Sunday, March 12, 2023

TRUYỆN HAY CỦA VĂN HÀO MỸ John E. Steinbeck ÁP BỨC ĐẮNG CAY

 

 ÁP BỨC & ĐẮNG CAY

 

 (TRÍCH TỪ CUỐN THE GRAPES OF WRATH)


                                                                 ĐẠI GIA ĐÌNH JOAD
                                                                     JOADS FAMILY



lời dẫn
Người Oklahoma trong đó có gia đình Joad ra đi, tất cả của cải đều phải bán lại nhưng bị giới thương lái mua ép với giá rẻ mạt. Từ bị bức ép về đất đai những người nông dân khốn khổ họ còn bị bức ép giá mua  từ những vật dụng của họ. Có thể họ phải ra đi nhưng mang theo trong lòng bao nỗi đắng cay đến từ thịnh nộ và uất hận. 
Họ đã mất đất, mất cả vốn liếng chỉ còn cách duy nhất: tìm con đường sống tức là về California mang theo giấc mộng "đổi đời"...


                 SỰ ÉP GIÁ VÔ HỒN


tá điền Oklahoma phải ra đi tìm California để sống

    Dưới những mái lều nhỏ, đám tá điền lo xếp đặt gọn gàng đồ đạc cho mình cùng cho người ông và cha. Họ phải gạn lọc thứ nào đáng mang theo trong cuộc hành trình đi về miền tây. Bọn đàn ông đó đang trở thành tàn nhẫn, lạnh lùng khi quá khứ vừa qua chẳng còn gì cho họ nữa. Còn cánh đàn bà lại tin rằng quá khứ đó sẽ khóc cho họ với tháng ngày trước mắt

    Giờ bọn đàn ông tìm đến chái vựa hay mái lều đựng nông cụ cùng những thứ đồ đạc linh tinh.  Bạn còn nhớ trong thời chiến tranh chúng ta còn dùng thứ cày và bừa đó để trồng và thu hoạch hột cải (mustard) không? Các bạn nhớ  hắn buộc chúng ta trồng thế vào cây cao su mà họ gọi là cây guayule không? Hắn còn nói muốn giàu, muốn có tiền thì đem hết nông cụ lại cho gã bán lấy một mớ đô la đem về

    Mười tám đô la cho cái cày đó? nhưng phải trả tiền chuyên chở-- muốn bán thì tới đó- hãng Sears Roebuck đấy.

   Yên ngựa, xe kéo, máy bỏ hột, đống cuốc kia, đem nó ra một đống, xong đặt lên toa này kéo ra thị trấn. Bán hết mọi thứ bạn cần bán. Bán luôn bầy ngựa cùng toa xe. Mọi thứ chúng ta chẳng còn cần nữa.

   Một cái cày tốt giờ này không đáng năm mươi xu. Cái máy gieo hột, trị giá ba mươi tám đô la giờ vỏn vẹn chưa tới hai đô?

-Không còn cách gì kéo chúng về lại?

Thôi ráng cầm tạm những đồng bạc này cùng bao niềm cay đắng. 
                                                 giống ngựa Bay Gedling 

     Hãy mua giúp cái bơm còn tốt và bộ yên ngựa này đi. Mua luôn giùm cho tôi sợi cương này, cái cườm cổ, bộ bọc yên. Hãy mua giùm cái vành cườm trên trán ngựa này, mạ cườm thủy tinh lấp lánh cùng sắc đỏ hoa hồng chèn dưới ánh thủy tinh kia. Hãy lấy mấy thứ này dành cho con ngựa đà này (bay gedling ), hãy xem,  khi nó cất vó, chạy nước kiệu ôi đẹp làm sao!

  Những thứ không bán được nay trở thành rác rưởi. Thôi hãy chất đống giữa sân...

  Chẳng được xu nào cho cái cày tay này. Nếu nạo sắt ra đáng giá năm mươi xu thôi. Lưỡi cày, giàn kéo, giờ là thứ vứt đi

  -Thôi, lấy đi!

  Tất cả mọi thứ xin trả cho tôi năm đô thôi. Ông đâu mua lầm đồ bỏ, những thứ này tôi đang dùng. Ông hãy nhận ra cái đáng nói lúc này đây chính ông  đang mua luôn cả niềm cay đắng từ phía chúng tôi. Để xem sau này các người sẽ dùng nó 'lấp con các người xuống hố', hãy mua "những cánh tay và linh hồn" này luôn, những thứ đã cứu các người trước đó. 

        -Năm đô la chắc giá, bốn thì không bao giờ!

        -Ta không thể đem về được lại sao?

        -Thôi, bốn đô la lấy đi.

  Nhưng tôi báo trước, ông mua bán thất nhơn ác đức như vầy sau này quả báo là để cày, chôn con các ông vào trong lòng đất. Ông chưa thấy  và cũng không thể thấy được, cứ tìm cách ép người để mua cho được bốn đô la đi!

  Này, ông trả bao nhiêu cho đàn ngựa cùng chiếc xe kéo này? Chúng là giống ngựa đà chính hiệu (Bays) đây nhé. Nhưng con ngựa đà chính hiệu đây. Đúng y là giống gốc. Hãy xem màu lông, tướng đi, cách phi của chúng. Giây thắt từ đầu đến mông đều sít sao, buộc hai vòng. Sáng dậy, ánh nắng chiếu lên, đẹp làm sao cái giống ngựa này (bay light). Chúng kê mõm lên rào, thở phì phì chờ tôi. Hai tai dựng thẳng, xoay xoay như muốn lắng nghe. Chùm lông đen chính giữa trán. Ôi trông nó quý và đẹp biết bao! Tôi còn có một con Bay cái này, (girl Bay) nó thích bện cái bờm lông trước đầu,  cột thêm cái nơ màu đỏ trên cái bím này nữa thì đẹp quá sức. 
Ông thích không? 
Không còn con nào hơn con này đâu. Chuyện khá ngộ nghĩnh về con ngựa cái. Hi vọng ông sẽ bật cười. Con Bay này giá tám đô, con sát nó là mười đô, nhưng nó làm việc bằng hai con đực giống colts,  đâu thua kém gì. Ông thấy chưa?  Giống này nổi tiếng là giống tốt nhất. Phổi nở, bộ chân ẻo lả, đẹp và sạch sẽ. 

 


giống ngựa Colt horse





        -Ông trả bao nhiêu?

        -Mười đô la thôi ư? cho cả hai con? kèm theo cái xe kéo nữa?!
        -Ôi Lạy Giêsu! biết thế ta bắn chết chúng cho chó ăn thịt còn hơn?
        -Thôi lấy đi! nhanh lên, thưa ngài!

  -Ông vừa mua con ngựa cái, con ngựa có bện chòm lông đằng trước.  Hãy lấy cái ruy băng trên bờm lông trước nó mà làm nơ.

-  Nào! ngựa bước lui nào, ngoẹo  đầu cho ta chùi sạch cái mũi mềm mại xuống đến má.

  - Ông đã thí vài đồng bạc mua đứt bao năm làm lụng vất vả, cặm cụi dưới nắng nôi; ông đã mua đứt bao nỗi buồn mà tôi chưa bao giờ thổ lộ cùng ai. 
-Này ông, hãy xem chừng, sẽ có cái giá thật đắt  đi sau với đống của cải bị ép giá thế kia?
Tôi nói trước:
  -Những con ngựa này quá đẹp. Sẽ có một ngày, bao tập hợp cay đắng khổ đau kia sẽ trổi dậy, nẩy nở ngay trong nhà ông.  Chúng tôi từng cứu các người nhưng giờ này các người lần lượt chèn ép cho chúng tôi gục ngã.  Mai đây lúc chính các người ngã quỵ, chẳng có ai trong chúng tôi tới cứu các người đâu. 

*

                                    ĐẮNG CAY

       Nhóm tá điền lầm lũi bước về, tay đút vào túi quần, mũ kéo thấp. Vài người ghé mua ít rượu, họ tu vào người thật nhanh, mong dằn đi bao cảm xúc dâng trào hay cảm giác choáng váng trong hồn.  Họ không cười, chẳng muốn múa may gì trên đường. Miệng họ chẳng còn ‘ậm ẹ’ hát được câu nào. Tay họ chẳng buồn vớ tới cây đàn. Họ về lại mảnh vườn, tay vẫn còn đút túi, đầu nhìn xuống, đôi giày lê bước tung lên những làn bụi đỏ...


    
Chúng ta còn hi vọng làm lại cuộc đời nơi vùng đất giàu có  xứ California kia, sẽ trồng lên nhiều vườn cây ăn trái. Vâng! chúng ta sẽ tạo dựng lại tất cả.

   Nhưng bạn chẳng còn có khả năng bắt đầu lại được cơ mà? Chỉ có đứa trẻ mới bắt đầu tạo dựng đúng nghĩa.

 Tại sao thế?

 Do bạn và ta tất cả đều đã sống, đã qua (we're all, that's been). Mảnh đất này, một vùng đất đỏ thắm, chính là chúng ta. Bao năm vùi dập trong nước lũ, bao năm hạn hán, bụi ngập đầy trời là chính chúng ta

    Chẳng thể nào khởi đầu lại được. Nỗi đắng cay chúng ta đã bán cho kẻ vô lại (junk man) kia. vâng, hắn ta đã mua xong, nhưng chúng ta chưa yên. Chủ đất tới đuổi, chưa yên là ở đó. Ngày chiếc máy cày tới ủi nhà chúng ta, chưa yên là ở đó. Cho đến lúc chúng ta thật sự chết mới hết. 

   California hay nơi nào đó ư? Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh cái trống chỉ huy (major trump) biết dẫn đầu cho đoàn diễn hành đau thuơng và cay đắng. Cho đến một ngày, bao nhiêu đoàn diễn hành kia hòa nhập đi chung  một đoàn  chúng sẽ biến thân tạo thành bao nỗi kinh hoàng...

   Đám tá điền giờ đang lê bước ra về. Họ đang ngang qua những cánh đồng, xuyên qua bao đám bụi đỏ ngầu.

  Khi mọi thứ bán xong, bao thứ còn lại, nào bếp lò, vạc giường, ghế bàn, tủ đựng ly nho nhỏ, bồn tắm chậu rửa mặt, còn la liệt... Một đống của cải ngổn ngang còn đó. Đàn bà ngồi giữa đống ngổn ngang kia, lật qua, trở lại từng thứ, tiếc rẻ đến thẩn thờ… bao nhiêu: tranh ảnh, cặp kính vuông... kìa một cái lọ hoa còn đây...

  Giờ bạn biết đó, chúng ta còn khả năng mang theo hay bỏ lại những gì cần thiết hay chẳng cần thiết trên đường. Chúng ta còn cắm trại, cần mấy cái song vừa nấu ăn vừa rửa ráy, tấm nệm ghế xếp cũng đáng cần, cái đèn lồng và sô nước, cùng tấm vải lều để cắm trại nữa. Bình dầu hôi đáng cần nhất. 

Còn gì nữa? cái bếp...

   Áo quần, phải mang theo hết. Chuyện quan tâm, chính là khẩu súng trường. Đừng bao giờ ra đi mà không có súng. Mỗi khi giày áo, thức ăn và ngay cả niềm hi vọng cạn khô thì đây là thời điểm chúng ta cần súng. 

    Thời Ông Nội tới đây, ta có kể lại phải không? Ông tới đây tay mang theo muối tiêu và khẩu súng. Ngoài ra chẳng có gì khác.

   Tiếp đến chúng ta cần gì nữa? phải có chai đựng nước. Cần đồ đựng nước cho chúng ta uống, để bên hông xe, trẻ con được ngồi trong thùng xe , còn bà nội ngồi trên tấm nệm. Dụng cụ, một cái xẽng, cưa, cái kềm mỏ lết, cái kềm thuờng cùng một cái rìu nữa. Nhà mình dùng cái rìu này bốn mươi năm, nay trông đã sứt mẻ hết. Mấy cuộn dây thừng nữa, đương nhiên phải cần chúng. 

Những thứ còn lại, phải làm gì ư? 
Để lại -hoặc chúng ta đốt hết.


     Đám trẻ tới rồi.

   Nếu Mary mang theo con búp bê rách nát, dơ dáy kia, thì ta cũng mang theo cái cung của người Da Đỏ Injun nữa. Ta cần cái cung này. Ta cần theo cây gỗ tròn, dài bằng ta. Ta cần dùng nó. Ta dùng cây gỗ này một tháng, có thể một năm trước đây. Ta phải mang nó theo.

   Tới California không biết ở đó ra sao?

Pilgrim's Progress sách truyện ngụ ngôn tôn giáo của John Bunyan (1678)

    Đám đàn bà ngồi bệt giữa đống đồ cũ nát, tồi tàn lật qua trở lại xem từng món đồ. Cuốn sách này cha ta mua nó. Ông thích cuốn Pilgrim's Progress này. Người thường ngồi đọc, nghiền ngẫm say mê như thể tên ông gắn liền vào cuốn sách đó. Sự gần gũi đến từng trang sách, đến nỗi còn vương mùi thuốc lá của Người.

 Tiếp đến là bức họa - hình ảnh một thiên thần. Kịp ngắm nó trước khi ba thứ hôi hám khác đòi lên xe.

 Con chó Tàu này, cô Sadie tốn công mang nó từ Hội Chợ Sant Louis (Hội Chợ thế giới tổ chức tại St Louis Missouri năm 1900, tất cả đồ thủ công mỹ nghệ thế giới được trưng bày tại hội chợ này)

 Nhìn này! Ai viết gì đây? Không phải, ta đoán sai, đây là bức thư em ta viết một ngày trước khi nó mất.

Còn đây cái mũ thời trước nữa? những cái lông gắn lên nó--thời này không bao giờ có ai dùng nó.

Không được, chẳng còn đủ chỗ trong xe đâu! 

  Làm sao chúng ta sống nỗi khi cuộc sống chẳng còn gì? Làm sao chúng ta biết đây là của chúng ta nếu không có quá khứ? Thôi, để nó lại, đốt hết đi!

hoạt cảnh RA Đi trong bộ phim kịch nghệ The Grapes of Wrath đóng 1940

  Họ cùng ngồi lại nhìn đống đồ bỏ lại để cùng ghi nhớ hình ảnh cuối cùng trước khi nổi lửa.  Họ sẽ không biết đất đai ngoài cánh cửa kia sẽ ra sao? Nửa đêm khi bạn choàng tỉnh, làm sao bạn biết chắc bụi liễu ngoài kia chẳng còn? Bạn có thích sống khi trống vắng bụi liễu kia không? Ồ,  không bạn không thể sống vậy. Khóm liễu kia là bạn, là hình ảnh thân thuơng trong đời. Sự đau đớn trên tấm nệm kia- nỗi đau ghê gớm-đó là bạn.

  Và các em--nếu Sam đem theo cái cung người Da Đỏ Injun cùng cái gậy dài, ta phải chấp nhận cả hai. Còn ta chọn cái gối êm ái này, nó là của ta.

  Thình lình họ trở nên vội vả, lo âu. Họ phải rời nhanh khỏi nơi này. Nóng lòng đi, chúng ta không còn trì hoãn nữa. Vội vàng chất đống những thứ còn lại trước sân, xong châm lửa. Họ đứng yên, ngắm ngọn lửa rần rật cháy, rồi quần quật như điên cuồng, tống đồ lên xe lái đi trong bụi mù.

    Chiếc xe nặng nề mất dạng nhưng đám bụi vẫn mù mịt đọng trong không khí một lúc lâu...

John E. Steinbeck


ĐHL dịch 15/6/2015 


                                             Source in English

Chapter 9

IN THE LITTLE HOUSES the tenant people sifted their belongings and the belongings of their fathers and of their grandfathers. Picked over their possessions for the journey to the west. The men were ruthless because the past had been spoiled, but the women knew how the past would cry to them in the coming days. The men went into the barns and the sheds.

That plow, that harrow, remember in the war we planted mustard? Remember a fella wanted us to put in that rubber bush they call guayule? Get rich, he said. Bring out those tools—get a few dollars for them. Eighteen dollars for that plow, plus freight—Sears Roebuck.

Harness, carts, seeders, little bundles of hoes. Bring em out. Pile ’em up. Load ’em in the wagon. Take ’em to town. Sell ’em for what you can get. Sell the team and the wagon, too. No more use for anything.

Fifty cents isn’t enough to get for a good plow. That seeder cost thirty-eight dollars. Two dollars isn’t enough. Can’t haul it all back—Well, take it, and a bitterness with it. Take the well pump and the harness. Take halters, collars, hames, and tugs. Take the little glass brow-band jewels, roses red under glass. Got those for the bay gelding. ’Member how he lifted his feet when he trotted?

Junk piled up in a yard. Can’t sell a hand plow any more. Fifty cents for the weight of the metal. Disks and tractors, that’s the stuff now.

Well, take it—all junk—and give me five dollars. You’re not buying only junk, you’re buying junked lives. And more—you’ll see—you’re buying bitterness. Buying a plow to plow your own children under, buying the arms and spirits that might have saved you. Five dollars, not four. I can’t haul ’em back—Well, take ’em for four. But I warn you, you’re buying what will plow your own children under. And you won’t see. You can’t see. Take ’em for four. Now, what’ll you give for the team and wagon? Those fine bays, matched they are, matched in color, matched the way they walk, stride to stride. In the stiff pullstraining hams and buttocks, split-second timed together. And in the morning, the light on them, bay light. They look over the fence sniffing for us, and the stiff ears swivel to hear us, and the black forelocks! I’ve got a girl. She likes to braid the manes and forelocks, puts little red bows on them. Likes to do it. Not any more. I could tell you a funny story about that girl and that off bay. Would make you laugh. Off horse is eight, near is ten, but might of been twin colts the way they work together. See? The teeth. Sound all over. Deep lungs. Feet fair and clean. How much? Ten dollars? For both? And the wagon—Oh, Jesus Christ! I’d shoot ’em for dog feed first. Oh, take ’em! Take ’em quick, mister. You’re buying a little girl plaiting the forelocks, taking off her hair ribbon to make bows, standing back, head cocked, rubbing the soft noses with her cheek. You’re buying years of work, toil in the sun; you’re buying a sorrow that can’t talk. But watch it, mister. There’s a premium goes with this pile of junk and the bay horses—so beautiful—a packet of bitterness to grow in your house and to flower, some day. We could have saved you, but you cut us down, and soon you will be cut down and there’ll be none of us to save you.

And the tenant men came walking back, hands in their pockets, hats pulled down. Some bought a pint and drank it fast to make the impact hard and stunning. But they didn’t laugh and they didn’t dance. They didn’t sing or pick the guitars. They walked back to the farms, hands in pockets and heads down, shoes kicking the red dust up.

Maybe we can start again, in the new rich land—in California, where the fruit grows. We’ll start over.

But you can’t start. Only a baby can start. You and me—why, we’re all that’s been. The anger of a moment, the thousand pictures, that’s us. This land, this red land, is us; and the flood years and the dust years and the drought years are us. We can’t start again. The bitterness we sold to the junk man—he got it all right, but we have it still. And when the owner men told us to go, that’s us; and when the tractor hit the house, that’s us until we’re dead. To California or any place—every one a drum major leading a parade of hurts, marching with our bitterness. And some day—the armies of bitterness will all be going the same way. And they’ll all walk together, and there’ll be a dead terror from it.

The tenant men scuffed home to the farms through the red dust.

When everything that could be sold was sold, stoves and bedsteads, chairs and tables, little corner cupboards, tubs and tanks, still there were piles of possessions; and the women sat among them, turning them over and looking off beyond and back, pictures, square glasses, and here’s a vase.

Now you know well what we can take and what we can’t take. We’ll be camping out—a few pots to cook and wash in, and mattresses and comforts, lantern and buckets, and a piece of canvas. Use that for a tent. This kerosene can. Know what that is? That’s the stove. And clothes—take all the clothes. And—the rifle? Wouldn’t go out naked of a rifle. When shoes and clothes and food, when even hope is gone, we’ll have the rifle. When grampa came—did I tell you?—he had pepper and salt and a rifle. Nothing else. That goes. And a bottle for water. That just about fills us. Right up the sides of the trailer, and the kids can set in the trailer, and granma on a mattress. Tools, a shovel and saw and wrench and pliers. An ax, too. We had that ax forty years. Look how she’s wore down. And ropes, of course. The rest? Leave it-or burn it up.

And the children came.

If Mary takes that doll, that dirty rag doll, I got to take my Injun bow. I got to. An’ this roun’ stick—big as me. I might need this stick. I had this stick so long—a month, or maybe a year. I got to take it. And what’s it like in California?

The women sat among the doomed things, turning them over and looking past them and back. This book. My father had it. He liked a book.

Pilgrim’s Progress. Used to read it. Got his name in it. And his pipe—still smells rank. And this picture—an angel. I looked at that before the fust three come—didn’t seem to do much good. Think we could get this china dog in? Aunt Sadie brought it from the St. Louis Fair. See? Wrote right on it. No, I guess not. Here’s a letter my brother wrote the day before he died. Here’s an old-time hat. These feathers—never got to use them. No, there isn’t room.

How can we live without our lives? How will we know it’s us without our past? No. Leave it. Burn it.

They sat and looked at it and burned it into their memories.

How’ll it be not to know what land’s outside the door? How if you wake up in the night and know—and know the willow tree’s not there? Can you live without the willow tree? Well, no, you can’t. The willow tree is you. The pain on that mattress there—that dreadful pain—that’s you.

And the children—if Sam takes his Injun bow an’ his long roun’ stick, I get to take two things. I choose the fluffy pilla. That’s mine.

Suddenly they were nervous. Got to get out quick now. Can’t wait. We can’t wait. And they piled up the goods in the yards and set fire to them. They stood and watched them burning, and then frantically they loaded up the cars and drove away, drove in the dust. The dust hung in the air for a long time after the loaded cars had passed.

CHUYỆN KỂ VỀ cuốn TỪ ĐIỂN PHÁP VIỆT NĂM XƯA và KÝ ỨC MIÊN MAN VỀ NGOẠI

 

hình TRANG TỪ ĐIỂN PHÁP VIỆT Đào Văn Tập XB 1949 (hình Internet)



Tự điển Pháp Việt phổ thông (Dictionnaire Général Francais Vietnamien) Nhà sách Vĩnh Bảo S. 1949


Đại gia đình bên ngoại tôi tản cư từ Quảng Trị vào đến Đà Nẵng xong vào Bình Tuy theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp 1973, vốn văn hóa mang theo là cuốn từ điển Pháp Văn của soạn giả Đào Văn Tập.

Cuốn Từ Điển này phát hành vào năm 1949. Phía gáy sách còn đề ba chữ lớn VÕ TỰ PHƯƠNG đó là tên của cậu tôi, ghi nhớ một thời đi học trước khi giã từ đời học sinh và biền biệt vào nam.

HÌNH 1959 (?) chụp tại QT: (lúc cậu tôi AET  Võ tự Phương mới ra trường SQ Thủ Đức  (?)về thăm QT hình chụp tại LIDO
6 anh em xuất thân từ Phường Đệ Tứ Thị Xã Quảng Trị: 127 đường Lê Văn Duyệt cũ-
trái sang hàng trên: Võ tự Phương, Võ tự Bé , Võ đình Cư
trái sang hàng dưới: Võ Bình, Võ Ba, Võ Hoa 
nay chỉ còn cậu Võ Bé  86t hình dưới (San Jose Hoa Kỳ)




Cậu Phương tôi vào nam trước là đi Thiếu Sinh Quân (AET) và sau khi ra trường, người cậu đương nhiên đăng vào trường Sĩ quan trừ bị. Cậu tôi sau khi ra trường Thủ Đức lại vào quân chủng Thủy Quân Lục Chiến. Tôi còn nhớ khoảng năm 1959 lúc ra trường Thủ Đức, cậu tôi có ra quê. Mấy người cậu  chụp chung một tấm hình tại Lido Ảnh Quán trên phố năm đó-  các cậu Cư, Bé, Phương, Hoa, Ba, Bình và tấm hình có treo trong nhà ngoại tôi. May thay sau này trong nam vẫn còn lưu lại được một tấm.



Cho đến lúc Cậu lấy vợ trong nam thì Mệ Ngoại, Các cậu cùng cả Dì Liễu, vc cậu Bé tô vào tận Sài Gòn  làm đám cưới tại Nhà Hàng Mỹ Cảnh. Từ ngoài trung vào tận Sài Gòn vào thời đó là cả một quá trình và tốn kém cho ngoại. Lúc này dì Liễu tôi chưa buôn bán lớn như sau năm 1968 mà hoàn cảnh gia đình ngoại lúc đó mới sau 1960 còn nghèo lắm. Các cậu còn đời học sinh, cho đến sau này cậu Ba cậu Bình nối tiếp cậu Phương đi vào Thiếu Sinh quân như anh mình. 

    Cho đến một ngày của cuộc chiến, bên sông Vàm Cỏ đó là năm 1970 cậu Võ Phương tôi hi sinh vì nước. Không ngờ rằng bên kia sông có một đơn vị Biệt Động Quân mà người chỉ huy là người anh trai tức là cậu Võ tự Bé đang đóng quân mà không hay em trai mình đã đền nợ nước...  


cậu Võ tự Bé (ngồi) tháng 7 năm 2022 tại Fremont California những ngày già yếu


Những ngày già cả ở xứ người tức là Hoa Kỳ cậu Bé thường buồn rầu kể lại như trên. Tôi còn nhớ hình ảnh, Đám cậu P. vào năm 1970 sau khi được đưa về QT; quan tài có xe Tiểu Khu QT hộ tống về chỉ viếng ngang cửa ngõ nhà ngoại và đậu ở đó một thời gian ngắn lại vội vàng đưa ngay qua chùa Sắc Tứ để an táng. Hương hồn cậu chỉ viếng ngang cảnh nhà cũ nơi cậu sống một thuở thiếu thời đầy gian nan thiếu thốn của đời học sinh.

 Hơn một tuần lễ sau ngày Cậu hi sinh, Cậu mới về lại quê hương và được an táng tại chùa Sắc Tứ. Tại chùa có mẹ già tu hành đang gửi thân cảnh phật ngoài ra còn có mộ phần của em trai Võ Ba cũng như cháu chắt và người thân khác sau này...

Nhớ làm sao khi nghe tin Cậu tử trận, tôi vội lái xe honda qua ngay chùa Sắc Tứ báo tin và chở Mệ ngoại về nhà. Mệ vừa ngồi sau yên chiếc honda, tôi vừa lái qua lại thành phố QT cùng nghe tiếng khóc rấm rức của Mệ sau lưng; tiếng khóc nho nhỏ thoang thoảng theo làn gió vút 

-Con ...con ơi!  

bà ngoại trong ngày đám tang cậu Võ Ba tôi hi sinh vì nước vào năm 1969

 Ngoại tôi đau xót lắm, do cậu P. là người cậu xa quê hương Quảng Trị từ lúc còn quá trẻ. Cậu là người ra đi về nam sớm nhất trong gia đình và từ ngày đó cậu xa ngoại biền biệt ít khi về QT. Trí nhớ mù mờ của tôi lúc đó tôi chưa lên mười tuổi thì cậu tôi đã ra trường tức khoảng năm 1959. Mười năm sau, vào năm 1969 khi người cậu tên Võ Ba Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 hi sinh tử trận tại Gio Linh cậu P mới ra đưa đám em mình. Đám cậu Ba xong, cậu P  tôi vào lại nam và một năm tức năm 1970 cậu P cũng đền nợ nước.



    Tôi là đứa cháu sinh ra và lớn lên từ bên ngoại nên những kỷ niệm của nhà ngoại tôi đều nằm lòng. Các cậu tôi, sách học xong thường chuyền tay cho nhau. Anh học xong trao cho em. Trong nhà cha mất sớm, các cậu lần lượt theo bước chiến chinh khoác quần áo trận như bao lớp trai thời loạn. Ra đi và tiếp tục hi sinh vì nước...mỗi lần nhìn lại những cuốn sách đầy ắp hình ảnh thân yêu, biết bao kỷ niệm học hành trong nhà ngoại tôi... từ cuốn L’Anglais Vivant cho đến từ điển Anh Văn bỏ túi của Lê Bá Công ...dưới mái tranh nghèo nhà ngoại, các cậu chuyền tay nhau từng cuốn sách cho đến khi bìa gáy nhàu mòn. Tôi nhớ trong nhà ngoại tôi Chỉ có cuốn Từ Điển Đào Văn Tập này là dày và giá trị nhất. 

    Tôi không còn nhớ và giải thích được tại sao lúc chạy giặc 1972 lại đem theo cuốn sách này? Cậu Võ tự Phương vào tận phương nam lập thân, để lại cuốn từ điển Pháp Văn xuất bản từ năm 1949 là cuốn sách mang nhiều kỷ niệm gia đình đã theo bước chân nhà ngoại. Tôi tin rằng cuốn sách đó có thể là theo tôi, đứa cháu ngoại chăm học thích sách vở mà cũng nhờ đó mới có cơ hội vào tận phương nam. Chạy giặc, ngoài vàng bạc ra chẳng ai có công đem theo cuốn Pháp  văn xưa dày và nặng như thế cả?


Đây là hình ảnh kỷ niệm tết 1993, gia đình tôi đang sống dưới mái tranh nghèo thuộc xã Sơn Mỹ, Hàm tân. Do nền đất mối mọt nhiều nên cuốn sách Pháp Văn Đào văn Tập từng theo gia đình từ QT vào nam, sau mấy chục năm lại bị mối bò lên phá hư do chúng đục thủng một số trang sách ở giữa...trên giá sách cũng không có hình cuốn từ điển do tôi trước khi đi định cư tại Mỹ đã tặng cuốn sách cho một bác sĩ dưới Hàm Tân


*

    Cuộc đời nương rẫy suốt mười lăm năm tại đất Hàm Tân Bình Tuy, thỉnh thoảng lúc rảnh tôi thường tham khảo vài từ Pháp. Nhờ nó cho đến nay tôi còn nhớ vài thành ngữ mà người Việt Nam hay dùng nhưng lại phát xuất từ Pháp văn. 

    Ba năm về lại địa phương, chưa lập gia đình, ở với cha mẹ cùng hai đứa em trai, tôi chăm nom sửa nhà, cuốc đất trồng khoai. Tu nhiên năm thì mười họa tôi cũng dỡ cuốn từ điển của người cậu năm xưa để nhớ về một thời học sinh ngoài quê cũ. Nhìn lên cái sạp hẹp, cao cao đan bằng phên tre, chỉ có cuốn từ điển Pháp Việt đó là giá trị nhất. Dưới mái tranh nghèo, cuốn sách được đặt một nơi cao ráo và nhất là tránh được mưa san cùng mối mọt. Một thời sau 1975 học ngoại ngữ là vấn đế ‘quốc cấm’ chứ đâu phải như thời bây giờ. Chuyện kể cho thế hệ sau sẽ không ai tin? nhưng sự thật sau 1975 sách vở Anh văn đều bị đốt hay tịch thu (có thể làm giấy hút thuốc lào) may thay có thể cuốn từ điển dày này tiếng Pháp nên số nó còn tồn tại, và chờ tôi cho đến lúc tù cải tạo về.

     Cạnh nhà ba mạ tôi, có hai vợ chồng già người An Cư, ông mệ Phục là gia đình gần gũi và thân với ba mẹ tôi nhất. Bác Phục gái là cháu nội của Cụ Nguyễn văn Tường vị quan lớn dưới thời nhà Nguyễn. Bác Phục trai là ông già trong thôn, bác rất khó tính nhưng lại thân với ba tôi và nhất là đối với tôi người con trai lớn của gia đình vừa đi tù về. Giọng nói của Bác  rất nhanh, khó ai nghe theo cho kịp. Thế mà lạ bác Phục có lúc lại nói chuyện với tôi, ngày tôi mới tù về.  Con trai lớn của bác là anh Hưng còn đi tù cải tạo ở đâu xa chưa về. Anh là sĩ quan- hải quân trung úy, nghe trong nhà anh kể anh ra trường hải quân đậu thủ khoa. Tôi về với gia đình vào năm 1980 còn anh Hưng khoảng hai hay ba năm sau mới về sum họp với gia đình. Nhưng anh Hưng về thì tính tình thay đổi, ương ương dở dở đi Mỹ diện HO anh không chịu đi do nói đi Mỹ sợ "bị cúp điện"...

    Chuyện bác Phục ông, có một chút gì đó liên quan với cuốn từ điển Pháp Việt tôi kể phần trên. Số là Bác Phục là người trí thức, tuổi già ông chỉ làm bạn với đọc báo hay những cuốn sách xưa tiếng ngoại. Mỗi khi đi ngang nhà bác, tôi vẫn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ ngồi ở căn giữa, đang chăm chú trên cuốn sách hay tờ báo nào đó trên cái bàn gỗ rất thấp.  Có một hôm trời đã xế chiều bác chống gậy đi qua nhà tôi. Bác qua nhà  tôi là chuyện lạ. Bác chỉ ngồi trong nhà hiếm khi đi đâu. Lay hoay quanh nhà hay ra chợ sau vườn con heo con gà…đều một tay bác gái trông coi hết. Tôi cũng ngạc nhiên khi bác hỏi mượn cuốn từ điển Pháp Việt này để tra từ. Tôi thắc mắc trong lòng- ủa sao bác biết tôi có cuốn từ điển này thế. Tôi lật đật lấy cuốn sách trao cho bác. Hình ảnh bác Phục rung rung hàm râu, lật từng trang tại trước cửa nhà tôi. Bác không mượn về do bác không hiểu một từ nào đó khi đang đọc sách…




Tôi nhớ mãi hình ảnh bác Phục gật gù gật gù …


-Đúng ừ ừ…đội mũ rơm đội mũ rơm…


Có thể  bác đã tra nghĩa cái từ khó trong sách Pháp bên nhà là động từ “ĐỘI MŨ RƠM” thì phải. Tôi cũng chẳng để ý trang nào từ nào, bác tra nghĩa xong, mượn cuốn sách vài ba ngày rồi trả. Cả xóm, đào đâu ra cuốn từ điển, cái thời sắn khoai thay gạo, rẫy rừng mù mịt thế kia? Ngày xưa nghe đâu thời Pháp bác là công chức nghành Bưu Điện Đông Dương; đó là lời bác gái nói vậy. Bác chỉ thân với ba tôi. Ba tôi đi đâu xa, ra thăm con cái ngoài Cam Ranh chẳng hạn, qua bác mượn cái mũ nĩ. Thứ mũ nĩ làm tại Đức trong xóm nghèo của chúng tôi vào thời đó làm gì có cái thứ hai?





 Tết Giáp Tý 1984, con gái đầu của hai bác, vợ chồng chị Liên du học Tây Đức từ lâu nay về thăm nhà nơi vùng quê Cam Bình này. Đi đâu thì đi ngày tết anh chị đó cũng qua chụp cho vợ chồng tôi cùng đứa con trai đầu lòng một tấm hình màu làm kỷ niệm. Chúng tôi mừng lắm, một thời hình màu là của hiếm, chỉ có nước ngoài về mới có. Nhưng hình màu cũng phải chờ họ về nước sang ra rồi gửi về lại VN mới được.


    Tôi lại miên man, nay xin kể tiếp...

Lập gia đình xong, sau 1984 có con trai đầu lòng tôi lên xã Sơn Mỹ ở với vợ con cạnh vách tường loang đổ của mái trường quê. Làm một căn nhà tranh giữa lô đất của Trường tôi cũng trịnh trọng đặt cuốn Từ Điển Pháp Việt có tên Võ tự Phương bên gáy sách ở ngăn sách giữa nhà. Tôi quý cuốn Sách đó thật. Nó quả có nhiều từ ngữ phong phú kể cả thành ngữ điển tích, cụ Đào Văn Tập đều giải thích biên soạn rốt ráo. Tôi tâm đắc nhất là phần thành ngữ của cụ Tập biên soạn. Ôi cho đến hôm nay hơn năm mươi năm qua trong đầu tôi vẫn còn nhớ "lỏm bỏm" những thành ngữ mà tôi ưa ý...do nó có cả Hán Văn ...ví dụ như

-A quelque choses malheures avoir bon (họa trung hữu phúc)

-tout les hommes sont freres (tứ hải giai huynh đệ)

-Il n'y a de rose sans epine (vô toàn hạnh)

-L'argent c'est un mauvais maitre et un bon servant (tiền bạc là người chủ xấu mà cũng là người đầy tớ tốt)

-La raison ne pas ce qui regle l'amour (lý trí không thắng được tình yêu)

-Il faut toujours tourner sa langue a sept fois avant de parler (uốn lưỡi bảy lần trước khi nói)

- Toucher a la cord sensibler (gãi đúng chỗ ngứa)

-


 Rồi đến một ngày, quá bận rẫy nương, cuốn sách cứ nằm yên vậy và một tai họa âm thầm đến cho Sách. Mái tranh vách đất là nơi của mối. Bầy mối từ dưới đất đã âm thâm men theo vách lá tiến lên ăn và đục thủng giá sách của tôi. Bầy mối đã tiến sâu vào giữa lòng cuốn từ điển Pháp Việt đục thủng và mất chữ môt số trang.

    Cho đến ngày đi Hoa Kỳ, tháng  năm 1995 tôi trịnh trọng tặng cuốn từ điển này cho vị bác sĩ dưới vùng ba mạ và gia đình tôi ở. Bác sĩ Hà Anh, thời trung học là bạn học với em trai tôi, Đinh trọng Thịnh. Tôi tặng cuốn sách cho BS Hà Anh với lời ân cần rằng có lúc cần tra cứu vài toa thuốc ngoại chữ Pháp và nó là cuốn từ điển kỷ niệm của gia đình tôi, của các cậu tôi và trong đó có tên một người cậu tên Võ tự Phương đã hi sinh vì nước.


    Cho đến năm 2017 khi về lại VN thăm gia đình, hỏi lại cuốn sách kỷ niệm này thì gia đình người bác sĩ này bảo rằng do thay đổi chỗ ở nhiều lần này cuốn sách đó không còn nữa. Thời gian xa cách đã lâu, qua mấy chục năm trời, tôi không trách gì cả. Nghĩ cho cùng,  cuốn sách đó đâu phải là kỷ niệm gì của họ. Chỉ có kỷ niệm của mình thì mình mới quý thôi.


    Cuốn sách, cuốn từ điển xa xưa xuất bản thập niên 1940 thật nhiều kỷ niệm nay đã theo về cát bụi thời gian. Chính soạn giả Đào văn Tập, cuốn từ điển, các cậu thân yêu nay cũng không còn. Họa chăng còn tồn đọng chút gì trong trí nhớ con người xa xứ ra đi nhưng mang theo nhiều hoài niệm. Tôi mường tượng về một cuốn sách dày, bìa cứng màu đỏ tía. Một chút gì đó- mang máng vài thành ngữ Pháp Việt- khi tuổi về chiều nay chỉ là chữ còn, chữ mất mà thôi./.


San Jose  25/7/2022

cháu ngoại ĐHL

EDIT 12.3.2023


CHIM VỀ THĂM LẠI VƯỜN XƯA

 


Chim Về Thăm Lại Vườn Xưa

HÀNG NĂM khi cành mận ngoài cửa sổ căn phòng vợ chồng tôi nhú đầy là non xanh là chú chim nhỏ này lại trở lại. 

Thú thật với bạn đọc tôi muốn dùng mấy chữ "trở lại thăm tôi" vì tôi bắt đầu để ý đến mấy chú chim này hai ba năm này rồi.

Đúng vậy, cũng khung cảnh này, vẫn bầu trời đầu xuân đầy nắng ấm qua những khoảng lá xanh lục của cây plum mười mấy năm qua. Hình ảnh này không bao giờ thay đổi đúng sau tiết lập xuân . Vẫn con chim nhỏ này, cái mỏ tí xíu cứ đánh "lóc cóc " liên hồi vào mặt kiếng. Năm ngoái năm kia cũng thế, hôm nay nó vẫn trung thành trở lại bên khung cửa sổ quen thuộc, gỏ đôi ba tiếng như muốn cho tôi nghe và để ý những gì nó "muốn" !

Một cảm giác thân quen chợt đến trong lòng. Tôi như muốn thốt lên "vào đây, vào đây chơi chim ơi !". Con chim chao cánh qua đậu trên cành mận, chút chi nó lại vụt bay qua gỏ tiếp vào thành kiếng. Tôi lại khám phá ra năm nay nó có đến hai con. Con kia chỉ đậu chờ nó trên cành.

Tôi thấy lạ, không biết chú chim nhỏ muốn gì? Làm sao tôi có thể hiểu được ý của "chim trời cá nước "? Nhưng điều tôi khó hiểu nhất là nó đi đâu, sống đâu, suốt mùa đông lạnh giá vừa qua? Nếu mùa đông nó đi tìm vùng nắng ấm nào đó, chắc nơi đó phải là xa lắm . Nhưng sao nó còn nhớ đến cái cửa sổ và cây mận này mà bay về lại được?

Một, hai tháng nữa, cây mận này lại nặng trỉu trái. Hai con chim này chắc hẳn sẽ bay về lại đây. Trên cành, sẽ có vài con sóc đưa những con mắt đen "thao láo" nhìn vào phòng.

Hai con chim bé nhỏ hôm nay đây đang mang lại niềm vui nhỏ bé cho tôi. Chợt tôi thấy thích thú vói tập quán của chúng dù bay đâu xa hàng năm vào ngày tháng này chúng không quên bay về chốn cũ.

Chim còn thế, huống chi người?

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...