Chúng ta chẳng được chút gì tự hào về chuyến viếng thăm này. Suốt cuộc chiến vừa qua chúng ta chiến đấu vai bên vai với người dân đất nước của ông ta lại khó lòng chấp nhận cho ông vào thăm trong nội địa Hoa kỳ do nỗi e ngại sự chống đối của dân Mỹ. TT Hoa kỳ và ông từng kín đáo gặp nhau lần lượt tại Guam, Hawaii, và tại Midway.
Ông Thiệu chưa bao giờ được phép chính thức đặt chân vào nội địa Hoa kỳ. Chuyến viếng thăm của ông Thiệu vào Hoa kỳ năm 1973 đó là quyết tâm tạo dựng một biểu tượng tốt về mối dây giao hảo trong giai đoạn hòa bình mới đối với sự hi sinh của chúng ta dành cho một miền nam tự do. Ước muốn này gần như hoàn toàn bị trái ngược.
President Nixon escorts Nguyen Van Thieu, President of the Republic of Vietnam, to his car outside the Administrative offices at San Clemente, following a meeting.
Photo taken 04/02/1973
TT Nixon và Phu Nhân Pat Nixon tiếp đãi Phu Nhân Nguyễn Mai Anh và TT Nguyễn văn Thiệu tại Lâu Đài Nixon/ San Clemente vào chuyến công du 4/2/1973 của TT Thiệu nguồn
https://www.npr.org/sections/thetwo-way/2015/04/02/397107395/nixons-western-white-house-up-for-sale
Chấm dứt chiến tranh chưa hẳn làm thôi nguy cơ chống đối của dân Mỹ. Đó là lý do tại sao chúng ta phải tiếp đón nhà lãnh đạo một nước đồng minh tại tòa ‘‘Bạch Ốc tại bờ Tây” tức là San Clemente trong khi hàng chục ngàn sinh mạng người Mỹ cùng đồng minh và hàng trăm ngàn sinh mạng người VN phải hi sinh cho nền tự do của họ?
Những buổi lễ tiếp đón và đưa tiễn phải bị thu hẹp lại cơ ngơi của TT cùng canh gác nghiêm nhặt. Ngay cả buôi tiệc tối quốc gia cũng phải chuyển đổi chỉ là bữa "tiếp tân theo kiểu gia đình".
In April 2, 1973, actress
Jane Fonda joins a group of anti-war demonstrators on a march toward the Western White House to protest the visit of South Vietnam's President Nguyen Van Thieu in San Clemente, Calif.
ASSOCIATED PRES
Read more at http://www.toledoblade.com/Politics/2011/07/16/Jane-Fonda-says-QVC-axedappearance-over-politics.html#CqXBz8rUIYFpkpcT.99
trong thời gian 2 ngày, TT Nguyễn văn Thiệu và TT Richard Nixon họp tại San Clemente, nữ nghệ sĩ Mỹ Jane Fonda- tài tử phản chiến- vẫn không ngớt la hét biểu tình bên ngoài. Hiện nay Jane Fonda nhiều lần hối hận về sai lầm cũ, nhưng nhiều cựu chiến binh Hoa kỳ nói rằng, tuy tha thứ nhưng họ không bao giờ quên hành động phản chiến trên sự hi sinh của hơn 58 ngàn thanh niên Hoa kỳ cho Lý TƯỞNG TỰ DO trong cuộc chiến VN
*** Lý do TT Nixon biện minh do phòng ăn tối chỉ đủ chỗ 'không quá mười hai khách' ? thực ra do vấn đề mời nhiều khách sẽ mang lại mối e ngại sẽ có vài vị khách quá khích chống đối. Để thực hiện lời hứa (mời TT Thiệu qua Mỹ), phó TT Spiro Agnew được chọn làm vai trò chủ nhân tiếp đãi. Tình cảnh buổi tiếp đó ông Agnew tiết lộ chớp nhoáng với tôi qua điện thoại trước khi phi cơ chở ông Thiệu hạ cánh. Agnew phàn nàn rằng chỉ có một nhân vật chính phủ là ông bộ trưởng lao động Peter J. Brennan đi theo để đón ông Thiệu thôi. Chỉ có một ít khách dự bữa tối đó với ông phó tổng thống.
Những nhân vật cao cấp trong nội các thì tìm cớ để ra khỏi thành phố lúc này. Điều này đáng hổ thẹn do những ngày tôi tùng sự tại Hoa thịnh Đốn, có một số nhân vật lãnh đạo của phe Cộng Sản đã được tiếp đón một cách danh dự. Những giới chức cao cấp giành nhau đến dự cho được buổi dạ tiệc nhằm vinh danh những nhân vật trung lập đặc biệt họ từng chỉ trích nặng nề Hoa kỳ chúng ta. Nhưng một tổng thống chung thủy với một nước bạn bè thì chúng ta hững hờ phó mặc. Những kẻ này đã lấy lý do về những khiếm khuyết dân chủ của ông ta làm lý do bào chữa và đẩy đưa cả dân tộc ông về phía kẻ thù của dân chủ. Không có sự kiện thuyền nhân chạy trốn khỏi VN khi ông Thiệu còn tại chức. Rõ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã (gián tiếp) bầu cho ông ta rồi.
Thói thường công luận hay tìm cách đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đích đáng đối với tính bạo tàn và xâm lăng của chế độ CS. Ông Thiệu cố gắng từng bước mở rộng cơ cấu chính quyền – tuy chưa đầy đủ- ngay cả trong vùng CS kiểm soát nơi đó các giới chức của ông dễ thành mục tiêu. Theo phê phán của ông thì chuyện này chưa có lợi lộc nào cả. Theo cảm nhận từ chúng ta, điều có phần chắc miền Nam VN mới chỉ phôi thai tạo dựng một thể chế dân chủ.
Cũng có những phê phán công bình về sự hà khắc cùng tham nhũng. Nhưng, những khi phe đối lập của ông Thiệu trình bày những rắc rối từ nền chính trị đa nguyên tại Sài gòn tới giới báo chí, thì chúng ta chưa ai so sánh với Hà nội cả; một nơi mà đối lập chưa bao giờ được chấp nhận, báo chí bị kiểm soát và sự liên lạc với truyền thông ngoại quốc hoàn toàn bị cấm đoán. Nói gọn đi đòi hỏi này thật khó lòng đáp ứng cho được tình thuận lợi cho cách nhìn kiểu Mỹ đối với ông Thiệu. Kh tôi thăm dò bạn bè Âu châu về chuyến thăm của Ông Thiệu đến Hoa kỳ ngay cả khi kết hợp công du hay cá nhân, có một sự im lặng khó hiểu.
Ông và ngay cả ngoại trưởng của ông cũng chưa bao giờ được tiếp đón tại thủ đô các nước đồng minh ngoại trừ Ba Lê nơi diễn ra hòa đàm - một tiến trình (gián tiếp) giải thể chính phủ ông Thiệu - bước đầu tiên trong việc bỏ rơi- 'diễn khá hay'. Trong lúc đó, bà Nguyễn thị Bình, cái gọi là bộ trưởng ngoại giao cho chính phủ ma : CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG SẢN, chưa hề có khả năng trình ra ngay cả một nơi làm thủ đô thì lại được 'tiếp trọng thể' tại Đông Âu? Thật là một hiện tượng lạ đời, chúng ta cứ tự ru ngủ mình bằng cách cứ thuyết phục những người đứng đắn và chân thiện hướng chuyện phẫn nộ về đạo đức vào cái gọi là bảo thủ. Trong cuộc chiến tại Âu châu có khẩu hiệu ” không có quân thù ở cánh tả ” Vào những năm sau chiến tranh báo chí Tây Phương dãy đầy chuyện vi phạm từ các chế độ như Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Nam Hàn, Hy lạp, Ba tư, Nam VN và một số khác.
Trong khi đó có nhiều nước những cái gọi là “dân chủ nhân dân ” đáng bị kiềm chế đáng phải hối cải về những chuyện tàn ác của họ vẫn tại Đông Âu hay chế độ chuyên chế thiên tả Thế giới Thứ Ba và dĩ nhiên có Cộng sản Bắc Việt. Đừng bao giờ cho rằng các chế độ “tiến bộ” là đầy tớ của nhân dân- các thử thách về lòng trung thành phục vụ dân chúng - bởi vì các chế độ này hoàn toàn là những thể chế toàn trị mà những chế độ bảo thủ thường gặp rối loạn vì họ không có cả lý thuyết lẫn công cụ để đàn áp có hiệu quả. Đừng cho là các thể chế bảo thủ sẽ để yên cho lân bang và có trường hợp sẽ tự phát triển thành các thể chế dân chủ (Tây ban Nha, Hy lạp, Bồ đào Nha) khi quân đội Sô viết áp đặt ý muốn họ lên thế giới lấy danh nghĩa chủ thuyết đại đồng. Chưa hề có ghi nhận nào về sự tiến triển tốt đẹp cho các chế độ chính trị ở Thế giới Thứ Ba vào thời hậu chiến.
Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn còn những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973 và sau này là Vua Shah của Ba Tư cùng trong cùng thập kỷ
Trong một thế giới lý tưởng, những nguyên tắc dân
chủ và nhu cầu về an ninh của chúng ta phải đi đôi với nhau. Nhưng thực tế cho
chúng ta thấy rằng nền dân chủ hiến định thứ mà chúng ta tưởng là “bình thường”,
nhưng trên thực tế chúng ta thấy nó quả hiếm hoi suốt chiều dài lịch sử khắp trên
hành tinh này. Đây không phải là điều ngẫu nhiên. Nền dân chủ hiến định thường
đặt quyền hành vào trong cái nghĩa khá trừu tượng: Tuân Theo Luật Pháp. Nhưng
chủ trương thượng tôn hiến pháp chỉ hoạt động được nếu luật được chúng ta tin
nó phản ánh một chân lý có tính tiêu chuẩn tuyệt đối hay phát triển từ một quy
trình chính trị được mọi người dân chấp nhận. Khắp nơi trên thế giới này và hầu
hết các thời kỳ, các điều kiện như thế không bao giờ thấy hiện hữu. Luật pháp là
phán quyết của giới cầm quyền, không phải là một hệ quả có tính quy trình của lập
pháp; chính trị chỉ là công việc của những người có thẩm quyền ra lệnh. Quyền lực
cá nhân tạo nên từ chấp nhận một khái niệm về nghĩa vụ có qua có lại như trong
thời phong kiến, hoặc do phong tục giới hạn nó, cũng như quyền lực của vua
chúa, họ cai trị về yêu sách về thứ quyền thiêng liêng như trong thế kỷ XVII,
XVIII. Trong mỗi trường hợp, truyền thống là một yếu tố để giới hạn. Có một số
quyền hành lại bất khả thi không phải ai cấm được nó mà chưa có tiền lệ. Chưa
có nhà cai trị nào ở Châu Âu vào thế kỷ 18 đánh thuế thu nhập hoặc bắt thần dân
của họ phải đi nghĩa vụ quân sự. Nói tóm lại, chủ nghĩa độc tài từng bị giới hạn
khá chính xác.
Có điều nghịch lý, chính phủ của toàn dân đã mở rộng
phạm vi của chính phủ. Người dân theo định nghĩa không thể tự mình áp bức mình
do đó các cơ cấu nhân danh người dân phải tuyệt đối, đó là mong muốn của họ. Sự
phát triển quyền lực nhà nước lại đi đôi với sự mở rộng của yêu sách dân túy.
Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa toàn trị hiện đại lại là một bức tranh biếm họa, một
lý tưởng ngụy biện (reductio ad absurdum) thật ngớ ngẩn về dân chủ. Chủ nghĩa
chuyên chế hiện nay chính nó là tàn tích của các uy quyền và chuẩn mực cá nhân
truyền thống. Đó là lý do tại sao có một số chính phủ độc tài có thể phát triển
thành dân chủ trong lúc đó các nhà nước toàn trị lại chưa làm được. Chuẩn mực và
khả năng cá nhân có giới hạn cố hữu của nó nhưng khi một tập thể nhà nước tự
cho rằng họ phản ảnh ý chí toàn dân thì không chấp nhận sự giới hạn cố hữu đó. Từ
nguyên lý này, chính phủ độc tài xem chừng dễ bị lật đổ hơn so với nhà nước
toàn trị.
Khi mối ràng buộc cá nhân về nghĩa vụ hỗ tương bị
phá vỡ, cả người cai trị và người dân đều bị phá bỏ; do họ không có tính hợp
pháp để cai trị trên cơ sở bền vững duy nhất bằng vũ lực. Sau đó, khi các tiêu
chí về phục tùng biến mất, mọi chỉ thị đều có vẻ áp bức. Tình thế tiến thoái lưỡng
nan của chúng ta là ở hầu hết các quốc gia đang phát triển trên hành tinh này,
quyền lực vẫn thuộc về cá nhân. Quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa hợp hiến là
một quá trình phức tạp, nếu bị ép buộc, có nhiều khả năng dẫn đến chủ nghĩa
toàn trị hơn là dân chủ.
Một trong những tiền đề của quá trình dân chủ là kẻ
thua cuộc chấp nhận thất bại của mình và đổi lại được trao cơ hội giành chiến
thắng trong dịp khác. Điều này phụ thuộc vào tính cách ôn hòa. Phát triển như vậy
gần như chắc chắn sẽ bị cản trở tại một nước đang phát triển nếu có một phần tử
độc tài thành công trong việc tổ chức một cuộc chiến tranh du kích. Điều đó buộc
chính phủ phải đàn áp. Lại bắt đầu một vòng luẩn quẩn bó buộc chính quyền lẫn
phe đối lập, phá hủy bất cứ lối thoát ôn hòa nào. Hơn nữa, nạn nhân của tấn
công khủng bố luôn là những quan chức có năng lực và tận tụy nhất, nhường chỗ cho
thành phần tham nhũng, những kẻ có quá trình phạm tội lên thay. Lúc này thành
phần này bắt đầu cố vơ vét bù đắp cho sự nguy hiểm của địa vị mình bằng cách
tích lũy những khoản tham ô to lớn.
Người Mỹ đối với hiện tượng lịch sử trên thường
tin rằng: một chính phủ bị bao vây có thể duy trì tốt nhất bằng thúc đẩy cải
cách dân chủ và mở rộng vấn đề chia sẻ quyền lực. Nhưng nguyên nhân sâu xa của
một cuộc nội chiến (trong đó đặc biệt là
chiến tranh du kích) là sự phá vỡ sự đồng thuận trong dân. THỎA HIỆP là bản
chất của dân chủ nhưng lại là nạn nhân trước tiên. Các cuộc nội chiến hầu như
không có ngoại lệ này, kết thúc bằng chiến thắng hay thất bại, không bao giờ có
chính phủ liên minh như người Mỹ hằng thích. Nhượng bộ được coi là sự yếu kém của
những người nắm giữ quyền lực, chứ không phải từ sự cao thượng. Do đó nội chiến
đẩy nhanh sự phân tán của chính quyền hơn là ngăn chận nó. Thời điểm thích hợp
để cải cách là làm sao phải TRƯỚC KHI các cuộc nội chiến nổ ra, mặc dù điều này
không phải lúc nào cũng hiệu quả khi một cuộc nổi dậy được truyền cảm hứng, tài
trợ, huấn luyện và trang bị từ bên ngoài. Cơ hội hòa giải tiếp theo là SAU chiến
thắng (như ở Mỹ như dự định của Lincoln,
hoặc ở Nigeria sau năm 1970), nhưng những ức chế của phương Tây về vũ lực
và sự kém cỏi của chế độ độc đoán thường kết hợp với nhau để ngăn cản việc thử
nghiệm giả thuyết này. Đối với cái gọi là "giải pháp chính trị" cho
các cuộc nội chiến - công thức thương lượng được quảng cáo nhiều giữa các phe -
thì kinh nghiệm lịch sử cũng đã chứng minh điều đó. Việc các nhóm từng ám sát lẫn
nhau để cùng cai trị là lý do tại sao chúng ta không thể nghĩ đến một cuộc nội
chiến kết thúc với một chính phủ liên minh. Tất cả chỉ là phương tiện tạm thời,
phe nào cũng mong duy trì một nhóm chiến đấu trở lại trong những hoàn cảnh tốt
hơn. Do vậy, phe du kích thường từ chối các cuộc đàm phán chính trị khi họ đang
trên đà chiến thắng cùng khả năng giành thời gian cho một cuộc đối đầu sau này.
Điều trên là lý do tại sao chúng ta thấy áp lực
dai dẳng của Mỹ đối với các cuộc đàm phán chính trị có xu hướng làm mất tinh thần
các chính phủ đồng minh của chúng ta. Khi càng muốn kêu van để khẳng định uy
quyền, lời khuyên của chúng ta là phải giảm nhu cầu đó. Và các chính phủ cứng rắn
và quyết tâm đang bị bao vây dai dẳng bởi nội thù thường tê liệt bởi những lời
khuyên của chúng ta mà họ biết là nguy hiểm nếu không muốn nói là TAI HẠI nhưng
trớ trêu là họ không dám bác bỏ. Đây là số phận của Ô Thiệu, cũng như
sau này của vua Iran Shah Reza Pahlavi
Đất nước ông Thiệu bị tấn công bởi nhiều mặt trận, trước tiên là lực lượng du kích được Hà nội trang bị cùng huấn luyện và tiếp đến là sự xâm lăng ào ạt của lực lượng chính quy từ Bắc VN.
Lê Đức Thọ bắt tay với Henry Kissinger sau Thỏa Hiệp Ba Lê
Tuy thế chính phủ Hoa kỳ vẫn cố gắng gia tăng áp lực thúc đẩy vấn đề tổng tuyển cử và linh động trong thương thuyết phần nào tránh được sự lên án và xoa dịu chỉ trích dai dẳng tại quốc nội.
Như một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông.
Về riêng tư, tuy tôi (Kissinger) dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông do ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi.
10 Feb 1973, Hanoi, North Vietnam --- Hanoi, North Vietnam: The White House released this photo taken during Henry Kissinger's trip to Hanoi. Shown here, Kissinger (third from left), and Pham Van Dong, North Vietnamese prime minister (second from right). View looking down the table with the delegations on either side. --- Image by © Bettmann/CORBIS sau thỏa ước Ba Lê hai tuần sau ngày 10/2/1973 Kissinger bay qua Hà Nội gặp thủ tướng CSVN Phạm văn Đồng bàn thảo tiếp
*
Dù rằng nguyên thủ chúng ta đã tổ chức buổi đón rước ông với sự thiếu vắng từ phía công chúng, phản ứng của ông xem như là chuyện thường tình trên thế giới này.
Tại San Clemente, trong bài diễn văn lịch sự dành cho ông, TT Nixon có ám chỉ đến khả năng tự bảo vệ của miền Nam VN - một ý niệm nghi ngờ khi Hà Nội dốc toàn lực tấn công với vũ khí của Liên xô
Thật lạ như chuyện thần kỳ, tinh thần ông không vội suy sụp ngay khi chúng ta so sánh thực tế miền Nam với Châu Âu sau Thế Chiến Hai chúng ta đã duy trì 300,000 quân Mỹ ở lại tới một phần tư thế kỷ! Sau các nghi thức buổi lễ, hai nhà lãnh đạo tiếp tục nói chuyện riêng với nhau. Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả dã tâm từ phía Hà nội. Nhưng ông đưa ra một một thưc tế trước mắt chúng ta là sự cố tình vi phạm Hiệp Định từ phía Bắc Việt. Về riêng tư, TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra.
TT Nixon còn nhắn nếu có thất bại nào về Hiệp ước Ba lê thì rõ ràng trách nhiệm thuộc về cánh Hà nội. Ông Thiệu chỉ rõ trở ngại chính về sự thành lập Ủy Ban Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc do Thỏa Ước đề ra là do Hà Nội từ chối cuộc tổng tuyển cử do ủy ban này giám sát. “Cuộc tranh đua về chính trị” này đã được một số người Mỹ nhiệt liệt tán thành cùng ủng hộ trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh nhưng sẽ không bao giờ được phía Hà nội thi hành lúc hòa bình. Cuộc tranh đấu bằng bầu cử, loại hình từng bị coi thường ngay trong chính quốc gia của nó nhưng nó không bao giờ gây mất mát cho cả một thế hệ nào. Sang ngày thảo luận thứ hai hai Ông Nixon và Ông Thiệu quan tâm vấn đề viện trợ cho miền Nam VN.
Có một điều chưa thực tế cho lắm đối với các bên liên quan, vì người ta biết rằng sự ủng hộ của Quốc hội chúng ta ngay cả việc giúp đỡ phát triển về kinh tế cho miền nam cũng thu hẹp lại quá mau. CánhTự Do (Liberals-Dân Chủ) thì thấy không còn lợi lộc gì vì họ đã mất dần cam kết giúp cho Miền Nam sống còn, phía Bảo Thủ (CH) lại muốn tin rằng họ phải hoàn thành nhiệm vụ làm sao giúp cho cuộc chiến này chấm dứt trong danh dự. Hai phía đều biểu hiệu sự mệt mỏi của quốc gia.
TT Nixon hứa sẽ xem lời yêu cầu viện trợ của Sài Gòn làm mục tiêu trước mắt. Nhưng chuyện còn tùy thuộc vào ý kiến từ Quốc Hội.

tổng thống Richard Nixon và tổng thống Miền Nam VN NGuyễn văn Thiệu người nở nụ cười rất tươi khi được mời thăm Toà Bạch Ốc Bờ Tây tại San Clemente , California ngày 2/4/1973 . Đi bên trái là đệ nhất Phu Nhân , Nguyễn thị Mai Anh . Hai vị lãnh đạo sẽ có cuộc gặp mặt hai ngày tại đây (AP Photo)
President Richard Nixon and South Vietnamese President Nguyen Van Thieu wear big smiles as Nixon welcomes Thieu to the Western White House in San Clemente, Calif., April 2, 1973. At left is the South Vietnamese president's wife, Nguy?n Th? Mai Anh. The two leaders will hold two days of meetings. (AP Photo)
Ông Thiệu đã nhận được lời hứa trên thông cáo chung chính phủ rằng hai đồng minh sẽ duy trì “TÍNH CẢNH GIÁC” nhằm chống lại “SỰ TÁI TỤC TẤN CÔNG PHÍA CS SAU KHI LỰC LƯỢNG DIỆN ĐỊA HOA KỲ RÚT KHỎI NAM VN” và nữa, “BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO GÂY ĐE DỌA TÍNH ỔN ĐỊNH CHO HIỆP ĐỊNH SẼ NHÂN LẤY PHẢN ỨNG MẠNH MẺ THÍCH ĐÁNG “đây là tuyên bố sau này trứơc công luận từ TT Nixon khi ông quyết tâm thi hành hiệp định. Sự mập mờ chưa dứt khoát về vấn đề viện trợ kinh tế không làm lu mờ lòng hưng phấn của ông Thiệu ngày ông rời San Clemente.
Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California, ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon.
Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ xưa nay ấp ủ. Lòng Trung Thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất. /.
HENRY KISSINGER
book
Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little Brown, 1981. 309-315