Saturday, January 7, 2023

50 NĂM THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973 -2023

chào bạn đọc

27-1-1973 ---27/1/2023 đúng nửa thế kỷ ngày ký kết thỏa ước Ba Lê một thỏa ước về nội dung đã đưa VNCH vào vòng 'tử ảnh' của thua thiệt và bị lũng đoạn từ diện địa cho đến nội tình chính trị. 

Hoa Kỳ đã có bảo đảm an ninh từ miền bắc để rút hết quân đội về nước. Nhưng cái hậu quả cuối cùng rằng người đồng minh nhỏ bé VNCH phải chịu thua thiệt về nhiều mặt và cái giá cuối cùng là sự sụp đổ của Sài Gòn 

Nhân kỷ niệm nửa thế kỷ ngày ký Thỏa ươc Paris người viết muốn trích lại bài viết của cố Đại Tướng Cao Văn Viên cựu TTMT QLVNCH nói về thỏa ước này

ĐHL 

*** 


Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại  trường  Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.

- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque ( Vũng Tàu ) năm 1949

- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH

- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK

- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ



ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN NÓI GÌ VỀ THỎA ƯỚC BA LÊ 27/1/1973

 

THẤT THẾ CỦA VNCH KHI KÝ THỎA THUẬN BA LÊ 27/1/1973 

 

Kissinger và Lê đức Thọ sau khi ký Thỏa Ước Ba Lê


Henry KISSINGER VÀ LÊ ĐỨC THỌ SAU KHI KÝ HIỆP ĐỊNH 27 THÁNG 1, 1973 TẠI BA LÊ


Với tư cách là Tổng Tham Mưu Trưởng tôi phát biểu ý kiến trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Ý kiến của tôi là rất khó kiểm soát vấn đề ngưng bắn; ngưng bắn tại chỗ kiểu “da beo” có nhiều nguy hiểm.  Lối ngưng bắn này không có nơi tụ quân riêng và không có giới tuyến phân biệt đôi bên. Trong tình trạng này, lực lượng địch được quyền đóng quân nơi họ đang có mặt, nhưng dĩ nhiên cộng sản sẽ không đứng yên một nơi. Với bản tính xâm lăng tự tại đã có từ lâu, họ sẽ phân tán ra từng đơn vị nhỏ, xâm nhập vào làng xã và cứ điểm đồn trú của quân ta, và họ sẽ đánh dấu sự hiện diện của họ bằng cách treo cờ cộng sản. Như vậy, Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế không có ý nghĩa vì chúng ta đã có đủ chứng cớ để thấy đây là một tổ chức nằm dưới  ảnh hưởng của cộng sản từ lâu Trong chiến tranh bất quy ước, sự kiểm soát dân và đất rất khó khăn vì không có ranh giới rõ giữa ta và địch—trường hợp ngưng bắn đang đề nghị lại càng khó khăn hơn gấp bội. Lối ngưng bắn kiểu như vậy được dân miền Nam diễu với nhau qua câu: “Trước đây chúng ta vào rừng săn thú dữ. Bây giờ chúng ta phải đem con thú dữ đó về ở chung nhà.” Đó chỉ là một cách nói đùa, nhưng câu nói cho thấy tâm lý của người dân khi phải đối diện với cộng sản.

VNCH biết chắc chắn cộng sản sẽ không thi hành cuộc ngưng bắn tại chỗ. Kinh nghiệm về hành vi của cộng sản sau năm 1954 cho ta biết rõ cộng sản sẽ làm gì trong lần đình chiến này. Thêm vào đó, tài liệu chúng ta tịch thu được từ một chính ủy tỉnh Quảng Tín vào ngày 10 tháng 10, 1972, cho thấy cán bộ các cấp cộng sản đã được chỉ thị học tập văn kiện hiệp định để chuẩn bị hành động. Tài liệu nói trên được tổng thống Thiệu trao cho Kissinger. Đưa cho Kissinger đọc tài liệu, ý tổng thống Thiệu muốn Kissinger thấy khi VNCH nhận được bản sơ thảo của hiệp định vào ngày 18, thì phía cộng sản đã phân phối tài liệu đó xuống đến tất cả cán bộ các cấp để học tập và chuẩn bị phản ứng. Cùng thời gian đó tin tình báo của chúng ta ở Tây Ninh báo cáo cho thẩm quyền quân sự VNCH và Hoa Kỳ biết cộng sản đã có một khóa học tập đặc biệt về bản sơ thảo hiệp định tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam.

            Một vấn đề quân sự quan trọng nhất là sự hiện diện của quân đội cộng sản ở miền Nam. Cán cân quân sự hai bên ngang nhau vào tháng 9 năm 1972. Nhưng khi tất cả quân đội Hoa Kỳ rút đi rồi, nếu cộng sản  vẫn còn quân ở miền Nam, thì cán cân quân sự chắc chắn sẽ nghiêng về phía địch.

            Về phương diện chính trị, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chú ý đến đề nghị thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Lực lượng chính trị thứ ba này đưa đến nhiều tranh luận và nghi vấn. Nếu Hội Đồng này có thể tổ chức một cuộc bầu cử tương lai, thì nền tảng cuả Hội Đồng đó là gì? Nếu Hội Đồng được thành hình, thì chính quyền đang hiện hữu của VNCH sẽ ra sao, và sẽ hoạt động như thế nào? Đó là những điểm cần phải được giải thích—và bằng tiếng Việt. Trong cuộc họp tiếp theo tổng thống Thiệu hỏi Kissinger về những vấn đề đó. Hai mươi bốn giờ sau, Kissinger trao cho VNCH bản hiệp định soạn thảo bằng tiếng Việt.

            Khi phân tích hiệp định sơ thảo bản tiếng Việt, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia biết ra đây là bản văn do cộng sản Bắc Việt soạn chớ không phải bản dịch ra từ bản văn Anh Ngữ. Văn phong  của bản hiệp định chứa đầy ngôn ngữ cộng sản kiểu Bắc Việt. Bản văn có nhiều từ ngữ đặc thù, với ý nghĩa gây nhiều tranh luận. Thí dụ, danh xưng của quân đội Hoa Kỳ dùng đúng, nhưng trong ý nghĩa miệt thị: Quân Mỹ. Phía VNCH nhắc phái đoàn Hoa Kỳ nên yêu cầu sửa lại Quân Đội Hoa Kỳ cho nghe lịch sự hơn. Mọi người dân có trình độ ở miền Nam đồng ý chữ Quân Mỹ không phải là sai trong ngôn từ, nhưng đó là lối gọi bất lịch sự và miệt thị.

            Một vấn đề quan trọng khác, liên hệ đến ý nghĩa của từ ngữ, khi nói đến cơ cấu Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Định nghĩa cơ cấu này, trong bản tiếng Anh viết là “adiministrative structure.” Khi chuyển sang tiếng Việt từ đó trở thành cơ cấu chính quyền—đây là lối chuyển ngữ đầy ẩn ý và nguy hại về sau. Đối với Bắc Việt, mọi cơ cấu chính quyền như Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải có đầy đủ thẩm quyền như một chính phủ. Và với một tập hợp cảu ba lực lượng chính trị, cớ cấu đó không khác gì hơn một chính phủ liên hiệp. Có phải đây là ý định thật sự của hiệp định không? Bản hiệp định bằng tiếng Việt đồng thời nói đến ba quốc gia Việt Nam: Bắc và Nam Việt Nam là hai quốc gia; quốc gia thứ ba ở đâu? Nếu miền Nam có hai quốc gia vậy thì chủ quyền của VNCH phải chia với một lực lượng khác. Đó là những điểm trở ngại quan trọng trong bản sơ thảo hiệp định.

            Sau khi duyệt xét kỹ càng, chính phủ VNCH đưa ra 26 điểm cần được thay đổi trong bản sơ thảo. Trong khi cuộc hội thảo giữa VNCH và Hoa Kỳ đang diễn ra, tòa đại sứ VNCH ở Hoa Thịnh Đốn báo cáo về Sài Gòn là, trong một cuộc phỏng vấn với báo chí ngoại quốc, thủ tướng Phạm văn Đồng tuyên bố hòa đàm ở Ba Lê đang tiến triển với nhiều kết quả tốt đẹp, và chánh phủ lâm thời trong tương lai sẽ là một chánh phủ liên hiệp của ba thành phần. Báo cáo từ Hoa Thịnh Đốn tăng thêm sự hoài nghi về một sự lừa dối: ai đang lừa ai, và ai bị lừa. Đây là một lý do nữa để tổng thống Thiệu chống lại hiệp định mạnh hơn khi VNCH và Hoa Kỳ thảo luận trở lại vào ngày 22 tháng 10. Đêm đó, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một bức thư, trao qua tay Kissinger Lá thư đề cập đến những khiếm khuyết của bản hiệp định, và lý do tại sao VNCH không thể nào chấp nhận bản hiệp định đó.

            Với những phỏng đoán về sự chấp nhận và ký kết bản sơ thảo hiệp định bợ lỡ dở, Kissinger  đánh điện tín cho Lê Đức Thọ, nói là lịch trình ký kết bản hiệp định quá cấp bách để Hoa Kỳ có thể ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 như đã định. Cùng lúc, Kissinger thông báo cho Bắc Việt biết Hoa Kỳ sẽ ngưng mọi oanh tạc từ vĩ tuyến thứ 20 trở lên vào ngày 25 tháng 10.

            Về phần tổng thống Thiệu, ông lên đài truyền thanh và truyền hình thông báo cho toàn quốc biết VNCH không thể chấp nhận một chính phủ liên hiệp. Cùng lúc, Bắc Việt không đứng yên: họ tung quả bom tuyên truyền. Bắc Việt đưa ra công chúng nội dung cả bản hiệp định sơ thảo, lịch trình ký kết hiệp định, và lên án tổng thống Thiệu là người phá hoại hòa bình. Bắc Việt đòi hỏi Hoa Kỳ ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10, 1972 như đã hứa theo lịch trình. Đối diện với những biến chuyển mới, Kissinger mở cuộc họp báo để giải thích nội dung của bản hiệp định. Kissinger tuyên bố “Hòa ình đang ở trong tầm tay,” và chỉ cần họp với Bắc Việt một lần nữa thì hòa đàm Ba Lê sẽ kết thúc.

            Trong tháng 11, nhiều cuộc trao đổi qua lại giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn, nhưng nội dung của bản hiệp định vẫn không thay đổi. Trong tháng 11, qua chương trình quân viện có tên là ENHANCE PLUS, Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH một số lượng quân cụ, chiến cụ quan trọng. Vận tải cơ C-5 Galaxy và vận tải hạm đem đến Việt Nam chiến đấu cơ A-37, F-5, xe tank M-48, vận tải cơ C-130, trực thăng, và đại pháo 175 ly. Cộng thêm số chiến cụ, Hoa Kỳ chuyển lại cho quân đội VNCH tất cả các căn cứ và đồ trang bị ở các nơi đồn trú. Với số quân viện đó, Bộ Tổng Tham Mưu lập thêm các đơn vị pháo binh nặng, phòng không và thiết giáp. Những phi đoàn không quân C-130A và F-5A cũng được thành lập. Tuy nhien một số chiến cụ chưa dùng ngay được. Đây là số chiến cụ dùng để thay thế chiến cụ cũ hay bị hư trong tương lai theo những qui ước trong hiệp định. Chương trình quân viện qui mô và cấp tốc ENHANCE PLUS này có hai mục đích: về quân sự, chương trình gia tăng khả năng và sức mạnh của quân đội ta; về chính trị, Hoa Kỳ muốn chứng tỏ họ là một đồng minh tin tưởng được, để hy vọng chính phủ VNCH dung hòa hơn trong chuyện chấp nhận bản hiệp định.

            Phải đồng ý tổng thống Nixon đã thật sự quan tâm đến những dị biệt trong bản hiệp định do chúng ta đưa ra. Nixon ra lệnh duyệt xét lại các điểm bất đồng ý kiến. Các điểm cần xét lại gồm có:

            Các điểm quan trọng: (a) Vùng Phi Quân Sự phải được coi như biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam, như Hiệp Định Geneva phân định từ trước. (b) Phải có một cuộc rút quân tượng trưng  từ phía Bắc Việt (có thể 25 ngàn quân), và ngược lại VNCH sẽ giảm một số quân tương đương. (c) Cuộc ngưng bắn phải được áp dụng cho toàn thể Đông Dương. (d) Lực lượng quốc tế kiểm soát đình chiến phải mạnh và sẵn sàng làm việc khi hiệp định có hiệu lực.

            Các điểm không quan trọng: (a) Hai bản Anh và Việt ngữ của hiệp định phải được sửa lại để cùng có ý nghĩa như nhau, để ý nghĩa về cơ cấu của Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải QUốc Gia không bị hiểu lầm. (c) Bản hiệp định phải được bốn bên chánh thức ký nhận.



            Ngày 9 tháng 11, 1972, chuẩn tướng Alexander Haig, Jr. đến Sài Gòn. Haig trao cho tổng thống Thiệu một bức thư của tổng thống Nixon, và nhấn mạnh tính chất quan trọng của chương trình quân viện ENHANCE PLUS. Nhưng khi thấy chính phủ VNCH giữ vững lập trường, không chấp nhận hiệp định, tướng Haig cho biết chính phủ Hoa Kỳ có thể ký hiệp định đó đơn độc với Bắc Việt. Vài ngày trước, ngày 5 tháng 11, các quốc gia Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, Nam Dương và Ba Lan đồng ý trên căn bản là họ sẽ dự phần vào Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế.

            Ngày 20 tháng 11, Lê Đức Thọ và Kissinger họp mặt lại. Lê Đức Thọ xuất hiện trước, tuyên bố với báo chí là Bắc Việt nghi ngờ sự thành thật của Hoa Kỳ. Tuy không nói trắng ra, nhưng Lê Đức Thọ muốn nói đến chương trình viện trợ ENHANCE PLUS, và chuyện Hoa Kỳ đã không ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 theo lịch trình đã định. Khi gặp nhau, Kissinger  đưa ra những đòi hỏi của phía VNCH và Hoa Kỳ. Không khí hai ngày thương lượng đầu tiên cởi mở trong sự trao đổi. Nhưng bất ngờ Lê đức Thọ trở nên cứng rắn với những đề nghị từ ngày 23 tháng 11. Lê Đức Thọ gạt hết tất cả đề nghị của Hoa Kỳ và đòi Hoa Kỳ thay chính phủ VNCH. Có lẽ đây là chỉ thị mới từ Hà Nội. Kissinger rất ngạc nhiên về thái độ trở mặt này của Lê Đức Thọ. Kissinger yêu cầu Lê Đức Thọ cho biết lý do, nhưng sự giải thích từ phía bên kia không làm hài lòng lắm. Kissinger nhấn mạnh đến sự thiện chí trong cuộc hòa đàm Hoa Kỳ ngưng oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở lên; nhưng Lê Đức Thọ trả lời là Hòa Kỳ đã đòi hỏi thêm nhiều điều kiện mới. Bị bế tắc, hai bên ngưng nói chuyện với nhau vào ngày 25 tháng 11, nhưng đồng ý gặp lại vào đầu tháng 12. Ngay trong thời điểm này, đặc sứ VNCH Nguyễn Phú Đức đến Hoa Thịnh Đốn  để trao cho tổng thống Nixon một lá thư từ tổng thống Thiệu. Lá thư giải thích vị trí VNCH đối với hiệp định Ba Lê.

            Ngày 4 tháng 12, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại nhau. Lần này thái độ của Thọ giống như lần họp vừa qua; thái độ cởi mở hơn một chút trong những buổi họp sau, nhưng cuộc nói chuyện không có một tiến triển nào. Hai bên bàn cãi trở lại những vấn đề tưởng đã được giải quyết rồi. Ngày 13 tháng 12, Kissinger rời Ba Lê nhưng các phụ tá của ông ở lại để thương lượng những dị biệt với Bắc Việt. Sự bế tắc lần này thật và có điềm không tốt.




            Sau khi họp và duyệt lại những chi tiết của cuộc hòa đàm với Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn, tổng thống Nixon gởi một điện tín cho Hà Nội, thông báo nếu Bắc Việt không trở lai thương nghị một cách nghiêm chỉnh, Hoa Kỳ sẽ dội bom  trở lại trong vòng 72 tiếng. Khi không thấy Bắc Việt trả lời, Hoa Kỳ dội bom trở lại trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Không chịu nổi cuộc dội bom khủng khiếp—Hoa Kỳ dùng cuộc dội bom như muốn nói ý định quyết liệt của mình trong vấn đề thương lượng—Bắc Việt thương lượng trở lại. Theo ý tôi (Cao văn Viên) Bắc Việt đã bị bắt buộc trở lại bàn hội nghị. Hoa Kỳ ngưng cuộc dội bom khủng khiếp đó vào ngày 30 tháng 12 năm 1972.

            Tám ngày sau, ngày 8 tháng 1 năm 1973, Kissinger gặp Lê Đức Thọ. Lần nói chuyện này khả quan hơn. Hai bên duyệt lại bản sơ thảo của hiệp định từng điểm một. Vào ngày 14 tháng 1, Kissinger báo cáo với tổng thống Nixon  về những tiến triển khả quan của cuộc họp. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ ra lệnh tất cả đơn vị Hoa Kỳ ngưng tấn công Bắc Việt.

QUÂN ĐỘI HOA KỲ RỜI VN TẠI SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT CÓ SỰ GIÁM SÁT 4 BÊN


BUỔI LỄ CUỐN CỜ CUỐI CÙNG CỦA QUẨN ĐỘI MỸ THÁNG 3.1973

            Ngày 16 tháng 1, chuẩn tướng Haig đến Sài Gòn. Chính phủ VNCH vẫn còn đòi hỏi sửa đổi một vài quy tắc trong bản hiệp định. Nhưng vào ngày 19 tháng 1, Hoa Kỳ thông báo chính phủ VNCH bản hiệp định định không còn thay đổi được nữa. Bản hiệp định sẽ được thảo duyệt lần cuối vào ngày 23 tháng 1, và bốn bên sẽ chính thức ký vào ngày 27 tháng 1 tại Ba Lê. Hiệp Định sẽ có hiệu lực vào 8 giờ sáng, ngày 28 tháng 1 năm 1973, giờ Sài Gòn. Được biết thêm vào ngày 21 tháng 1, tổng thống Nixon có gởi cho tổng thống Thiệu một lá thư, hăm dọa VNCH là nếu VNCH từ chối hiệp định, Hoa Kỳ sẽ ký một mình, và khi chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ cắt tất cả ngân khoản viện trợ. Nếu VNCH đồng ý ký bản hiệp định thì (1)tổng thống Hoa Kỳ sẽ hết lòng can thiệp với quốc hội Hoa Kỳ để tiếp tục viện trợ cho VNCH và (2) chính phủ Hoa Kỳ hứa sẽ phản ứng quyết liệt trong trường hợp cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định. Sau nhiều  buổi họp với hội đồng an ninh quốc gia và thảo luận  với nhiều nhân vật có tiếng nói ở quốc hội và các cơ quan hành chánh, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một lá thư đồng chấp nhận hiệp định Paris.Trong thư tổng thống Thiệu đề nghị một cuộc họp mặt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau khi hiệp định Paris được ký kết.


 CAO VĂN VIÊN 

NGUỒN 

SÁCH

Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 40-49.

GS NGUYỄN CHÂU- NGÀY XUÂN VÀ NGÀY TẾT BẮT ÐẦU TỪ ÐÂU


                                                                                


Dường như hầu hết thơ văn, ca nhạc... trên khắp năm châu của thế giới đều dành rất nhiều đề tài cho mùa xuân. Văn nhân, thi sĩ Á đông, đặc biệt là Trung Hoa và Việt Nam, cứ mỗi độ xuân về thì hồn thơ lai láng...

Tất cả những gì tốt đẹp, thắm tươi, nồng nàn của cuộc đời đều được hiển hiện bằng mùa xuân: Lòng xuân phơi phới, tình xuân nồng nàn, lượng xuân (1) vân vân.

XUÂN LÀ GÌ?

Thế nhưng Xuân là gì? Xuân là mùa đầu tiên trong năm. Cũng là một trong bốn mùa, sao người ta lại ưu ái mùa Xuân như thế? Vì mùa Xuân đẹp chăng? Mùa Thu đâu có kém gì?

Phải chăng mùa Xuân thường đem lại hạnh phúc cho cuộc đời như người xưa đã ghi nhận:

“Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường!”

(Trời thêm năm, tháng, người thêm tuổi

Xuân đầy vũ trụ, phúc đầy nhà)

Trong thực tế, điều này còn tùy vào tâm tư, tâm trạng và hoàn cảnh của con người ở-đời, bởi vì đã có một số người không chờ đợi mùa Xuân...

“...Tôi có chờ đâu, có đợi đâu?

Mang chi Xuân lại gợi thêm sầu!”

(Chế Lan Viên - Xuân)

“Mùa xuân khó chịu quá đi thôi!

Cảnh đẹp làm em thấy lẻ loi...”

(Xuân Diệu - Ðơn Sơ)

Nhân lúc mọi người rộn rã chuẩn bị đón xuân, tôi muốn tìm hiểu mối tương quan giữa cái Tết truyền thống Á đông với mùa Xuân của vũ trụ để góp phần đáp ứng những băn khoăn, thắc mắc nơi nhiều người.

TƯƠNG QUAN GIỮA TẾT VÀ XUÂN


Trước hết, ta nên hiểu rằng đa số các nước châu Âu và Bắc Mỹ đều ăn tết vào những ngày không phải là mùa Xuân - ngày Chúa Giáng Sinh là ngày Ðông Chí (25 December) là ngày đầu của năm thiên văn (astronomic year), ngày 1st January chưa đến tiết lập xuân. Nhưng truyền thống từ xưa nhiều nước phương Tây, nhất là các dân tộc ở quanh vùng Ðịa Trung Hải, người ta mở hội ăn mừng “ngày tái sinh của mặt trời trên Hoàng Ðạo.”

Theo Thiên văn, Ðông chí là ngày “nhất dương sinh” nhằm vào giữa tháng mười một Âm lịch, tức là tháng Tý, ứng vào quẻ PHỤC (nhất dương), ngày mặt trời trở lại, Dương khí bắt đầu trỗi dậy...

Tết Nguyên Ðán của Việt Nam cũng không trùng với ngày lập xuân (khởi đầu Mùa Xuân) mà chỉ thường nằm trong tiết Lập Xuân. [Khoảng thời gian từ ngày 04 tháng Hai đến18 tháng Hai Dương Lịch/ Năm nay Quý Mão -2023, Tiết Lập Xuân bắt đầu 04/2/2023 - 14 tháng Giêng Quý Mão]

 

Chữ "Nguyên Ðán" chỉ thị:

-Buổi sáng đầu năm

-Buổi sáng đầu tháng

-và thời điềm Sáng đầu ngày.

Người ta còn gọi là ngày Tam Thủy (Ba cái bắt đầu, “thủy” là chỗ khởi đầu).

Lịch sử Trung Hoa ghi nhận có sự thay đổi ngày ăn Tết qua các thời đại:

- Ðời vua Hoàng Ðế (1697 B.C. trước Công Nguyên) dân Trung Hoa ăn tết vào ngày đầu của tháng Tý (tức mồng một tháng 11 âm lịch bây giờ).

- Ðời vua Nghiêu (2356-2255 B.C.), vua Thuấn (2255-2205) lấy tháng đầu năm vào tiết Vũ Thủy (nhằm vào trung tuần tháng February hay hạ tuần tháng Giêng Âm lịch hiện nay).

- Ðến đời nhà Hạ (2205-1766 B.C.) người ta chọn tháng Dần làm tháng đầu năm và ngày Nguyên Ðán là ngày mồng một tháng Giêng Âm lịch.

- Triều đại nhà Chu trở lại theo lịch của đời Hoàng Ðế, lấy tháng Tý tức là tháng 11 Âm lịch làm tháng ăn Tết, đầu năm...

- Rồi nhà Hán quay lại quy định của Nghiêu-Thuấn (2) lấy Tiết Vũ Thủy làm đầu năm...

Do đó, ta thấy rằng: tết Nguyên Ðán hiện nay của Việt Nam và Trung Hoa là theo tục lệ đời nhà Hạ.

Theo Gustave Schlegel trong “Uranographic chinoise” (Chinese Uranography) thì danh từ NGUYÊN ÐÁN đã được ghi trong sách đời Xuân Thu tả truyện, chỉ thị ngày lên ngôi của các vua chúa, mỗi đời vua đều bắt đầu tính từ ngày đó, những ngày thuộc năm cũ không tính!

“Nguyên đán tiên vương chi chính thời dã. Lý đoán ư thủy” (Nguyên đán là thời điểm chính thức của các đấng vua chúa ngày xưa. Ðời vua bắt đầu từ đó).

Tại Việt Nam, triều đình nào cũng có một ban Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem thiên văn, làm lịch và ban hành lịch cho toàn dân. Vào giờ Giao Thừa mỗi năm, toàn dân phải chờ lệnh nghênh Xuân từ kinh đô ban ra mới bắt đầu đốt pháo và cúng lễ Kim Niên, đón mừng năm mới... (trong những năm tháng thực dân Pháp đánh thành Hà Nội, triều vua Tự Ðức, sĩ phu Bắc Hà vẫn thao thức ngóng vọng tin xuân từ kinh đô Huế... và Trần Tế Xương đã xúc động viết:

“Xuân từ trong ấy mới ban ra

Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà...”


TẠI SAO CÓ SỰ LỰA CHỌN NGÀY ÐẦU NĂM KHÁC NHAU?

Trở lại vấn đề nguyên ủy: tại sao có sự chọn lựa ngày đầu năm, đầu xuân? Xuân là gì?

Với trí tuệ của các đời vua Trung Hoa ngày xưa, có lẽ không có sự chọn lựa tình cờ, cái gì xem ra cũng có liên quan đến những khái niệm triết lý về vận hành của vũ trụ trong tương quan với con người, khác với sự độc đoán (free will) của một số vua chúa Tây phương, chọn lịch pháp theo ý riêng của bản thân, theo tình cảm...( 3) vân vân.

CHỌN THÁNG TÝ


Trước hết, tại sao Hoàng Ðế chọn ngày mồng một tháng Tý (tháng 11 Âm lịch) làm ngày Tết?

Theo Hoàng cực Kinh thế (4), một bộ sách lớn của Thiệu Khang Tiết viết về tượng số học trên căn bản Âm Dương Tiêu Tức, thì:

-Tý là thời điểm TRỜI MỞ HỘI, trong Hà đồ và tiên thiên Bát Quái, ta thấy Dương khí khởi tại cung Tý. Số 1 là số của Thiếu Dương, sơ ký của khí dương, thuộc quẻ PHỤC (nhất dương). Gạch liền là Dương.

Hào "sơ cửu" tượng trưng cho sự sinh ra của một sự vật nào đó. Trong toàn quẻ, năm hào Âm-tỉnh chỉ phải đối phó với một hào Dương-động. Tỷ lệ 5/1, nhưng hào Dương lại ở vị trí thấp nhất nên Dương sẽ tăng trưởng với bản lĩnh khí động của nó. Quá trình này gọi là Tức, diễn ra như sau:

-Từ quẻ PHỤC, một hào Dương, ta có:

-Quẻ LÂM, hai hào Dương, rồi

-Quẻ THÁI (*), ba hào Dương.

Như vậy, Dương khí động liên tục (TỨC) để tăng trưởng và khắc chế Âm-khí tĩnh cho đến mức quân bình Âm-Dương trong quẻ THÁI, đây cũng là một giai đoạn THIẾU DƯƠNG, tượng của mùa Xuân, một trong tứ tượng của chu kỳ dịch hóa trong vũ trụ.

Vua Hoàng Ðế chọn tháng Tý làm tháng khởi đầu vì Tý là tháng “Thủy,” chỗ bắt đầu của vòng vũ trụ, Giờ Tý là giờ bắt đầu ngày. -Tý: thời điểm Dương khí bắt đầu nổi dậy sau những tháng ngày cực Âm của mùa Ðông. Lấy tháng Tý làm đầu năm, tức là dựa vào năm thiên văn, thiên về sự khai mở của TRỜI.

Cũng nên biết sách “Hoàng cực kinh thế” cho rằng:

- Trời mở hội ở TÝ

- Ðất hình thành ở SỬU

- Người xuất phát ở DẦN

THÁNG SỬU

Trong truyền thuyết Việt Nam về 12 con Giáp, Tý tượng hình là Chuột là con vật nhỏ bé nhất, so với SỬU tượng hình là trâu, to hơn cả ngàn lần. SỬU là thời điểm đất hình thành nên trâu có duyên nghiệp sâu dày với Ðất! Có thể nói Chuột là điểm cực iểu và trâu là cực đại, chuột nhanh, lẹ, ranh mãnh và “rất thiêng” trong lúc trâu chậm chạp, hiền đức, cần cù...

Vua Nghiêu, vua Thuấn chọn tiết Vũ Thủy để tính tháng đầu năm, có lẽ vì đây là thời đại thịnh trị, nông nghiệp vững vàng bốn phương no ấm nhờ “Phong hòa Vũ thuận.”

Sách Lễ Ký, thiên NGUYỆT LỆNH, mô tả các hiện tượng thiên nhiên trong tiết Vũ Thủy như sau:

Vũ Thủy là mưa rơi vào cuối tháng Giêng Âm lịch:

- Dưới sông Rái cá bắt cá để tế thần (Lại tế ngư)

- Trên không, chim Hồng, chim Nhạn bắt đầu bay về (Hồng nhạn lai)

- Mưa bắt đầu rơi (Thủy vũ thủy)

Tiết này có sao Thiên Ðình phụ tinh của chòm Vierge (Virgo) sự tích ghi rằng: trong “tháng đầu năm vua đem cày lên long xa, dẫn các công khanh, các đại phu, các chư hầu... thân chinh ra cày tại Tịch điền.” Ở nước ta, xưa có lễ “xuống đồng” vua Minh Mạng đã làm chánh tế và cày luống cày đầu năm...

Sau những giọt mưa Xuân trời đất dần dần ấm lại vạn vật chuyển mình, mầm mộng thảo mộc bắt đầu nhú ra nõn nà... loài vật ngủ xuất mùa đông (hibernating animals) bừng tỉnh dậy... Ðó là ý nghĩa của tháng đầu năm đời Nghiêu-Thuấn.

THÁNG DẦN

Nhà Hạ lấy tháng Dần làm “Xuân vương chính nguyệt” có lẽ do quan niệm thiên về Nhân Sinh.

Tháng Dần (Giêng) như đã nói trên, là thời điểm của con người, khi con người sinh ra thì các tấn tuồng vũ trụ mới thực sự khai diễn và có ý nghĩa. Trong Hán tự, chữ Dần  thêm vào bộ thủythành ra chữ Diễn  chỉ thị sự kiện "từ cái này sinh, hóa, chuyển ra cái kia và cứ thế tiếp tục..." (diễn dịch: deduction, inference; diễn biến: evolve, happen, unfold...)

Ngày mồng một tháng Giêng âm lịch là ngày đầu của năm Nhân văn (Human or Civil Year), tháng Dần ứng với quẻ THÁI (Tam Dương) và các cụ xưa vẫn gọi tháng Giêng là “Tam Dương khai thái.”

Chữ Xuân trong Hán tự   (5) gồm có chữ tam, bộ nhân và chữ Nhật (mặt trời, ngày).

Mùa Xuân gồm có 3 tháng:

1/ Dần (Giêng): vạn vật hồi sinh cùng với Dương khí tròn đầy, quân bình với Âm khí-Thái hòa (ba Âm-ba Dương).

2/ Mão (Hai): cửa trời và mặt đất mở rộng cho vạn vật đua nhau sống.

3/ Thìn (Ba): Thìn hàm ý chấn động, phân phát (thêm chữ Vũ phía trên thành chữ Chấn có nghĩa là rung động, sét đánh, là quẻ CHẤN thuộc về phương Ðông.)

Về hàng thiên CAN, Xuân ứng với GIÁP, ẤT

- GIÁP là cái vỏ bao bên ngoài - cái gì trên (hoặc hơn) hết tất cả cái khác gọi là Giáp (Giáp bảng) ở đây có nghĩa là phá vỏ (giáp) mà ra.

- ẤT là cái dấu tạm dừng lại, đây có nghĩa là hãy còn cụp (weak/lower) chưa sung sức để vươn lên.

Giáp là số 1, Ất là số 2. Trong ngày Xuân, hiện tượng thiên nhiên quan trọng nhất là sự vượt lên lòng đất, thoát khỏi vỏ (đâm chồi, nẩy lộc, sinh nở...) có lẽ vì thế mà các bậc minh quân xưa đã cùng triều thần đích thân ra đồng cày đất mỗi người vài ba luống để mở màn cho nhân dân bắt tay vào việc đồng áng, đây cũng là động tác tượng trưng cho sự “tham thiên địa, tán hóa dục” vạch đất cho muôn vật lên.

Về Dịch, trong bát quái, Xuân ứng với quẻ CHẤN là sấm động, là rung chuyển, là rạo rực.

Về màu sắc, Xuân ứng với màu Xanh là màu của cây cỏ vừa chuyển mình tươi mát nõn nà, mơn mởn... (Xuân xanh, thanh Xuân).

Về phương hướng, Xuân ứng với phương Ðông là nơi "Thai Dương" là nơi mặt trời chớm sinh. Gió Xuân thường gọi là Ðông phong.

Về Ðạo, phương Ðông thiên về tâm linh và huyền bí hơn phương Tây. Xuân là thời Thiếu Dương, số 1 (nhất Dương) là số HUYỀN  (huyền nhiệm biến hóa, ẩn hiện...tương đương với chữ ÐẠO của Lão Tử): “Nhứt sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.”(Một sinh Hai, Hai sinh Ba...Ba sinh ra vạn vật...tương tự như "Khởi duyên, trùng trùng duyên khởi"...

Xuân là mùa gần với đạo Huyền vì Dương khí đang vươn lên, đang tăng trưởng nhưng chưa đến chỗ cùng cực của nó, hưng vượng mà chưa đầy... Số 3 là con số gần nhất của số gần nhất của số 1, nên số 3 gần với đạo HUYỀN, gần với sự mềm dẻo sinh động của hạnh phúc; “Sinh giả nhu nhược.”

Về Bệnh lý, theo Kỳ Bá: “Mùa Xuân là mùa Mộc khí bắt đầu làm chủ. Can khí bắt đầu sinh. Can khí cấp, phong khí tật, khí của kinh mạch thường ở sâu (vì mới khởi động ra) còn ít ỏi...”

Trương Chí Thông ghi chú rằng: Ðông phương sinh ra Phong, Phong sinh Mộc, Mộc sinh Can.

Mà “Can tàng huyết, huyết xá hồn”: “Gan” là nơi máu về nghỉ ngơi, là nơi trú ngụ của hồn. Cho nên mùa Xuân thân thể thường được thư thái, máu huyết lưu thông rạo rực nhưng điều hòa. Mùa Xuân thư ở kinh tức là nơi phần nhục của huyết mạch, chỉ nên châm vào khoảng lạc-mạch không nên châm sâu vào kinh. (Nội kinh linh khu).

Về đức hạnh, Xuân ứng với đức NHÂN, người quân tử cho nên mùa Xuân làm cho lòng người bao dung, các vua chúa thường tránh sát phạt, chỉ lo tưởng thưởng và cầu hiền.

Về ngôn ngữ, Xuân mang hình ảnh hớn hở tốt tươi của vạn vật, tuổi trẻ đồng hóa với mùa Xuân; "Còn xuân" có nghĩa là còn sức sống tuổi trẻ trong tình yêu và tình dục; Lý thú, hoạt bát, năng động gọi là Xuân khí; thầy thuốc chữa bệnh giỏi gọi là “Diệu thủ hồi xuân”; đời nhà Ðường gọi rượu là Xuân; Nghi lễ nhà Chu quy định tháng cưới vợ lấy chồng là trọng Xuân (tức tháng Hai Âm Lịch); con gái muốn lấy chồng gọi là hoài Xuân! Tình yêu nồng nhiệt ở những người lứa tuổi từ 45 trở lên gọi là Hồi Xuân...

Trong nhóm bốn linh vật của truyền thống Á đông: Long, Xuân ứng với Rồng.

Mùa Xuân thuộc phương Ðông ứng với chòm sao Thanh Long trong Nhị Thập bát tú, gồm có 4 chòm:

1/ Thanh Long (Ðông) quần tụ bảy nhóm sao: Giác, Cang, Ðê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

2/ Chu Tước (Nam)

3/ Bạch Hổ (Tây)

4/ Huyền Võ (Bắc).

Bảy sao trong chòm Thanh Long tượng trưng: Sừng rồng, cổ rồng, ngực rồng, bụng rồng, tim rồng và đuôi rồng (Vĩ, Cơ).

Như vậy trong những ngày xuân, chòm sao Thanh Long sẽ lần lượt hiện ra lúc hoàng hôn ở phía trời Ðông...

Tóm lại trong cuộc vận hành của vũ trụ, mùa xuân là thời điểm Âm-Dương giao hòa và khai mở: Nắng ấm bắt đầu cùng với gió từ phương Ðông nhẹ nhàng làm tan băng giá, các loài côn trùng bắt đầu giao động, các loài di điểu bắt đầu trở về, hoa đào, hoa mai bắt đầu nở, bắt đầu có sấm chớp, bèo bắt đầu sinh, các mầm, mộng... nhất tề mọc lên... và lòng người cũng rạo rực tình yêu...

“Vui như Tết, đẹp như Xuân!”

Ðó là thiên hạ thường tình trong chu kỳ sinh diệt. Ai cũng mong mùa Xuân vì mùa Ðông quá giá lạnh âm u. Mùa Ðông của vũ trụ và của đời người đều bi thiết như nhau, cho nên ai cũng mong Xuân đến vì lỡ ươm mầm hy vọng ở tương lai.

“Xin đời một đóa hoa bất tử

Xin người những hạt giống dung thông!”

CHÚ THÍCH:

(1) Truyện Kiều 345

“Lượng Xuân dù quyết hẹp hòi

Công đeo đẳng chẳng thiệt thòi lắm ru!”

“Lượng Xuân” do câu “Xuân dục hải làm chi lương”: Tấm lòng rộng như sự nuôi dưỡng bao dung của Xuân.

(2) Là hai vị vua đã tạo nên một thời đại Hoàng Kim của lịch sử Trung Hoa. Trong thời đại này không có người ham danh, hám lợi, cụ thể vua Thuấn đi tìm người kế ngôi, bị Hứa Do từ chối rồi ra suối rửa lỗ tai, Sào Phủ không cho trâu uống nước phía dưới Hứa Do sợ bẩn miệng trâu!

(3) Lịch của Tây phương đã trải qua nhiều thay đổi từ Romulus (mỗi năm chỉ đếm có 10 tháng/30 ngày) đến Numa thêm hai tháng nữa cho ăn khớp với chu kỳ thời tiết. Jules Cesar (708) mỗi năm mới tính 365 ngày/ chia làm 12 tháng như hiện nay... Năm 1582, giáo hoàng Gregoire XIII đã ban hành thêm một cải cách nhỏ cho một chu kỳ 900 năm...

(4) HOÀNG CỰC KINH THẾ là công trình nghiên cứu công phu vĩ đại, tổng hợp trọn vẹn và chính xác môn triết học toán, mô tả bản đồ sinh hóa của vạn vật trong vũ trụ và những quy luật vận hành của trời đất cùng con người theo âm dương biến hóa trong cõi nhân gian. Tác phẩm đồ sộ này giúp chúng ta dự đoán chuẩn xác các biến chuyển thịnh suy của thời cuộc - cùng những được mất bại thành của số phận từng cá nhân, trong biến đổi ảo hóa khôn lường bất tận của tự nhiên trong vũ trụ. Tác giả: Thiệu Khang Tiết là một thiên tài xuất chúng, một vị thầy vĩ đại đã có nhiều công lao nghiên cứu và phát triển dịch học và lý học Trung Hoa.

(5) Về âm hưởng (resounding) chữ Xuân, chữ Dương,

chữ Spring [sprin] thoảng nghe có phần giống nhau.

(*) Quẻ Thái      

Quẻ Thái là quẻ thứ 11 trong Kinh, do quái Càn ở dưới và quái Khôn ở trên hợp thành, tượng trưng cho sự hanh thông tốt đẹp. Các mặt “đối” của sự vật giao hòa với nhau, thống nhất với nhau, luôn là điều kiện không thể thiếu để đạt tới hanh thông. Quẻ Thái chính là quẻ lấy sự tương thông trên dưới, âm dương ứng hợp để thuyết minh cái Lý hanh thông thuận lợi của sự vật

 

Mùa Xuân đi gác kèo ong ở rừng U Minh



Mật Ngọt Bao Đời của rng U Minh

January 7, 2023 (trích báo Người Việt)

 Thư Khôi

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Mùa Xuân hoa nở, cũng là mùa người thợ rừng gác kèo ăn ong. Rừng U Minh, thảm rừng tràm đước rộng gấp bốn lần đảo quốc Singapore, mang trong lòng những tài nguyên quý giá đã thành huyền thoại được ghi lại trong “Hương Rừng Cà Mau,” chuyện trào phúng “Bác Ba Phi,” tiểu thuyết “Đất Rừng Phương Nam”…

Đường vô rừng U Minh Hạ, con kênh ranh giữa vùng đệm và vùng lõi bảo vệ nghiêm ngặt. (Hình: Thư Khôi)

Mật, sáp ong U Minh là đặc sản góp phần tạo ra thương cảng Rạch Giá phồn thịnh. Rừng U Minh giờ chỉ còn phế tích nhưng nghề gác kèo ong và đoàn Phong Ngạn vẫn sống, mật ong U Minh vẫn lóng lánh thơm lừng.

Trong những huyền thoại của U Minh có truyện ngắn “Hương Rừng” của nhà văn Sơn Nam, về loài ong ngũ sắc cho loại mật kỳ diệu có thể luyện thành phương thuốc chữa căn bệnh đứng đầu tứ chứng nan y. Một vị ngự y triều Nguyễn đã từ quan ẩn mình trong góc rừng U Minh tìm ong luyện thuốc chữa bệnh cho cô con gái có sắc đẹp ma mị. Chàng thợ rừng giỏi nhất U Minh đã tìm ra loài ong quý, mở ra mối tình như chuyện liêu trai. Nghề gác kèo ăn ong ở U Minh không chỉ là cách khai thác lâm thổ sản độc đáo mà còn là án văn ly kỳ, huyền hoặc.

Gập ghềnh “đột nhập” rừng U Minh Hạ

Theo địa bộ triều Nguyễn thời Thiệu Trị, vùng Long Xuyên có thuế Hoàng Lạp (sáp ong). Sáp là thổ sản quý để các nước lân bang tiến cống, các địa phương tiến nạp cho triều Nguyễn.

Cũng theo Sơn Nam “Sáp là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá (bao gồm cả Cà Mau, Bạc Liêu) nổi danh (người Miên gọi là vùng Kramuon – Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ ong bám vào cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt.”

Trải qua bao cuộc biến thiên của lịch sử, thiên tai và tác động xâm thực củ con người, cháy rừng, rừng U Minh 2,000 cây số vuông giờ chỉ còn lại hai Vườn Quốc Gia U Minh Thượng (Kiên Giang) và U Minh Hạ (Cà Mau) mỗi nơi trên 8,000 hécta vùng lỏi và hơn 30,000 hécta vùng đệm. Đất rừng thu hẹp chỉ còn 1/10 ngày trước nhưng nguồn mật ong U Minh vẫn giàu, mỗi năm riêng U Minh Hạ đã khai thác hơn 1,000 tấn mật ong nguyên chất, tinh khiết. Đó chính là nhờ nghề gác kèo ong và giá trị truyền đời, luật bất thành văn của đoàn Phong Ngạn.

Chúng tôi đến ấp Vồ Dơi, trụ sở của Ban Quản Lý Vườn Quốc Gia U Minh Hạ vào giữa trưa Tháng Tư nắng cháy. Thời điểm này là chính vụ ăn ong mùa khô, sản lượng mật ong cao nhất, phẩm chất tốt nhất so với hai mùa còn lại là mùa mưa và mùa lở. Đây cũng là thời điểm rừng được bảo vệ nghiêm ngặt nhất để phòng chống cháy.

Chúng tôi đến nhà anh Võ Văn Vinh, ba đời làm thợ rừng nay định canh khai thác 6 hécta rừng nhận khoán ở vùng đệm, trồng tràm, gác kèo ong.

Với từng ấy kinh nghiệm và năng khiếu bẩm sinh, anh Vinh được dân Phong Ngạn kiềng mặt gác kèo mát tay, đạt hiệu suất cao nhất. Hóa ra cũng từng ấy vật dụng, cũng cùng trên một cánh rừng nhưng không phải ai cũng đạt kết quả như nhau. Có người gác 10 kèo, ong đóng tổ đến chín, nhưng có người chỉ đạt 4-5, thậm chí thấp hơn. Không phải do hên xui chim trời cá nước mà chủ yếu ở con mắt tinh tường, sự nhạy cảm chọn trãng, chọn hướng đặt kèo.

Tổ ong trắng muốt. (Hình: Thư Khôi)

Bí quyết chọn chỗ gác kèo

Đường vô rừng lởm chởm đất dớn (đất pha than bùn, xác là tràm đặc trưng của U Minh), khô cứng rất khó đi. Anh kể nghề gác kèo ong cũng lãng mạn và nhàn nhã như nghệ sĩ. Theo luật tự nhiên, đến mùa tràm trổ bông từ Tháng Chín tới Tháng Mười, đàn ong kéo về ăn bông, tìm chỗ đóng tổ để sinh con đẻ cái. Nếu không có kèo, ong làm tổ có khi quá cao, khi quá sâu trong rừng, việc ăn ong, lấy mật sẽ khó khăn. Gác kèo là tạo ra cái khung sườn nhà phù hợp cho ong đóng ổ.

Bộ kèo ong rất đơn giản chỉ gồm ba đoạn cây. Hai đoạn cây được cắm xuống mặt đất để làm trụ (thường là cây tràm), đầu trên vạt nhọn. Cây cao khoảng trên dưới 2 mét được gọi là cây nống, cây thấp (khoảng 1.7 mét) gọi là cây nạng. Cây thứ ba là cây kèo (cây tràm, cây cau, cây bình bát) được khoét lỗ hoặc vạt ngàm để gác lên trên đầu của cây nống và cây nạng theo một góc chênh chếch với mặt đất, theo cách nói của anh Vinh là tỉ lệ 7/3. Nói đến đây, anh Vinh nở nụ cười bí hiểm: “Cách thức đơn giản nhưng hay dở là ở chỗ chọn, phơi đẽo gọt kèo sao cho ong ưng bụng đậu lại đóng ổ, tui làm được mà không kể được!”

Chia sẻ về bí quyết chọn chỗ gác kèo, anh Vinh nói nhẹ khô. Ngoài bộ kèo thiệt ngon, ăn thua còn là chọn chỗ gác kèo, hướng gác kèo. Điểm gác kèo tốt nhất là cây tràm thấp có nhiều bông, có trảng trống, thuận đường cho ong bay, có lượng nắng mặt trời chiếu xuống thân kèo phù hợp. Thường là hai phần nắng một phần mát vào mùa mưa và một phần nắng hai phần mát vào mùa khô. Đầu kèo hướng về phía mặt trời mọc. Chọn hướng gió thích hợp tùy theo mùa gió bấc, chướng, nồm để đặt hướng gác kèo thuận cho đường bay của đàn ong… Người gác kèo phải hiểu tánh ý của đàn ong mà chọn độ cao, hướng kèo rồi còn phải dọn cỏ, cắt cây che mát chỗ này, tạo khoảng trống chỗ kia để đàn ong ưng ý đáp vô kèo đóng ổ.

Chừng nửa tháng sau ngày gác kèo, đi một vòng dòm ngó đã biết được bao nhiêu kèo có ong đóng ổ và thêm hai tuần nữa đã có thể ăn ong lấy mật.


Tổ ong trên thân kèo của anh Võ Văn Vinh. (Hình: Thư Khôi)

Ăn ong! Một cuộc dạo chơi

Hoa đẹp là hoa có gai, ong cho mật ngọt nhưng ong cũng biết chiến đấu và có vũ khí hữu hiệu để tự vệ là kim châm và nọc độc. Nhưng với thợ rừng như anh Vinh thì việc ăn ong đơn giản lẹ làng như cuộc dạo chơi.

Mặc áo quần bảo hộ, đội nón có lưới che mặt, mang theo con cúi bện bằng rễ gừa và lá tràm khô, một con dao bén, một cái thùng xô chứa mật, chỉ sau vài phút tiếp cận, bằng ba lưỡi dao, người thợ rừng đã thu hoạch xong một kèo ong và rời đi nơi khác.

Điều thú vị là tổ ong được thiết kế rất bài bản theo quy tắc nghiêm ngặt. Phần cao ở đầu kèo chứa toàn sáp và mật ong còn được gọi là khúc mức, kế đến là phần ong non và ong già. Người ăn ong đến gần đốt con cúi và thổi khói vào tổ, ong bị say khói bay đi. Khúc mức hiện ra một khối màu trắng ngà, mọng nước mật, lần ăn ong đầu tiên chỉ cần cắt khúc mức đem về nhà vắt mật.

Khi cắt mật, đường cắt thứ nhất cắt từ đầu kèo đi xuống từ trước ra sau để tách phần mật ra khỏi phần tàng ong, đường thứ hai cắt khúc mật ra khỏi tổ ong, đường thứ ba cắt ngang theo thân kèo nơi phần tổ ong gắn liền với kèo để cắt hẳn khúc mật ra khỏi tổ ong.

Từ lần thứ hai trở đi, phải làm thêm động tác tỉa gọn lại tổ ong cho gọn nhẹ để không bị gió thổi hư, Cắt một phần tổ cũ, cột vô đoạn kèo trống từ khúc mức đã cắt để ong tái tạo ổ nhanh hơn, lần thu hoạch kế tiếp ngắn hơn. Cứ như vậy, một lần đắt kèo ong có thể thu hoạch từ bốn đến năm lần cho đến khi hết mùa, ong bay đi.

Đây chính là nghệ thuật độc đáo của nghề gác kèo ong ở U Minh vừa khai thác mật, sáp ong vừa bảo tồn sinh thái. Theo các nhà khoa học thì Cambodia và Indonesia cũng có nghề ăn ong nhưng họ khai thác ổ ong chỉ một lần. Trong thập niên 1990, Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã tổ chức hội nghị để những người ăn ong các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Cambodia và Indonesia học tập cách gác kèo của U Minh.

Anh Võ Văn Vinh gác kèo ong trong một khoảng rừng thưa. (Hình: Thư Khôi)

Giải mã đoàn Phong Ngạn!

Nhưng nghề gác kèo ong không chỉ điệu nghệ, sáng tạo về kỹ thuật mà còn có một tập tục, luật bất thành văn của nghề ăn ong là luật đoàn Phong Ngạn. Người dân địa phương, những người ăn ong tự hào nhắc luật lệ của đoàn nhưng nghĩa đen đoàn Phong Ngạn là gì thì không ai biết.

Sách “Cà Mau Xưa và An Xuyên Ngày Nay” có nhắc đến thuế Phong Ngạn thu của người ăn ong, cho thấy đây không phải là từ dân gian cũng không phải là từ mới có thời Pháp thuộc mà là chữ Hán Việt theo văn bản hành chính của triều đình nhà Nguyễn, phù hợp với các loại thuế Hoàng Lạp (sáp vàng) hay thuế Điểu Đình (sân chim).

Một số phim truyền hình giải thích là nghề ăn ong phải coi theo hướng gió nên gọi là Phong Ngạn nghe trớt quớt. “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của Vương Hồng Sển, “Từ Điển Hán Việt” thì không thấy từ này.

Sách “Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam” có viết một khúc như vầy: “Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn), quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng ‘ngan’ tức là từng lô nhỏ, lấy những con rạch thiên nhiên làm ranh giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu, Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp. Nghề ăn ong gọi là ‘ăn ngan,’ lô rừng đem đấu thầu gọi là sở phong ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh).”

Nhà từ điển học Trần Văn Chánh giải thích rằng chữ Ngạn có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là bờ nhưng theo cú pháp Hán Việt thì Phong Ngạn không thể dịch là ong bờ mà phải dịch là bờ ong và cả hai đều tối nghĩa.

May mắn là “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” đã cắt nghĩa, phong là ong mật, ngạn (còn được phát âm ngàn) là rừng.

Điều đáng nói đoàn Phong Ngạn là ý nghĩa, giá trị nhân văn của nó. Dân gian Nam Kỳ có câu “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.” Cả nước có câu “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt.” Rừng U Minh không chỉ có cọp dữ, heo độc chiếc, trâu rừng mà trên không có ong độc, đại bàng, mặt đất đủ loài rắn độc, dưới nước đầy cá sấu. Người đi khai phá rừng cũng là lưu dân tứ chiến, có thể tranh giành cướp bóc thậm chí giết chóc lẫn nhau.

Trong truyện “Hương Rừng” đã thể hiện mỗi thợ rừng ngày xưa đều rèn cho mình những chiếc búa thật bén, thật cứng làm vũ khí. Tai họa có thể đến từ mọi phía nên người ăn ong từ xa xưa đã kết hợp với nhau theo từng nhóm gọi là đoàn.

Theo nhà thơ Nguyễn Trọng Tín, sinh ra và gần cả đời gắn bó với Cà Mau, thì luật lệ của đoàn Phong Ngạn rất chặt chẽ và cũng rất nhân văn.

Mỗi người trong đoàn được giao một phần rừng để gác kèo và chịu trách nhiệm bảo vệ rừng. Có lẽ do tính chất đối kháng dữ dội với thiên nhiên và con người thời ấy nên thành viên phải là đàn ông, phải búi tóc.


Anh Võ Văn Vinh và gần 10 lít mật thu hoạch từ một kèo ong. (Hình: Thư Khôi)

Người trong đoàn không được xâm phạm lãnh địa, không được ăn ong trên kèo thành viên khác. Thông thường trên mỗi đầu kèo, thân kèo có khắc tên hoặc dấu hiệu của người chủ. Khi một thành viên của đoàn mất mà không có con, cháu trai thừa kế thì số đầu kèo và phần đất rừng khai thác của người ấy sẽ chia đều cho người khác.

Để bảo vệ an toàn cũng như bảo đảm sự minh bạch, các thành viên Phong Ngạn không tự ý vô rừng mà phải báo cho đoàn trước mỗi chuyến đi. Cũng không đi một mình mà phải đi ít nhất hai người.

Khi va chạm với thú dữ với các nhóm đối kháng khác phải hết lòng hết sức, liều chết bảo vệ nhau.

Mỗi thành viên gia nhập đoàn phải qua nghi lễ trang nghiêm và cùng cắt máu ăn thề với lời thề độc địa mà thông thường nội dung bảo chứng chính là sinh mạng của mình. Người vi phạm sẽ bị xử theo luật lệ của đoàn mà mức phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi đoàn.

Trong bối cảnh thời ấy, làm một thợ rừng đơn lẻ, không có sự hỗ trợ của cộng đồng là mất mạng như chơi. Vì vậy, những thành viên của của đoàn Phong Ngạn vẫn tự hào bảo nhau người Phong Ngạn.

Mãi đến thập niên 1990, khi chưa có chủ trương quy hoạch vùng đệm và giao khoán cho dân, huyện Trần Văn Thời, U Minh đã tái lập hợp tác xã, tập đoàn Phong Ngạn với các quy tắc giản lược như khi giao dịch mua bán phải trung thực, không pha nước, không nói sai chủng loại, không đong thiếu…

Còn đó đạo ăn ong

Hiện nay, rừng vùng đệm được giao khoán, mỗi người tự gác kèo ong trên phần đất khoán của mình. Tiền đề vật chất của đoàn Phong Ngạn không còn nữa nhưng ý thức đạo lý sống đoàn kết tương trợ cùng bảo vệ rừng vẫn còn nguyên.

Anh Võ Văn Vinh tự hào và tuân thủ theo đúng đạo ăn ong của dân Phong Ngạn. Hằng năm anh khai thác hàng trăm lít mật từ 6 hécta rừng nhận khoán. Thứ mật thiên nhiên thuần khiết được bán với giá ngay thật chỉ 400,000 đồng ($18) một lít. Thu nhập ấy đủ để anh trang trải đời sống và nuôi con học đại học ngành nhà hàng khách sạn. Nguyện vọng của cháu cũng gắn với rừng U Minh là sẽ giới thiệu với du khách những đặc sản ẩm thực khẩn hoang từ nguyên liệu của rừng, sông biển U Minh theo phong cách mới. Đoàn Phong Ngạn đã quá vãng nhưng đạo và người Phong Ngạn vẫn sinh sôi. [qd]

 báo Người Việt Nam California 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...