Saturday, January 7, 2023

GS NGUYỄN CHÂU- NGÀY XUÂN VÀ NGÀY TẾT BẮT ÐẦU TỪ ÐÂU


                                                                                


Dường như hầu hết thơ văn, ca nhạc... trên khắp năm châu của thế giới đều dành rất nhiều đề tài cho mùa xuân. Văn nhân, thi sĩ Á đông, đặc biệt là Trung Hoa và Việt Nam, cứ mỗi độ xuân về thì hồn thơ lai láng...

Tất cả những gì tốt đẹp, thắm tươi, nồng nàn của cuộc đời đều được hiển hiện bằng mùa xuân: Lòng xuân phơi phới, tình xuân nồng nàn, lượng xuân (1) vân vân.

XUÂN LÀ GÌ?

Thế nhưng Xuân là gì? Xuân là mùa đầu tiên trong năm. Cũng là một trong bốn mùa, sao người ta lại ưu ái mùa Xuân như thế? Vì mùa Xuân đẹp chăng? Mùa Thu đâu có kém gì?

Phải chăng mùa Xuân thường đem lại hạnh phúc cho cuộc đời như người xưa đã ghi nhận:

“Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường!”

(Trời thêm năm, tháng, người thêm tuổi

Xuân đầy vũ trụ, phúc đầy nhà)

Trong thực tế, điều này còn tùy vào tâm tư, tâm trạng và hoàn cảnh của con người ở-đời, bởi vì đã có một số người không chờ đợi mùa Xuân...

“...Tôi có chờ đâu, có đợi đâu?

Mang chi Xuân lại gợi thêm sầu!”

(Chế Lan Viên - Xuân)

“Mùa xuân khó chịu quá đi thôi!

Cảnh đẹp làm em thấy lẻ loi...”

(Xuân Diệu - Ðơn Sơ)

Nhân lúc mọi người rộn rã chuẩn bị đón xuân, tôi muốn tìm hiểu mối tương quan giữa cái Tết truyền thống Á đông với mùa Xuân của vũ trụ để góp phần đáp ứng những băn khoăn, thắc mắc nơi nhiều người.

TƯƠNG QUAN GIỮA TẾT VÀ XUÂN


Trước hết, ta nên hiểu rằng đa số các nước châu Âu và Bắc Mỹ đều ăn tết vào những ngày không phải là mùa Xuân - ngày Chúa Giáng Sinh là ngày Ðông Chí (25 December) là ngày đầu của năm thiên văn (astronomic year), ngày 1st January chưa đến tiết lập xuân. Nhưng truyền thống từ xưa nhiều nước phương Tây, nhất là các dân tộc ở quanh vùng Ðịa Trung Hải, người ta mở hội ăn mừng “ngày tái sinh của mặt trời trên Hoàng Ðạo.”

Theo Thiên văn, Ðông chí là ngày “nhất dương sinh” nhằm vào giữa tháng mười một Âm lịch, tức là tháng Tý, ứng vào quẻ PHỤC (nhất dương), ngày mặt trời trở lại, Dương khí bắt đầu trỗi dậy...

Tết Nguyên Ðán của Việt Nam cũng không trùng với ngày lập xuân (khởi đầu Mùa Xuân) mà chỉ thường nằm trong tiết Lập Xuân. [Khoảng thời gian từ ngày 04 tháng Hai đến18 tháng Hai Dương Lịch/ Năm nay Quý Mão -2023, Tiết Lập Xuân bắt đầu 04/2/2023 - 14 tháng Giêng Quý Mão]

 

Chữ "Nguyên Ðán" chỉ thị:

-Buổi sáng đầu năm

-Buổi sáng đầu tháng

-và thời điềm Sáng đầu ngày.

Người ta còn gọi là ngày Tam Thủy (Ba cái bắt đầu, “thủy” là chỗ khởi đầu).

Lịch sử Trung Hoa ghi nhận có sự thay đổi ngày ăn Tết qua các thời đại:

- Ðời vua Hoàng Ðế (1697 B.C. trước Công Nguyên) dân Trung Hoa ăn tết vào ngày đầu của tháng Tý (tức mồng một tháng 11 âm lịch bây giờ).

- Ðời vua Nghiêu (2356-2255 B.C.), vua Thuấn (2255-2205) lấy tháng đầu năm vào tiết Vũ Thủy (nhằm vào trung tuần tháng February hay hạ tuần tháng Giêng Âm lịch hiện nay).

- Ðến đời nhà Hạ (2205-1766 B.C.) người ta chọn tháng Dần làm tháng đầu năm và ngày Nguyên Ðán là ngày mồng một tháng Giêng Âm lịch.

- Triều đại nhà Chu trở lại theo lịch của đời Hoàng Ðế, lấy tháng Tý tức là tháng 11 Âm lịch làm tháng ăn Tết, đầu năm...

- Rồi nhà Hán quay lại quy định của Nghiêu-Thuấn (2) lấy Tiết Vũ Thủy làm đầu năm...

Do đó, ta thấy rằng: tết Nguyên Ðán hiện nay của Việt Nam và Trung Hoa là theo tục lệ đời nhà Hạ.

Theo Gustave Schlegel trong “Uranographic chinoise” (Chinese Uranography) thì danh từ NGUYÊN ÐÁN đã được ghi trong sách đời Xuân Thu tả truyện, chỉ thị ngày lên ngôi của các vua chúa, mỗi đời vua đều bắt đầu tính từ ngày đó, những ngày thuộc năm cũ không tính!

“Nguyên đán tiên vương chi chính thời dã. Lý đoán ư thủy” (Nguyên đán là thời điểm chính thức của các đấng vua chúa ngày xưa. Ðời vua bắt đầu từ đó).

Tại Việt Nam, triều đình nào cũng có một ban Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem thiên văn, làm lịch và ban hành lịch cho toàn dân. Vào giờ Giao Thừa mỗi năm, toàn dân phải chờ lệnh nghênh Xuân từ kinh đô ban ra mới bắt đầu đốt pháo và cúng lễ Kim Niên, đón mừng năm mới... (trong những năm tháng thực dân Pháp đánh thành Hà Nội, triều vua Tự Ðức, sĩ phu Bắc Hà vẫn thao thức ngóng vọng tin xuân từ kinh đô Huế... và Trần Tế Xương đã xúc động viết:

“Xuân từ trong ấy mới ban ra

Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà...”


TẠI SAO CÓ SỰ LỰA CHỌN NGÀY ÐẦU NĂM KHÁC NHAU?

Trở lại vấn đề nguyên ủy: tại sao có sự chọn lựa ngày đầu năm, đầu xuân? Xuân là gì?

Với trí tuệ của các đời vua Trung Hoa ngày xưa, có lẽ không có sự chọn lựa tình cờ, cái gì xem ra cũng có liên quan đến những khái niệm triết lý về vận hành của vũ trụ trong tương quan với con người, khác với sự độc đoán (free will) của một số vua chúa Tây phương, chọn lịch pháp theo ý riêng của bản thân, theo tình cảm...( 3) vân vân.

CHỌN THÁNG TÝ


Trước hết, tại sao Hoàng Ðế chọn ngày mồng một tháng Tý (tháng 11 Âm lịch) làm ngày Tết?

Theo Hoàng cực Kinh thế (4), một bộ sách lớn của Thiệu Khang Tiết viết về tượng số học trên căn bản Âm Dương Tiêu Tức, thì:

-Tý là thời điểm TRỜI MỞ HỘI, trong Hà đồ và tiên thiên Bát Quái, ta thấy Dương khí khởi tại cung Tý. Số 1 là số của Thiếu Dương, sơ ký của khí dương, thuộc quẻ PHỤC (nhất dương). Gạch liền là Dương.

Hào "sơ cửu" tượng trưng cho sự sinh ra của một sự vật nào đó. Trong toàn quẻ, năm hào Âm-tỉnh chỉ phải đối phó với một hào Dương-động. Tỷ lệ 5/1, nhưng hào Dương lại ở vị trí thấp nhất nên Dương sẽ tăng trưởng với bản lĩnh khí động của nó. Quá trình này gọi là Tức, diễn ra như sau:

-Từ quẻ PHỤC, một hào Dương, ta có:

-Quẻ LÂM, hai hào Dương, rồi

-Quẻ THÁI (*), ba hào Dương.

Như vậy, Dương khí động liên tục (TỨC) để tăng trưởng và khắc chế Âm-khí tĩnh cho đến mức quân bình Âm-Dương trong quẻ THÁI, đây cũng là một giai đoạn THIẾU DƯƠNG, tượng của mùa Xuân, một trong tứ tượng của chu kỳ dịch hóa trong vũ trụ.

Vua Hoàng Ðế chọn tháng Tý làm tháng khởi đầu vì Tý là tháng “Thủy,” chỗ bắt đầu của vòng vũ trụ, Giờ Tý là giờ bắt đầu ngày. -Tý: thời điểm Dương khí bắt đầu nổi dậy sau những tháng ngày cực Âm của mùa Ðông. Lấy tháng Tý làm đầu năm, tức là dựa vào năm thiên văn, thiên về sự khai mở của TRỜI.

Cũng nên biết sách “Hoàng cực kinh thế” cho rằng:

- Trời mở hội ở TÝ

- Ðất hình thành ở SỬU

- Người xuất phát ở DẦN

THÁNG SỬU

Trong truyền thuyết Việt Nam về 12 con Giáp, Tý tượng hình là Chuột là con vật nhỏ bé nhất, so với SỬU tượng hình là trâu, to hơn cả ngàn lần. SỬU là thời điểm đất hình thành nên trâu có duyên nghiệp sâu dày với Ðất! Có thể nói Chuột là điểm cực iểu và trâu là cực đại, chuột nhanh, lẹ, ranh mãnh và “rất thiêng” trong lúc trâu chậm chạp, hiền đức, cần cù...

Vua Nghiêu, vua Thuấn chọn tiết Vũ Thủy để tính tháng đầu năm, có lẽ vì đây là thời đại thịnh trị, nông nghiệp vững vàng bốn phương no ấm nhờ “Phong hòa Vũ thuận.”

Sách Lễ Ký, thiên NGUYỆT LỆNH, mô tả các hiện tượng thiên nhiên trong tiết Vũ Thủy như sau:

Vũ Thủy là mưa rơi vào cuối tháng Giêng Âm lịch:

- Dưới sông Rái cá bắt cá để tế thần (Lại tế ngư)

- Trên không, chim Hồng, chim Nhạn bắt đầu bay về (Hồng nhạn lai)

- Mưa bắt đầu rơi (Thủy vũ thủy)

Tiết này có sao Thiên Ðình phụ tinh của chòm Vierge (Virgo) sự tích ghi rằng: trong “tháng đầu năm vua đem cày lên long xa, dẫn các công khanh, các đại phu, các chư hầu... thân chinh ra cày tại Tịch điền.” Ở nước ta, xưa có lễ “xuống đồng” vua Minh Mạng đã làm chánh tế và cày luống cày đầu năm...

Sau những giọt mưa Xuân trời đất dần dần ấm lại vạn vật chuyển mình, mầm mộng thảo mộc bắt đầu nhú ra nõn nà... loài vật ngủ xuất mùa đông (hibernating animals) bừng tỉnh dậy... Ðó là ý nghĩa của tháng đầu năm đời Nghiêu-Thuấn.

THÁNG DẦN

Nhà Hạ lấy tháng Dần làm “Xuân vương chính nguyệt” có lẽ do quan niệm thiên về Nhân Sinh.

Tháng Dần (Giêng) như đã nói trên, là thời điểm của con người, khi con người sinh ra thì các tấn tuồng vũ trụ mới thực sự khai diễn và có ý nghĩa. Trong Hán tự, chữ Dần  thêm vào bộ thủythành ra chữ Diễn  chỉ thị sự kiện "từ cái này sinh, hóa, chuyển ra cái kia và cứ thế tiếp tục..." (diễn dịch: deduction, inference; diễn biến: evolve, happen, unfold...)

Ngày mồng một tháng Giêng âm lịch là ngày đầu của năm Nhân văn (Human or Civil Year), tháng Dần ứng với quẻ THÁI (Tam Dương) và các cụ xưa vẫn gọi tháng Giêng là “Tam Dương khai thái.”

Chữ Xuân trong Hán tự   (5) gồm có chữ tam, bộ nhân và chữ Nhật (mặt trời, ngày).

Mùa Xuân gồm có 3 tháng:

1/ Dần (Giêng): vạn vật hồi sinh cùng với Dương khí tròn đầy, quân bình với Âm khí-Thái hòa (ba Âm-ba Dương).

2/ Mão (Hai): cửa trời và mặt đất mở rộng cho vạn vật đua nhau sống.

3/ Thìn (Ba): Thìn hàm ý chấn động, phân phát (thêm chữ Vũ phía trên thành chữ Chấn có nghĩa là rung động, sét đánh, là quẻ CHẤN thuộc về phương Ðông.)

Về hàng thiên CAN, Xuân ứng với GIÁP, ẤT

- GIÁP là cái vỏ bao bên ngoài - cái gì trên (hoặc hơn) hết tất cả cái khác gọi là Giáp (Giáp bảng) ở đây có nghĩa là phá vỏ (giáp) mà ra.

- ẤT là cái dấu tạm dừng lại, đây có nghĩa là hãy còn cụp (weak/lower) chưa sung sức để vươn lên.

Giáp là số 1, Ất là số 2. Trong ngày Xuân, hiện tượng thiên nhiên quan trọng nhất là sự vượt lên lòng đất, thoát khỏi vỏ (đâm chồi, nẩy lộc, sinh nở...) có lẽ vì thế mà các bậc minh quân xưa đã cùng triều thần đích thân ra đồng cày đất mỗi người vài ba luống để mở màn cho nhân dân bắt tay vào việc đồng áng, đây cũng là động tác tượng trưng cho sự “tham thiên địa, tán hóa dục” vạch đất cho muôn vật lên.

Về Dịch, trong bát quái, Xuân ứng với quẻ CHẤN là sấm động, là rung chuyển, là rạo rực.

Về màu sắc, Xuân ứng với màu Xanh là màu của cây cỏ vừa chuyển mình tươi mát nõn nà, mơn mởn... (Xuân xanh, thanh Xuân).

Về phương hướng, Xuân ứng với phương Ðông là nơi "Thai Dương" là nơi mặt trời chớm sinh. Gió Xuân thường gọi là Ðông phong.

Về Ðạo, phương Ðông thiên về tâm linh và huyền bí hơn phương Tây. Xuân là thời Thiếu Dương, số 1 (nhất Dương) là số HUYỀN  (huyền nhiệm biến hóa, ẩn hiện...tương đương với chữ ÐẠO của Lão Tử): “Nhứt sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.”(Một sinh Hai, Hai sinh Ba...Ba sinh ra vạn vật...tương tự như "Khởi duyên, trùng trùng duyên khởi"...

Xuân là mùa gần với đạo Huyền vì Dương khí đang vươn lên, đang tăng trưởng nhưng chưa đến chỗ cùng cực của nó, hưng vượng mà chưa đầy... Số 3 là con số gần nhất của số gần nhất của số 1, nên số 3 gần với đạo HUYỀN, gần với sự mềm dẻo sinh động của hạnh phúc; “Sinh giả nhu nhược.”

Về Bệnh lý, theo Kỳ Bá: “Mùa Xuân là mùa Mộc khí bắt đầu làm chủ. Can khí bắt đầu sinh. Can khí cấp, phong khí tật, khí của kinh mạch thường ở sâu (vì mới khởi động ra) còn ít ỏi...”

Trương Chí Thông ghi chú rằng: Ðông phương sinh ra Phong, Phong sinh Mộc, Mộc sinh Can.

Mà “Can tàng huyết, huyết xá hồn”: “Gan” là nơi máu về nghỉ ngơi, là nơi trú ngụ của hồn. Cho nên mùa Xuân thân thể thường được thư thái, máu huyết lưu thông rạo rực nhưng điều hòa. Mùa Xuân thư ở kinh tức là nơi phần nhục của huyết mạch, chỉ nên châm vào khoảng lạc-mạch không nên châm sâu vào kinh. (Nội kinh linh khu).

Về đức hạnh, Xuân ứng với đức NHÂN, người quân tử cho nên mùa Xuân làm cho lòng người bao dung, các vua chúa thường tránh sát phạt, chỉ lo tưởng thưởng và cầu hiền.

Về ngôn ngữ, Xuân mang hình ảnh hớn hở tốt tươi của vạn vật, tuổi trẻ đồng hóa với mùa Xuân; "Còn xuân" có nghĩa là còn sức sống tuổi trẻ trong tình yêu và tình dục; Lý thú, hoạt bát, năng động gọi là Xuân khí; thầy thuốc chữa bệnh giỏi gọi là “Diệu thủ hồi xuân”; đời nhà Ðường gọi rượu là Xuân; Nghi lễ nhà Chu quy định tháng cưới vợ lấy chồng là trọng Xuân (tức tháng Hai Âm Lịch); con gái muốn lấy chồng gọi là hoài Xuân! Tình yêu nồng nhiệt ở những người lứa tuổi từ 45 trở lên gọi là Hồi Xuân...

Trong nhóm bốn linh vật của truyền thống Á đông: Long, Xuân ứng với Rồng.

Mùa Xuân thuộc phương Ðông ứng với chòm sao Thanh Long trong Nhị Thập bát tú, gồm có 4 chòm:

1/ Thanh Long (Ðông) quần tụ bảy nhóm sao: Giác, Cang, Ðê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

2/ Chu Tước (Nam)

3/ Bạch Hổ (Tây)

4/ Huyền Võ (Bắc).

Bảy sao trong chòm Thanh Long tượng trưng: Sừng rồng, cổ rồng, ngực rồng, bụng rồng, tim rồng và đuôi rồng (Vĩ, Cơ).

Như vậy trong những ngày xuân, chòm sao Thanh Long sẽ lần lượt hiện ra lúc hoàng hôn ở phía trời Ðông...

Tóm lại trong cuộc vận hành của vũ trụ, mùa xuân là thời điểm Âm-Dương giao hòa và khai mở: Nắng ấm bắt đầu cùng với gió từ phương Ðông nhẹ nhàng làm tan băng giá, các loài côn trùng bắt đầu giao động, các loài di điểu bắt đầu trở về, hoa đào, hoa mai bắt đầu nở, bắt đầu có sấm chớp, bèo bắt đầu sinh, các mầm, mộng... nhất tề mọc lên... và lòng người cũng rạo rực tình yêu...

“Vui như Tết, đẹp như Xuân!”

Ðó là thiên hạ thường tình trong chu kỳ sinh diệt. Ai cũng mong mùa Xuân vì mùa Ðông quá giá lạnh âm u. Mùa Ðông của vũ trụ và của đời người đều bi thiết như nhau, cho nên ai cũng mong Xuân đến vì lỡ ươm mầm hy vọng ở tương lai.

“Xin đời một đóa hoa bất tử

Xin người những hạt giống dung thông!”

CHÚ THÍCH:

(1) Truyện Kiều 345

“Lượng Xuân dù quyết hẹp hòi

Công đeo đẳng chẳng thiệt thòi lắm ru!”

“Lượng Xuân” do câu “Xuân dục hải làm chi lương”: Tấm lòng rộng như sự nuôi dưỡng bao dung của Xuân.

(2) Là hai vị vua đã tạo nên một thời đại Hoàng Kim của lịch sử Trung Hoa. Trong thời đại này không có người ham danh, hám lợi, cụ thể vua Thuấn đi tìm người kế ngôi, bị Hứa Do từ chối rồi ra suối rửa lỗ tai, Sào Phủ không cho trâu uống nước phía dưới Hứa Do sợ bẩn miệng trâu!

(3) Lịch của Tây phương đã trải qua nhiều thay đổi từ Romulus (mỗi năm chỉ đếm có 10 tháng/30 ngày) đến Numa thêm hai tháng nữa cho ăn khớp với chu kỳ thời tiết. Jules Cesar (708) mỗi năm mới tính 365 ngày/ chia làm 12 tháng như hiện nay... Năm 1582, giáo hoàng Gregoire XIII đã ban hành thêm một cải cách nhỏ cho một chu kỳ 900 năm...

(4) HOÀNG CỰC KINH THẾ là công trình nghiên cứu công phu vĩ đại, tổng hợp trọn vẹn và chính xác môn triết học toán, mô tả bản đồ sinh hóa của vạn vật trong vũ trụ và những quy luật vận hành của trời đất cùng con người theo âm dương biến hóa trong cõi nhân gian. Tác phẩm đồ sộ này giúp chúng ta dự đoán chuẩn xác các biến chuyển thịnh suy của thời cuộc - cùng những được mất bại thành của số phận từng cá nhân, trong biến đổi ảo hóa khôn lường bất tận của tự nhiên trong vũ trụ. Tác giả: Thiệu Khang Tiết là một thiên tài xuất chúng, một vị thầy vĩ đại đã có nhiều công lao nghiên cứu và phát triển dịch học và lý học Trung Hoa.

(5) Về âm hưởng (resounding) chữ Xuân, chữ Dương,

chữ Spring [sprin] thoảng nghe có phần giống nhau.

(*) Quẻ Thái      

Quẻ Thái là quẻ thứ 11 trong Kinh, do quái Càn ở dưới và quái Khôn ở trên hợp thành, tượng trưng cho sự hanh thông tốt đẹp. Các mặt “đối” của sự vật giao hòa với nhau, thống nhất với nhau, luôn là điều kiện không thể thiếu để đạt tới hanh thông. Quẻ Thái chính là quẻ lấy sự tương thông trên dưới, âm dương ứng hợp để thuyết minh cái Lý hanh thông thuận lợi của sự vật

 

Mùa Xuân đi gác kèo ong ở rừng U Minh



Mật Ngọt Bao Đời của rng U Minh

January 7, 2023 (trích báo Người Việt)

 Thư Khôi

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Mùa Xuân hoa nở, cũng là mùa người thợ rừng gác kèo ăn ong. Rừng U Minh, thảm rừng tràm đước rộng gấp bốn lần đảo quốc Singapore, mang trong lòng những tài nguyên quý giá đã thành huyền thoại được ghi lại trong “Hương Rừng Cà Mau,” chuyện trào phúng “Bác Ba Phi,” tiểu thuyết “Đất Rừng Phương Nam”…

Đường vô rừng U Minh Hạ, con kênh ranh giữa vùng đệm và vùng lõi bảo vệ nghiêm ngặt. (Hình: Thư Khôi)

Mật, sáp ong U Minh là đặc sản góp phần tạo ra thương cảng Rạch Giá phồn thịnh. Rừng U Minh giờ chỉ còn phế tích nhưng nghề gác kèo ong và đoàn Phong Ngạn vẫn sống, mật ong U Minh vẫn lóng lánh thơm lừng.

Trong những huyền thoại của U Minh có truyện ngắn “Hương Rừng” của nhà văn Sơn Nam, về loài ong ngũ sắc cho loại mật kỳ diệu có thể luyện thành phương thuốc chữa căn bệnh đứng đầu tứ chứng nan y. Một vị ngự y triều Nguyễn đã từ quan ẩn mình trong góc rừng U Minh tìm ong luyện thuốc chữa bệnh cho cô con gái có sắc đẹp ma mị. Chàng thợ rừng giỏi nhất U Minh đã tìm ra loài ong quý, mở ra mối tình như chuyện liêu trai. Nghề gác kèo ăn ong ở U Minh không chỉ là cách khai thác lâm thổ sản độc đáo mà còn là án văn ly kỳ, huyền hoặc.

Gập ghềnh “đột nhập” rừng U Minh Hạ

Theo địa bộ triều Nguyễn thời Thiệu Trị, vùng Long Xuyên có thuế Hoàng Lạp (sáp ong). Sáp là thổ sản quý để các nước lân bang tiến cống, các địa phương tiến nạp cho triều Nguyễn.

Cũng theo Sơn Nam “Sáp là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá (bao gồm cả Cà Mau, Bạc Liêu) nổi danh (người Miên gọi là vùng Kramuon – Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ ong bám vào cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt.”

Trải qua bao cuộc biến thiên của lịch sử, thiên tai và tác động xâm thực củ con người, cháy rừng, rừng U Minh 2,000 cây số vuông giờ chỉ còn lại hai Vườn Quốc Gia U Minh Thượng (Kiên Giang) và U Minh Hạ (Cà Mau) mỗi nơi trên 8,000 hécta vùng lỏi và hơn 30,000 hécta vùng đệm. Đất rừng thu hẹp chỉ còn 1/10 ngày trước nhưng nguồn mật ong U Minh vẫn giàu, mỗi năm riêng U Minh Hạ đã khai thác hơn 1,000 tấn mật ong nguyên chất, tinh khiết. Đó chính là nhờ nghề gác kèo ong và giá trị truyền đời, luật bất thành văn của đoàn Phong Ngạn.

Chúng tôi đến ấp Vồ Dơi, trụ sở của Ban Quản Lý Vườn Quốc Gia U Minh Hạ vào giữa trưa Tháng Tư nắng cháy. Thời điểm này là chính vụ ăn ong mùa khô, sản lượng mật ong cao nhất, phẩm chất tốt nhất so với hai mùa còn lại là mùa mưa và mùa lở. Đây cũng là thời điểm rừng được bảo vệ nghiêm ngặt nhất để phòng chống cháy.

Chúng tôi đến nhà anh Võ Văn Vinh, ba đời làm thợ rừng nay định canh khai thác 6 hécta rừng nhận khoán ở vùng đệm, trồng tràm, gác kèo ong.

Với từng ấy kinh nghiệm và năng khiếu bẩm sinh, anh Vinh được dân Phong Ngạn kiềng mặt gác kèo mát tay, đạt hiệu suất cao nhất. Hóa ra cũng từng ấy vật dụng, cũng cùng trên một cánh rừng nhưng không phải ai cũng đạt kết quả như nhau. Có người gác 10 kèo, ong đóng tổ đến chín, nhưng có người chỉ đạt 4-5, thậm chí thấp hơn. Không phải do hên xui chim trời cá nước mà chủ yếu ở con mắt tinh tường, sự nhạy cảm chọn trãng, chọn hướng đặt kèo.

Tổ ong trắng muốt. (Hình: Thư Khôi)

Bí quyết chọn chỗ gác kèo

Đường vô rừng lởm chởm đất dớn (đất pha than bùn, xác là tràm đặc trưng của U Minh), khô cứng rất khó đi. Anh kể nghề gác kèo ong cũng lãng mạn và nhàn nhã như nghệ sĩ. Theo luật tự nhiên, đến mùa tràm trổ bông từ Tháng Chín tới Tháng Mười, đàn ong kéo về ăn bông, tìm chỗ đóng tổ để sinh con đẻ cái. Nếu không có kèo, ong làm tổ có khi quá cao, khi quá sâu trong rừng, việc ăn ong, lấy mật sẽ khó khăn. Gác kèo là tạo ra cái khung sườn nhà phù hợp cho ong đóng ổ.

Bộ kèo ong rất đơn giản chỉ gồm ba đoạn cây. Hai đoạn cây được cắm xuống mặt đất để làm trụ (thường là cây tràm), đầu trên vạt nhọn. Cây cao khoảng trên dưới 2 mét được gọi là cây nống, cây thấp (khoảng 1.7 mét) gọi là cây nạng. Cây thứ ba là cây kèo (cây tràm, cây cau, cây bình bát) được khoét lỗ hoặc vạt ngàm để gác lên trên đầu của cây nống và cây nạng theo một góc chênh chếch với mặt đất, theo cách nói của anh Vinh là tỉ lệ 7/3. Nói đến đây, anh Vinh nở nụ cười bí hiểm: “Cách thức đơn giản nhưng hay dở là ở chỗ chọn, phơi đẽo gọt kèo sao cho ong ưng bụng đậu lại đóng ổ, tui làm được mà không kể được!”

Chia sẻ về bí quyết chọn chỗ gác kèo, anh Vinh nói nhẹ khô. Ngoài bộ kèo thiệt ngon, ăn thua còn là chọn chỗ gác kèo, hướng gác kèo. Điểm gác kèo tốt nhất là cây tràm thấp có nhiều bông, có trảng trống, thuận đường cho ong bay, có lượng nắng mặt trời chiếu xuống thân kèo phù hợp. Thường là hai phần nắng một phần mát vào mùa mưa và một phần nắng hai phần mát vào mùa khô. Đầu kèo hướng về phía mặt trời mọc. Chọn hướng gió thích hợp tùy theo mùa gió bấc, chướng, nồm để đặt hướng gác kèo thuận cho đường bay của đàn ong… Người gác kèo phải hiểu tánh ý của đàn ong mà chọn độ cao, hướng kèo rồi còn phải dọn cỏ, cắt cây che mát chỗ này, tạo khoảng trống chỗ kia để đàn ong ưng ý đáp vô kèo đóng ổ.

Chừng nửa tháng sau ngày gác kèo, đi một vòng dòm ngó đã biết được bao nhiêu kèo có ong đóng ổ và thêm hai tuần nữa đã có thể ăn ong lấy mật.


Tổ ong trên thân kèo của anh Võ Văn Vinh. (Hình: Thư Khôi)

Ăn ong! Một cuộc dạo chơi

Hoa đẹp là hoa có gai, ong cho mật ngọt nhưng ong cũng biết chiến đấu và có vũ khí hữu hiệu để tự vệ là kim châm và nọc độc. Nhưng với thợ rừng như anh Vinh thì việc ăn ong đơn giản lẹ làng như cuộc dạo chơi.

Mặc áo quần bảo hộ, đội nón có lưới che mặt, mang theo con cúi bện bằng rễ gừa và lá tràm khô, một con dao bén, một cái thùng xô chứa mật, chỉ sau vài phút tiếp cận, bằng ba lưỡi dao, người thợ rừng đã thu hoạch xong một kèo ong và rời đi nơi khác.

Điều thú vị là tổ ong được thiết kế rất bài bản theo quy tắc nghiêm ngặt. Phần cao ở đầu kèo chứa toàn sáp và mật ong còn được gọi là khúc mức, kế đến là phần ong non và ong già. Người ăn ong đến gần đốt con cúi và thổi khói vào tổ, ong bị say khói bay đi. Khúc mức hiện ra một khối màu trắng ngà, mọng nước mật, lần ăn ong đầu tiên chỉ cần cắt khúc mức đem về nhà vắt mật.

Khi cắt mật, đường cắt thứ nhất cắt từ đầu kèo đi xuống từ trước ra sau để tách phần mật ra khỏi phần tàng ong, đường thứ hai cắt khúc mật ra khỏi tổ ong, đường thứ ba cắt ngang theo thân kèo nơi phần tổ ong gắn liền với kèo để cắt hẳn khúc mật ra khỏi tổ ong.

Từ lần thứ hai trở đi, phải làm thêm động tác tỉa gọn lại tổ ong cho gọn nhẹ để không bị gió thổi hư, Cắt một phần tổ cũ, cột vô đoạn kèo trống từ khúc mức đã cắt để ong tái tạo ổ nhanh hơn, lần thu hoạch kế tiếp ngắn hơn. Cứ như vậy, một lần đắt kèo ong có thể thu hoạch từ bốn đến năm lần cho đến khi hết mùa, ong bay đi.

Đây chính là nghệ thuật độc đáo của nghề gác kèo ong ở U Minh vừa khai thác mật, sáp ong vừa bảo tồn sinh thái. Theo các nhà khoa học thì Cambodia và Indonesia cũng có nghề ăn ong nhưng họ khai thác ổ ong chỉ một lần. Trong thập niên 1990, Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã tổ chức hội nghị để những người ăn ong các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Cambodia và Indonesia học tập cách gác kèo của U Minh.

Anh Võ Văn Vinh gác kèo ong trong một khoảng rừng thưa. (Hình: Thư Khôi)

Giải mã đoàn Phong Ngạn!

Nhưng nghề gác kèo ong không chỉ điệu nghệ, sáng tạo về kỹ thuật mà còn có một tập tục, luật bất thành văn của nghề ăn ong là luật đoàn Phong Ngạn. Người dân địa phương, những người ăn ong tự hào nhắc luật lệ của đoàn nhưng nghĩa đen đoàn Phong Ngạn là gì thì không ai biết.

Sách “Cà Mau Xưa và An Xuyên Ngày Nay” có nhắc đến thuế Phong Ngạn thu của người ăn ong, cho thấy đây không phải là từ dân gian cũng không phải là từ mới có thời Pháp thuộc mà là chữ Hán Việt theo văn bản hành chính của triều đình nhà Nguyễn, phù hợp với các loại thuế Hoàng Lạp (sáp vàng) hay thuế Điểu Đình (sân chim).

Một số phim truyền hình giải thích là nghề ăn ong phải coi theo hướng gió nên gọi là Phong Ngạn nghe trớt quớt. “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của Vương Hồng Sển, “Từ Điển Hán Việt” thì không thấy từ này.

Sách “Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam” có viết một khúc như vầy: “Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn), quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng ‘ngan’ tức là từng lô nhỏ, lấy những con rạch thiên nhiên làm ranh giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu, Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp. Nghề ăn ong gọi là ‘ăn ngan,’ lô rừng đem đấu thầu gọi là sở phong ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh).”

Nhà từ điển học Trần Văn Chánh giải thích rằng chữ Ngạn có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là bờ nhưng theo cú pháp Hán Việt thì Phong Ngạn không thể dịch là ong bờ mà phải dịch là bờ ong và cả hai đều tối nghĩa.

May mắn là “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” đã cắt nghĩa, phong là ong mật, ngạn (còn được phát âm ngàn) là rừng.

Điều đáng nói đoàn Phong Ngạn là ý nghĩa, giá trị nhân văn của nó. Dân gian Nam Kỳ có câu “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.” Cả nước có câu “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt.” Rừng U Minh không chỉ có cọp dữ, heo độc chiếc, trâu rừng mà trên không có ong độc, đại bàng, mặt đất đủ loài rắn độc, dưới nước đầy cá sấu. Người đi khai phá rừng cũng là lưu dân tứ chiến, có thể tranh giành cướp bóc thậm chí giết chóc lẫn nhau.

Trong truyện “Hương Rừng” đã thể hiện mỗi thợ rừng ngày xưa đều rèn cho mình những chiếc búa thật bén, thật cứng làm vũ khí. Tai họa có thể đến từ mọi phía nên người ăn ong từ xa xưa đã kết hợp với nhau theo từng nhóm gọi là đoàn.

Theo nhà thơ Nguyễn Trọng Tín, sinh ra và gần cả đời gắn bó với Cà Mau, thì luật lệ của đoàn Phong Ngạn rất chặt chẽ và cũng rất nhân văn.

Mỗi người trong đoàn được giao một phần rừng để gác kèo và chịu trách nhiệm bảo vệ rừng. Có lẽ do tính chất đối kháng dữ dội với thiên nhiên và con người thời ấy nên thành viên phải là đàn ông, phải búi tóc.


Anh Võ Văn Vinh và gần 10 lít mật thu hoạch từ một kèo ong. (Hình: Thư Khôi)

Người trong đoàn không được xâm phạm lãnh địa, không được ăn ong trên kèo thành viên khác. Thông thường trên mỗi đầu kèo, thân kèo có khắc tên hoặc dấu hiệu của người chủ. Khi một thành viên của đoàn mất mà không có con, cháu trai thừa kế thì số đầu kèo và phần đất rừng khai thác của người ấy sẽ chia đều cho người khác.

Để bảo vệ an toàn cũng như bảo đảm sự minh bạch, các thành viên Phong Ngạn không tự ý vô rừng mà phải báo cho đoàn trước mỗi chuyến đi. Cũng không đi một mình mà phải đi ít nhất hai người.

Khi va chạm với thú dữ với các nhóm đối kháng khác phải hết lòng hết sức, liều chết bảo vệ nhau.

Mỗi thành viên gia nhập đoàn phải qua nghi lễ trang nghiêm và cùng cắt máu ăn thề với lời thề độc địa mà thông thường nội dung bảo chứng chính là sinh mạng của mình. Người vi phạm sẽ bị xử theo luật lệ của đoàn mà mức phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi đoàn.

Trong bối cảnh thời ấy, làm một thợ rừng đơn lẻ, không có sự hỗ trợ của cộng đồng là mất mạng như chơi. Vì vậy, những thành viên của của đoàn Phong Ngạn vẫn tự hào bảo nhau người Phong Ngạn.

Mãi đến thập niên 1990, khi chưa có chủ trương quy hoạch vùng đệm và giao khoán cho dân, huyện Trần Văn Thời, U Minh đã tái lập hợp tác xã, tập đoàn Phong Ngạn với các quy tắc giản lược như khi giao dịch mua bán phải trung thực, không pha nước, không nói sai chủng loại, không đong thiếu…

Còn đó đạo ăn ong

Hiện nay, rừng vùng đệm được giao khoán, mỗi người tự gác kèo ong trên phần đất khoán của mình. Tiền đề vật chất của đoàn Phong Ngạn không còn nữa nhưng ý thức đạo lý sống đoàn kết tương trợ cùng bảo vệ rừng vẫn còn nguyên.

Anh Võ Văn Vinh tự hào và tuân thủ theo đúng đạo ăn ong của dân Phong Ngạn. Hằng năm anh khai thác hàng trăm lít mật từ 6 hécta rừng nhận khoán. Thứ mật thiên nhiên thuần khiết được bán với giá ngay thật chỉ 400,000 đồng ($18) một lít. Thu nhập ấy đủ để anh trang trải đời sống và nuôi con học đại học ngành nhà hàng khách sạn. Nguyện vọng của cháu cũng gắn với rừng U Minh là sẽ giới thiệu với du khách những đặc sản ẩm thực khẩn hoang từ nguyên liệu của rừng, sông biển U Minh theo phong cách mới. Đoàn Phong Ngạn đã quá vãng nhưng đạo và người Phong Ngạn vẫn sinh sôi. [qd]

 báo Người Việt Nam California 

Tuesday, January 3, 2023

VỢ CHỒNG TÔI ĐI THĂM ALUM ROCK PARK

 CÁCH ĐÂY 150 NĂM CÔNG VIÊN ALUM ROCK PARK  ĐƯỢC THÀNH LẬP. 

Hôm nay 14/5/2022 vợ chồng chúng tôi rủ nhau lên ALum Rock Park chơi để xem buổi lễ kỷ niệm 150 năm ra sao? 



 ALUM ROCK 150TH CELEBRATIONS

All events are FREE, family-friendly and held on weekends!

Buổi vui chơi kỷ niệm cho cộng đồng cư dân San Jose từ 11 giờ đến 4 giờ chiều cùng ngày 

                                                           BẮT ĐẦU VÀO CÔNG VIÊN 








                                                                                TỚI ĐỈNH SỐ  4    

di tích căn nhà gỗ (log cabin) từ năm 1914 -16 nay còn bảo tồn 

DẤU TÍCH KHAI MỎ NGÀY XƯA CÒN GIỮ LẠI (A mineral springs grotto on the Penitencia Creek Trail is a remnant of the history of Alum Rock Park in San Jose. Its 150th anniversary is being celebrated with a public event May 14, 2022. (Sal Pizarro/Bay Area News Group) )

                            Người đi bộ  (hiking)


Gia đình tôi may mắn di chuyển chỗ ở về số đường Toyon Avenue thành  phố San Jose nên là thành viên hay còn gọi là cư dân của ALum Rock Park này. Thành phố San Jose được thành lập vào năm 1777 thì gần 100 năm sau công viên này mới được thành lập.



Chính xác theo lịch sử San Jose thì Alum Rock Park được thành lập vào ngày 13/3/ 1872. 


MỘT ÍT LỊCH SỬ 


                   ngày xưa đầu thế kỷ 20 

Công Viên thành lập từ năm 1872 được xem như là "Khu Bảo Tồn". Tên Alum Rock lấy sự tích từ một tảng đá khổng lồ chứa toàn quặng nhôm nên mới đặt cho là Alum Rock. Với tính cách thiên nhiên và rộng lớn tới gần 300 hecta nên người ta xem Alum Rock Park là một Công Viên Yosemite Nhỏ (Little Yosemite).

Từ năm 1890 cho tới năm 1932 trước Thế Chiến Hai vùng này là nơi nghỉ dưỡng, tắm nước khoáng hồ bơi, phòng uống trà, tiệm ăn vũ trường cho giới thượng lưu người Mỹ. Có một sở thú, đường xe lửa nối thành phố San Jose tới vùng này. 

Sau Thế Chiến Hai xe hơi càng lúc càng nhiều, nhà ở cư dân càng đông. Những sinh hoạt thượng lưu trên xoá dần. Cảnh xe ngựa kéo, xe lửa lên đây đã thuộc về lịch sử...

*

Dòng lịch sử Mỹ trôi qua cuốn theo bao thăng trầm về sông nước cũng như con người. Con sông Penitencia Creek giờ này cũng cạn theo khô hạn của thời tiết. 





Một ngày xưa của "ngựa xe như nước, áo quần như nêm... " (Kiều) của thế kỷ trước lúc này không còn nữa. Nay nhìn, chỉ còn là những lối đi bộ theo sườn núi (trail) cho cộng đồng. Con khe  khô nước, hẹp dần. Theo sách vở ghi lại, ngày trước cây cỏ chim muông nơi đây còn nhiều thứ.

 

Sông khô theo thời gian, cây cỏ chim, thú rừng cũng ít ỏi, do rừng xanh biến hẹp lại. Xa xa mấy đỉnh núi cao, nay chỉ còn là những đồi trọc, cỏ màu vàng cháy.

7 năm trước khi nhà tôi về đây con suối Penitenica Creek còn nhiều nước nay hạn hán lâu dài dù là mùa mưa nhưng mưa lại ít ỏi làm nó cạn khô


Công viên Alum Rock hiện tại do City San Jose quản lý và trùng tu gìn giữ. Ngoài những hạn chế ngân sách, sự thiếu hụt về thiên nhiên như mưa và cây cỏ đang co hẹp dần vẻ đẹp của một công viên. 

Dù sao vẫn còn một con đường đi bộ leo núi để vào sâu trong công viện. Cũng có đường cho xe hơi chạy lên tới các điểm vui chơi picnic và một chặng đều có khu parking dành cho xe hơi. 


 Đã là cư dân ở đây, cái giá trị về thể dục tức là đi hiking (từa tựa như đi theo men núi chứ chưa phải là môn leo núi) và đi xe đạp men theo con đường hiking này. Du ngoạn đi vào công viên Alum Rock Park, đóng trại giải trí gia đình cuối tuần vừa vui vừa có thể tăng cao sức khỏe cùng tinh thần cho cộng đồng quanh ở vùng này.


Chứng minh về giá trị này là hình ảnh những chiếc xe hơi, nhiều tay xe đạp vẫn tới công viên này hàng ngày và đông nhất là cuối tuần hay ngày lễ. 


Vợ chồng tôi bảo nhau đã may mắn có nhà ở đây thì nên đi HIKING (đi bộ theo núi dốc) vào cuối tuần để có thêm sức khỏe



CON KHE PENITENCIA CREEK THỜI NAY  đã khô mùa hạn này còn khô hơn.



CON ĐƯỜNG TRAIL ĐI MEN THEO PENITENCIA CREEK sau lưng DHL  là đỉnh Boccado cao 578 mét so với mực nước biển 



TỚI ĐƯỢC NƠI VUI CHƠI TẠI SỐ 5 

















vui chơi trên đỉnh SỐ 5 NƠI LÀM event KỶ NIỆM  150 NĂM THÀNH LẬP Alum Rock Park 







Trên đường về, men theo dòng suối Penitencia cạn khô. Mùa hè lác đác một đôi con chim xanh như hình trên âm thầm bay vụt qua đậu trên mấy nhánh cây khô chơ vơ bên suối. Vừa đi, tôi vừa ước mơ sao cho trời có mưa nhiều lại, con sông Penitecia Creek sẽ có nhiều nước, cây cỏ xanh tươi hơn, thú vật trở về, cho cuộc đời thêm phần tươi đẹp



2 HÌNH LƯU CŨ

MÙA HÈ NÓNG KHÔ 







HÌNH ẢNH KHI MƯA VỀ CÔNG VIÊN NÀY SẼ TRỞ LẠI MÀU XANH 


ĐHL 14/5/2022




5 1. 2023 
SAU 4 NĂM HẠN NẶNG NƯỚC ĐÃ VỀ CALIFORNIA 

California là tiểu bang nông nghiệp chịu khô hạn hơn 4 năm nay Mùa mưa đầu năm 2023 có tin vui khi mưa lớn đã về (nhờ bão ) đem khối lượng nước về cho toàn tiểu bang 

5/1/2023

sáng 5/1/2023 tôi đi dạo theo Alum Rock Park vùng nhà tôi ở







QUÁN TIẾT CANH MỤ THẦY NGÀY XƯA (edition)

  một chút tản mạn lai rai   Thưa bạn đọc nhất là bạn ghiền tiết canh,  Chuyện tô tiết canh có gì lạ đâu sao mà nhắc mãi?  nhưng thưa bạn ng...