Sunday, January 8, 2023

NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN BÊNH HAY CHỐNG

     lời mở đầu

NÊN GỌI NHÀ MÁY ĐIỆN NGUYÊN TỬ HAY NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN

Trước khi vào bài chính, người viết mong muốn nhắc bạn đọc về từ NHÀ MÁY ĐIỆN NGUYÊN TỬ (atomic power plant) trước 1975 VNCH hay dùng và sau này lại có từ NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN (nuclear power plant)

Vậy ta nên dùng từ ngữ nào?

Trước tiên chúng ta nên đi vào vấn đề vũ khí hạt nhân (nuclear weapons) với hai phản ứng fission (phân hạch) và fusion (hợp hạch) 


-Vũ khí Nguyên Tử (atomic weapon) chỉ duy nhất dùng 1 phản ứng fission phân hạch ví dụ hai quả A bomb dội lên thành phố Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 trong Thế Chiến 2

-Vũ khí Hạt Nhân (nuclear weapons) sử dụng một trong 2 phản ứng fission (A Bomb) hoặc fusion (H Bomb) 

như thế nói nuclear bom "bom hạt nhân" có thể hiểu là bom A hay bom H 


Như vậy nếu nhà máy điện hạt nhân hiện nay chỉ dùng duy nhất 1 phản ứng fission từ nguyên liệu Uranium (và các đồng vị khác) thì ta có thể dùng từ NHÀ MÁY ĐIỆN NGUYÊN TỬ (Atomic Power Plant)

 Hiện nay với sự phát triển của khoa học phản ứng fusion (hợp hạch) bắt đầu thành công thì một nhà máy điện hạt nhân có thể dùng một trong hai phản ứng fission hoặc fusion để tạo năng lượng điện.

Thật ra chưa có nhà máy điện hạt nhân nào ứng dụng một trong hai phản ứng fission hoặc fusion nói trên nên từ NHÀ MÁY ĐIỆN NGUYÊN TỬ  thường gọi trước 1975 vẫn đúng.

ĐHL



I- NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐÒI HỎI KHI VẬN HÀNH NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN

 


A- NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN HOẠT ĐỘNG RA SAO?


Có thể khi quý bạn mới nghe hai tiếng "hạt nhân", trong đầu bạn đã hiện ra những hình ảnh trái ngược- có thể là những nhà máy bê tông kiên cố đang tỏa hơi lên mây hay ghê sợ hơn là một thảm họa chiến tranh có đám mây hình nấm bốc cao lên bầu trời...

image









Nói gì thì nói vẫn có một số đông người không ngớt khen ngợi kỹ thuật mới về điện hạt nhân khi họ nhằm vào giá thành hạ, không có khí thải dioxid carbon do chúng ta đã không dùng nhiên liệu hóa thạch. Tuy thế, không ít người lại lo sợ tới những hậu quả xấu  từ những chất thải hạt nhân và cùng các tai nạn phóng xạ phát xuất từ các tai nạn nhà máy điện hạt nhân từng xảy ra trong quá khứ.

image

Vụ Three Mile Island (Hoa kỳ ) và

image
 VỤ NỔ Chernobyl (Liên xô cũ nay là Ukraine).
 Có nhiều điều bàn cãi về vai trò của điện năng nguyên tử ảnh hưởng tới đời sống con người, nhưng dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu một ít về bề trong các nhà máy điện hạt nhân có những gì?
Tính tới tháng 1/2014 thế giới có 436 nhà máy điện hạt nhân , cung cấp tới 12% tổng số điện năng toàn cầu. Trong số 31 nước có nhà máy điện hạt nhân thì có nhiều nước lệ thuộc nhiều vào lượng điện hạt nhân cung cấp thí dụ, nước Pháp 77% lượng điện tiêu thụ do điện hạt nhân cung ứng. Lithuania đứng hạng nhì khoảng 65%. Tại Hoa kỳ, có tới 104 nhà máy điện hạt nhân và chỉ cung ứng được 20% lượng điện toàn nước Mỹ. 

Từ đó tới nay, năm 2022, tốc độ xây dựng nhà máy điện hạt nhân bị chậm lại do có sự phản đối của cộng đồng dân cư và chính sách năng lượng mới trong thế kỷ 21 đang thay đổi quan điểm của giới làm chính sách (policy makers)
Cho đến năm 2022, tổng cộng thế giới chỉ có 422 nhà máy điện hạt nhân trong phạm vi 32 nước cùng 57 nhà máy mới đang xây dựng (wikipedia mở/ 9/1/2023).
 Trung Cộng là quốc gia dùng năng lượng hạt nhân với tổng số điện lực lớn nhất so với thế giới. Tổng công suất điện năng hạt nhân của Trung Cộng là 70 gigawatts (70 tỷ watts- đã gia tăng nhanh chóng từ 2009 là 9 gigawatts tới 2019 là 50 gigawatts và nay 2022 là 70 gigawatts theo statisca.com)

B- URANIUM: NGUYÊN LIỆU HÀNG ĐẦU CHO NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN 
Uranium là nguyên tố thông dụng trên đia cầu chúng ta. Nó hiện hữu từ khi hành tinh chúng ta được thành lập. Uranium 235 (U-235) chỉ có khoảng 0.7% của số còn lại trong tự nhiên 

U-235 có một thuộc tính đặc biệt do nó vừa là nguyên liệu cho cả hai nhà máy điện hạt nhân vừa làm bom hạt nhân

thí dụ (td), 1 pound uranium đã tinh luyện (làm giàu) nó cung cấp một năng lượng đồ sộ tương đương với 1 triệu gallons dầu khí.

Sự bắn phá (splitting) một nhân nguyên tử Uranium phóng thích một nhiệt năng khổng lồ cùng tia phóng xạ gamma tia phóng xạ tạo ra từ quang tử (photons) năng lượng cao. Hai nguyên tử mới do sự bắn phá kể trên lại phóng thích ra tia beta (âm điện tử siêu nhanh) cùng tia gamma của chính nó như vừa nói trên.

U-235 nhiên liệu trong nhà máy điện hạt nhân hoạt động phải cần tinh luyện hay làm giàu (enrichment) tối thiểu phải trên 3% mới hoạt động. Nhưng nếu so với việc sản xuất vũ khí hạt nhân thì nguyên liệu  U-235 phải làm giàu ít nhất 90% mới thực hiện được.

Còn Plutonium thì sao?
U-235 không phải là nguyên liệu duy nhất cho nhà máy điện hạt nhân. Có một nguyên tố khác cho phản ứng phân hạch nữa đó là plutonium 239. 
Pu-239 tạo thành từ sự bắn phá U-238 bằng các trung hòa tử, phản ứng năng gặp trong các lò phản ứng hạt nhân.


                 một lò phản ứng hạt nhân 

C- SƠ ĐỒ BÊN TRONG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN 

 *3 TÌNH HUỐNG CỦA MỘT NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN
người viết tạm đặt:
 * ĐẠT (critical), 
* BẤT ĐẠT (subcritical) 
 *  SIÊU ĐẠT (supercritical)


a- TÌNH TRẠNG ĐẠT,(CRITICAL)

Nếu trung bình chúng ta có đích xác 1 trung hòa tử bằn vào nhân của U 235 khác để gây ra phân hạch, chúng ta nói khối lượng uranium này ổn định. Và khối lượng sẽ tồn tại trong nhiệt độ ổn định.

b- Tình trạng BẤT ĐẠT (SUB-CRITICAL)

Nếu, trung bình ít hơn 1 trung hòa tử tự do sẽ bắn phá vào U 235 kế tục, và khối lượng sẽ bất ổn định. Sau này, phản ứng phân hạch sẽ chấm dứt .

c- Tình trạng SIÊU ĐẠT (SUPER CRITICAL)

Nếu trung bình nhiều hơn 1 từ những trung hòa tử tự do này bắn vào các nguyên tử U 235 khác tức là tình trạng siêu đạt nó sẽ làm lò phản ứng này bị nóng lên hết sức!
Trong thiết kế bom hạt nhân, các kỹ sư rất cần các nguyên liệu SIÊU ĐẠT này ngỏ hầu tất cả các nguyên tố U 235 đều bị bắn phá sạch trong 1 micrsecond (1 phần ngàn giây) . Bạn hãy tưởng tượng các hạt bắp trong túi giấy cùng nổ một lần để tránh tình trạng ghê sợ này.
Tuy thế, trong lò phản ứng của nhà máy điện hạt nhân điều các bạn muốn hay ngay cả thế giới đều mong muốn tất cả các nguyên tử đều bị bắn tung (splitting)  ra MỘT LẦN. Nhưng vùng trung tâm của lò phản ứng lại cần tình trạng siêu đạt nhẹ thôi. Các que nhiên liệu điều phối sẽ tạo điều kiện cho các nhân viên điều khiển cách để hấp thụ bớt các trung hòa tử tự do sao cho tình trạng lò phản ứng chỉ ở vào tình trạng ĐẠT (critical).

Làm thế nào để các kỹ sư có thể duy trì tình trạng ĐẠT của uranium?

Lượng của Uranium trong toàn khối nguyên liệu (tỷ lệ làm giàu) đóng vai trò quan trọng trọng cũng như tạo hình cho khối năng lựong này. Nếu hình dạng là tấm nguyên liệu rất  mỏng, đa số các trung hòa tử tự do sẽ bay mất vào không gian hơn là bắn vào các nguyên tử U 235 khác. Khối cầu là hình dạng tối ưu nếu bạn cần 2 pounds (0.9kg) của U 235 để đi tới tình trạng ĐẠT thì với Pu-239 trình trạng ĐẠT chỉ cần tới 10 ounces (283grams) thôi.


                            D-  QUE NHIÊN LIỆU  (URANIUM ROD)

a- QUE NHIÊN LIỆU URANIUM LÀ GÌ

Bước đầu của nhân viên vận hành phải biết cách thức điều khiển nguồn năng lượng khổng lồ thu được từ nguồn Uranium đã được "làm giàu" (enriched) đun nóng nguồn nước tạo thành nguồn lực do hơi nước.

 CÁC VIÊN NHIÊN LIỆU Uranium đã "làm giàu" phải đúc theo một khuôn mẫu nhất định dài 2.5 centimet, mỗi viên có đường kính bằng đồng 10 xu (dime)= 1.791mm.

Bước kế những viên nhỏ hình trụ này được xếp thành từng thanh dài, và những thanh dài này được bó với nhau thành từng BÓ. Chúng ta tạm gọi đó là QUE NHIÊN LIỆU (Uranium Rod). Những que nhiên liệu này được nhúng vào trong nước đựng trong những nồi áp lực. Tác dụng của nước dùng để làm nguội. Để lò phản ứng hoạt động được những thanh nhiên liệu nói trên phải ở trạng thái SIÊU ĐẠT (SUPER CRITICAL) phần nào.

image
uranium rod : QUE NHIÊN LIỆU URANIUM

b- TRÁNH TÌNH TRẠNG MELTDOWN-  CẦN CÓ QUE ĐIỀU PHỐI (control rod)

Nếu chỉ đơn giản vậy thôi, chúng ta cứ để yên vậy uranium sẽ quá nóng và cuối cùng nóng chảy. Muốn tránh tình trạng quá nóng (meltdown), chúng ta phải có nhiều QUE ĐIỀU PHỐI (control rod hay rod of materials) tạo ra từ những chất liệu có tính hấp thụ các neutron như xenon. Những que đó lại được nhét vào trong các que nhiên liệu cùng với kỹ thuật người ta có thể gia tăng hay giảm hiệu năng hấp thụ của các que điều phối này. Việc tăng- giảm hiệu năng hấp thụ từ các que điều phối này cho phép người điều khiển kiểm soát được tỷ lệ phản ứng hạt nhân trong lò phản ứng

   *Khi nhân viên điều khiển muốn các que nhiên liệu cung ứng tối đa nhiệt năng thì các que điều phối này được rút bớt ra khỏi các que nhiên liệu. Trái lại muốn bớt nhiệt năng thì các thanh điều phối này được thả sâu vào trong các que nhiên liệu nói trên. Cho đến khi các que điều phối ấn sâu hoàn toàn vào các que nhiên liệu thì xem như phản ứng bị đóng lại hoàn toàn dành cho trường hợp tai nạn nhà máy hay khi thay thế nhiên liệu hạt nhân.

 Những que nhiên liệu uranium có tác nhân như là nguồn nhiệt rất lớn cho lò phản ứng. Nó đun nóng nguồn nước tạo thành hơi. Các luồng hơi chạy thẳng vào các tua-bin làm quay động cơ thế là tạo ra điện năng.

Tại các nhà máy điện hạt nhân khác, luồng hơi nước từ lò phản ứng đầu tiên sẽ đi qua bộ phận trung gian hay còn gọi là thứ cấp. Luồng năng lượng này lại làm bốc hơi lò nước thứ cấp luồng hơi thứ cấp này mới đi tới chuyển vận turbine. 

Lợi điểm phương pháp này là chúng ta tránh được nước hay hơi có nhiễm phóng xạ giai đoạn 1 không bao giờ tiếp xúc với turbine. Cũng thế, có vài nhà máy khác chất lỏng làm nguội (coolant fluid) trực tiếp tiếp xúc với các que nhiên liệu nói trên bằng cách thay thế bằng khí (carbon dioxide) hay kim loại lỏng (sodium potassium). Những nhà máy như vậy cho phép các que nhiên liệu hoạt động ở nhiệt độ cao hơn nhiều.

D- BÊN NGOÀI NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN THÌ SAO



Những lớp đúc bê tông kiên cố của NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN nước ĐỨC

Khi bạn hiểu rõ nhà máy chạy bằng nguyên tử năng thì bạn sẽ thấy nó ít khác so với các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá hay dầu cặn, ngoại trừ cái khác lớn nhất là nguồn năng lượng để làm hơi nước. Nhưng chính cái khác này lại phóng thích ra các tia phóng xạ nguy hiểm mà chúng ta cần phải đề phòng.

Những lớp đúc bằng bê tông kiên cố để che chở các nồi áp suất cho lò phản ứng, dùng che chắn các tia phóng xạ. Các lớp vỏ bọc bê tông này lại che chở cho các vại chứa bằng thép to lớn hơn. Các nồi chứa này dùng là nơi trung tâm cho phản ứng nói trên. Cùng lúc đó, các trang bị dụng cụ các nhân viên dùng khi thay thế nhiên liệu hay sửa chữa lò phản ứng. Các bể chứa bằng thép  có tính cách làm rào cản ngăn ngừa các rò rỉ hơi hay chất lỏng có phóng xạ từ nhà máy xì ra.

Vòng ngoài cùng của nhà máy cũng là bê tông, lại che chở cho các vại thép khổng lồ kia. Cấu trúc bê tông khổng lồ này dùng đối phó với các trường hợp các biến cố lớn như động đất hay phi cơ lao vào. Cấu trúc bê tông vòng ngoài cùng này cũng để ngăn ngừa các tia phóng xạ hay các luồng hơi nước có phóng xạ rò rỉ khi nhà máy gặp nạn.Tai nạn nhà máy điện hạt nhân Chernobyl bị rò rỉ phóng xạ cũng do không có xây dựng vòng bê tông thứ cấp này.

Nhân viên điều khiển trong nhà máy có thể điều phối mọi hoạt động nếu có trục trặc xảy ra. Các cơ sở hạt nhân điển hình khác đều có vành đai an ninh cũng như gia tăng nhân viên bảo vệ các chất liệu các vật liệu nhạy cảm .
Mỗi khi bạn hiểu ra vấn đề này rồi, thì nhà máy điện hạt nhân dĩ nhiên lại có kẻ bênh người chống.

II -CÁC LÝ DO BÊNH VÀ CHỐNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN

A- LÝ DO BÊNH VỰC CHO NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN 
    
Dù bạn đang nhìn vào viễn ảnh của nhà máy điện hạt nhân với một tương lai hứa hẹn hay lo lắng cho ngày tận thế không xa, dù phía nào bạn cũng khó thay đổi ý tưởng. Dù sao chăng nữa, sự thật khách quan nhà máy điện đang cho nhân loại nhiều ích lợi cũng như lắm thứ lo ngại.

  1- Hết lệ thuộc vào Nhiên Liệu hóa thạch 

Điều lợi ích nhất đến với chúng ta rằng, nhà máy hạt nhân rõ ràng giúp chúng ta hết lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Nguyên liệu chính là Uranium chứ không còn than và dầu sẽ giúp chúng ta bớt tiêu thụ và lệ thuộc nguồn cung dầu và than trong đà gia tăng tiêu thụ năng lượng toàn cảnh của thế giới hiện tại

2- GIẢM THIỂU TO LỚN NGUỒN DIOXIDE CARBON VÀO KHÍ QUYỂN TRÁNH HÂM NÓNG ĐỊA CẦU 

 Rõ ràng các nhà máy điện chạy bằng than đá và khí đốt thiên nhiên đã thải quá nhiều khí carbonic vào khí quyển làm tăng nhanh sự kiện khí hậu thay đổi. Nhà máy điện hạt nhân ra đời đã giảm thiểu tối đa khí thải CO2.

Theo Viện Năng Lượng Hạt Nhân, năng lượng do toàn thể nhà máy điện hạt nhân toàn thế giới giúp chúng ta tránh đươc 2 tỷ tấn carbon dioxide hàng năm nếu cứ lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch (fossil fuel) Thật ra biết điều hành nhà máy điện hạt nhân tốt chúng ta còn có ít lượng phóng xạ vào bầu trời hơn cả nhà máy điện chạy bằng than đá nữa !

Từ chuyện thoát khỏi sự lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, giá thành từ năng lượng hạt nhân rõ ràng sẽ không còn bị ảnh hưởng từ sự thay đổi giá cả về nguồn dầu và than.

B- LÝ DO CHỐNG ĐỐI 

         1- Ô NHIỄM PHÓNG XẠ 

Đứng về phía chống đối, nhiên liệu hạt nhân dù không có CO2,chúng cũng đem lại cho chúng ta nhiều vấn đề lo ngại. Lịch sử chứng minh, việc khai khoáng các nguồn quặng uranium không phải là việc làm an toàn. Ngay cả việc chuyên chở các nhiên liệu hạt nhân tới hay đi từ các nhà máy cũng gặp  nhiều rũi ro. Và còn nữa, một khi dùng xong các nguồn nhiên liệu phóng xạ này  không thể "thản nhiên " vứt nó vào bãi rác thành phố được. Vì rằng các chất thải này còn chứa các phóng xạ có khả năng chết người.

Trung bình một nhà máy điện hạt nhân hàng năm thải ra 20 tấn chất thải hạt nhân, có tính phóng xạ cao. Nếu  tính toán đàng hoàng với toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân trên toàn thê giới con số chất thải này có khả năng leo lên đến con số 2000 tấn CHẤT THẢI PHÓNG XẠ hàng năm(nguồn: NEI)

Cứ thế các tấn chất thải hạt nhân tiếp tục tỏa nhiệt cùng phóng xạ cho đến khi nó làm thủng các thùng chứa và có khả năng "liếm" vào các sinh vật lân cận. Còn thêm một nỗi lo nữa, những nhà máy điện hạt nhân còn sinh ra một vấn đề lớn khác là là các vật thải có nhiễm xạ mức độ thấp; đó là các dụng cụ và vật liệu bị NHIỄM XẠ.

Chúng cho cho rằng các chất thải đó sẽ theo tiến trình phân rã (decay) tới mức phóng xạ an toàn cho chúng ta chăng nữa thì chúng ta phải mất tới hàng chục ngàn năm chờ đợi! Và ngay cả khi có phóng xạ mức độ cho phép, tạm gọi là an toàn thì chúng ta cần tới hàng thế kỷ để đạt tới mức độ chấp nhận.

Hiện nay kỹ nghệ hạt nhân có dùng phương pháp làm nguội các chất thải hạt nhân vài năm trước khi trộn chúng với thủy tinh và tồn trữ trong môi trường  lạnh và trong các cấu trúc thật kiên cố. Tương lai, rất nhiều chất thải phóng xạ sẽ bị chôn vùi thật sâu trong lòng đất. Tuy nhiên , hiện nay khối lượng chất thải này phải được canh phòng cùng bảo vệ là việc cần yếu để đề phòng quân phá hoại.

Nội các việc đã kể trên rõ ràng giá thành một nhà máy điện hạt nhân tăng lên vùn vụt !?

    2- THẢM NẠN NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN

còn một vấn đề lo ngại khác, mỗi khi vận hành sai hoạt động từ nhà máy điện hạt nhân HAY THIÊN TAI ẬP ĐẾN thì chuyện gì sẽ xảy ra cho con người? rõ ràng là thảm họa. Tai nạn Chernobyl 1986VÀ THẢM HỌA SÓNG THẦN NHÀ MÁY FUKHSHIMA 2011 là CÁC thí dụ điển hình.

   Năm 1986, nhà máy điện hạt nhân tại Ukrainia nổ tung vương vải ra 50 tấn chất liệu có phóng xạ ra bên ngoài làm nhiễm xạ tới hàng triệu mẫu rừng. Thảm nạn này còn bắt buộc ít nhất 30, 000 dân phải di cư, và sau này lần lượt gây nên hàng ngàn cái chết do bệnh ung thư hay các bệnh liên quan đến phóng xạ nguyên tử (nguồn: History Chanel)

image

Tai nạn Chernobyl nguyên do từ cấu trúc SƠ SÀI và điều hành kém. 

Tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân Nhật bản FUKISHIMA 11/3/2011

SÓNG THẦN ĐÁNH VÀO NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN NHẬT 



Tình trạng MELTDOWN do các thanh nhiên liệu Fuel Rod không còn điều phối được đưa đến tình trạng overheat và bùng nổ áp suất, phát tán phóng xạ ra ngoài môi trường xung quanh
  
Đây là lý do tại sao tai nạn meltdown từ nhà máy điên hạt nhân của Nhật ngày 11/3/2011 do trận động đất 8.9 độ Richter, các máy bay trực thăng dùng nước dội lên các lò 1, 2, 3, 4 đang bị hư hại từ meltdown và đang phát xạ ra ngoài với mức độ 4/7]


Trong khi các nhà máy điện hạt nhân cần sự cẩn tắc không ngơi nghỉ của con người để giữ an toàn hoạt động cho các lò máy. Các nhà máy tối tân khác cũng cần sự giám sát thường xuyên để tránh trường hợp nhà máy bị ngưng hoạt động thình lình. Thảm nạn Chernobyl hay các tai nạn nhà máy điện hạt nhân nơi khác từ con người hay thiên tai tạo ra vẫn còn là một vết thương đậm nét của kỹ nghệ điện hạt nhân, còn phủ một màn đen nghi ngại cho môi sinh mà kỹ thuật cao đang cống hiến cho con người./.

ĐHL BIÊN SOẠN VÀ EDIT 
TÁI ĐĂNG 8/1/2023

các nguồn tham khảo chính
1- STATISCA.COM
2- SCIENCEHOWSTUFFWORKS.COM
3- NEI.ORG
4- ENEC.GOV.AE.
5- BBC.COM

https://www.statista.com/statistics/267158/number-of-nuclear-reactors-in-operation-by-country/


http://science.howstuffworks.com/nuclear-power.htm

http://www.enec.gov.ae/learn-about-nuclear-energy/how-does-nuclear-energy-work/
http://www.nei.org/Knowledge-Center/Nuclear-Statistics/World-Statistics
https://www.bbc.com/news/world-asia-56252695
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2478/phat-trien-va-quan-ly-thuy-dien--kien-quyet-dung-cac-cong-trinh-vi-pham.aspx

Saturday, January 7, 2023

50 NĂM THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973 -2023

chào bạn đọc

27-1-1973 ---27/1/2023 đúng nửa thế kỷ ngày ký kết thỏa ước Ba Lê một thỏa ước về nội dung đã đưa VNCH vào vòng 'tử ảnh' của thua thiệt và bị lũng đoạn từ diện địa cho đến nội tình chính trị. 

Hoa Kỳ đã có bảo đảm an ninh từ miền bắc để rút hết quân đội về nước. Nhưng cái hậu quả cuối cùng rằng người đồng minh nhỏ bé VNCH phải chịu thua thiệt về nhiều mặt và cái giá cuối cùng là sự sụp đổ của Sài Gòn 

Nhân kỷ niệm nửa thế kỷ ngày ký Thỏa ươc Paris người viết muốn trích lại bài viết của cố Đại Tướng Cao Văn Viên cựu TTMT QLVNCH nói về thỏa ước này

ĐHL 

*** 


Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại  trường  Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.

- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque ( Vũng Tàu ) năm 1949

- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH

- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK

- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ



ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN NÓI GÌ VỀ THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973

 

THẤT THẾ CỦA VNCH KHI KÝ THỎA THUẬN BA LÊ 27/1/1973 

 

Kissinger và Lê đức Thọ sau khi ký Thỏa Ước Ba Lê


Henry KISSINGER VÀ LÊ ĐỨC THỌ SAU KHI KÝ HIỆP ĐỊNH 27 THÁNG 1, 1973 TẠI BA LÊ


Với tư cách là Tổng Tham Mưu Trưởng tôi phát biểu ý kiến trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Ý kiến của tôi là rất khó kiểm soát vấn đề ngưng bắn; ngưng bắn tại chỗ kiểu “da beo” có nhiều nguy hiểm.  Lối ngưng bắn này không có nơi tụ quân riêng và không có giới tuyến phân biệt đôi bên. Trong tình trạng này, lực lượng địch được quyền đóng quân nơi họ đang có mặt, nhưng dĩ nhiên cộng sản sẽ không đứng yên một nơi. Với bản tính xâm lăng tự tại đã có từ lâu, họ sẽ phân tán ra từng đơn vị nhỏ, xâm nhập vào làng xã và cứ điểm đồn trú của quân ta, và họ sẽ đánh dấu sự hiện diện của họ bằng cách treo cờ cộng sản. Như vậy, Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế không có ý nghĩa vì chúng ta đã có đủ chứng cớ để thấy đây là một tổ chức nằm dưới  ảnh hưởng của cộng sản từ lâu Trong chiến tranh bất quy ước, sự kiểm soát dân và đất rất khó khăn vì không có ranh giới rõ giữa ta và địch—trường hợp ngưng bắn đang đề nghị lại càng khó khăn hơn gấp bội. Lối ngưng bắn kiểu như vậy được dân miền Nam diễu với nhau qua câu: “Trước đây chúng ta vào rừng săn thú dữ. Bây giờ chúng ta phải đem con thú dữ đó về ở chung nhà.” Đó chỉ là một cách nói đùa, nhưng câu nói cho thấy tâm lý của người dân khi phải đối diện với cộng sản.

VNCH biết chắc chắn cộng sản sẽ không thi hành cuộc ngưng bắn tại chỗ. Kinh nghiệm về hành vi của cộng sản sau năm 1954 cho ta biết rõ cộng sản sẽ làm gì trong lần đình chiến này. Thêm vào đó, tài liệu chúng ta tịch thu được từ một chính ủy tỉnh Quảng Tín vào ngày 10 tháng 10, 1972, cho thấy cán bộ các cấp cộng sản đã được chỉ thị học tập văn kiện hiệp định để chuẩn bị hành động. Tài liệu nói trên được tổng thống Thiệu trao cho Kissinger. Đưa cho Kissinger đọc tài liệu, ý tổng thống Thiệu muốn Kissinger thấy khi VNCH nhận được bản sơ thảo của hiệp định vào ngày 18, thì phía cộng sản đã phân phối tài liệu đó xuống đến tất cả cán bộ các cấp để học tập và chuẩn bị phản ứng. Cùng thời gian đó tin tình báo của chúng ta ở Tây Ninh báo cáo cho thẩm quyền quân sự VNCH và Hoa Kỳ biết cộng sản đã có một khóa học tập đặc biệt về bản sơ thảo hiệp định tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam.

            Một vấn đề quân sự quan trọng nhất là sự hiện diện của quân đội cộng sản ở miền Nam. Cán cân quân sự hai bên ngang nhau vào tháng 9 năm 1972. Nhưng khi tất cả quân đội Hoa Kỳ rút đi rồi, nếu cộng sản  vẫn còn quân ở miền Nam, thì cán cân quân sự chắc chắn sẽ nghiêng về phía địch.

            Về phương diện chính trị, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chú ý đến đề nghị thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Lực lượng chính trị thứ ba này đưa đến nhiều tranh luận và nghi vấn. Nếu Hội Đồng này có thể tổ chức một cuộc bầu cử tương lai, thì nền tảng cuả Hội Đồng đó là gì? Nếu Hội Đồng được thành hình, thì chính quyền đang hiện hữu của VNCH sẽ ra sao, và sẽ hoạt động như thế nào? Đó là những điểm cần phải được giải thích—và bằng tiếng Việt. Trong cuộc họp tiếp theo tổng thống Thiệu hỏi Kissinger về những vấn đề đó. Hai mươi bốn giờ sau, Kissinger trao cho VNCH bản hiệp định soạn thảo bằng tiếng Việt.

            Khi phân tích hiệp định sơ thảo bản tiếng Việt, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia biết ra đây là bản văn do cộng sản Bắc Việt soạn chớ không phải bản dịch ra từ bản văn Anh Ngữ. Văn phong  của bản hiệp định chứa đầy ngôn ngữ cộng sản kiểu Bắc Việt. Bản văn có nhiều từ ngữ đặc thù, với ý nghĩa gây nhiều tranh luận. Thí dụ, danh xưng của quân đội Hoa Kỳ dùng đúng, nhưng trong ý nghĩa miệt thị: Quân Mỹ. Phía VNCH nhắc phái đoàn Hoa Kỳ nên yêu cầu sửa lại Quân Đội Hoa Kỳ cho nghe lịch sự hơn. Mọi người dân có trình độ ở miền Nam đồng ý chữ Quân Mỹ không phải là sai trong ngôn từ, nhưng đó là lối gọi bất lịch sự và miệt thị.

            Một vấn đề quan trọng khác, liên hệ đến ý nghĩa của từ ngữ, khi nói đến cơ cấu Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Định nghĩa cơ cấu này, trong bản tiếng Anh viết là “adiministrative structure.” Khi chuyển sang tiếng Việt từ đó trở thành cơ cấu chính quyền—đây là lối chuyển ngữ đầy ẩn ý và nguy hại về sau. Đối với Bắc Việt, mọi cơ cấu chính quyền như Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải có đầy đủ thẩm quyền như một chính phủ. Và với một tập hợp cảu ba lực lượng chính trị, cớ cấu đó không khác gì hơn một chính phủ liên hiệp. Có phải đây là ý định thật sự của hiệp định không? Bản hiệp định bằng tiếng Việt đồng thời nói đến ba quốc gia Việt Nam: Bắc và Nam Việt Nam là hai quốc gia; quốc gia thứ ba ở đâu? Nếu miền Nam có hai quốc gia vậy thì chủ quyền của VNCH phải chia với một lực lượng khác. Đó là những điểm trở ngại quan trọng trong bản sơ thảo hiệp định.

            Sau khi duyệt xét kỹ càng, chính phủ VNCH đưa ra 26 điểm cần được thay đổi trong bản sơ thảo. Trong khi cuộc hội thảo giữa VNCH và Hoa Kỳ đang diễn ra, tòa đại sứ VNCH ở Hoa Thịnh Đốn báo cáo về Sài Gòn là, trong một cuộc phỏng vấn với báo chí ngoại quốc, thủ tướng Phạm văn Đồng tuyên bố hòa đàm ở Ba Lê đang tiến triển với nhiều kết quả tốt đẹp, và chánh phủ lâm thời trong tương lai sẽ là một chánh phủ liên hiệp của ba thành phần. Báo cáo từ Hoa Thịnh Đốn tăng thêm sự hoài nghi về một sự lừa dối: ai đang lừa ai, và ai bị lừa. Đây là một lý do nữa để tổng thống Thiệu chống lại hiệp định mạnh hơn khi VNCH và Hoa Kỳ thảo luận trở lại vào ngày 22 tháng 10. Đêm đó, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một bức thư, trao qua tay Kissinger Lá thư đề cập đến những khiếm khuyết của bản hiệp định, và lý do tại sao VNCH không thể nào chấp nhận bản hiệp định đó.

            Với những phỏng đoán về sự chấp nhận và ký kết bản sơ thảo hiệp định bợ lỡ dở, Kissinger  đánh điện tín cho Lê Đức Thọ, nói là lịch trình ký kết bản hiệp định quá cấp bách để Hoa Kỳ có thể ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 như đã định. Cùng lúc, Kissinger thông báo cho Bắc Việt biết Hoa Kỳ sẽ ngưng mọi oanh tạc từ vĩ tuyến thứ 20 trở lên vào ngày 25 tháng 10.

            Về phần tổng thống Thiệu, ông lên đài truyền thanh và truyền hình thông báo cho toàn quốc biết VNCH không thể chấp nhận một chính phủ liên hiệp. Cùng lúc, Bắc Việt không đứng yên: họ tung quả bom tuyên truyền. Bắc Việt đưa ra công chúng nội dung cả bản hiệp định sơ thảo, lịch trình ký kết hiệp định, và lên án tổng thống Thiệu là người phá hoại hòa bình. Bắc Việt đòi hỏi Hoa Kỳ ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10, 1972 như đã hứa theo lịch trình. Đối diện với những biến chuyển mới, Kissinger mở cuộc họp báo để giải thích nội dung của bản hiệp định. Kissinger tuyên bố “Hòa ình đang ở trong tầm tay,” và chỉ cần họp với Bắc Việt một lần nữa thì hòa đàm Ba Lê sẽ kết thúc.

            Trong tháng 11, nhiều cuộc trao đổi qua lại giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn, nhưng nội dung của bản hiệp định vẫn không thay đổi. Trong tháng 11, qua chương trình quân viện có tên là ENHANCE PLUS, Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH một số lượng quân cụ, chiến cụ quan trọng. Vận tải cơ C-5 Galaxy và vận tải hạm đem đến Việt Nam chiến đấu cơ A-37, F-5, xe tank M-48, vận tải cơ C-130, trực thăng, và đại pháo 175 ly. Cộng thêm số chiến cụ, Hoa Kỳ chuyển lại cho quân đội VNCH tất cả các căn cứ và đồ trang bị ở các nơi đồn trú. Với số quân viện đó, Bộ Tổng Tham Mưu lập thêm các đơn vị pháo binh nặng, phòng không và thiết giáp. Những phi đoàn không quân C-130A và F-5A cũng được thành lập. Tuy nhien một số chiến cụ chưa dùng ngay được. Đây là số chiến cụ dùng để thay thế chiến cụ cũ hay bị hư trong tương lai theo những qui ước trong hiệp định. Chương trình quân viện qui mô và cấp tốc ENHANCE PLUS này có hai mục đích: về quân sự, chương trình gia tăng khả năng và sức mạnh của quân đội ta; về chính trị, Hoa Kỳ muốn chứng tỏ họ là một đồng minh tin tưởng được, để hy vọng chính phủ VNCH dung hòa hơn trong chuyện chấp nhận bản hiệp định.

            Phải đồng ý tổng thống Nixon đã thật sự quan tâm đến những dị biệt trong bản hiệp định do chúng ta đưa ra. Nixon ra lệnh duyệt xét lại các điểm bất đồng ý kiến. Các điểm cần xét lại gồm có:

            Các điểm quan trọng: (a) Vùng Phi Quân Sự phải được coi như biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam, như Hiệp Định Geneva phân định từ trước. (b) Phải có một cuộc rút quân tượng trưng  từ phía Bắc Việt (có thể 25 ngàn quân), và ngược lại VNCH sẽ giảm một số quân tương đương. (c) Cuộc ngưng bắn phải được áp dụng cho toàn thể Đông Dương. (d) Lực lượng quốc tế kiểm soát đình chiến phải mạnh và sẵn sàng làm việc khi hiệp định có hiệu lực.

            Các điểm không quan trọng: (a) Hai bản Anh và Việt ngữ của hiệp định phải được sửa lại để cùng có ý nghĩa như nhau, để ý nghĩa về cơ cấu của Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải QUốc Gia không bị hiểu lầm. (c) Bản hiệp định phải được bốn bên chánh thức ký nhận.



            Ngày 9 tháng 11, 1972, chuẩn tướng Alexander Haig, Jr. đến Sài Gòn. Haig trao cho tổng thống Thiệu một bức thư của tổng thống Nixon, và nhấn mạnh tính chất quan trọng của chương trình quân viện ENHANCE PLUS. Nhưng khi thấy chính phủ VNCH giữ vững lập trường, không chấp nhận hiệp định, tướng Haig cho biết chính phủ Hoa Kỳ có thể ký hiệp định đó đơn độc với Bắc Việt. Vài ngày trước, ngày 5 tháng 11, các quốc gia Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, Nam Dương và Ba Lan đồng ý trên căn bản là họ sẽ dự phần vào Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế.

            Ngày 20 tháng 11, Lê Đức Thọ và Kissinger họp mặt lại. Lê Đức Thọ xuất hiện trước, tuyên bố với báo chí là Bắc Việt nghi ngờ sự thành thật của Hoa Kỳ. Tuy không nói trắng ra, nhưng Lê Đức Thọ muốn nói đến chương trình viện trợ ENHANCE PLUS, và chuyện Hoa Kỳ đã không ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 theo lịch trình đã định. Khi gặp nhau, Kissinger  đưa ra những đòi hỏi của phía VNCH và Hoa Kỳ. Không khí hai ngày thương lượng đầu tiên cởi mở trong sự trao đổi. Nhưng bất ngờ Lê đức Thọ trở nên cứng rắn với những đề nghị từ ngày 23 tháng 11. Lê Đức Thọ gạt hết tất cả đề nghị của Hoa Kỳ và đòi Hoa Kỳ thay chính phủ VNCH. Có lẽ đây là chỉ thị mới từ Hà Nội. Kissinger rất ngạc nhiên về thái độ trở mặt này của Lê Đức Thọ. Kissinger yêu cầu Lê Đức Thọ cho biết lý do, nhưng sự giải thích từ phía bên kia không làm hài lòng lắm. Kissinger nhấn mạnh đến sự thiện chí trong cuộc hòa đàm Hoa Kỳ ngưng oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở lên; nhưng Lê Đức Thọ trả lời là Hòa Kỳ đã đòi hỏi thêm nhiều điều kiện mới. Bị bế tắc, hai bên ngưng nói chuyện với nhau vào ngày 25 tháng 11, nhưng đồng ý gặp lại vào đầu tháng 12. Ngay trong thời điểm này, đặc sứ VNCH Nguyễn Phú Đức đến Hoa Thịnh Đốn  để trao cho tổng thống Nixon một lá thư từ tổng thống Thiệu. Lá thư giải thích vị trí VNCH đối với hiệp định Ba Lê.

            Ngày 4 tháng 12, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại nhau. Lần này thái độ của Thọ giống như lần họp vừa qua; thái độ cởi mở hơn một chút trong những buổi họp sau, nhưng cuộc nói chuyện không có một tiến triển nào. Hai bên bàn cãi trở lại những vấn đề tưởng đã được giải quyết rồi. Ngày 13 tháng 12, Kissinger rời Ba Lê nhưng các phụ tá của ông ở lại để thương lượng những dị biệt với Bắc Việt. Sự bế tắc lần này thật và có điềm không tốt.




            Sau khi họp và duyệt lại những chi tiết của cuộc hòa đàm với Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn, tổng thống Nixon gởi một điện tín cho Hà Nội, thông báo nếu Bắc Việt không trở lai thương nghị một cách nghiêm chỉnh, Hoa Kỳ sẽ dội bom  trở lại trong vòng 72 tiếng. Khi không thấy Bắc Việt trả lời, Hoa Kỳ dội bom trở lại trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Không chịu nổi cuộc dội bom khủng khiếp—Hoa Kỳ dùng cuộc dội bom như muốn nói ý định quyết liệt của mình trong vấn đề thương lượng—Bắc Việt thương lượng trở lại. Theo ý tôi (Cao văn Viên) Bắc Việt đã bị bắt buộc trở lại bàn hội nghị. Hoa Kỳ ngưng cuộc dội bom khủng khiếp đó vào ngày 30 tháng 12 năm 1972.

            Tám ngày sau, ngày 8 tháng 1 năm 1973, Kissinger gặp Lê Đức Thọ. Lần nói chuyện này khả quan hơn. Hai bên duyệt lại bản sơ thảo của hiệp định từng điểm một. Vào ngày 14 tháng 1, Kissinger báo cáo với tổng thống Nixon  về những tiến triển khả quan của cuộc họp. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ ra lệnh tất cả đơn vị Hoa Kỳ ngưng tấn công Bắc Việt.

QUÂN ĐỘI HOA KỲ RỜI VN TẠI SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT CÓ SỰ GIÁM SÁT 4 BÊN


BUỔI LỄ CUỐN CỜ CUỐI CÙNG CỦA QUẨN ĐỘI MỸ THÁNG 3.1973

            Ngày 16 tháng 1, chuẩn tướng Haig đến Sài Gòn. Chính phủ VNCH vẫn còn đòi hỏi sửa đổi một vài quy tắc trong bản hiệp định. Nhưng vào ngày 19 tháng 1, Hoa Kỳ thông báo chính phủ VNCH bản hiệp định định không còn thay đổi được nữa. Bản hiệp định sẽ được thảo duyệt lần cuối vào ngày 23 tháng 1, và bốn bên sẽ chính thức ký vào ngày 27 tháng 1 tại Ba Lê. Hiệp Định sẽ có hiệu lực vào 8 giờ sáng, ngày 28 tháng 1 năm 1973, giờ Sài Gòn. Được biết thêm vào ngày 21 tháng 1, tổng thống Nixon có gởi cho tổng thống Thiệu một lá thư, hăm dọa VNCH là nếu VNCH từ chối hiệp định, Hoa Kỳ sẽ ký một mình, và khi chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ cắt tất cả ngân khoản viện trợ. Nếu VNCH đồng ý ký bản hiệp định thì (1)tổng thống Hoa Kỳ sẽ hết lòng can thiệp với quốc hội Hoa Kỳ để tiếp tục viện trợ cho VNCH và (2) chính phủ Hoa Kỳ hứa sẽ phản ứng quyết liệt trong trường hợp cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định. Sau nhiều  buổi họp với hội đồng an ninh quốc gia và thảo luận  với nhiều nhân vật có tiếng nói ở quốc hội và các cơ quan hành chánh, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một lá thư đồng chấp nhận hiệp định Paris.Trong thư tổng thống Thiệu đề nghị một cuộc họp mặt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau khi hiệp định Paris được ký kết.


 CAO VĂN VIÊN 

NGUỒN 

SÁCH

Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 40-49.

GS NGUYỄN CHÂU- NGÀY XUÂN VÀ NGÀY TẾT BẮT ÐẦU TỪ ÐÂU


                                                                                


Dường như hầu hết thơ văn, ca nhạc... trên khắp năm châu của thế giới đều dành rất nhiều đề tài cho mùa xuân. Văn nhân, thi sĩ Á đông, đặc biệt là Trung Hoa và Việt Nam, cứ mỗi độ xuân về thì hồn thơ lai láng...

Tất cả những gì tốt đẹp, thắm tươi, nồng nàn của cuộc đời đều được hiển hiện bằng mùa xuân: Lòng xuân phơi phới, tình xuân nồng nàn, lượng xuân (1) vân vân.

XUÂN LÀ GÌ?

Thế nhưng Xuân là gì? Xuân là mùa đầu tiên trong năm. Cũng là một trong bốn mùa, sao người ta lại ưu ái mùa Xuân như thế? Vì mùa Xuân đẹp chăng? Mùa Thu đâu có kém gì?

Phải chăng mùa Xuân thường đem lại hạnh phúc cho cuộc đời như người xưa đã ghi nhận:

“Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường!”

(Trời thêm năm, tháng, người thêm tuổi

Xuân đầy vũ trụ, phúc đầy nhà)

Trong thực tế, điều này còn tùy vào tâm tư, tâm trạng và hoàn cảnh của con người ở-đời, bởi vì đã có một số người không chờ đợi mùa Xuân...

“...Tôi có chờ đâu, có đợi đâu?

Mang chi Xuân lại gợi thêm sầu!”

(Chế Lan Viên - Xuân)

“Mùa xuân khó chịu quá đi thôi!

Cảnh đẹp làm em thấy lẻ loi...”

(Xuân Diệu - Ðơn Sơ)

Nhân lúc mọi người rộn rã chuẩn bị đón xuân, tôi muốn tìm hiểu mối tương quan giữa cái Tết truyền thống Á đông với mùa Xuân của vũ trụ để góp phần đáp ứng những băn khoăn, thắc mắc nơi nhiều người.

TƯƠNG QUAN GIỮA TẾT VÀ XUÂN


Trước hết, ta nên hiểu rằng đa số các nước châu Âu và Bắc Mỹ đều ăn tết vào những ngày không phải là mùa Xuân - ngày Chúa Giáng Sinh là ngày Ðông Chí (25 December) là ngày đầu của năm thiên văn (astronomic year), ngày 1st January chưa đến tiết lập xuân. Nhưng truyền thống từ xưa nhiều nước phương Tây, nhất là các dân tộc ở quanh vùng Ðịa Trung Hải, người ta mở hội ăn mừng “ngày tái sinh của mặt trời trên Hoàng Ðạo.”

Theo Thiên văn, Ðông chí là ngày “nhất dương sinh” nhằm vào giữa tháng mười một Âm lịch, tức là tháng Tý, ứng vào quẻ PHỤC (nhất dương), ngày mặt trời trở lại, Dương khí bắt đầu trỗi dậy...

Tết Nguyên Ðán của Việt Nam cũng không trùng với ngày lập xuân (khởi đầu Mùa Xuân) mà chỉ thường nằm trong tiết Lập Xuân. [Khoảng thời gian từ ngày 04 tháng Hai đến18 tháng Hai Dương Lịch/ Năm nay Quý Mão -2023, Tiết Lập Xuân bắt đầu 04/2/2023 - 14 tháng Giêng Quý Mão]

 

Chữ "Nguyên Ðán" chỉ thị:

-Buổi sáng đầu năm

-Buổi sáng đầu tháng

-và thời điềm Sáng đầu ngày.

Người ta còn gọi là ngày Tam Thủy (Ba cái bắt đầu, “thủy” là chỗ khởi đầu).

Lịch sử Trung Hoa ghi nhận có sự thay đổi ngày ăn Tết qua các thời đại:

- Ðời vua Hoàng Ðế (1697 B.C. trước Công Nguyên) dân Trung Hoa ăn tết vào ngày đầu của tháng Tý (tức mồng một tháng 11 âm lịch bây giờ).

- Ðời vua Nghiêu (2356-2255 B.C.), vua Thuấn (2255-2205) lấy tháng đầu năm vào tiết Vũ Thủy (nhằm vào trung tuần tháng February hay hạ tuần tháng Giêng Âm lịch hiện nay).

- Ðến đời nhà Hạ (2205-1766 B.C.) người ta chọn tháng Dần làm tháng đầu năm và ngày Nguyên Ðán là ngày mồng một tháng Giêng Âm lịch.

- Triều đại nhà Chu trở lại theo lịch của đời Hoàng Ðế, lấy tháng Tý tức là tháng 11 Âm lịch làm tháng ăn Tết, đầu năm...

- Rồi nhà Hán quay lại quy định của Nghiêu-Thuấn (2) lấy Tiết Vũ Thủy làm đầu năm...

Do đó, ta thấy rằng: tết Nguyên Ðán hiện nay của Việt Nam và Trung Hoa là theo tục lệ đời nhà Hạ.

Theo Gustave Schlegel trong “Uranographic chinoise” (Chinese Uranography) thì danh từ NGUYÊN ÐÁN đã được ghi trong sách đời Xuân Thu tả truyện, chỉ thị ngày lên ngôi của các vua chúa, mỗi đời vua đều bắt đầu tính từ ngày đó, những ngày thuộc năm cũ không tính!

“Nguyên đán tiên vương chi chính thời dã. Lý đoán ư thủy” (Nguyên đán là thời điểm chính thức của các đấng vua chúa ngày xưa. Ðời vua bắt đầu từ đó).

Tại Việt Nam, triều đình nào cũng có một ban Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem thiên văn, làm lịch và ban hành lịch cho toàn dân. Vào giờ Giao Thừa mỗi năm, toàn dân phải chờ lệnh nghênh Xuân từ kinh đô ban ra mới bắt đầu đốt pháo và cúng lễ Kim Niên, đón mừng năm mới... (trong những năm tháng thực dân Pháp đánh thành Hà Nội, triều vua Tự Ðức, sĩ phu Bắc Hà vẫn thao thức ngóng vọng tin xuân từ kinh đô Huế... và Trần Tế Xương đã xúc động viết:

“Xuân từ trong ấy mới ban ra

Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà...”


TẠI SAO CÓ SỰ LỰA CHỌN NGÀY ÐẦU NĂM KHÁC NHAU?

Trở lại vấn đề nguyên ủy: tại sao có sự chọn lựa ngày đầu năm, đầu xuân? Xuân là gì?

Với trí tuệ của các đời vua Trung Hoa ngày xưa, có lẽ không có sự chọn lựa tình cờ, cái gì xem ra cũng có liên quan đến những khái niệm triết lý về vận hành của vũ trụ trong tương quan với con người, khác với sự độc đoán (free will) của một số vua chúa Tây phương, chọn lịch pháp theo ý riêng của bản thân, theo tình cảm...( 3) vân vân.

CHỌN THÁNG TÝ


Trước hết, tại sao Hoàng Ðế chọn ngày mồng một tháng Tý (tháng 11 Âm lịch) làm ngày Tết?

Theo Hoàng cực Kinh thế (4), một bộ sách lớn của Thiệu Khang Tiết viết về tượng số học trên căn bản Âm Dương Tiêu Tức, thì:

-Tý là thời điểm TRỜI MỞ HỘI, trong Hà đồ và tiên thiên Bát Quái, ta thấy Dương khí khởi tại cung Tý. Số 1 là số của Thiếu Dương, sơ ký của khí dương, thuộc quẻ PHỤC (nhất dương). Gạch liền là Dương.

Hào "sơ cửu" tượng trưng cho sự sinh ra của một sự vật nào đó. Trong toàn quẻ, năm hào Âm-tỉnh chỉ phải đối phó với một hào Dương-động. Tỷ lệ 5/1, nhưng hào Dương lại ở vị trí thấp nhất nên Dương sẽ tăng trưởng với bản lĩnh khí động của nó. Quá trình này gọi là Tức, diễn ra như sau:

-Từ quẻ PHỤC, một hào Dương, ta có:

-Quẻ LÂM, hai hào Dương, rồi

-Quẻ THÁI (*), ba hào Dương.

Như vậy, Dương khí động liên tục (TỨC) để tăng trưởng và khắc chế Âm-khí tĩnh cho đến mức quân bình Âm-Dương trong quẻ THÁI, đây cũng là một giai đoạn THIẾU DƯƠNG, tượng của mùa Xuân, một trong tứ tượng của chu kỳ dịch hóa trong vũ trụ.

Vua Hoàng Ðế chọn tháng Tý làm tháng khởi đầu vì Tý là tháng “Thủy,” chỗ bắt đầu của vòng vũ trụ, Giờ Tý là giờ bắt đầu ngày. -Tý: thời điểm Dương khí bắt đầu nổi dậy sau những tháng ngày cực Âm của mùa Ðông. Lấy tháng Tý làm đầu năm, tức là dựa vào năm thiên văn, thiên về sự khai mở của TRỜI.

Cũng nên biết sách “Hoàng cực kinh thế” cho rằng:

- Trời mở hội ở TÝ

- Ðất hình thành ở SỬU

- Người xuất phát ở DẦN

THÁNG SỬU

Trong truyền thuyết Việt Nam về 12 con Giáp, Tý tượng hình là Chuột là con vật nhỏ bé nhất, so với SỬU tượng hình là trâu, to hơn cả ngàn lần. SỬU là thời điểm đất hình thành nên trâu có duyên nghiệp sâu dày với Ðất! Có thể nói Chuột là điểm cực iểu và trâu là cực đại, chuột nhanh, lẹ, ranh mãnh và “rất thiêng” trong lúc trâu chậm chạp, hiền đức, cần cù...

Vua Nghiêu, vua Thuấn chọn tiết Vũ Thủy để tính tháng đầu năm, có lẽ vì đây là thời đại thịnh trị, nông nghiệp vững vàng bốn phương no ấm nhờ “Phong hòa Vũ thuận.”

Sách Lễ Ký, thiên NGUYỆT LỆNH, mô tả các hiện tượng thiên nhiên trong tiết Vũ Thủy như sau:

Vũ Thủy là mưa rơi vào cuối tháng Giêng Âm lịch:

- Dưới sông Rái cá bắt cá để tế thần (Lại tế ngư)

- Trên không, chim Hồng, chim Nhạn bắt đầu bay về (Hồng nhạn lai)

- Mưa bắt đầu rơi (Thủy vũ thủy)

Tiết này có sao Thiên Ðình phụ tinh của chòm Vierge (Virgo) sự tích ghi rằng: trong “tháng đầu năm vua đem cày lên long xa, dẫn các công khanh, các đại phu, các chư hầu... thân chinh ra cày tại Tịch điền.” Ở nước ta, xưa có lễ “xuống đồng” vua Minh Mạng đã làm chánh tế và cày luống cày đầu năm...

Sau những giọt mưa Xuân trời đất dần dần ấm lại vạn vật chuyển mình, mầm mộng thảo mộc bắt đầu nhú ra nõn nà... loài vật ngủ xuất mùa đông (hibernating animals) bừng tỉnh dậy... Ðó là ý nghĩa của tháng đầu năm đời Nghiêu-Thuấn.

THÁNG DẦN

Nhà Hạ lấy tháng Dần làm “Xuân vương chính nguyệt” có lẽ do quan niệm thiên về Nhân Sinh.

Tháng Dần (Giêng) như đã nói trên, là thời điểm của con người, khi con người sinh ra thì các tấn tuồng vũ trụ mới thực sự khai diễn và có ý nghĩa. Trong Hán tự, chữ Dần  thêm vào bộ thủythành ra chữ Diễn  chỉ thị sự kiện "từ cái này sinh, hóa, chuyển ra cái kia và cứ thế tiếp tục..." (diễn dịch: deduction, inference; diễn biến: evolve, happen, unfold...)

Ngày mồng một tháng Giêng âm lịch là ngày đầu của năm Nhân văn (Human or Civil Year), tháng Dần ứng với quẻ THÁI (Tam Dương) và các cụ xưa vẫn gọi tháng Giêng là “Tam Dương khai thái.”

Chữ Xuân trong Hán tự   (5) gồm có chữ tam, bộ nhân và chữ Nhật (mặt trời, ngày).

Mùa Xuân gồm có 3 tháng:

1/ Dần (Giêng): vạn vật hồi sinh cùng với Dương khí tròn đầy, quân bình với Âm khí-Thái hòa (ba Âm-ba Dương).

2/ Mão (Hai): cửa trời và mặt đất mở rộng cho vạn vật đua nhau sống.

3/ Thìn (Ba): Thìn hàm ý chấn động, phân phát (thêm chữ Vũ phía trên thành chữ Chấn có nghĩa là rung động, sét đánh, là quẻ CHẤN thuộc về phương Ðông.)

Về hàng thiên CAN, Xuân ứng với GIÁP, ẤT

- GIÁP là cái vỏ bao bên ngoài - cái gì trên (hoặc hơn) hết tất cả cái khác gọi là Giáp (Giáp bảng) ở đây có nghĩa là phá vỏ (giáp) mà ra.

- ẤT là cái dấu tạm dừng lại, đây có nghĩa là hãy còn cụp (weak/lower) chưa sung sức để vươn lên.

Giáp là số 1, Ất là số 2. Trong ngày Xuân, hiện tượng thiên nhiên quan trọng nhất là sự vượt lên lòng đất, thoát khỏi vỏ (đâm chồi, nẩy lộc, sinh nở...) có lẽ vì thế mà các bậc minh quân xưa đã cùng triều thần đích thân ra đồng cày đất mỗi người vài ba luống để mở màn cho nhân dân bắt tay vào việc đồng áng, đây cũng là động tác tượng trưng cho sự “tham thiên địa, tán hóa dục” vạch đất cho muôn vật lên.

Về Dịch, trong bát quái, Xuân ứng với quẻ CHẤN là sấm động, là rung chuyển, là rạo rực.

Về màu sắc, Xuân ứng với màu Xanh là màu của cây cỏ vừa chuyển mình tươi mát nõn nà, mơn mởn... (Xuân xanh, thanh Xuân).

Về phương hướng, Xuân ứng với phương Ðông là nơi "Thai Dương" là nơi mặt trời chớm sinh. Gió Xuân thường gọi là Ðông phong.

Về Ðạo, phương Ðông thiên về tâm linh và huyền bí hơn phương Tây. Xuân là thời Thiếu Dương, số 1 (nhất Dương) là số HUYỀN  (huyền nhiệm biến hóa, ẩn hiện...tương đương với chữ ÐẠO của Lão Tử): “Nhứt sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.”(Một sinh Hai, Hai sinh Ba...Ba sinh ra vạn vật...tương tự như "Khởi duyên, trùng trùng duyên khởi"...

Xuân là mùa gần với đạo Huyền vì Dương khí đang vươn lên, đang tăng trưởng nhưng chưa đến chỗ cùng cực của nó, hưng vượng mà chưa đầy... Số 3 là con số gần nhất của số gần nhất của số 1, nên số 3 gần với đạo HUYỀN, gần với sự mềm dẻo sinh động của hạnh phúc; “Sinh giả nhu nhược.”

Về Bệnh lý, theo Kỳ Bá: “Mùa Xuân là mùa Mộc khí bắt đầu làm chủ. Can khí bắt đầu sinh. Can khí cấp, phong khí tật, khí của kinh mạch thường ở sâu (vì mới khởi động ra) còn ít ỏi...”

Trương Chí Thông ghi chú rằng: Ðông phương sinh ra Phong, Phong sinh Mộc, Mộc sinh Can.

Mà “Can tàng huyết, huyết xá hồn”: “Gan” là nơi máu về nghỉ ngơi, là nơi trú ngụ của hồn. Cho nên mùa Xuân thân thể thường được thư thái, máu huyết lưu thông rạo rực nhưng điều hòa. Mùa Xuân thư ở kinh tức là nơi phần nhục của huyết mạch, chỉ nên châm vào khoảng lạc-mạch không nên châm sâu vào kinh. (Nội kinh linh khu).

Về đức hạnh, Xuân ứng với đức NHÂN, người quân tử cho nên mùa Xuân làm cho lòng người bao dung, các vua chúa thường tránh sát phạt, chỉ lo tưởng thưởng và cầu hiền.

Về ngôn ngữ, Xuân mang hình ảnh hớn hở tốt tươi của vạn vật, tuổi trẻ đồng hóa với mùa Xuân; "Còn xuân" có nghĩa là còn sức sống tuổi trẻ trong tình yêu và tình dục; Lý thú, hoạt bát, năng động gọi là Xuân khí; thầy thuốc chữa bệnh giỏi gọi là “Diệu thủ hồi xuân”; đời nhà Ðường gọi rượu là Xuân; Nghi lễ nhà Chu quy định tháng cưới vợ lấy chồng là trọng Xuân (tức tháng Hai Âm Lịch); con gái muốn lấy chồng gọi là hoài Xuân! Tình yêu nồng nhiệt ở những người lứa tuổi từ 45 trở lên gọi là Hồi Xuân...

Trong nhóm bốn linh vật của truyền thống Á đông: Long, Xuân ứng với Rồng.

Mùa Xuân thuộc phương Ðông ứng với chòm sao Thanh Long trong Nhị Thập bát tú, gồm có 4 chòm:

1/ Thanh Long (Ðông) quần tụ bảy nhóm sao: Giác, Cang, Ðê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

2/ Chu Tước (Nam)

3/ Bạch Hổ (Tây)

4/ Huyền Võ (Bắc).

Bảy sao trong chòm Thanh Long tượng trưng: Sừng rồng, cổ rồng, ngực rồng, bụng rồng, tim rồng và đuôi rồng (Vĩ, Cơ).

Như vậy trong những ngày xuân, chòm sao Thanh Long sẽ lần lượt hiện ra lúc hoàng hôn ở phía trời Ðông...

Tóm lại trong cuộc vận hành của vũ trụ, mùa xuân là thời điểm Âm-Dương giao hòa và khai mở: Nắng ấm bắt đầu cùng với gió từ phương Ðông nhẹ nhàng làm tan băng giá, các loài côn trùng bắt đầu giao động, các loài di điểu bắt đầu trở về, hoa đào, hoa mai bắt đầu nở, bắt đầu có sấm chớp, bèo bắt đầu sinh, các mầm, mộng... nhất tề mọc lên... và lòng người cũng rạo rực tình yêu...

“Vui như Tết, đẹp như Xuân!”

Ðó là thiên hạ thường tình trong chu kỳ sinh diệt. Ai cũng mong mùa Xuân vì mùa Ðông quá giá lạnh âm u. Mùa Ðông của vũ trụ và của đời người đều bi thiết như nhau, cho nên ai cũng mong Xuân đến vì lỡ ươm mầm hy vọng ở tương lai.

“Xin đời một đóa hoa bất tử

Xin người những hạt giống dung thông!”

CHÚ THÍCH:

(1) Truyện Kiều 345

“Lượng Xuân dù quyết hẹp hòi

Công đeo đẳng chẳng thiệt thòi lắm ru!”

“Lượng Xuân” do câu “Xuân dục hải làm chi lương”: Tấm lòng rộng như sự nuôi dưỡng bao dung của Xuân.

(2) Là hai vị vua đã tạo nên một thời đại Hoàng Kim của lịch sử Trung Hoa. Trong thời đại này không có người ham danh, hám lợi, cụ thể vua Thuấn đi tìm người kế ngôi, bị Hứa Do từ chối rồi ra suối rửa lỗ tai, Sào Phủ không cho trâu uống nước phía dưới Hứa Do sợ bẩn miệng trâu!

(3) Lịch của Tây phương đã trải qua nhiều thay đổi từ Romulus (mỗi năm chỉ đếm có 10 tháng/30 ngày) đến Numa thêm hai tháng nữa cho ăn khớp với chu kỳ thời tiết. Jules Cesar (708) mỗi năm mới tính 365 ngày/ chia làm 12 tháng như hiện nay... Năm 1582, giáo hoàng Gregoire XIII đã ban hành thêm một cải cách nhỏ cho một chu kỳ 900 năm...

(4) HOÀNG CỰC KINH THẾ là công trình nghiên cứu công phu vĩ đại, tổng hợp trọn vẹn và chính xác môn triết học toán, mô tả bản đồ sinh hóa của vạn vật trong vũ trụ và những quy luật vận hành của trời đất cùng con người theo âm dương biến hóa trong cõi nhân gian. Tác phẩm đồ sộ này giúp chúng ta dự đoán chuẩn xác các biến chuyển thịnh suy của thời cuộc - cùng những được mất bại thành của số phận từng cá nhân, trong biến đổi ảo hóa khôn lường bất tận của tự nhiên trong vũ trụ. Tác giả: Thiệu Khang Tiết là một thiên tài xuất chúng, một vị thầy vĩ đại đã có nhiều công lao nghiên cứu và phát triển dịch học và lý học Trung Hoa.

(5) Về âm hưởng (resounding) chữ Xuân, chữ Dương,

chữ Spring [sprin] thoảng nghe có phần giống nhau.

(*) Quẻ Thái      

Quẻ Thái là quẻ thứ 11 trong Kinh, do quái Càn ở dưới và quái Khôn ở trên hợp thành, tượng trưng cho sự hanh thông tốt đẹp. Các mặt “đối” của sự vật giao hòa với nhau, thống nhất với nhau, luôn là điều kiện không thể thiếu để đạt tới hanh thông. Quẻ Thái chính là quẻ lấy sự tương thông trên dưới, âm dương ứng hợp để thuyết minh cái Lý hanh thông thuận lợi của sự vật

 

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...