Friday, December 16, 2022

CÁI THỜI MỰC TÍM MỒNG TƠI

 


 MỒNG TƠI- TỪ CA DAO VÀ ĐÃ VÀO THƠ


Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có giậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng...

.(Người Hàng Xóm-  thơ Nguyễn Bính 1940)

Bài thơ ngày xưa của Thi Sĩ Nguyễn Bính từng viết bên hồ Trúc Bạch Hà Nội, đâu phải chỉ lời thơ chất phát chân thật như ta tưởng; hình ảnh dậu mồng tơi đã vào thơ mới với bao lãng mạn, trữ tình. Nói như thế, mồng tơi trong ca dao ngày trước chỉ là hình ảnh đơn thuần, chất phát chăng? chưa hẳn, nếu chúng ta khám phá ra rằng khóm cây có màu lá xanh non mơn mởn kia, mấy chùm trái lúc chín chuyển qua màu đen tuyền vẫn mang nhiều nét "ướt át, tình cảm" chẳng kém gì thơ văn hiện đại:

Gần nhà mà chẳng sang chơi

Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu

 Mồng tơi chẳng bắc được đâu

Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang…

Ngày xưa là ngày xưa nào? Ôi! ca dao xưa sao  tình ý lại ‘đong đưa’ đến thế. Những ví von hư cấu từ cái “cầu mồng tơi”  cho đến "dải yếm" của nàng chỉ là ẩn dụ cho tình yêu trai gái đang đạt đến phúthuận lòng để nàng sẵn sàng ‘cho đi' tất cả... 

  

                      BỤI MỒNG TƠI NHÀ TÔI



Đó là chuyện mồng tơi trong ca dao hay thơ. Trở về thực tế trong đời, hôm nay người viết đang đứng trước khóm mồng tơi sau vườn. Số hạt mồng tơi do bà con bên quê nhà gửi qua, nay đã

 leo giàn. Mới leo giàn thôi, nhưng tôi đã thưởng thức được hai bữa canh mồng tơi do bà xã tôi nấu. Khóm mồng tơi sau khi ra lá lại bắt đầu có trái. Những chùm trái xanh non tuần trước nay đang chuyển thành màu đen hạt huyền. Một chút nào bâng khuâng, do màu đen của trái mồng tơi làm tôi đang đứng ở đây nhưng hồn tôi bất chợt trôi về nửa thế kỷ trước, một thời nhỏ dại của MỰC MỒNG TƠI.

Ngày xưa đó chắc còn nhiều bạn còn nhớ đến hạt mồng tơi chín, chúng từng được chúng ta tạm dùng làm mực tím “viết chơi”. Viết mà chơi - đồng nghĩa với viết tạm thôi, do thứ mực này không thể nào thay mực viên được. Ôi chao, chúng ta phải hái tới nhiều chùm hạt mồng tơi đen nhánh, xong ép ra thứ nước tím rồi chấm, rồi viết trên trang vở học trò.

Những lứa tuổi thơ cứ tiếp nối đi qua. Làm sao chúng ta quên bờ dậu nghiêng nghiêng cho cây mồng tơi vắt vẻo, lá xanh đến mát mắt cùng những hạt đến hồi chín muồi đen nhánh. Ai từng 'phát minh' ra loại mực này? có thể đó là những lúc cạn mực, hay bình mực đổ rồi không còn một giọt? cũng có thể là một cái thú khám phá hay tò mò của tuổi nhỏ học trò. Có con chim sâu nghiêng đầu trên cành dậu mồng tơi lắc lẻo, chúng vội bay đi khi tôi thơ thẩn tìm cho đủ số hột mồng tơi chín đậm đen nhánh để vào nhà 'chế ' ra mực. Một ước mơ nho nhỏ của tuổi ấu thơ đó là 'làm mực'. Đó là lúc cái quán đầu xóm không còn mực viên để bán cho cậu học trò. Trước sau gì, mực mồng tơi cũng không nộp bài được,  do mực là mực và mồng tơi là mồng tơi. Thực tế  đã phá đi bao thứ tưởng tượng trong trí óc thơ ngây.

 


Dù sao chăng nữa, "mực mồng tơi" màu tím nhạt một thời góp công giúp cho tôi tập vài nét nguệch ngoạc trên giấy học trò...tiếc rằng nó không thể tồn tại lâu dài để trở thành một kỷ niệm nào đó cho mình.

Thật vậy, mực mồng tơi làm sao để sánh với những thứ mực thật và ngay cả những thứ mực cao cấp sau này nằm trong các thứ “bút bi” mà thời đó hay gọi là "bút nguyên tử". Tuổi lớn khôn đi kèm với bút giấy đắt tiền và những câu thơ, lời văn lãng mạn đa tình nào đó.  xa rời một thời với "mực mồng tơi" cho những ai hay thương về kỷ niệm ấu thơ mới còn chút gì nhớ đến nó và viết cho thứ mực này một vài câu an ủi.

Người đời, biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ từng viết về kỷ niệm ngày xưa thơ mộng của tình yêu đôi lứa, bao trang tình sử lãng mạn, sầu thương nào đó. Nhiều áng văn chương hay thơ tình mơ mộng từng được nắn nót trên nhiều trang giấy đẹp...

Và thời gian qua mau, quê hương tiếp tục tô bồi thêm tuổi lớn. Những trang giấy pellure màu xanh mơ mộng, màu hồng tình yêu, dần dà thay thế cho trang giấy vở học trò. Nhiều loại mực và viết đắt tiền sẽ dần hồi là phương tiện cho lứa tuổi biết yêu, đã giã từ tuổi nhỏ.

Có khi nào bạn và tôi, thoáng một giây phút nào đó cùng nhớ về ngày xưa bé bỏng với hình ảnh bình MỰC MỒNG TƠI? Hình ảnh đó thực sự đã trôi xa về miền dĩ vãng

NHƯNG CHÚNG TA VẪN THƯƠNG HOÀI MỘT THỜI CÓ MỰC MỒNG TƠI

 

Những cô cậu học trò nay bước vào thời viết máy. Chúng ta tự hào làm sao khi bước vào thời trung học. Chúng ta lại “hãnh diện” khi trên túi áo trái lại lấp ló nắp viết máy màu vàng óng ánh. Tuyệt đỉnh ước mơ là ngòi pilot hay tạm được thì có  cây viết máy parker. Những thứ viết này đều tiện lợi cho học trò trung học, chẳng còn là thời tiểu học - lớp ba lớp tư… với ve lọ, mực viên cùng cái cán viết cùng mấy thứ lưỡi viết chấm mực thô sơ, lạc hậu.


Thời thế đổi dời vùn vụt.  Có mấy ai tưởng tượng ra đời sống hôm nay chúng ta đang sống với thời đại “a còng”. Thật vậy, chắc hẳn là không ai lường được cái cảnh bưu điện - giây thép nay người làm việc lại phải ngồi không việc. Cuộc đời thật lắm đổi thay.

Cảnh đợi cánh thư xanh người yêu từ phương trời xa tít ngày qua ngày ngóng bác bưu tá viên đầu ngõ nay quả không còn. Đánh giây thép “tích tịch tè tè…” rồi cũng bác bưu tá viên đó, vài chữ trên tờ điện tín khẩn cấp nay cũng đi vào dĩ vãng. Thế đó, thế gian biến đổi khôn lường không ai ngờ được. Nhưng đố ai biết được, có thể mai đây sẽ có một ngày-  bạn cũng như tôi thèm và nhớ làm sao một “lá thư xanh” với đôi dòng chữ tự tay người viết xuống. Có thể lúc đó, có ai cho là chuyện  “huyền thoại” mà thôi. Thời buổi hiện đại, bạn thân lắm thì sẽ hiện trong iphone đôi dòng "mét- xịt", thế là đủ  ấm lòng rồi. Ngày đó trong tương lai không xa, người viết tin rằng sẽ tới thật đó bạn ạ. Đó là tương lai gần; khi thiên hạ lười viết chẳng cần nắn nót nét chữ làm chi. Ngón tay nay quen rồi khi chỉ biết gõ và bấm thôi.  Những dòng "mét xịt" trong Iphone sẽ thay cho hàng chữ dịu dàng trìu mến trong lá thư xanh nào đó. Phong bì và những con tem không ai còn nhớ. Hình ảnh tờ giấy viết thư loại pelure màu xanh hi vọng hay hồng tình yêu sẽ không ai nhớ hay biết đến nữa! Những thứ đó sẽ là “đồ cổ” trong một bảo tàng văn hóa nào đó. Chúng ta đang sống trong buổi giao thời giữa viết và giấy vẫn còn cùng máy tính điện tử.  Giữa những chiếc iphone càng lúc càng tinh vi và những con 'rô- bốt tin học'…tất cả sẽ  thay người cùng viết và giấy một thời đã dùng chúng trong trao đổi tâm tư.

Một ngày, sẽ có người mong nhìn lại một thời mực tím cùng đôi dòng tự tình trên trang vở nhưng sẽ không còn tìm ra nữa. Ôi Những câu thơ nắn nót công phu ghi lại từ một bài thơ lãng mạn đa tình của một thi sĩ nổi danh. Thật vậy, một thời có nhiều bài thơ tình hay và rung động  đến não lòng làm người ta phải nắn nót chép lại, e ấp cất dấu bên trong cuốn vở học trò hay cuốn sổ nhật ký ngày xanh.

 Còn nhiều chuyện để nhắc lại một thời VIẾT và GIẤY. Lãng mạn hơn một chút, chúng ta có thể gọi đây là Nỗi Buồn Bút Mực. Nếu ai còn đi ngược thời gian xa hơn nữa sẽ còn nhớ lại ngày  xưa còn bé, một thuở dại khờ bên dậu mồng tơi mà thương về một sắc tím thời gian trong đó có MỰC MỒNG TƠI. Thơ thẩn tuổi già, có những buổi chiều mây trời bảng lảng, có khi chúng ta thả hồn trôi về dĩ  vãng mà thương về hình ảnh ngày xưa./.


ĐHL EDITION 10/12/2022

Thursday, December 15, 2022

HAI VỢ CHỒNG GIÀ CÙNG CHUYẾN XE BUÝT SAN JOSE


Tôi thuờng gặp vợ chồng lão già đi cùng chuyến xe BUÝT 64 của thành phố San Jose. Khác với sự thoải mái của tôi- một mình với sách cặp đến trường- lão khi nào cũng bận bịu với người vợ bại liệt phải ngồi xe lăn.

   Hai vợ chồng có vẻ nghèo nàn. Bà lão hình dáng gầy gò, da nhăm tụm. Hơi thở của bà xem chừng mệt nhọc. Chiếc xe đẩy lại nặng thêm do nó phải được cột thêm một bình dưỡng khí bên cạnh. Ông lão thì râu tóc lởm chởm. Hai má lão hóp do thiếu răng. Điều này làm gương mặt ông co rúm. Đôi mắt ông lão nhỏ, mí lại sụp, núp dưới hai hàng lông mày bạc trắng. Da mặt lão mốc thếch.  Hai bên má bị che mất bởi đám râu bạc. Cái mũ trùm đầu bằng nỉ bạc phếch, che gần hết đầu tóc, tuy nhiên vẫn còn những chùm tóc bạc, cong queo lòi ra bên ngoài.

  Đưa vợ lên xe xong, ông chồng không đợi người tài xế làm bổn phận trợ giúp cho người khuyết tật, nhanh nhẹn cột dây an toàn cho chiếc xe đẩy. Lão thành thạo khi từng vị trí cột dây an toàn ở đâu lão đều biết. Những người tài xế coi bộ quen mặt vợ chồng này nên để yên cho lão làm nhiệm vụ người chồng.

  Tôi lặng lẽ quan sát người chồng đang đứng bên vợ nói chuyện với hai ba hành khách. Theo tôi, ông lão coi bộ thích thú và hạnh phúc với bổn phận ông làm. Chưa bao giờ tôi thấy ông to tiếng hay cằn nhằn do hàng ngày phải làm công việc đơn điệu, đó là đẩy xe cho vợ. Có thể tôi đoán đúng. Ông hiện là người duy nhất phải chăm lo từng “miếng ăn giấc ngủ” cho bà ở nhà nữa.

 Người chồng già nua này đang hãnh diện với công việc. Chăm sóc người vợ không còn một chút khả năng, nói đúng hơn là một "gánh nặng" đối với cách nghĩ của người khác. Riêng tôi, mọi dịp gặp hai vợ chồng này trên chuyến xe buýt,  chưa bao giờ tôi thấy người chồng ra vẻ bực dọc bên chiếc xe lăn.

Có điều lão nói hơi nhiều.

 Khi chiếc xe lăn được cột yên vào vị trí chỉ định, là lúc lão bắt chuyện ngay với người khác. Lão nói đủ thứ chuyện. Ai cũng nhận ra chút gì đó hưng phấn,vui vẻ, niềm hạnh phúc quá dễ dàng bắt gặp trên gương mặt xương xẩu , khô khốc kia. Phẩm chất một người chồng tận tụy, chung thủy đang thể hiện qua sự phục vụ cho một bà lão, khó tánh, hay gắt gỏng,  do không còn một khả năng di chuyển, phải ngồi mãi trên chiếc xe lăn.

    Người ta còn thêm một cảm nghĩ rằng: lão phục vụ người vợ, là niềm vui duy nhất,không thể thiếu và dường như lão "cần vậy" là đằng khác.  Vui vẻ trên xe với mọi người; thỉnh thoảng lão cúi thấp, nho nhỏ nói vài câu với bà như "dỗ dành đứa trẻ". Giọng ngọt ngào, mơn trớn. Hai hàm râu bên má lão rung rung theo lời nói, đôi khi tôi cảm thấy động lòng.

 
 -Ước gì mình có một ít tính “kiên trì và chịu đựng” như lão!

  Có thể tôi sai, có phần xúc phạm với lão, giá như lão biết rằng tôi dùng hai chữ "chịu đựng".

  Hai vợ chồng đó hay xuống xe vào nửa đường, gần downtown. Bà tiếp tục càu nhàu ngay khi xuống trạm.
 Tôi ngoái theo nhìn. Dáng lão vừa đẩy xe cho vợ đi nhanh vừa chỉ trỏ như làm trò "con rối" cho bà vui...

 HƠN MỘT NĂM SAU 



Mùa xuân năm nay, cũng trên chuyến xe
BUÝT 64 này tôi thấy vắng hình bóng vợ chồng kia cùng chiếc xe lăn. Bỗng một hôm, có một ông già lên xe. Sau vài phút để ý, tôi nhận ngay chính là lão già năm ngoái.


Nhưng lần này lão lên xe một mình. Khuôn mặt ông già năm nay co rúm nhiều hơn. Màu râu nay bạc hơn, rậm rạp, lởm chởm đến mức độ “gớm ghiếc”! Hai con mắt ti hí đen thẩm, như một vũ trụ đen tối, sâu thẳm, càng khó đoán ông đang nhìn ai?


Tôi nhận ra lưng lão càng gù hơn trước. Tay xách thêm một cái túi cũ mèm đựng những thứ lỉnh kỉnh,  lão ngồi co ro đằng góc xa của dãy ghế trống do toán học sinh vừa xuống.  Lão thỉnh thoảng nói lẩm bẩm, không ai nghe. Thỉnh thoảng lão húng  hắng ho; có khi lão cố gắng dằn cơn ho lại sợ phiền lòng người khác.

Tôi cầm lòng không được- dĩ nhiên là nói bằng tiếng Anh: 

    
 -Chào ông, ông còn nhớ tôi không?


Lão ngẩng lên một lát:


    
    - À...à! tôi nhớ anh... anh hay đi vè downtown; tôi thuờng gặp mà.


Tôi cảm thấy thoải mái khi lão nhận ra tôi.
 Ngần ngừ ít giây, tôi đánh bạo hỏi tiếp:


    -T
hế thì vợ ông đâu, thưa ông?


Lão chợt chỉ ngón tay lên trời:


    
 -Bà ấy mất rồi.
     -Ô! xin chia buồn cùng ông.
     -Bà ấy ra đi ngay mùa Christmas năm ngoái.


Tôi ái ngại an ủi:
   
 -Tôi tin bà lên thiên đường rồi ông ạ.
Bắt chước ông ta, tôi vừa nói vừa chỉ ngón tay lên trời. Như thế cái ngày tôi gặp vợ chồng ông lão lần đầu tiên cũng là cái ngày gần cuối đời của bà lão.

Bỗng ông già trở nên vui vẻ.  Đôi mắt như sáng hơn, rồi lại đưa ngón tay lên trời thêm lần nữa.  Thoáng nhìn ông kỹ hơn, tôi tin ông hiện đang sống cô độc. Lão từng vui với công việc là người tự nguyện đẩy xe và săn sóc vợ. Giờ người vợ bệnh hoạn kia bỏ lão một mình để "lên thiên đường " trước, thì sao lão  tránh được buồn rầu và suy sụp.

Hôm nay tôi là người duy nhất bắt chuyện với lão. Trong tiếng ho kia, lão tự biết thân phận ngồi chỗ nào xa, kín đáo, để khỏi khó chịu cho ai. Tôi chào lão, nắm chặt song vịn sát trần, bước lui ít bước để khỏi làm phiền.

Chiếc xe buýt hàng ngày vẫn đón vài người tật nguyền đi xe lăn như người vợ quá cố của lão. Có những người già, những đứa bé bị bệnh DAO đi xe lăn. Anh tài xế vẫn kiên trì làm công việc thuờng nhật là móc dây an toàn cho từng người khách bệnh hoạn này khỏi chao chạnh lúc xe chạy.  Giờ lão là ngườ hết nhiệm vụ. Người thân yêu nhất kia đã vĩnh viễn chia ra đi. Lão là người "ở lại" trên cõi trần này buồn nhiều hơn vui. Giờ con người này thật sự cô độc, trong một xã hội không có thứ văn hoá "tam đại, tứ đại đồng đường". Bà lão còn sống, lão là người chăm sóc. Nay bà lão ra đi, để lão một mình trơ trọi, không ai săn sóc, không ai ở kề.


 Lão lại tiếp tục húng hắng ho,  tiếp tục che miệng hay cúi gầm xuống lẩm bẩm nói một mình. Có thể ông già đang tâm sự với bà trong chốn vô hình nào chăng?


 Nửa đường, ông già xuống xe. Cái túi đựng thức ăn của lão chợt lộ lên hàng chữ "Cơ Quan Cứu Tế CITY TEAM San Jose"; bên trong chắc hẳn là một số đồ hộp thức ăn cấp phát cho người nghèo.

Chiếc xe tiếp tục chạy.  Tôi ngoái lại nhìn, hình bóng con người cô đơn kia lảo đảo bước về huớng khác để lại cái trạm ngừng xe trống vắng bên đường. /.


Đinh Hoa Lư 
edition
15/12/2022



CÓ ĐIỀU CẦN NÓI THẲNG, NÓI THẬT VỚI CỘNG ĐỒNG VN TẠI HOA KỲ



CĂN BỆNH 'TỰ KIÊU VỀ QUÁ KHỨ' và "LỪA GẠT TƯƠNG LAI' TẠI HẢI NGOẠI

Nếu bạn luôn nói thật, bạn khỏi cần phải ghi nhớ những gì bạn vừa nói ra.
 Mark Twain 

-------------------------------- 

 BỆNH 'TỰ KIÊU VỀ  QUÁ KHỨ' LÀ GÌ ?

    Quá khứ bao giờ cũng đẹp, xưa nay phần lớn người đời đều nghĩ vậy. Do không ai tìm lại được quá khứ nên quá khứ càng quí. Nói vậy, có những quá khứ xấu xa thì người đời cố quên hay nhắc lại để làm gương cho hậu thế.

  Người viết xin bàn về mặt đẹp của dĩ vãng. Dĩ vãng càng đẹp cho  ai sống xa quê huơng. Từ hoàn cảnh ly huơng người ta tìm đến nhau, bao hàn huyên tâm sự hay ôn lại quá khứ .

   Thời gian dần qua, số lần hội ngộ trở nên 'lạm phát', tình đồng huơng, đồng đội …phai dần, rồi tình cảm bớt nồng ấm và những sự kiện nảy sinh.

'Sinh sự, sự sinh' khi đã nhạt phai thì tự ái cá nhân bùng phát mạnh thế là cộng đồng chia đôi, chia ba, hội đoàn manh mún. Chia tay đã đành, ngó mặt nhau chắc 'hiếm'?

    Không chia được thì người ta tìm cớ để chia. Trong những cái 'nguyên cớ' có căn bệnh 'tự kiêu về quá khứ' chỉ muốn binh chủng mình, sắc áo mình là 'hiển hách nhất'? 

-Cùng chung lý tưởng, cùng "màu cờ sắc áo" tuy nay chẳng ai còn gì, nhưng  hội ngộ lâu ngày 'sinh sự'. Thế là …CHIA!

  Trước tiên từng hội đoàn theo kiểu binh chủng. Binh chủng gặp nhau hoài 'cũng chán' lại chia ra kiểu 'trường MẸ' là trường nào? Trong một ngành lại mọc thêm cái hội nhỏ hơn là SVSQ cho nó 'hách':


-'Mấy cha' kia, tuy cùng ngành nhưng đâu phải là SVSQ ? v v

  -Cách nhau bốn thập niên là tình Dân Tộc VN lâu ngày 'phát ngán' chia ra “Đồng Hương” các tỉnh. Đồng hương cùng tỉnh gặp nhau coi bộ đông đúc lâu ngày cũng 'chán' thế là chia hai.  Hay chung vai gánh vác nhiều tầng lớp người  nào 'vai u thịt bắp' nào 'bình dân học vụ'làm mai một đi cái danh 'trí thức' của mình đi? Đâu được!

Thế là “Bye bye”… đâu bằng tụ hội theo danh xưng mấy ngôi trường nổi tiếng của mình năm xưa? 

   Cái bệnh  CHIA ĐÔI, CHIA BA... coi thế mà càng ngày càng trầm trọng. Đâu riêng gì California, các tiểu bang xa như Texas hay xa hơn nữa bên Canada bên trời Úc trời Âu cũng thế. Xa quê huơng, từ chung một DÂN TỘC đã chia thành TỈNH. Từ TỈNH lại chia thành trường …Mà đã hội ngộ theo trường thì chẳng bao giờ tới với các chú bác ông bà vì họ đâu được đi học các trường 'danh giá' như họ. Thế là thói 'hợm hĩnh , tự kiêu' về quá khứ được dịp 'phát triển' , tính khiêm cung bị tiêu ma không biết khi nào ?

* "TỰ KIÊU   về quá khứ' trong 'tiếm danh'
Nhà binh khi sang xứ người, lạ quá sao có số người' tự phong'  lên một cấp?  dù thời đó đang khi "dự tranh, chạy điểm" cũng tự động nâng lên một cấp? Trong hình treo phòng khách, có người lại vẽ thêm 'lon' vào ve áo cho nó 'hách'?  Sau này H.O qua đông, thì họ từ từ 'tự giác' dấu đi do sợ bị  'lật tẩy'.  Lạ quá, mỗi lần gặp nhau lại cứ thản nhiên kêu cả cấp bậc chức vụ người nghe cứ tưởng như đang “SỐNG LẠI QUÁ KHỨ” không biết lúc nào?

-Dạ thưa Đại tá…thưa thiếu tướng v v

Rồi mấy ông cựu tá cựu tướng cũng ‘im lìm’ luôn do họ nghe cũng ‘khoai khoái’ chút nào mặc dù đó là điều tối kỵ cho một quân nhân có lòng Tự Trọng. 

Phất phơ một năm, ghi danh cho có cũng 'vỗ ngực' cho mình là dân 'đại học', không phải là sinh viên học sinh cũng xưng “Học Đại” thế mới kỳ?

THÓI "ÁO THỤNG VÁI NHAU" 

Lớp người đã qua được xứ người nhưng lại mãi sống trong hoang tưởng. Họ ngồi trước Computer tưởng tượng thế giới thu nhỏ vào trong bàn phím hay vận nước đang nằm trong trí tưởng tượng của họ. Chứng hoang tưởng này cũng lừa được một số người dù họ vẫn có bề dày tuổi tác và kinh nghiệm chiến tranh đau khổ tù đày...

Hoang tưởng và hám danh vẫn lấn át lý trí cùng hoàn cảnh thực tế cho họ. Chức này vị trí nọ, bộ này ngành kia ngập ngụa trong các nhà hàng cho họ 'hốt tiền'. Thói 'áo thụng vái nhau' từ đây cứ sinh sôi nảy nở cho mấy cụ còn mơ mơ màng màng không biết mình ngang đâu và tình hình thực tại ngang đâu? 

Mơ màng như thế thì chỉ làm giới trẻ hay dư luận đồng bào đồng hương càng lúc càng ngao ngán. May thay không ai chạy thoát được với thời gian. Lớp già hoang tưởng này 'áo thụng vái nhau' dựng nhiều vở kịch như trong tuồng hội chỉ một thời gian thôi. Họ từ từ giã biệt cõi trần mang theo trong người bao nỗi hận thiên thu do 'bệnh hoang tưởng' mà họ tự tạo lấy.

THÓI XA RỜI BÀ CON, TÁCH RIÊNG TRONG ‘ỐC ĐẢO TRÍ THỨC DỔM’
Ngày xưa nước ta là thuộc địa Pháp, nền văn hóa là văn hóa thuộc địa, sau này phôi thai trong thời Cộng Hòa không được bao năm. Cơ may hiện tại đang ở trong một xã hội văn minh, khách quan là phải hơn xưa. Nhưng vẫn cố chấp cho xưa là "nhất' không chịu mở mang tầm nhìn, đó là hội chứng 'thủ cựu'. Nay lại tách rời chú bác đồng huơng. không còn đi chung với bà con làng nước sợ 'ngang bằng đẳng cấp' ? chối bỏ hiện tại cũng là nguyên nhân của bao đụng chạm hay là tự cao không đáng.

*Chối bỏ quê quán nguồn gốc 

    Nay xin bàn thêm chuyện trớ trêu do lại có người chối bỏ gốc tích quê quán do sợ mang tiếng hay biết mình xuất thân từ 'quê nghèo , thô lậu' . Trong máu họ vẫn còn chất "quê miềng ' nhưng đi đâu cũng chối không dám nhìn, lâu ngày người qua đông cũng bị phanh phui ...'té ra là người... 'quê miềng ' hỉ ?
   Đó là chuyện một đôi người thôi. Nhưng mỉa mai thay có luôn cả "làng" người ta biết hết gồm cả mấy họ xuất xứ từ đâu, người ta còn nhớ là họ nào tại QT, di dân vào tỉnh khác, xa xăm gì cho cam? Sao không tìm ra nguồn gốc tự 'vỗ ngực' mà xưng danh chúng tôi là gốc QT! "Cây có gốc, suối có nguồn"? Nói giọng thì đặc 'quê miềng ' nhưng lạ thay!  họ không bao giờ 'nhìn nhận' quay về với đồng huơng, lại xin xỏ, tốn kém, bám đuôi theo  HỘI NGƯỜI ta? Thế mà lạ, người ta chẳng ai chào hỏi do tiếng nói 'đặc sệt', dễ gì người ta xem mình là đồng quê đồng gốc được? Mình có chối bỏ, cũng không gột bỏ được sự thật:
 "Quê miềng" có trong huyết quản, luân lưu trong người, chất giọng, mãi hoài là những sự thật không thể nào chối bỏ hay rứt ra cho đặng?

THÓI 'BƯƠI MÓC' NÓI XẤU NHAU 

Đồng hương càng đông càng có nhiều dịp tụ hội. Hội ngộ cộng đồng, đình đám lễ hội, gia đình thân hữu, sinh hoạt tôn giáo có dịp cho bà con gần nhau. Qua xứ người thói xưa bơi móc đời tư đặt điều lại phát sinh mạnh thêm. Hội họp gặp nhau, hay quán cà phê rảnh rỗi lại bắt đầu nói chuyện người khác. Trong chính trị có khi lại mạnh thêm cái bệnh 'chụp mũ' một thứ bệnh gây đau khổ oan trái cho bạn hữu đồng hương nhưng chẳng mấy ai bỏ bớt? Ai không đồng ý hay nói không a dua với mình thì chụp ngay cho "cái nón cối" thật to gây hoang mang đau khổ cho người đối lập. Ngay cả chốn thiền môn sư thầy cảnh báo đạo hữu tăng chúng chớ nên thế nhưng chẳng ai bỏ bớt mới lạ kỳ, chứng này càng lúc càng nặng? Chấp tay niệm phật nhưng cái tâm chẳng tu?  Nơi thiền viện đâu phải chốn 'tụm năm tụm ba'? Dư luận tạo thế lực, ngay đi chùa để hướng tâm với Phật thế nhưng vẫn 'phân biệt chùa thầy?' chỉ cần ủng hộ hay không là thầy ' sẽ NO hay ĐÓI'!'


CỘNG ĐỒNG CHIA ĐÔI CHIA BA MANH MÚN-CUỐI CÙNG ĐỒNG HƯƠNG VN ĐỀU THIỆT THÒI

Từ sự cạnh tranh hay hơn thua nhau về vai vế hay chức sắc hay tranh luận phải trái hơn thua trong cộng đồng đưa đến sự chia rẽ càng lúc càng trầm trọng. 

Người Việt hải ngoại càng lúc càng đông đáng lý phải có tiếng nói hay vị trí quan trọng trong chính trường Mỹ hay các nước khác có người VN đông. Hậu quả chia rẽ lại đi đến một hậu quả thiệt thòi to lớn về chính trường là "MẤT PHIẾU"?! 

Thế là các vị trí đại diện tại thành phố, quận, khu  và ngay cả quốc hội tiểu bang và liên bang càng vắng tên nghị viên hay các chức vụ khác dần dần? 

Đây là một kết quả tiêu cực quan trọng nhất cho người VN hải ngoại nhất là cho cộng đồng Tỵ Nạn CS tại Mỹ?

Cái đáng buồn sau những trận 'bão' tranh đua giành giật và các vị trí nói trên mất vào tay người khác sắc dân khác trong lúc lá phiếu người VN lại đông hơn họ mới là điều oan trái?

Nhưng rồi chuyện đáng buồn rằng: chẳng thấy mấy "Ông Bà" nào dám can đảm nhìn ra lỗi lầm này với đồng bào cả?


 THÓI 'LỪA GẠT TƯƠNG LAI' LÀ GÌ?

Đó là chuyện 'tự cao về quá khứ ', chuyện 'qua mặt tương lai' có hay không? Có đấy thưa quý bạn đọc. 

Thủ thuật này thế nào? Dễ lắm , 'mập mờ chữ nghĩa' để bà con hiểu lầm. Hiểu lầm này làm tăng thêm uy danh cho mình. Thí dụ có kẻ tự nguyện  'xách cặp' cho một vị dân biểu nào đó, dĩ nhiên khi tự nguyện thì khỏi trả lương ai mà không chấp nhận, cố tình cho thiên hạ lầm mình đã leo lên 'nấc thang chính trị'ở xứ người ? Hào quang phải tự mình tỏa sáng chứ không nên 'nương nhờ ánh sáng' người khác để tỏa sáng cho mình. Khi ta đứng cạnh một tổng thống, một dân biểu nhưng không hẳn ta ngang hàng với tổng thống hay dân biểu. Đó là cái thói thấy kẻ sang bắt quàng làm họ” đó mà.  Mấy chục năm tới nước văn minh cũng còn người mang tính này trong máu?.

   Nói đến sự 'mập mờ chữ nghĩa'  trong bán buôn lươn lẹo, thấy nước người ta phát triển tế bào gốc cũng mượn uy tiếng 'STEM CELL' bỏ vào tên thuốc, sau khi sửa vài chữ cái cho thiên hạ lầm để mua 'ào ào'; hoăc giả quảng cáo giải thích căn bệnh nguồn bệnh rất hay cứ bê ngay bài vở người ta vào mà quảng cáo, nhưng thuốc bên trong 'bột sắn bột mì' ai biết được? Cái thủ thuật mấy vị này bán rất cao gía vừa mau giàu vừa người mình dễ tin thuốc "tiên' vì một lọ từ 45 tới 60 thậm chí tới non cả 100 đô la ai mà ngờ chất liệu bên trong dù có tốt cũng không giá trị tương đồng?

   Ngang đây phải bàn thêm thói 'lươn lẹo ' chữ nghĩa; ngày xưa người mình rất khiêm cung, đông y sĩ thì họ xưng là đông y sĩ.  Hiện nay hải ngoại ai cũng Bác Sĩ hết trơn' ? tất cả lọ thuốc đông y đều là  bác sĩ ? Tên này ngày xưa không thấy trong nhản thuốc đông y bao giờ cả ? không biết hai chữ cái mập mờ BS –doctorate  degree- ở trường đại học y khoa nào tại hải ngoại ?

 Giờ người viết xin bàn thêm thói 'cáo mượn oai hùm' , mập mờ chữ nghĩa ở đây , lấy thí dụ câu này 'đang công tác tại đại học X" chà bà con mình tại quê nhà mừng rơn ; Ông Hai cho 'chút mắm':

-Thằng Mít bữa nay làm tại đại học X rồi'

Thế là Bà Hai thêm 'chút muối' :

-Thằng Mít dạy tại đại học X bên Mĩ rồi

Tiếng lành đồn xa, té ra Cu Mít chỉ làm lao công tại đó!

Ởm ờ chữ nghĩa cần phải nói đó cái mánh cố ý nói không cụ thể, 'hơi thiếu một xíu', ví dụ đi dạy 'bình dân' - tờ i ti - cho con nít bên này biết thêm chút tiếng 'mẹ đẻ' (VN) khi con em VN cao ngồng, mắt đen mũi tẹt mà một chữ VN cắn đôi không biết thì 'ốt dôột' (hổ thẹn) với bà con bên này!  
Thế là người ta 'phết' vào “công tác ‘giảng dạy’ tại Hoa Kỳ' ? Ông Hai bên nhà lần nữa 'lỗ mũi phồng to như trái cà chua' :

   -Má mầy nghe chưa? Con Năm Ruốc bữa nay dạy học bên Mỹ rồi!

Bà Hai lần nữa phóng đại với hàng xóm:

-Con Năm Ruốc bữa nay nó dạy đại học ở bển rồi dì Tư à!


Cố tình bỏ bớt vài từ hay thêm vài từ để 'đánh lừa' người đọc dĩ nhiên mục đích là tôn vinh mình lên nhiều CẤP' .
ví dụ: Community College là Đại Học Cộng Đồng dành cho nhiều cấp độ học. Bằng cấp (degree) mãn khóa chỉ hai bậc AS (Asociate Science) hay AA (Asociate of Art) tức dưới cử nhân.  Dùng mập mờ bỏ đi hai chữ Cộng Đồng còn lại Đại Học X hay Đại Học Y nào đó thì người đọc có thể lầm là University tức là đại học chính thức?

   Sơ lược vài căn bệnh kể ra trên,  quan trọng nhất là căn bệnh 'chia rẽ';  thứ đến là háo danh hay 'mượn danh', 'mập mờ chữ nghĩa' 'đánh lận con đen' ...là những thứ sau này lại nương vào hệ thống truyền thông hải ngoại nên 'lây lan' khá mạnh.

  Mới đọc có thể để thẳng thắn nhìn ra những sự thật chua chát thay cho nhiều lời giả dối lấp che. Dù sao chăng nữa, chúng ta suy lại đây là chuyện đáng bàn. Sau hơn bốn mươi năm ly huơng, chúng ta đang được hào quang của những thành công nơi xứ người che mất  căn bệnh "tự kiêu về quá khứ' hay chứng 'lừa gạt tương lai', những thứ chúng ta nên phanh phui và dẹp bỏ./.


HAI LÚA USA  


2/12/2021

THÀNH KIẾN CHỐNG LẠI SỰ VƯƠN LÊN CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ TẠI HOA KỲ




-Mustafa Emirbayer: Ph. D 1989 , Harvard University là giáo sư Xã hội học tại đại học Wisconsin

 





-Mattew Desmond : phó giáo sư khoa Xã hội Học Ph.D đại học Wisconsin , hội viên sơ cấp Khoa Xã Hội Harvard University 


====

Lời mở đầu của người dịch

    Trước khi vào bài viết của hai tác giả- Dr Emibrayer và Dr Desmond, người dịch xin định nghĩa vắn tắt thế nào là  THÀNH KIẾN VỀ THIỂU SỐ GƯƠNG MẪU (stereotype of model minority). Chúng ta có thể hiểu rằng, biệt ngữ này liên quan đến sự phấn đấu vươn lên của các cộng đồng thiểu số tại Hoa Kỳ.  Nhóm từ này có cách nhìn tiêu cực (negative) như là một định kiến đối với sự thành công của nhóm thiểu số tại quê hương mới của họ. Các nhóm thiểu số (minorities) sau khi định cư tại nước Mỹ, do họ đa phần có ý chí huớng thượng, vươn lên cùng nổi bật về mọi mặt từ giáo dục cho đến kinh tế, thương trường... họ từng đạt nhiều thành tích về gương mẫu, ít gây tội phạm cũng như ổn định đời sống gia đình.  

Tuy nhiên phải phân định rằng không phải dân tộc nhập cư vào Mỹ ai cũng thế; trong phạm vi bài viết của các tác giả trên, các giáo sư này có chủ đích nghiên cứu về các nhóm dân thiểu số có nguồn gốc là Á châu như Trung hoa, Việt nam, Phi Luật Tân, Nam hàn...

 Đinh hoa Lư

BA Social Science

San Jose State University, 2013


***


  Khó mà phủ nhận rằng đa số người Mỹ gốc Á hiện nay đã thành tựu khá lớn trong lĩnh vực giáo dục hiện tại dù họ chỉ chiếm tới 3 % dân số. Học sinh gốc Á hiện tại có tới 5 % trên tổng số sinh viên đại học. Người Mỹ gốc Trung hoa , Ấn độ, và Đại hàn đi vào đại học gấp hai lần so với người da trắng . Vào thời điểm năm 200330% học sinh da trắng tốt nghiệp cử nhân hay cao hơn trong khi đó sinh viên gốc Á tốt nghiệp tới 50%. Chúng ta biết rằng dẫu rằng không phải gốc dân Á châu đều tối ưu tai học đường-  nhờ vào các bậc cha mẹ của tằng lớp di dân hay tỵ nạn gốc Á này đều áp dụng đa phần đều có truyền thống giáo huấn nghiêm nhặt việc học hành con cái cũng như bài vở tại nhà.

Nhưng lối giáo huấn này chưa phải là nguyên nhân độc nhất cho sự thành công con cái của các nhóm dân Mỹ gốc Á này. Qua nhiều nghiên cứu chúng ta thấy rằng cha mẹ của dân da đen thuờng có kỳ vọng cao hơn ở con cái đối với người da trắng thế mà tỷ số học sinh da trắng lại tốt nghiệp cao hơn. Có nhiều  thứ để chúng ta tìm hiểu ra nguyên nhân tại vì sao? Có một "áp lực" nào đó chăng lên người Mỹ gốc Á đi đến thành công? Không phải phần lớn nhờ vào truyền thống cha mẹ mà có một nguyên nhân mạnh mẻ hơn: đó là Xã Hội Hoa Kỳ.

    Người Mỹ trắng tại Hoa kỳ đã nhìn ra "gương mẫu gốc thiểu số" này từ thế kỷ mười chín. Sau Nội chiến Hoa kỳ chính tờ báo Baton Rouge đã có lần so di dân Trung Hoa với người da đen , họ từng cho rằng "biết vâng lời và tháo vát hơn người da đen, làm việc cần mẫn không cần giám sát cùng lúc có có thói quen tươm tất sạch sẽ ". Cùng thời này tờ Thời Báo Nữu Ước lại nhạo báng di dân Ái nhĩ Lan như câu "John Chinaman"(ông Tàu) đáng được nhập vào xã hội Mỹ hơn ông "Paddy"(Ái nhĩ Lan). Hình ảnh về gương mẫu gốc thiểu số này chúng ta lại thấy sống lại vào thời có phong trào tranh đấu dân quyền năm 1966 khi William Peterson cho đăng vào tờ Nữu Ước Thời Báo CHủ Nhật về " Mẫu Chuyện Thành Công từ khuôn Mẫu của người Mỹ gốc Nhật " "một chuẩn mực của công dân mà chúng ta nên chọn lấy " . Ông ta viết "Người Mỹ gốc Nhật tốt nhất trong các nhóm dân trong xã hội chúng ta, kể cả người da trắng sinh ra tại đây" Peterson đã liên hệ đến người Mỹ gốc Phi châu và người Mỹ gốc La tin để chúng dẫn sự tương phản như là " những nhóm thiểu số tệ hại " Đề tài này của Peterson được người ta đọc nhiều và dĩ nhiên từ đó người Mỹ gốc Á đã thể hiện trên truyền thông đại chúng như là mẫu mực thành công của các dân tộc không phải là da trắng. Các tờ báo như Time, Newsweek, và Sixty Minutes đã "phong tước" cho người dân gốc Á "Thiểu Số Gương Mẫu"; Tạp chí Fortune từng gọi họ là "Thiểu số Siêu hạng" và ngay cả tờ The New Republic cùng công nhận họ là "Thắng lợi của người Á châu" là "câu chuyện thành công lớn nhất của nước Mỹ ". Các nhà báo từng nhiệt tình khen ngợi người Mỹ gốc Á đang "chiếm hết giải thuởng về khoa học ", nổi bật hơn những sắc dân khác từ học đường và cả sở làm " và ngay cả "vượt trội hơn người Mỹ trắng ".

    Có cách suy nghĩ về người Mỹ gốc Á trong phạm trù của định kiến về thiểu số gương mẫu, bằng cách  suy nghĩ về họ. Trước tiên và là điều trước nhất, ngay tại học đường họ lên như diều vì trúng vào những bộ môn đúng vào điểm mạnh của họ như là những môn có tính kỹ thuật, vật lý, toán kể cả khoa học vi tính tất cả đều hợp với những thứ họ được uốn nắn từ tuổi nhỏ theo thói quen trầm lặng cùng lễ độ. Đó là điều nói ra thẳng thừng nhưng đó lại là lối giải thích tích cực. Nhưng chúng ta nên suy nghĩ và lắng nghe cho kỹ lại, thì chả có gì để một định kiến được gọi là "tích cực " . Do rằng định kiến chỉ là hệ quả của những gì chúng ta đơn giản hóa quá mức cho một lối suy nghĩ, nó sẽ tạo nên hậu quả nguy hiểm cho những người đang làm mục tiêu cho họ. 

Đối với người Mỹ gốc Á, thành công là những điều lo toan- không chỉ đối với thành công thôi, ngay cả khi đạt đến mức độ thiên tài đều mang tới thiết thòi cho họ. Khi họ thành công--lấy thí dụ các giải về khoa học mà mọi người khác đang thèm muốn, hay ngay cả lúc thắng giải trong cuộc thi đánh vần--thì những người Mỹ không phải gốc Á lại cho rằng: "À, dĩ nhiên là họ thắng thôi. Họ là người Á Châu mà ". Nhưng khi họ thua thì cũng chính những người đó lại có lối suy nghĩ: "Tại sao lại không thắng? họ là người Á Châu mà ?!". Trong cả hai trường hợp phẩm chất chủng tộc của người Mỹ gốc Á kia đang chiếm ưu thế hơn cá nhân họ, đã che lấp hết sự thông minh cùng nổ lực của chính họ.

   Còn gì nữa? mỗi loại xét đoán định kiến với cái từ "tích cực" đều có cái thâm ý đối với nó. Lấy thí dụ, khi chúng ta nói "Người da đen đều là những lực sĩ mạnh bạo " nó lại có thâm ý rằng "Người da đen không thông minh lắm " Hay khi chúng ta cho rằng, "Người Do thái quá giỏi trong hoạch định về tiền bạc " câu này cũng có thâm ý là "Người Do thái keo kiệt, bủn xỉn cùng tham lam! ". Tương tự như thế, tất cả lời ngợi khen vinh danh sự đóng góp của người Mỹ gốc Á chắc rằng đều có gắn thêm cái hậu ý đả phá (degrading) đi cùng cả thôi.

Trong tác phẩm của Frank Wu, cuốn Da Vàng- Yellow có viết "Thông minh có nghĩa là biết cách tính toán thật khéo léo ; Được giải về toán cùng khoa học chỉ là cái giỏi máy móc không có tính sáng tạo , thiếu năng khiếu về giữa cá nhân và cá nhân và tài lãnh đạo. Có lễ độ, có nghĩa là chỉ biết nín lặng cùng khúm núm. Siêng năng tức phải là một kẻ cạnh tranh không công bằng trong những con người bình thuờng và không phải là một người đa năng cùng dễ mến.

     Đối với một số người Mỹ gốc Á, áp lực thiểu số gương mẫu đó từng trở thành một gánh nặng cho họ. Đàn bà trẻ gốc Á, thuờng đối mặt với áp lực từ cha mẹ cùng xã hội phải trở thành những học sinh giỏi, những phụ nữ, bạn gái cùng những người vợ vẹn toàn... đã trở thành những con số tự vẫn cao lên mức báo động. Đàn bà gốc Á hiện nay tại trung học và đại học đều có con số tự vẫn cao nhất trong các sắc dân. Thật vậy, tự vẫn đã trở thành nguyên nhân đứng thứ hai trong số các các chết của đàn bà gốc Á từ lớp tuổi từ 15 đến 24. Có trường hợp, sau chiếc dương cầm độc tấu bóng lộn cùng những bảng ghi toàn diện kia một người đàn bà ngồi yên buồn bả bất động chẳng khác gì " cái xác đã chôn trên mặt đất".

   Bên cạnh trút tức bực lên tâm trí  nhiều người Mỹ gốc Á, định kiến về gương mẫu thiểu số còn làm trầm trọng thêm hố ngăn cách chủng tộc. Sự e ngại về chuyện quá thành đạt của người Á châu thuờng tạo điều kiện dễ dàng cho cảm giác bất ổn tại các trường đại học giữa những học sinh không gốc Á, da trắng và không da trắng. Các sinh viên của đại học công nghệ MIT lại lấy các chữ đầu MIT mà giễu cợt rằng những chữ này là "Made In Taiwan" thay vì Massachusetts Institute of Technology (MIT). Sinh viên đại học UC Los Angeles thì lại diễu UCLA là "United Caucasians Lost among Asians" ( đám Da Trắng Lạc Lỏng Giữa Dân Á Châu ) Sinh viên của UC Berkeley thì được chào đón bằng từ ngữ " Hãy dừng lại lũ Á châu Kia " những chữ này viết bằng sơn ngay tại vách khu đại học kỹ sư, cùng lúc có một số cựu sinh trường này cho biết " có một số sinh viên nói rằng nếu họ thấy có đông sinh viên Á châu trong lớp họ sẽ rút lui vì tầm thi đua sẽ quá cao ".  Một tờ báo cũng ghi chú lời một sinh viên đại học Yale không phải gốc Á khuyên rằng : "nếu bạn kém về môn toán hay khoa học nhưng nếu bạn bị ghi danh vào lớp có đông sinh viên gốc Á , việc duy nhất phải làm cho bạn hãy chuyển qua thời khóa khác ngay ".

Do rằng họ nhìn những người gốc Á đơn thuần qua khia cạnh chủng tộc--một chủng tộc sáng giá về học lực. Một số sinh viên không phải gốc Á lại đối đãi với họ như là một mối đe dọa cho họ về thành công học vấn cũng như chuyện thịnh vượng tương lai.

   Thật khó xử, do định kiến về thiểu số gương mẫu lại khéo sắp xếp cùng với những tính toán thâm hiểm cho áp bức cũng như hạ nhục những nhóm dân không phải da trắng qua thành kiến cũng như ngụy biện...


Mustafa Emirbayer: Ph. D 1989 , Harvard University
Mattew Desmond: Ph.D Wisconsin University
Desmond, Matthew & Emirbayer, Mustafa. (2010). Racial domination, racial progress, 327-331.




Dịch by Đinh hoa Lư (27/10/2013)

edition 15/12/2022

---------------------------------------------- 

source

Desmond, Matthew & Emirbayer, Mustafa. (2010). Racial domination, racial progress, 327-331

bài đã đăng tại 



ĐI CHIẾN DICH CỦA CÁC SVSQ VNCH

ĐI CHIẾN DỊCH- TƯỞNG NIỆM 50 NĂM NGÀY KÝ THỎA ƯỚC "TRÓI TAY QLVNCH"- BA LÊ  27/1/1973 ĐI CHIẾN DỊCH những SVSQ  KHÓA 8/72 ĐI CHIẾN...