm biến đổi rất nhiều thứ chứ không riêng gì một "bánh khoái" không thôi.



Chiều nay mưa trên phố Huế
Kiếp giang hồ không bến đợi
Mà mưa sao vẫn rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai! 
(nhạc)


  Trước khi vô cửa Thượng Tứ,(thời gian tui kể thuộc đầu thập niên 1970) bên tay phải tui nhớ có tiệm bánh khoái Lạc Thiện mà người ta muốn chắc địa chỉ nên gọi là bánh khoái cửa Thượng Tứ hay gọn lại là "Bánh Khoái Thượng Tứ". Thiên hạ gọi riết thành quen miệng nên quán Lạc Thiện đành chịu cái tên đó luôn.


           Cửa Thượng Tứ thời xưa Pháp thuộc

   Trong Nam người ta gọi bánh xèo (có lẽ vì đổ bột lên khuôn kêu cái "xèo" thì phải?). Có những chuyện tui ưa nhắc lại khi xưa đi ăn bánh khoái Thượng Tứ. Còn chữ khoái có người nói nguyên thủy là "khói" nhưng giọng Huế đọc trại đi là "khoái" ,gọi riết thì thành viết ra cũng như nói tức là khoái, nhưng chuyện này không có bằng chứng vì biết đâu do bánh ăn ngon quá, khoái miệng quá nên "khoái" cũng nên. Ai mà biết nguồn cơn cái tên nhưng dù sao Bánh Khoái Thượng Tứ  một thời gian trước 1975 khách rành ăn từ Quảng Trị vô đến Huế, ít người mà không biết.

     bước  lang thang chiều mưa phố Huế,  những đôi tình nhân  nếu có vô cửa Thuợng Tứ bạn đừng quên ghé quán bánh khoái Lạc Thiện
 
Bây giờ tui bắt đầu kể chuyện ăn "bánh Khoái" ra răng. Người kể cũng xin thưa rằng vô Huế coi phim hay ở lại Tây Lộc. Ra Cửa Thượng Tứ hay từ rạp xi nê Hưng Đạo trước khi vô cửa Thượng Tứ đều có ghé Lạc Thiện ăn hai ba cái mới có cơ hội kể lại cho bạn đọc "ăn hàm thụ" chơi đỡ buồn...

  Bánh khoái Thượng Tứ khách vô ăn kêu từng cái một, nhiều lắm là hai cái cho khỏi mất công đợi. Mấy cái lò than luôn hừng hực nóng. O đổ bánh đổ bột lên cái khuôn, nói đúng là cái chảo nhỏ đường kính khoảng gang tay và bằng phần đáy. Vài con tôm sông không lột vỏ, chỉ cắt phần đầu cùng chân thôi. Tôm sông chưa lột vỏ nó có cái đặc biệt còn giữ mãi vị ngọt của nó, hơn nữa vỏ nó mềm hơn tôm biển. Một ít lát thịt heo ba chỉ nửa nạc nửa mỡ , một nhúm giá còn "mum múp" , nghĩa là chưa mọc dài quá. Bột đổ bánh thì bằng bột gạo ruộng không pha, có một ít bột nghệ cho vàng hay phẩm vàng cho đẹp mắt cùng hấp dẩn hơn.

  Chảo nhỏ đổ bánh phải thật nóng mới đổ bánh. Một loạt sáu bảy cái lò than thế mà O đổ bánh làm thiệt nhịp nhàng không sai sót, không lộn hướng chút mô. O nhớ lần lượt theo từng khách gọi mới hay chớ !

   Coi bộ cái bánh khoái đã vàng tới, O giở nắp , O lật úp cái bánh theo dạng gấp đôi gọn gàng vào cái dĩa cũng không lớn lắm. Dĩ nhiên tui kêu 2 cái cũng được , nhưng vì muốn bánh khi nào cũng nóng nên tui kêu từ từ thôi.

   Chừ tui nói đến món rau sống. Người Huế không ưa xà lách cắt nhỏ ra mô! Rau sống phải là cải non mới vài ba lá , loại cải cay con .  Hương cải cay này nếu lớn thì làm dưa chua thì hết sẩy đó nghe ! Rau sống thì phải có khế chua không xanh quá cắt mỏng. Đặc biệt khi mô cũng có mấy lát vả. 

  
    Dân Huế ưa trồng cây vả lắm. Thứ vả này trên chùa Linh mụ , bên hông chùa có mấy cây sum xuê trái , không biết chừ còn không? A , còn ít rau thơm nhưng không phải rau húng lủi mô. Còn chi nữa hè? Một ít băp chuối sứ cắt mỏng nữa chớ nhưng thứ này không bắt buộc (ngoại trừ tiết canh ). Chỉ có trong Nam hay trộn giá nhưng rau sống ở đây không trộn giá mô vì có ở trong bánh rồi, hơn nữa giá làm cho vị nó thêm lạt( vì giá có nhiều nước ). Người Huế hay dùng giá làm dưa chua ăn kẹp thịt heo ba chỉ luộc chắm nước mắm thôi.

   Tiếp tục tui xin nói về nước chắm tức là "nước lèo". Trong Nam lại kêu nước súp phở thì là nước lèo. Nước lèo ăn bánh khoái không phải nước mắm chua ngọt như ăn bánh xèo trong Nam. Nước lèo này làm bằng đậu phụng xay ra kho lại với đường mỡ gia vị tạo thành nước chắm sền sệt.

   Bỏ một nhúm rau sống vào chén, tui lấy đũa chắn một miếng bánh khoái đang còn giòn vào  xong tui chan một chút nước lèo . Khi đang nhai "nhồm nhòam ", tui không quên cắn một miếng ớt chìa vôi còn xanh vỏ , một chút tỏi từ cái dĩa nhỏ xíu cạnh bên.

   Hồi ni tui có thể kêu bia "la dze" [La Rue] con cọp hay bia 33 con cọp nhỏ và ngon hơn. Sau này có Mỹ qua tui có thể kêu 1 lon bia bông trắng tức là Budweiser hay bia HAM. Nhưng nhìn quanh tui thấy thiên hạ ưng bia "la dze" con cọp "made in Cholon" hơn nhiều hơn  mới lạ chớ !


     - O..o .cho thêm một cái nữa O ơi !


Dạ..

(ham kể chuyện tui quên kêu thêm !!!)

    Tui còn nhớ hồi đó có hai vợ chồng ông Tây nào đó ghiền bánh khoái Thượng Tứ ni lắm , khi nào tui vô ăn cũng gặp. Quán Lạc Thiện nhỏ bé khi mô cũng chật ních người. Thường thường giấc chiều là đông khách hơn hết. Có lẽ ban sáng dân phố Huế có ăn bún gánh , buổi chiều xem phim rạp Hưng Đạo gần đó khách vô ăn tiện hơn chăng?

Bánh của tui có chưa O?


Dạ có đây chú...

   Tiếng O đổ bánh khoái nhanh nhảu trả lời.



                         Quán Lạc Thiện hôm nay

   Đó là âm thanh và hình ảnh ngày xưa. Giờ nó nằm trong ký ức xa xôi. Bữa ni tui nghe quán bánh khoái đó vẫn còn , thời gian phôi pha không biết người chủ cũ còn không và có thể thiên hạ quen "biên chế" quá nhiều nên tui sợ hương vị bánh khoái Thượng Tứ có phần khác xưa chăng?

ĐINH HOA LƯ
21/7/2010

Wednesday, June 14, 2023

QUÁN TIẾT CANH MỤ THẦY CỬA TẢ QUẢNG TRỊ

 thưa bạn đọc nhất là bạn ghiền tiết canh 

Chuyện tô tiết canh có gì lạ đâu sao mà nhắc mãi, nhưng thưa bạn đây là tô tiết canh Cửa Tả ngày xưa. Quán tiết canh này nằm cạnh bờ hồ con đường Duy Tân gần Cửa Tả (thành cổ) có thể quán ngó qua đường là Cột Điện số 192 cũng nên. Cái quán có cái tên là "Tiết canh Mụ Thầy". Dĩ nhiên đây là cái tên truyền miệng cho nhau cho thực khách vào thuở đó chứ đâu có bảng hiệu gì cả.

Lâu nay, người viết hay kể về chuyện “ăn hàng” ngày xưa, nhưng xin bạn đọc hiểu cho qua chuyện “ăn hàng” là một dịp cho người viết nhắc chuyện xưa. Có bạn đọc trước đây có chút hài hước khi cho rằng tôi nhờ có một "tâm hồn ăn uống" nên hay kể lại chuyện ẩm thực ngày trước? Từ Phở Gánh, Bánh Khoái, Bún Xáo, chè cháo gì người viết từng có dịp nhắc lại...

 Khách quan so sánh với bây giờ, thì hàng ăn thời này phong phú hơn xưa nhiều lắm.  Thế nhưng người viết lại nghĩ rằng khó lòng tìm lại huơng vị y ngày xưa? Rồi cũng vì cái lý do “ khó lòng tìm lại huơng vị  y ngày xưa” nên tác giả mới viết lại năm ba câu chuyện ăn hàng Quảng Trị ngày trước để bạn đọc lần lượt xem chơi...

THỜI NAY ĂN HÀNG TUY  THỪA MÀ 'THIẾU

Quý bạn sẽ hỏi tại sao vậy?

Món ăn thời nay có thể do hoàn cảnh thông thương nên ba miền đi lại quá  dễ dàng và nhanh chóng. Người từ đâu tới cũng 'vỗ ngực' xưng danh là món ăn "đặc sản địa phương". Đối tượng của chủ hàng là số lượng khách hàng và họ chẳng cần tìm tòi nguồn gốc hỏi các mệ các o công thức và gia liệu ra sao? Đó là nguồn gốc của các món ăn hàng 'truyền thống' bị 'lai căng'  bị pha chế, khó có tính đặc thù từng nơi. Đó là chưa kể thời nay, tính thuơng mãi, cạnh tranh, chụp giựt hay  vì lợi nhuận đã pha trộn, nhầm lẫn khá nhiều nét bản sắc từng món ăn địa phương hay vùng.

    Viết như thế, người viết e rằng quá dài dòng và đi xa chủ đề của bài ký ức hôm nay chăng? Thế nên tác giả xin trở lại tiêu đề là  TIẾT CANH CỦA "MỤ THẦY" CỬA TẢ hơn nửa thế kỷ trước bên con đường Duy Tân kế cận Cửa Tả Thành Cổ QT xưa.


ĐHL 

 


TÔ TIẾT CANH “MỤ THẦY”

 

           *            

                  

   Tôi hay nhắc về Quảng Trị,  bao "đường xưa lối cũ"  từ phường Đệ Nhất đến phường Đệ Tứ,  nơi 'chôn nhau cắt rốn' của tôi (và bạn bè khác). Con đường Lê văn Duyệt và xóm Cửa Hậu yêu dấu. Có thể bạn bè tôi có đứa 'hơi buồn'  sao vắng thấy con đường Duy Tân ngày ngày bạn bè cắp vở đi ngang.

                 KHÔNG ẢNH THỊ XÃ QUẢNG TRỊ 1968 

  Hết đường Lê văn Duyệt, ngã Ba về Trí Bưu- Ba Bến. Nhưng nếu quý bạn quẹo phải thì là bắt đầu con đường Duy Tân đó rồi. Ngả ba này có gì đặc biệt ? Đó là nhà Hộ sinh O Hóa kèm theo là Viện Mồ Côi sát Trại Tế Bần. Nơi đây sát mé hồ Thành  có có một lò rèn của Ông Xạo bị thương tật ở lỗ mũi nền nhà thấp sâu so với con đường. Ở xóm này có bác Hoàng Lem (phía đường Lê v Duyệt thì có lò rèn ông Hoàng Kiểu, cùng họ Hoàng cả). Nhưng ngay Ngả ba Trí Bưu này có nhà ông Quản Hiệt, ngó về Đường Lê V Duyệt. Chức Quản thì phải là thuợng sĩ thời Pháp. 

Tạm coi đây là múi đường Duy Tân cũng là Phường Đệ Tam. Phường Đệ Tam nay phải kể từ nhà Hộ Sinh O Hóa đi về hướng trường Nguyễn Hoàng. Tại sao Nhà O Hóa thuộc về Đệ Tam: lý do trong giấy khai sinh của tôi tờ khai sinh chính gốc VNCH đề nơi sinh của tôi tại Nhà O Hóa là PHƯỜNG ĐỆ TAM.  Ngay ngã ba này có một quán tạp hóa thật lớn nhưng mở sau cùng, người ở Góc Bầu  ngày đó khó lòng quên được. Từ Ba Bến hay hướng Triệu Tài Ngô Xá hay lên lấy hàng ở mấy quán tạp hóa này.

 

   Tôi 'có tật' hay miên man lạc đề mãi?

  Nói "Tiết canh Mụ Thầy" sao chẳng thấy? nhập đề lung tung? xin bạn đọc khoan vội trách. Rạch ròi, phải có đầu- đuôi, nghĩa là người viết mong 'một công hai chuyện' nhắc lại con đường Duy Tân cũ hi vọng các bạn đường Duy Tân khỏi buồn lòng  sao hay 'thiên vị' chỉ ưu tiên cho con đường Lê v Duyệt đó thôi. Từ ngã ba Duy Tân -Lê v Duyệt- Trí Bưu này đi lên huớng trường Nguyễn Hoàng một đổi, khúc đây tới nhà Lê Bảo Lâm, chủ trang mạng Đông Môn Nguyễn Hoàng khá gần. Vượt qua nhà thợ rèn ông Hoàng Lem bên trái, và quán tạp hoá Mụ Kỳ bên phải, kế mụ Kỳ là chú Trịnh ,theo mé phải nàytức men theo bờ hồ  lên vài ba nhà nữa sẽ tới nhà Mụ Thầy mà người viết sắp kể.


    Đây là dãy nhà phía bờ hồ còn phía bên kia đường còn nhiều điểm đặc biệt như lò rèn họ Hoàng lập nghiệp  khá lâu. Lên một đoạn nữa mới tới xóm nhà Võ văn Khiến, a Võ Lưu, Võ Nhơn, Lê Mỹ Tín...Mỹ Tín còn có cái tên 'cúng cơm' là mệ Lợi. Từ xóm nhà các bạn học đó  kiệt ngó qua đường là Tiết Canh Mụ Thầy. 


   Người viết cũng xin mở ngoặc một ít ở đây rằng tại sao gọi là Mụ Thầy? Bác ông không làm thầy dạy học mà làm nghề thầy cúng, còn gọi là thầy tụng kinh, tạm gọi bác là 'tu tại gia' nên bác mụ mới được bà con gọi là Mụ Thầy. Hồi này Quảng trị cũng có vài ba vị tu tại gia vừa làm nghề thầy tụng nữa chứ không riêng gì bác ông đây. Người viết còn nhớ dưới Sãi (hay An Tiêm) có thầy Mè cũng tu tại gia hay đi tụng kinh gỏ mõ khi gia đình nào cần cầu an cầu siêu.  thầy cũng bận áo đà, cạo đầu nhưng tu tại gia thôi. Người QT gọi tiếng Mụ là ý thân quen, tôn xưng chứ không dám coi thuờng. Chữ Mụ vào nam hay ngay cả Huế thì người ta không ưa. Người QT nếu tôi không lầm, ngang hàng với mệ mình thì gọi là tiếng mụ chứ không gọi là mệ. Còn người Huế tiếng mệ- các mệ lại khác nữa.


 Khoảng từ hai giờ chiều là bắt đầu có tiết canh. Tại sao hai giờ chiều mới có ? Bữa sáng bác mụ đi lấy lòng huyết và những thứ khác về; làm đến trưa, khoảng hai giờ chiều tiết canh mới đông và khách ăn chiều cũng vừa lục tục tới. Khách đa phần là công chức, bữa chiều bắt đầu rãnh việc. Tôi là đứa học trò thuộc loại 'ăn hàng' nên mới có cơ hội mục kích để giờ đây 'cà kê dê ngỗng' online với thân hữu. Nói về tiết canh, thì người ta kêu 'dĩa tiết canh', nhưng ở đây bác mụ làm tiết canh vào tô tức là 'tô tiết canh'. Những cái tô ngày xưa, miệng rộng, đáy hẹp được đặt từng hàng trong cái tủ gác măng giê (guard manger) có lưới hẳn hòi. Những lát gan béo ngậy bác mụ sắp sẵn trên mặt tô. Có khách kêu, mặt tô mới được rắc thêm đậu phụng rang. Bánh tráng gạo giòn rụm, chén nước lèo gừng nho nhỏ bên cạnh, đặc biệt dĩa rau sống tươi mát đủ loại, nhất là rau thơm và báp chuối không bao giờ bác thiếu. 


  Xin đừng cho tiết canh chỉ 'ròng huyết'; khách ăn sẽ thấy dưới mấy lát gan vừa luộc xong , cắt mỏng , là hỗn hợp lòng ngon cắt mịn', rau màu , gia vị đậm đà xen lẫn với những sợi huyết đang đúc kết, quyện dính lại nhau để cho thực khách một tô tiết cạnh ngon 'ngậm mà nghe' đúng với tiếng khen của người Quảng trị. Đó là kết quả của tài sự khéo léo riêng nếu không thì tiết canh 'không đông' nhưng khi 'không đông' thì xem như hỏng việc, không thể gọi nó là món tiết canh được nữa . Người làm chú trọng tiết canh không phải là nhiều hay ít huyết,  mà là cách thức pha chế huyết sao cho đông, huyết chỉ là một chất đệm hay chất xúc tác thôi. 

   Phong cách ăn tiết canh ngày đó khác xa giờ. Người QT hồi đó ăn tiết canh không cầm tô tiết canh lên lấy muỗng múc ăn như 'ăn cháo' mà cách ăn hồi đó tôi xin được vô hai chữ "thuởng thức"!

Tại sao mà "thưởng thức"?

 Tô tiết canh kêu xong, chờ đầy đủ mọi thứ, khách sẽ xắn được từng miếng bỏ vào chén rau sống, bóp ít bánh tráng, chan thêm góc muỗng cà phê nước lèo gừng mới 'thấm'... 


   Sự quyện lẫn giữa thanh tao tươi mát- huơng thơm các loại rau - với vị bùi, béo, ngọt đậm đà của miếng tiết canh thêm vào đó là vị cay thơm của tỏi ớt, trồng trên đất QT. Khách ăn còn phân biệt được  cảm giác 'giòn giòn' của bánh tráng cùng vị béo đậm của hạt đậu phụng vừa nát. Đó rõ ràng là một 'tập hợp' giữa hương vị và cái ngon của tô tiết canh, nó sẽ cho thực khách thuởng thức  phân biệt thế nào là 'tiết canh Mụ Thầy'. Khách thưởng thức chớ bao giờ quên cái dĩa nhỏ ớt tươi, tỏi cùng gừng rong nhỏ. Tuy nhỏ nhặt nhưng thực khách rất cần nó.


                                     ***


     Người ta kêu bia lon của Mỹ cũng có, nhưng Mụ Thầy có bán thêm  rượu thuốc , rượu trắng . Các bác, các chú ăn hàng chiều thuờng tới quán này để thuởng thức tiết canh là chính. Cảnh ngồi nhậu 'tới bến' như sau này thì người viết không bao giờ thấy.

  Thuởng thức xong tiết canh, khách ít khi quên gọi thêm tô cháo lòng. Hai thứ này như một menu 'dính liền' với nhau. Thật vậy, ăn tiết canh xong mà thiếu tô cháo lòng thì xem như 'ăn thiếu' hay 'thuởng thức' chưa đủ? Miếng tiết canh cuối cùng và vào miệng xong là vừa lúc cháo được bưng lên. Tô cháo lòng, nóng hổi thơm ngát mũi. Gạo bác mụ nấu không nhừ, vài miếng lòng, huyết, bập bềnh, chen lẫn ít mẩu hành phi xam xám. Miếng cháo nóng hổi thơm ngon sẽ làm thực khách vững dạ thêm trước khi ra về.


  Dĩ nhiên, món tiết canh bao giờ cũng hết trước tiên, độ bốn năm giờ chiều thì xong. Số lượng tô của bác mụ làm ra tiết canh có hạn định , ai đi trễ thì hết. Giờ đây, khách vào sau có thể ăn tạm cháo lòng. Thỉnh thoảng cũng có người xách gamen tới mua cháo về nhà. Căn nhà vừa ở vừa làm chỗ bán hàng nên chật hẹp. Chỗ đậu honda chẳng có vì nhà bác ở phía bờ hồ đâu có sân trước. Nhà bạn cùng lớp của người viết là Nguyễn Kim Long sát cạnh quán Mụ Thầy nên chứng kiến cái cảnh 'ngựa xe tấp nập' đi ăn tiết canh hàng ngày. Chòm xóm thân thiết với nhau nên không ai nề hà chi khi có khách đậu nhờ.  Khách quen thường cuốc bộ tới ăn là 'thuợng sách'.




KHÔNG ẢNH CỔ THÀNH VÀ THÀNH PHỐ QUẢNG TRỊ TRƯỚC 1972


Quán tiết canh này nổi tiếng; tuy nhiên theo trí nhớ người viết, Quán Mụ Thầy 'mọc' lên sau này.  Người Phường Đệ Tam hay Đường Duy Tân có thể còn nhớ  một quán phở khá "âm thầm" bán "tại gia" đã lâu năm. Từ Tiệm xe đạp Hoành Sơn, trước mặt Cửa Tiền (đóng từ lâu) ngó về  QUY THIỆN. Quán phở này có cái xe Phở Ô Vọi lâu năm không còn đi bán để ở đằng trước hiên và khách ngồi ở trong nhà. Từ ngả ba về Quy Thiện này, quán nằm bên tay trái. Phở bán lâu năm, nhưng không ai đặt cho cái tên nào, có thể bà con trong xóm biết tên mà thôi...

THAY CHO PHẦN  KẾT


 Trở lại chuyện Quán Tiết Canh, sinh nhai đủ sống hay không là chuyện riêng gia đình Mụ Thầy, chứ cái tiếng "Tiết Canh Mụ Thầy' thời này nổi tiếng từ con đường Duy Tân lan qua Lê văn Duyệt lên tới trên phố. Khách càng lúc càng đông. Đông thì đông, số tô Tiết Canh của Mụ Thầy có hạn định, ai chậm thì hết? Cũng vì thế giới 'ghiền' tiết canh  cứ 'thòm thèm' mốn đi ăn mãi. Người viết tin rằng nhờ thế quán Tiết Canh mới nổi tiếng  lâu dài, giúp thêm lợi tức cho hai Bác Thầy lúc tuổi về già./.

 

ĐHL  MỒNG 5 THÁNG 5, 2015

edit 14.6.2023


Monday, June 12, 2023

RỒI HAI MƯƠI NĂM SAU ( CHUYỆN NGƯỜI LÍNH TRẺ Ở LẠI BÊN DÒNG Ô LÂU)

 

LẠY MẸ CON ĐI hay CHUYỆN BUỒN CỦA NGƯỜI THUA TRẬN


30 tháng Tư 1975 và CHUYỆN BUỒN CỦA NHỮNG NGƯỜI THUA TRẬN



*
HỒI KÝ CỦA ĐHL
Cuộc chiến VN kết thúc kèm theo bao câu chuyện bi hùng về người lính VNCH. Có những câu chuyện kể lại nói về những cuộc rút lui để bảo vệ thủ đô Sài Gòn còn lại. Nhưng có những đơn vị hi sinh một cách âm thầm để cho những cánh quân Tổng Trừ Bị rút về Huế và trở lại Sài Gòn...
Ít ai nhắc lại hay biết đến những hi sinh âm thầm đó. Có những người lính trẻ, họ là những anh hùng vô danh một sự anh hùng khi thầm lặng hi sinh không một đòi hỏi hay ta thán nào. Những người lính im lìm chỉ biết một bề thi hành nhiệm vụ.
Người viết vào thời điểm này là một sĩ quan trẻ tuổi mới ra trường, với con mắt khách quan và cũng là người trong cuộc đã chứng kiến khi cùng toàn đơn vị hi sinh nằm lại bên bờ Ô Lâu thuộc làng Trạch Phổ và cuối cùng bị bắt làm tù binh vào trưa ngày 23/3/1975 tại rú Phong Bình
ĐHL

***
NGƯỜI LÍNH TRẺ NẰM LẠI BÊN DÒNG Ô LÂU

Con ơi à ơiĐây là giấc ngủ ban đầuMẹ ru conBên ngoài gió thổi nam non
… Hai mươi tuổi đờiMẹ sinh con yêu dấu à ơiGiấc mộng tuyệt vờiGiấc mộng là mộng hai mươi  (Trầm Tử Thiêng)



Người tân binh tên Thành được bổ sung về trung đội tôi chưa được bao lâu thì đơn vị đã có lệnh rút lui về đồng bằng Diên Sanh. Thành còn quá trẻ, trạc tuổi em trai tôi và lại là người Huế. Đa số người trong trung đội tôi đều là người Quảng Trị nên tôi để ý anh lính trẻ này nhiều hơn.
Gần một năm xa nhà, dấn thân vào đời lính. Ra đơn vị lên vùng núi này Thành bị vướng căn bệnh sốt rét, một chứng bệnh lan nhanh tại vùng núi quanh Động Ô Do.
Vừa khỏi cơn sốt rét nên da mặt Thành còn xanh xao. Nét gian truân người lính chỉ mới khởi đầu nên chưa thể xóa hết đi vẻ non dại của người con trai mới lớn từ một vùng quê. Thật ra, ngày ra đơn vị ngày đó Thành có nói tên quê em, đâu đó dưới quận Hương Điền nhưng lâu ngày tôi đành quên mất?
Sau ba tháng huấn luyện ở Trung Tâm Dạ Lê gần Phú Bài, Thành mãn khóa sau đó được đưa về Tiểu Khu Quảng Trị và cuối cùng em được bổ sung về trung đội 3 của tôi.
Điều tôi biết rõ về người lính trẻ này là Thành vừa rời lưỡi liềm, cái cuốc làng quê rồi đi vào nghiệp lính. Biết bao lớp tuổi cày cuốc, trụ cột cho gia đình từng phải lên đường tòng chinh trong thời tao loạn.
Rồi sau tết 1975, những gì đã đến trong cuộc chiến dai dẳng này bắt đầu xảy ra khi toàn bộ đơn vị Phòng tuyến Động Ông Do có lệnh di tản. Không những chỉ chúng tôi mà các tiểu đoàn lân cận ở vùng núi như Phòng tuyến Barbara cũng di tản vào ngày 17/3/1975
Ai ngờ đâu, Xuân 1975 đó là xuân cuối cùng của người lính miền nam- rồi các đơn vị của Tiểu Khu Quảng Trị là chứng nhân và cũng là nạn nhân cho một kết cuộc đau buồn bên bờ Sông Ô Lâu. Một dấu ấn khó quên trong đời quân ngũ vào tuần lễ cuối cùng của tháng Ba năm 1975. Tôi đã lâm trận và chứng kiến sự rút lui và nói cho đúng hơn là một sự rệu rã đầu tiên bên bờ sông xưa một cách bất ngờ, tức tưởi.
Bắc quân hình như đã được biết trước cuộc chiến đang đến hồi CÁO CHUNG. Họ hí hửng thổi còi vượt sông Ô Lâu bắt đầu vào hơi xế trưa ngày 23 tháng 3 năm đó.

LÀNG TRẠCH PHỔ ƯU ĐIỀM BỜ SÔNG Ô LÂU

Ruộng Trạch Phổ mới cấy xong, nhà hoang cửa vắng
Dĩ nhiên khỏi viết hết lên đây thì bạn đọc cũng hiểu rồi; đó sự tan rã đến nhanh. Nhưng trong tiếng súng và làn hơi áp mạnh của B 40 tấn công, tôi nghe có tiếng hét của hạ sĩ Lộc người y tá trung đội:
-Ch úy , ch Úy ! thằng Thành bị đạn rồi, ngay ngực nặng quá!
Thành chẳng chút may mắn, em bị trúng đạn ngay vào loạt đạn đầu của bắc quân vượt sông ngang xã Hải Văn... Càng lúc áp lực của những toán quân chính quy bên kia vừa qua sông càng bắn xối xả mạnh hơn.
Tất cả đại đội 2 chúng tôi bị dồn ra phía cánh đồng trống trải vừa mới cấy xong của Làng Trạch Phổ.
Bên cạnh cái lăng mộ ai đó giữa đồng lúa mới cấy tôi nghe tiếng rên của một người bị đạn, tiếng của Thành. Có thể bạn cho rằng tiếng rên kia phải là to lớn kêu gào hay thống thiết lắm chăng? Không phải thế! Qua bao nhiêu năm tôi không quên được tiếng rên của người lính trẻ. Thành chỉ rên lên tiếng “ i ..;i...” mà thôi. Người bị đạn không còn đủ sức để kêu to do đạn đã xuyên qua ngực, giữa tiếng nổ chát chúa của những tràng đạn tấn công, tiếng B 40 và từng hồi còi 'súp-lê' xung phong của bắc quân nghe lanh lảnh...
.
Âm thanh của người lính trẻ trúng đạn, đó là tiếng rên hay tiếng kêu đau đớn của một thanh niên vừa rời cái roi giữ trâu hay cái cày bên luống ruộng quê nhà. Một làng quê, nơi đó Thành có mẹ già. Những người thân yêu của Thành vĩnh viễn không còn thấy được Thành về. Tôi đoan chắc là Thành đã chết bên cánh đồng Trạch Phổ do người y tá bỏ cuộc và cả đơn vị tôi cũng tan nát thối lui ra giữa cánh đồng và tán loạn rút về rú Ưu Điềm. Tôi bị bắt tù binh từ cái rú càn đó. Có hai người tiểu đội trưởng cũng ngẩng đầu lên lần cuối cùng và gục xuống trên đồng ruộng thôn làng. Trong hình ảnh đau khổ đó, có Hạ Sĩ Hách người tiểu đội trưởng già mà tôi còn nhớ tên.
Làm sao tôi quên được Thành, em là người lính trẻ mới về đơn vị tôi chỉ hai tháng, lại vĩnh viễn ra đi trong ngày tàn cuộc chiến? Tiếng rên “i ..i” của em -một người bị trúng đạn nhưng sao tôi nhớ mãi đến hôm nay? Tiếng kêu đau thương của một người thanh niên hay đúng hơn là một em nhỏ mới lớn. Một lứa xanh chưa có niềm vui nào khi tập tễnh bước vào đời với làn vải kaki, màu áo trận, cùng nòng súng lạnh lùng? Một lứa trai vừa giã từ cuộc sống đơn sơ bên mái tranh nghèo cùng mẹ hiền dưới khóm tre làng. Thành chỉ quen và nhìn đời qua những ngày chân lấm tay bùn bên con trâu, nhánh lúa.
Giờ đây em chỉ còn những làn hơi yếu ớt còn lại. Chút sức lực cuối cùng của một người trai, chới với thảm thương cùng sự tan nát của đơn vị mình giữa cánh đồng chưa xanh lá mạ ...Một tiếng rên đớn đau nhưng quá âm thầm, rời rạc không còn đủ sức để kêu thêm hai tiếng:
-MẸ ƠI!
Đó là tiếng nói cuối cùng người lính trẻ hay là nỗi buồn sót lại của một cuộc chiến ĐANG TÀN trên quê hương dau khổ Việt Nam.

nhờ vào cuốn phim tư liệu cũ có tên là "Đường về GP Huế" 26.3.1975, tác giả đã lấy được hình ảnh của toán tù binh (trong đó có tác giả đội nón lưỡi trai đi giữa) của đơn vị đại đội 2 tiểu đoàn 105 ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đang bị dẫn ra Đông hà ngày 24.3.1975, hình ảnh này có thể ngang đoạn gần Bến Đá
**

Đã bốn mươi tám năm qua kể từ cái chiều 23 tháng 3 năm 1975 bên bờ Sông Ô Lâu, khi cầm bút viết vài dòng để tưởng niệm Thành tôi không cầm được giọt nước mắt thương nhớ về em. Thật tiếc và oan uổng cho Em trong giờ phút kết thúc chiến tranh. Em có hi sinh thêm nữa thì số phận miền nam cũng đã được định phần. Cái chết của em cũng chẳng giúp thêm gì cho NHỤC VINH của những người may mắn còn lại trên cuộc đời này?
Trên bàn thờ nhà em trong làng của người lính tử trận này, giờ có thể còn một bát nhang thờ vọng cho Em, người ra đi không hẹn ngày về? Con trâu bờ ruộng cùng lũy tre làng Thành vẫn doi dỏi trông chờ hình bóng người lính trẻ; dù em có về cùng đôi nạng thương binh. Nhưng có điều tôi tin chắc chắn rằng THÀNH cùng hai người tiểu đội trưởng cùng những anh em khác đã vĩnh viễn không về. Cũng như người đại đội trưởng chúng tôi, Đại Úy Lê Kim Chung, Anh đã nằm lại một mình bên làng Lương Mai, cũng vĩnh viễn chẳng về...
Gần năm mươi năm, sau ngày tàn cuộc chiến nhưng quê Mẹ vẫn còn quá nhiều trường hợp như Thành vẫn còn quá nhiều mẹ già đau đáu chờ con, vẫn nuôi hi vọng con về, cho đến lúc nhắm mắt tàn hơi?
    Tôi vẫn mãi thương xót cho số phận một NGƯỜI LÍNH TRẺ cùng tiếng rên cuối cùng bên bờ ruộng mới cấy của cái làng tên là Trạch Phổ năm xưa. Hàng năm cứ đến tháng Tư Đen là tôi tiếp tục tái đăng bài Hồi Tưởng về Thành. Đây cũng là nén tâm nhang cho tôi tưởng niệm về hương hồn một người LÍNH TRẺ đã hi sinh oan uổng trong ngày TÀN CUỘC CHIẾN. Đã nửa thế kỷ qua mau nhưng một câu chuyện trong muôn triệu nỗi buồn chiến tranh cứ day dứt và ám ảnh mãi làm lòng tôi khó bề quên được ./.

Ký Ức ĐHL Bên Bờ Sông Ô Lâu ngày Tàn Cuộc Chiến 23/3/1975

Đinh Hoa Lư

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...