Sunday, November 6, 2022

TRẦN TÚY HUỆ - LỚP TÔI NGÀY ĐÓ & CHUYỆN THUỞ HỌC TRÒ





LỚP TÔI NGÀY ĐÓ

Trần túy Huệ



Nhân gian có câu: Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò, thật quả không sai, áp dụng vô lớp tôi thì đúng 100%. Thuở đó, lớp đệ tam C2 của tôi niên khóa 69-70 học ở dãy gần MACV- Lũ học trò được góp từ nhiều lớp đệ tứ trong trường, cùng với một số từ các trường công tư ở các quận lị như Triệu phong - Đông hà - Cam lộ- Gio linh- Hải lăng. Có nhiều bạn chưa biết nhau. Duy có điều là nghịch ngợm và ngổ ngáo là trong lớp có lắm đứa tương đồng. Phía nữ chúng tôi nghịch nhất là cô nàng Mỹ Liên. Ngoài ra các bạn nữ khác thì vui tính và chăm học như TN Diệu Liên, Ng thị Nhạn , Tống thị Huê, Lê thị Hạnh, Hương Thủy, Mỹ Tín, Huyền, Lệ Hằng V.v..

Mỹ Liên- Túy Huệ 1970

Trưởng ban 'chọc phá' lớp tôi Lê thị Mỹ Liên thuở đó dong dỏng người nước da không được trắng lắm, tóc dài ưa thắt bím hai bên - Cứ mỗi lần điểm danh , nghe đến tên bạn nào thuộc ‘giống trái’ là ả ta tiếp theo : “rụng cuống”. Trong lớp Mỹ Liên hay đặt tên các bạn theo đặc điểm từng người: Ví dụ, Mỹ Tín có mấy cái răng cời duyên , y thị bèn dỏng dạc gọi Mộng Cời, NG thị Muội trong một lần điểm danh cô giáo đọc nhầm là Nuôi, rứa là cô nàng được mang tên mới là Ngọc Nuôi. Lê đình Bình bị y thị kêu là Cu Lì Lì chẳng biết tại răng ? Còn riêng tôi hắn cải sang tên mới là Mộng Đở. Chẳng là tại vì có lần giờ CD thầy giáo bận việc phải rời lớp. Trước khi đi, thầy dặn lớp trật tự rồi ra bài cho học sinh làm, đề bài tôi còn nhớ rõ: Quốc hồn, quốc túy là gì? Lớp học im lặng làm bài được một lát. Có vài tiếng thở ra, tôi dòm quanh thấy cả lớp nghệt mặt ra , cắn bút nhíu mày hỏi nhau:

- Quốc túy là chi rứa bây?

đứa ni dòm đứa kia lắc đầu. Bất chợt có ai đó cao giọng:

- hỏi Túy Huệ tề, quốc túy là chi rứa Huệ ơi ?

Đang ngẫm nghĩ làm bài , tự nhiên nghe réo tên, phản ứng tự nhiên tôi kêu lên:

- Đỡ rứa, răng hỏi tui?

Cả lớp cười ầm lên làm tui đỏ mặt cúi đầu. Lại tiếng một ai đó nữa, giọng kéo dài:

-Người ta hỏi thôi, có ai dở chưởng ra mô mà đòi đỡ?

Rứa là từ đó Mỹ Liên mỗi khi muốn kêu tới tui, hắn dõng dạc:" Mộng Đỡ", và cái tên cúng cơm cha mẹ đặt cho của tui hắn đã thực sự quên luôn . Nói tới điều ni vì có lần lớp tôi tổ chức du ngoạn lăng tẩm Huế. Cả lớp tập trung đúng giờ tại nhà Mỹ Liên để chờ xe. Tui vì còn phải cầu viện ông anh họ xin giúp ba tôi mới cho đi nên tới trễ. Vừa bước tới cửa, Mỹ Liên thở ra:

-Con Mộng Đở tới rồi thầy, đi thôi cả trưa !

Thầy Anh Văn nhìn tui rồi thở ra:

-mai chừ cứ nghe nói chờ M Đở, thầy không nghĩ ra ai, té ra là T Huệ.

-Cho tới chừ hai đứa cách nhau nửa vòng trái đất, mỗi khi tâm sự qua phôn, thỉnh thoảng hắn vẫn còn kêu tui là M Đở. Ngoài mấy cô bạn trong lớp còn thêm một bạn nam sinh bị cải tên nữa. Từ cái tên hiền lành: Nguyễn văn Hiếu sang gọi là Babilac chỉ vì anh chàng có khuôn mặt 'búng ra sữa' , thật là tội nghiệp và bất lợi cho anh chàng khi tán gái !

Cô bạn có lắm chiêu đùa tai quái; một bận nghỉ hai giờ đầu y thị rủ tui lên dãy lầu chơi, tui cũng đi theo hắn. Tới phòng cuối của dãy, hắn dừng lại gõ cửa. Vị giáo sư phụ trách môn toán hay lý hóa chi đó mở cửa ngó ra. Mỹ Liên tới gần nói với thầy xin gặp một ai đó, thầy giáo kêu tên một anh học sinh đi ra cửa, mặt lạ hoắc. Mỹ Liên quay qua tui:

- Đở tề, dôn mi ra đó, ưng nói chi thì nói đi.

Tui thộn mặt ra không biết hắn đang muốn điều chi; anh con trai cũng rứa, M Liên liến thoắng quay qua tui lay vai nói:

-Con ni bờ hớ quá! cấy dôn rồi mà còn ồ ngai chi nữa, ưng chi thì nói đi để dôn mi còn phải vô học cho kịp giờ.

Anh con trai mặt đỏ lừ, hấp tấp trở vô lại chỗ ngồi. Thầy giáo biết M Liên muốn đùa nên chỉ đứng cười, còn hai đứa tui vừa kéo nhau đi xuống cầu thang vừa gây gỗ nhau. M Liên vừa cười toe vừa chạy bay về lớp. Những trò đùa vẫn từng ngày- từng ngày xảy ra. Có lần ra chơi tui với M Liên lục 'cặp táp' Mộng Cời để tìm đọc trộm thư tình mà mấy ông con trai trồng cây si cô nàng gởi tới. Vốn Mỹ Tín rất dễ thương , đào hoa nên có nhiều chàng để ý, thỉnh thoảng có thư nên tụi tui hay ưa đọc lén. Bữa đó không có thư, hai đứa tìm thấy có bốn đồng bạc lẻ, bèn ‘xi tiêu’ rồi rủ nhau xuống nhà chú Phi mua kẹo ăn . Cả bọn 3 đứa: M Liên, Muội và tui đang vừa đi vừa giành ăn. Tới lớp sớn sác không nhìn, đi ào vô tỉnh bơ, nửa đường mới nhận ra trên bàn giáo sư có thầy giáo mới đang ngồi nhìn cả bọn, thất kinh 3 đứa chạy ùa về chỗ ngồi, quên không lên tiếng xin phép. Thì ra vị giáo sư mới dạy thay thầy sử địa cũ đã vô lớp, tụi tui cứ tưởng chưa có thầy nên mới tự nhiên như 'người Hà Nội'. Lúc này M Liên nhìn lên, tui cũng rứa và liếc qua hắn tui thấy hắn đang bụm miệng che nụ cười rồi ghé tai tui nói nhỏ :

-Thầy ni giống Ấn độ quá mi hỉ ?

Tui dòm kỷ thầy, quả thầy giống ông Ấn độ nơi gói bột cà ri. Tui buộc miệng:

-cà ri nị !

Con nhỏ khoái chí cười to: "đúng quá" . Thầy nghiêm mặt nhìn hai đứa, M Liên bụm miệng nín khe. Hắn còn nhận xét,

-thầy có hai chùm râu mép dài le ngoe coi mất trật tự, nhìn khó chịu quá mi hí !

Tui chêm vô:

-hay là có dịp mô đó mình tết con rít râu cho thầy đẹp trai hơn hơn hè!

Nhỏ liền đập vai tui cười đưa ý kiến:

- mi phải cột ruy băng nữa mới đẹp nghe!

Hai đứa khúc khích cười. Thầy giáo nghe nhưng vốn tính độ lượng không truy tội chúng tôi .

Tuần tiếp đến giờ thầy, M Liên ôm bụng rên lên:

- thấy thầy là tau đói bụng quá!

Tui hỏi:

- tại răng?

- môn sử địa, hai giờ cuối , trưa rồi mà nhìn thầy là cứ nhớ đến tô cà ri vẻ răng mà không đói cho được? Mô rồi, dây nơ mi hứa đem đi mô ! mau lên tết rít cho thầy đi.
Rứa là lại cười toe cả hai đứa- và chúng tôi gọi thầy là thầy 'cà ri nị' từ đó.Và cũng từ đó tụi tui rất trông đến giờ sử địa để được nghe thầy giảng bài. Thầy có lối giảng bài rất hấp dẫn nên cả lớp đều chú ý nghe dù giờ thầy lúc nào cũng thấy đói bụng .

Bao nhiêu năm qua rồi, chuyện cũ có thể được bắt đầu kể lại bằng hai tiếng ngày xưa, rứa mà mỗi khi nhớ lại như mới vừa xảy ra hôm qua, vẫn làm tui bật cười vì sự nghịch ngợm của nhân vật thứ ba sau quỉ và ma! của lũ học trò lớp tôi ngày đó./

=================== 
CHUYỆN  THUỞ HỌC TRÒ 

by Trần túy Huệ 


(riêng về các bạn đệ tam C niên khoá 1969-1970 NH) Trần túy Huệ



Sau 4 năm học từ niên khóa 65-66, một lần nữa cảm giác bỡ ngỡ lại đến khi tôi bước chân vào lớp đệ tam niên khóa 69-70. Bỡ ngỡ vì lẽ các bạn cùng lớp từ 4 năm qua nay đã chia nhau đi theo từng ban mà mỗi ban bạn đã tự chọn lựa, dựa vào ý thích hay khả năng của mình. Lớp học tôi bây gìơ là một tập hợp từ rất nhiều trường lớp: từ trường BĐTT, Têrêxa hay các từ ĐH, HL, CL, GL, TP v.v..Thuở ấy hs trong lớp nữ bao cũng chỉ không quá 1/3 sĩ số, điều này khiến cho cô bé học trò dù không được ‘ái ố mỹ miều’ như một số nhỏ, luôn luôn các cô đều được (hay bị) một vài cái đầu ‘húi cua’ theo sau. Tôi cũng không ngoại lệ, dù lúc đó tôi thuộc nhóm ngây ngô trong lớp. Mới khai giảng được không bao lâu , chưa biết hết tên các bạn cùng lớp, một buổi trên đường đi học về 1 mình, tôi nghe tiếng kêu sau lưng “ cho nói chuyện một chút .” Quay lại, tôi thấy một tên con trai quen quen, sau một giây nhớ ra tôi biết tên này học cùng lớp, nhưng vẫn chưa biết tên. Tôi ngẩn ra nhìn hắn, linh tính dạy tôi không nên ‘ nghe chuyện’ của mấy tên con trai đòi ‘nói chuyện’ với vẻ mặt hơi ‘bất thường’. Thế là tôi thoái thác “tui không có chuyện chi để nói cả” rồi hấp tấp đi như chạy về nhà. Tưởng rứa là yên, nhưng không. Một bữa trưa đi học về, vừa bước chân vô cửa tôi đã thấy ba tôi vẻ mặt hằm hằm, tay lăm lăm cầm cái chổi lông gà đưa về hướng tôi to tiếng hỏi:

-Đứng đó tau hỏi, đứa mô gởi thư cho mi ri?

Tôi nhìn theo hướng ba tôi chỉ-một xấp thư nằm lộn xộn trên bàn:

-Dạ con không biết, thư chi rứa?

Ba tôi điên tiết:
-Đừng có giả đò hỉ ! gởi tới tên mi mà nói không biết.
-Con không biết ai gởi thiệt mà !

Ba tôi bật dậy la to:

thương nì …yêu nì…sau mỗi chữ “Nì” là một cán chổi vụt vào mông tôi đau điếng..

Ông còn hăm he:

-liệu hồn đó, mi mới nứt mắt mà bày đặt ‘trai gái’ chết với tau nghe chưa?


Trần túy Huệ va Le thi My Lien 1969 du lich lang Tu Duc Hue


Lứa tuổi 16, thuở đó tôi chưa biết ‘yêu tinh’ chi hết- chừ bị đòn oan vì tên tôi nằm ở bì thư. Sau đó ba tôi vò lại một cục liệng vô thùng rác, tôi chỉ đọc được một thoáng phía ngoài bì: người gởi là tên học trò cùng lớp- thiệt là tức ‘bất chết luôn!’ Đó là tên đã chận đường ‘đòi nói chuyện’ hôm trước. Hắn đã viết thư rồi nhờ em trai tôi đem về. Thằng nhỏ ‘cắc cớ’ đưa cho ba tôi mới xảy ra cớ sự. Tôi bị đòn oan, đang tìm cách trả đũa thì lại vướng thêm cái cảnh bực mình: hễ sắp tới giờ đi học lại nhìn thấy ‘Hắn’ bên kia đường chờ để cùng đi. Tôi ‘tỵ nạn’ bằng cách mỗi sáng đợi mấy nhóm bạn nữ sinh đi cùng đường để nhập bọn cho an toàn.

Trên đoạn đường đi cùng bọn tôi tâm sự vụn vặt hay đùa cợt vô tư. Trong đám không có cô nào cùng lớp , nhóm này từ đường Gia Long, Trưng Trắc, có nhiều bạn từ hướng Phan đình Phùng. Tuổi trẻ dễ thân thiện cho nên có bạn cũng ‘đồng bệnh tương lân’ vơí tôi muốn ‘tỵ nạn’ mấy ông con trai ‘theo đuôi’. Suốt đoạn đường nếu có tay ‘húi cua’ nào muốn ‘léng phéng’ là cả bọn cùng ‘chẩu mỏ’ chọc quê.

Một bữa nọ, đang rôm rả nói cười một đứa trong bọn tôi chợt dừng lại, chỉ tay qua bên kia đường:

-Ê, tụi bây coi tề..

cả bọn ngó qua thấy một ông mặc áo liền quần đang chận đường tán tỉnh một chị nữ sinh. Tôi kêu lên:

-Ông nớ có ‘lông mày môi’ bây ơi ! tau nghe nói mấy ông nớ xạo lắm!

Một đứa khác lên tiếng:

-Chị nớ là người trong mộng của anh tau đó, đứa mô qua ‘giải vây’ đi?

Con nhỏ bạn quay qua tôi, vừa nói vừa xô mạnh.

-đi qua cứu bồ đi.

Bất đắc dĩ tôi làm mặt tỉnh bơ ‘xấn xổ’ tới đứng giữa hai người, quay qua hướng ông ‘ria mép’:

-Chừ mà chú còn đứng đây răng ! thím đau ‘bất chết’ ở nhà tề! chú mau về đi, chú mau về đi!

Ông ‘lông mày môi’ tròn xoe mắt:

-Thím nào !!! đau gì thế?

-Đừng giả đò nữa, thím vợ chú chứ ai, thím đau bụng đẻ chớ đau chi nữa mà hỏi, về mau đem thím đi nhà hộ sinh cho kịp không thím đẻ ‘vại ra trữa nhà’ đó nghe.
Chị nữ sinh nghe đến đây thì ù té chạy vô trường không còn dám quay lại. Tôi cũng chạy theo bén gót trước khi ‘đại nạn’ xảy đến.

Bước vô lớp tôi còn cảm thấy tim đập ‘loạn xà ngầu’, tự nhủ thầm “răng mình gan dữ không biết, vừa rồi mình giải vây hay phá đám chị nữ sinh nớ?”

Tuổi nhỏ mau quên, sau 5 tiết học mọi chuyện qua đi, tôi lại tiếp tục đứng trước cổng trường chờ nhập bọn với nhóm bạn nữ sinh đó để cùng tung tăng về nhà.
Xui quá, mấy o nớ nghỉ 2 gìơ cuối nên tôi đành lẫn vào mấy o khác nhưng chỉ đi cùng một đoạn đường thôi. Rồi từng đứa, từng đứa lần lượt rẽ vào ngõ nhà họ. Giờ chỉ còn lại mình tôi giữa trưa hè nắng gắt, ôi cái bụng xẹp lép đói meo. Cũng hay, có mấy gói kẹo me mấy bạn cho hồi sáng, dòm quanh không thấy ai (ăn mà cũng mắc cỡ) tôi mò trong cặp lôi ra nhấm nháp một mình…chợt một người từ trong hẽm bước vụt ra đâm sầm vào vào cái cặp trên tay tôi, cái cặp bị hất mạnh xuống đường. Bao nhiêu gia tài học trò giờ đây la liệt, vung vãi ra đường. “Thủ phạm’ phải ngồi chồm hổm lượm lại mọi thứ bỏ vào cặp tôi. Tôi bặm môi, trợn mắt dòm xuống ‘chẩu mỏ’ định mắng cho cái tên ‘sớn sác’ một trận cho đỡ tức trong bụng, chưa kịp hả miệng thì ‘thủ phạm’ ngẩn lên cười to:

-O nhỏ ơi o nhỏ, sao bé tếu quá vậy?

tôi nhìn qua tay anh ta đưa lên thì mơí tá hỏa- cái hình ông HYNOS tôi cắt ra từ hộp kem đánh răng định bụng sẽ gởi cho ông bạn anh L. anh con ông bác tôi vì anh ta cứ muốn viết thư làm quen. Chả là vì anh em tôi chỉ suýt soát tuổi nhau, anh họ tôi chỉ hơn tôi 3 tuổi, không chịu đi học tiếp, chọn kiếp nhà binh. Anh tôi đóng ở Đ nẵng, tụi tôi vẫn thư từ liên lạc đều với nhau. (thuở đó chưa có điện thoại phổ thông như hiện nay)Nội dung những là thư của em gái anh chỉ là những câu chuyện thường nhật được tôi khôi hài đi nên mỗi lần đọc thư tôi anh tôi cười thật to làm cho ông bạn cùng đơn vị của anh tôi tò mò năn nỉ xin đọc ‘ké’. Tiến thêm bước nữa, lại nỉ năn anh tôi muốn làm anh em kết nghĩa để liên lạc thư từ. Nghe qua cũng vô hại, tôi định viết thư trả lời anh ấy về câu hỏi “thích mẫu con trai nào?” Tôi đang định tâm cắt mẫu ÔNG HYNOS này và rằng “đây là thần tượng của tôi”.

Thiệt là tai hại, cái ông ria mép, giọng nói Bắc kỳ đã khám phá ra cái nghịch ngầm của tôi.

“ Thiệt là quê xệ!”-tôi giật phắt cái cặp táp, ngoe-ngoảy bỏ đi.

Có tiếng lải-nhải sau lưng tôi:

- O nhỏ ơi! anh xin lỗi rồi đó, còn bé thì phải tỏ ra hối lỗi đi chớ?

Tôi ngẩn ngơ:

-Cái chi?chú muốn chi nữa?

-Thì chuyện hồi sáng đó, bé quên rồi ư? Nói cho bé biết, anh là trai một mẹ anh già lắm rồi nên anh muốn có bạn gái để sau đó cưới cho mẹ một nàng dâu. Anh phải lấy phép một tuần về đây thăm bà chị vì nghe nói gái miền Trung hiền lành chung thủy. Giờ tìm mãi mới gặp được một cô ưng ý, đang làm quen thì bé xen vào phá đám, giờ cô nàng không còn tin anh nữa. Anh lại hết thời gian đi phép, bé phải điền vào
‘chổ trống’, giờ anh theo bé về nhà nghe?


Thế mà tôi vẫn không hiểu ý, tôi dừng lại:

-Chỗ trống mô? Răng tui phải điền vô? Để làm chi rứa?

- thì bé phải làm quen với anh, làm đối tượng của anh rồi..rồi.
.
Chợt hiểu ra tôi la toáng lên:
- Chú ni bờ hớ quá! Tui mới 16 tuổi đừng đi theo tui, tránh ra đi.

-Không được, bé phải đền bù cái tội tày trời hồi sáng.

Ông ta nhất quyết không tránh đường, tôi phải xuống nước năn nỉ:

- Tui phải về, bụng tui đang sôi rồn rột đây nì.

- anh ta hốt hoảng :

sao bé đau bụng ư? Ai bảo ăn me cam thảo cho lắm vào.

“chết!”, ông ta đang hiểu lầm lớn, tôi la to:

- chú ni bờ hớ rứa, bụng tôi sôi vì đói có đau bụng mô mà nói dị rứa.
vậy sao? Anh cũng đang đói đây mình vào quán ăn trưa nghe?

Nghe vậy tôi lại càng hoảng hơn, chuyện này đối với tôi mới chính là chuyện ‘tày trời’.
Thế là còn lại bao gói me tôi ‘dụi’ đại vào tay anh ta.

- Nì, tui đền cho chú đây, ăn đi cả đói bụng, tui phải về không thì ba tui ‘trọi cho mà lũng trôốt’.

Bất ngờ vì mớ me cam thảo tự dưng bị ‘dụi’ đại vào tay nữa ngớ ra vì mấy tiếng nói rặc ròng ‘thổ ngữ’ của tôi nên ông ta đứng như trời trồng. Thừa dịp, tôi co giò dông thẳng-vừa chạy tôi vừa hú hồn. “Thật đáng kiếp cho mình ai biểu nghe nhỏ tê xúi dại, phá đám người ta, chừ bị họ đùa dai trả đũa, thật đáng đời.”

Mấy chục năm trôi qua mau, nghĩ tới chuyện xưa khi mình đã là trung niên thiếu phụ, tôi nhớ câu tục ngữ “gậy ông đập lưng ông” mà nếu theo tiếng Quảng trị là “cậy mệ đập mệ” thì thật là đúng cho những trò đùa tai quái của thuở học trò.

San Jose April 24, 2008
Trần túy Huệ
(NH 65-72)

TỈNH BÌNH TUY TRƯỚC VÀ SAU KHI NGƯỜI QUẢNG TRỊ DI DÂN VÀO

 

TỈNH BÌNH TUY


Ðất nước Quê hương Con người: Tỉnh Bình Tuy



Lời nói đầu: Bình Tuy trước năm 1975 là một tỉnh rất nhỏ nằm về phía Bắc của Vùng 3 Chiến Thuật, tuy là tỉnh nhỏ nhưng không phải dễ ở! Bằng chứng chỉ trong có 4 năm (1971 1975) thay đổi tới 6 vị tỉnh trưởng, trong đó 3 vị là đại tá và 3 vị là trung tá. Ngoài ra trong mùa hè đỏ lửa 1972, khoảng 20 ngàn đồng bào nạn nhân chiến cuộc Quảng Trị (gồm 3 quận Gio Linh, Cam Lộ và Ðông Hà) đã vào định cư ở Bình Tuy (1972 1975), Hiện nay tại Song Thành Minnesota có rất nhiều gia đình quê quán Bình Tuy hay Quảng Trị thế hệ thứ nhất đến thế hệ thứ 3 sinh sống & làm việc ở Minnesota.

Tháng 6, 2012
Hoàng Thân Vinh***
Ðịa danh Bình Tuy có lẽ ít người biết đến vì nó chỉ là một tỉnh nhỏ trước tháng 4/1975 thuộc vùng 3 chiến thuật, đây là một tỉnh tân lập được chính quyền thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lập nên, vào năm 1957 với vị tỉnh trưởng đầu tiên là Thiếu tá Lê Văn Bường. (khác với ông dân biểu cũng tên Bường, người gốc Quảng Bình).
 Ông Lê Văn Bường trước đó là đại úy quận trưởng quận Tiên Phước tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Bình Tuy chỉ có 3 quận Hàm Tân, Tánh Linh và Hoài Ðức với dân số của Tỉnh chỉ chừng hơn 70 ngàn người, trong đó hơn 10 ngàn là dân tộc ít người phần lớn ở quận Tánh Linh. Ông Bường được vinh thăng thiếu tá và được bổ nhậm tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Bình Tuy. Về mặt địa lý, phía Bắc giáp tỉnh Phan Thiết, phía Nam giáp tỉnh Long Khánh, phía Tây giáp tỉnh Lâm Ðồng, và phía Ðông dĩ nhiên giáp biển Ðông. Thế mạnh của tỉnh là Lâm nghiệp và Ngư nghiệp (vì tỉnh có nhiều rừng và giáp bờ biển). Ðất đai thổ nhưỡng nói chung, không tốt lắm, như khu rừng lá (lá dùng để lợp nhà) mọc hoang dài dọc theo quốc lộ số 1, chừng 30 km, không cây nào khác mọc được, nên nông nghiệp còn yếu. Vì là tỉnh tân lập, nên có chừng 50% là dân địa phương và 50% là dân tứ xứ qui tụ về, như quận Hoài Ðức với 4 xã Vỏ Ðắc (quận lỵ) Vỏ Xu, Sùng Nhơn và Hiếu Ðức, quận này có con sông lớn La Ngà chảy qua, sông La Ngà phần thượng nguồn sau khi chảy băng qua Quốc lộ số 20 (ở đoạn cách ngã ba Dầu Giây chừng 33 Km) chảy qua tỉnh Long Khánh rồi về tỉnh Bình Tuy. Xã Vỏ Ðắc có một phần đất đỏ thích hợp cho cây công nghiêp, dân chúng phần nhiều ở Quảng Nam Quảng Ngãi vào định cư lập dinh điền từ thời đệ I Cọng Hòa của Tổng Thống Diệm. Quận Tánh Linh nghèo nàn, quận lỵ nằm trong xã Lạc Tánh, còn 3 xã khác là Duy Cần, Huy Khiêm và Hiếu Tín, có một số buôn làng dân tộc thiểu số (đồng bào Thượng). Quận Tánh Linh lâu rồi có một trận chiến ở Ấp Ruộng gần nhà thờ Công Giáo làm chết 2 phía giao tranh rất nhiều nhân mạng! Có thể nói Tỉnh Bình Tuy ngoài dân địa phương còn dung nạp 4 sắc dân có chữ đầu là Quãng (Tứ Quãng bao gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị và Quảng Bình, nếu nói thêm tỉnh tân lập thời Tổng Thống Diệm là Quãng Tín thì đúng là Ngủ Quãng). Riêng Quận Hàm Tân (Tỉnh lỵ), Hàm Tân là 1 trong 3 địa điểm tập kết của Cán binh Cọng Sản để trở ra Bắc, theo qui định của Hiệp định Genève ký 20 tháng 7, 1954, 2 địa điểm tập kết kia là Bình Ðịnh và Cà Mau, không biết trên thực tế CSBV còn để lại bao nhiêu cán binh hoạt động nằm vùng ở đây mà không tập kết ra Bắc! Quận Hàm Tân có nhiều đồng bào gốc Quảng Bình vào đây lập nghiệp trong thời TT Diệm, họ là những người cần cù chịu khó làm ăn, đa phần theo đạo Công Giáo, sống hòa hợp thích nghi với người dân địa phương một cách hài hòa tốt đẹp! Một con sông thứ 2 tuy không lớn nhưng khá quan yếu, có tên là sông Dinh chảy từ hướng Tây băng ngang qua Quốc lộ số 1 rồi chảy về hướng Ðông, sông này được các khe suối chung quanh góp nước trên đường đi rồi chảy ra biển Ðông, sông Dinh chỉ có nhiều nước vào mùa mưa, còn mùa khô hạn rất ít nước có khi cạn trơ thấy đáy! Trước khi ra biển Ðông chừng 2 Km, sông uốn khúc chảy qua gần Tòa Hành Chánh tỉnh, và gần đó có xây một con đập chắn ngang, gọi là đập Ðá Dựng, để giữ nước dùng cho nhà máy nước sạch ở đây, cung cấp nước cho tỉnh lỵ cũng như thị trấn Lagi, nghe đâu cũng vì đập Ðá Dựng và nhà máy nước sạch (cung cấp nước) này mà tỉnh trưởng đầu tiên của tỉnh ông Lê Văn Bường bị án tử hình! (Sẽ nói ở đoạn sau). Cách tỉnh lỵ chừng 4 5 Km có một phi trường nhỏ với phi đạo ngắn, chỉ sử dụng cho loại máy bay nhỏ đáp, như máy bay cesna chẳng hạn!

Ðầu năm 1971 tôi được cử về làm trưởng ty điền địa tỉnh này, tỉnh lỵ ở gần thị chấn thương mãi Lagi thuộc quận Hàm Tân. Ðối diện trước cơ quan tôi là trường trung học phổ thông cấp 2 và cấp 3 lầu đúc, đẹp bề thế khang trang! Tuy là tỉnh nhỏ ít dân cư, nhưng cũng không phải là dễ ở, bằng chứng là trong 4 năm làm việc ở đây (1971-1975) thay đổi tới 6 vị tỉnh trưởng, trong đó 3 vị là trung tá và 3 vị là đại tá! Trước khi nói về 6 vị tỉnh trưởng trên, xin được nói qua về ông Lê Văn Bường vị tỉnh trưởng đầu tiên của tỉnh tân lập, thời Tổng thống Ngô Ðình Diệm đâu năm 1961 không biết ông tỉnh trưởng Bường làm việc gì sai trái hay tham nhũng trong việc xây dựng đập Ðá Dựng và nhà máy nước sạch cho tỉnh, mà ông bị kết án tử hình, án chưa thi hành, kịp đến đảo chánh 1 tháng 11, 1963 Tổng Thống Diệm và bào đệ cố vấn Nhu bị giết chết, ông Lê Văn Bường trốn thoát và nghe đâu qua sống lưu vong bên Cambodge, đâu cuối năm 1972 hay đầu 1973 ông có về lại Bình Tuy (tôi gặp ông duy nhất 1 lần ở Chùa Tỉnh hội Phật giáo Bình Tuy dưới tên mới là ông Tôn Thất Bình). Sau lần gặp đó đâu chừng 1 năm, được tin ông mất vì tai biến mạch máu não (stroke), do bà Th X. nói như vậy! Sở dĩ ông Bường về lại Bình Tuy là vì ông có người vợ trẻ đẹp ở đó, bà Vũ thị Th X và có với ông 4 người con, gồm 3 gái 1 trai. (Ông tỉnh trưởng Bường lấy bà Th X. khi tình cờ gặp cô nữ sinh trẻ mới 16 tuổi và quá xinh đẹp trong 1 buổi ủy lạo các chiến sĩ VNCH, sau đó không bao lâu bà trở thành vợ chính thức của ông ta!). Việc này tôi biết rõ vì cô Th. X. có người anh ruột là anh Vũ Phúc Th. là nhân viên trong cơ quan của tôi.

Ðầu năm 1971 tôi về nhận nhiệm sở, ông đại tá Trần Vãng Khoái người Bắc làm tỉnh trưởng, đâu gần 1 năm sau ông đổi về Saigon, Ðại Tá Huỳnh Công Thành thay thế, ông này lớn tuổi hơi mập và lùn, đâu giữa năm 1972 ông bị tai nạn rớt máy bay trực thăng phải vào Tổng Y Viện Cộng Hòa ở Saigon điều trị (nghe báo chí lúc đó nói máy bay bị rơi do đổ xăng ở Phan Thiết trong xăng có lẩn nước, sau đâu chừng 2 tháng thì ông mất!). Trung tá Nguyễn Thọ Lập lớn tuổi tạm quyền tỉnh trưởng (ông này vừa lùn vừa lé, trước đây lúc làm việc ở Hội An Quảng Nam tôi đã gặp ông ta, khi đó ông là trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn 51 biệt lập, Bộ tư lệnh đóng quân cách Hội An chừng 3 4 Km). ông chỉ tạm quyền chừng hơn 2 tháng, vị thứ 4 là trung tá Nguyễn Ngọc Ánh (trẻ khóa 16 trường Võ Bị Ðalat), hiện định cư ở Austin Texas, lúc làm việc ở Austin TX tôi có qua lại thăm viếng ông ta (1994 1996), vị thứ 5 là trung tá Nguyễn Văn Sĩ đang là tham mưu trưởng tiểu khu Bình Tuy được lên thay thế Trung Tá Ánh (ông Sĩ lớn hơn ông Ánh chừng 3 4 tuổi, cả 2 ông tuy nhà binh nhưng trông rất bạch diện thư sinh). Hiện ông Sĩ định cư ở Nam California. Ðâu khoảng giữa năm 1974 thì vị thứ 6 là Ðại Tá Trần Bá Thành thay thế trung tá Sĩ (trước đây đại tá Thành đã là trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 48 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh). Trong buổi tiệc nhậm chức (tống cựu nghinh tân), tại phòng khánh tiết tỉnh, với chừng 30 ty sở trưởng nội ngoại và các trưởng phòng bên tiểu khu, khi nói chuyện về cuộc đời quân ngũ của mình, và nói chơi về tài thiện xạ của mình, đại tá đã dùng súng bắn hơi nòng dài nhắm lên trần béton, đã bắn rơi 1 con thằn lằn đang đậu trên đó rớt xuống sàn! Khách dự tiệc vỗ tay tán thưởng!

Các ty sở trưởng ngoại thuộc như anh Trần Bất Nhựng trưởng ty Công Chánh, anh Lương Thế Bỉnh trưởng ty Kiểm Lâm, anh Ðốc sự hành chánh Chi trưởng ty Xã Hội, tỉnh đoàn Cán bộ XDNT trước là đại úy Linh, sau là anh Bình người Bắc nhỏ con thay thế, sau 4, 1975 hình như anh ở Ngã ba Ông Tạ, và lái xe chở khách loại trung, anh Vũ Ðán Bình hiệu trưởng trường trung học, anh Trang thanh tra ty tiểu học, ông Bùi Xuân Huyến người Huế mập mạp, lớn tuổi làm trưởng ty nông nghiệp có lẽ là người lâu năm nhất ở đây, thiếu tá Hiền người Huế thì làm trưởng ty Cảnh Sát Quốc Gia, sau anh Hiền là trung tá Huỡn người Nam lớn tuổi thay thế, hiện nay 2 anh Hiền và Huỡn đều định cư ở San Jose Bắc California, anh Long trưởng ty cấp thủy, tuy trẻ tuổi nhưng đầu tóc bạc nhiều, sau 1975 đi cải tạo về anh giữ xe đạp ở chợ An Ðông,

Những người làm việc kỳ cựu trong tỉnh trước tiên là ông Trần Thanh Sử người Phan Thiết, phó tỉnh trưởng, đẹp trai hơn tôi chừng 4-5 tuổi, tánh tình dễ thương, các đốc sự hành chánh khác như các anh Diệm mập hơi lé trông coi về hành chánh, anh Anh mập tròn mang kính trắng coi về kinh tế, sau coi về nội an, anh Nguyễn Công X L. coi tài chánh (sau gọi là trung tâm chuẩn chi). Ngoài ra trong Tòa Hành Chánh tỉnh còn có 3 ông là ông Công, ông Tồn và ông Ngưỡng người Huế là lâu đời nhất (chức vụ của 3 ông này cao nhất chỉ là trưởng phó phòng mà thôi!) Như ông Công có nhà ở và buôn bán chạp phô tạp hóa ngay trong chợ Lagi, anh Tồn ở gần nhà thờ Tin Lành, còn như ông Ngưỡng người Huế chẳng hạn, tuy có xây được 1 căn nhà lầu đúc lớn, nhưng phải nói bà vợ ông Ngưỡng cũng tội nghiệp lắm, ngày nào cũng xách giỏ xách bán các món ăn đặc sản Huế như (bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít bánh ram, v.v.) bán đủ 7 ngày trong tuần, đi bộ vất vả từ Lagi lên tỉnh lỵ, vừa rao hàng, vừa bán!

Qua khỏi trường trung học đi về phía biển là trường tiểu học Ðồng Tiến, Cha Hoàng làm hiệu trưởng (cha cũng là sĩ quan tuyên úy Công Giáo bên tiểu khu). Ði xuống nửa là tỉnh đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, đi thêm chừng 50 mét là khuông viên ty công chánh kiến thiết rộng rãi lúc đầu là anh Trần Bất Nhựng làm trưởng ty, sau là kỹ sư Khôi thay thế, anh Tấn đeo kiếng trắng làm phó kiến thiết, anh Sơn làm phó công chánh, sau tháng 4,1975 anh ở khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật ở Saigon. Còn bên trái trường trung học, đi ngược về phía biển là Ty Tiểu Học, với 1 ông lớn tuổi làm trưởng ty, anh Trang mập làm thanh tra, sau ty tiểu học đổi thành Sở giáo dục, anh Lộc người Huế làm chánh Sở Giáo Dục. Bên tay mặt ty điền địa qua con đường nhỏ, là khoảng đất trống rộng rãi, tới gần ngả 3 đường đi vào Tòa Hành Chánh tỉnh, là trụ sở ty thông tin do anh Lê làm trưởng ty, sau này thay người khác không nhớ tên, đi vào hướng tỉnh, là khuôn viên đất ty điền địa mới, chỉ mới xây văn phòng nhỏ và hàng rào, (dự trù trong tương lai có ngân khoản sẽ xây trụ sở chính sau!). Ði tiếp vào là bệnh viện dân y và quân y hỗn hợp, do B/S Bạch làm giám đốc kiêm trưởng ty y tế, BS Thịnh phụ tá, bên quân đội đại úy BS Minh trông coi. Ði tiếp nửa là trụ sở tòa án Bình Tuy. Qua khỏi tòa án là con đường lớn (ngả 4 này là 2 con đường lớn giao nhau. Qua khỏi ngã tư là trụ sở rộng rãi của cơ quan cố vấn Mỹ tỉnh Bình Tuy. Tiếp theo là Ty Nông Nghiệp, tiếp theo nữa là Văn phòng Ðại diện Phủ Quốc Vụ Khanh Bác Sĩ Phan Quang Ðán, tiếp theo là vị trí đóng quân của chi đoàn thiết giáp (bánh hơi) do Ðại úy Tơ chỉ huy. Còn như ty điền địa hiện hữu chỉ là 1 ngôi nhà tuy biệt lập nhưng nhỏ làm việc chật chội! Từ trụ sở này đi về phía chợ Lagi, bên cạnh là nhà ở của trưởng ty điền địa, kế bên là nhà ở của trưởng ty an ninh quân đội (trước là Thiếu Tá Trí, người Quảng Trị, sau là thiếu tá Hùng người Bắc, thay thế chỗ ông Trí, còn Thiếu Tá Trí ra làm việc ở Phan Thiết), bên cạnh là nhà của ông Nghĩa, phó chủ tịch Hội Ðồng Tỉnh, nhà có mở cửa hàng bán đồ tạp hóa, (không may trong khi di tản ở Vũng Tàu tháng 4, 1975 ông bị thiệt mạng), kế bên là nhà ông Hà Tôn Ðông, chủ tịch Hội Ðồng Tỉnh, kế bên nữa là trụ sở Ty Sắc Tộc địa phương, anh Bah người thiểu số làm trưởng ty, cạnh đó là con đường đất sỏi dẫn vào các nhà trong khu cư xá công chức! Qua con đường này là trung tâm tiếp vận do Trung Tá Cát mập và thấp làm chỉ huy trưởng, qua nữa là cơ quan cấp thủy do anh Long đầu tóc bạc trẻ, làm trưởng cơ quan. Phía dưới thị trấn Lagi có 2 cơ quan, đó là Ty Kiểm Lâm với anh Lương Thế Bỉnh làm trưởng ty, và Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn mà anh Hữu làm giám đốc, phụ tá hay kiểm soát viên là anh Nam, rồi phòng Ngư Nghiệp, thuộc ty Nông Nghiệp, v.v…

Tháng 3 năm 1972, CSBV tràn qua vĩ tuyến 17, trước sự tấn công bất ngờ và vũ bão của họ, Sư Ðoàn 3 Bộ Binh VNCH bị tan rã, Chuẩn Tướng Giai bị kỷ luật. Quảng Trị tạm thời bị thất thủ (nhà binh, nhà văn Phan Nhật Nam khóa 18 Võ Bị Ðà Lạt đã viết cuốn sách “Mùa Hè đỏ lửa” nói về cảnh đồng bào chạy vào Huế lánh nạn trên đại lộ kinh hoàng Quảng Trị, cùng diễn tả trận đánh khổ nạn và dân chúng bị chết chóc điêu linh khi di tản này!). Sau đó nhân kỷ niệm Quân lực VNCH ngày 19 tháng 6, 1972, TT Thiệu đã ra lệnh cho tướng tư lệnh Quân Khu I Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong vòng 3 tháng phải tái chiếm lại Quảng Trị, quân lính Sư Ðoàn 1 Bộ Binh và các đơn vị tăng phái như Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Nhảy Dù, v.v… và cũng nhờ sự yểm trợ phi pháo tối đa của quân đội đồng minh Mỹ, vùng I Chiến thuật đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn đúng 3 ngày, nghĩa là ngày 16 tháng 9, 1972 lá cờ Quốc gia màu Vàng 3 sọc đỏ lại tung bay phất phới trên cổ thành Quảng Trị, và vì Bắc quân được lệnh liều mình, cố tử thủ trong cổ thành, tuy thắng lợi nhưng quân ta cũng đã bị nhiều tổn thất! Sau này ở Mỹ đọc được một số tài liệu về trận tái chiếm lại Cổ thành Quảng Trị, được biết sở dĩ Mỹ yểm trợ tối đa cho Tướng Trưởng được xem như cố ý đánh bóng vị tướng này, như là một con cờ dự bị trong tương lai của người Mỹ vậy! (Hãy nhớ lại mà xem trong trận chiến hành quân Lam Sơn 719 qua Hạ Lào, năm 1971 chỉ đâu có hơn 1 năm trước đó thôi, quân ta đã không thành công, và phải gánh chịu nhiều tổn thất, phải hiểu rằng vào gần vùng hậu cần của Bắc quân, chúng ăn thua đủ và đời nào chúng chịu thua!). Sau ngày quân lực 19 tháng 6, 1972 đâu chừng hơn 1/2 tháng, đúng ngày 7 tháng 7, 1972 Tổng Thống Thiệu đáp máy bay trực thăng xuống mặt trận An Lộc đang còn bốc khói lửa, gắn sao chuẩn tướng cho người hùng tử thủ trận địa An Lộc (đâu 68 ngày), là Tướng Lê Văn Hưng (trận này Cộng quân dùng 4 sư đoàn quyết tiêu diệt 1 sư đoàn phía VNCH nhưng đã không thành công). Và cũng nhờ các trận đánh này đã có bài hát: “Bình Long anh dũng, Kom Tum kiêu hùng và Trị Thiên vùng dậy.” Khi chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị (16/9/1972) lại có câu: “Cờ bay, cờ bay, trên thành phố thân yêu!”

Tỉnh Quảng Trị thất thủ cuối tháng 3, 1972, đồng bào Quảng Trị nhất là 3 quận Ðông Hà, Cam Lộ và Gio Linh phần lớn đi định cư ở Bình Tuy với sự giúp đỡ của Quốc Vụ Khanh, BS Phan Quang Ðán, 2 vị quận trưởng ở Quảng Trị là Thiếu Tá Ðăng mập lớn tuổi và Thiếu Tá Huệ trẻ tuổi cũng đi theo dân vào Bình Tuy chọn giúp địa điểm định cư cho đồng bào, số lượng đâu chừng 20-25 ngàn người. (ông Huệ hiện ở San Jose nhà ĐHLTỉnh Bình Tuy thiết lập 2 khu định cư chính có tên là khu định cư Ðông Hà (nằm bên cạnh tỉnh lộ đi vào tỉnh cách ngả 3 Bình Tuy Quốc lộ số 1 chừng 3 4 cây số) và khu định cư thứ 2 có tên gọi là Khu định cư Ðồng Ðền (trên đường liên tỉnh lộ đi Xuyên Mộc Bà Rịa, cách ngã tư Hiến Binh củ chừng 5 6 cây số). Ðất đai nói chung tuy không được tốt mấy, nhưng được phối hợp chọn lựa, có lẽ yếu tố an ninh là trên hết (gần tỉnh lỵ). Khu Ðông Hà này đối diện bên kia đường tỉnh lộ là Cô nhi viện Bồ Câu Trắng với Linh Mục Hoan làm giám đốc, đâu năm 2008 cha Hoan có ghé thăm tiểu bang Minnesota, tôi gặp đức cha ở nhà hàng Hoa Biển đường University Thành Phố Saint Paul MN (lúc này cha đã lên chức Giám mục). Cô nhi viện này còn có sự giúp đỡ của cha Mỹ, lúc còn nhỏ tôi và cha Mỹ cùng học chung lớp nhì (lớp 4) trường tư thục Việt Hương do cha Ðài làm hiệu trưởng thì phải, giáo viên đứng lớp là 2 chị em cô Nguyện và cô Hảo dạy, 2 cô giáo này có cô em ruột tên Trang, anh Hoàng Trọng Trạch học lớp nhất là nổi hơn cả!

Ðồng bào Quảng Trị định cư được cấp tiền nuôi ăn ít nhất là 6 tháng đến 1 năm, tính theo đơn vị gia đình được cấp đất thổ cư (đơn vị 200 m2), cấp tiền làm nhà, cấp đất canh tác mỗi gia đình chừng 1/2 mẫu (5,000m2) đất đã được khai quang sẵn để dễ dàng cho đồng bào canh tác (ở khu Ðông Hà đất canh tác do nhà thầu tư nhân khai quang, giá khai quang đâu gần 100 ngàn đồng/mẫu, còn Khu Ðồng Ðền do đơn vị Công Binh khai quang,( công binh này đóng tại dốc Tân Sơn ) có lẽ Phủ QVK chỉ trả tiền xăng nhớt.). Ðịnh cư với nhiều đồng bào là 1 công việc to lớn, nên Phủ QVK/PQÐ có lập riêng 1 văn phòng đại diện ở tỉnh với Ðại Tá Nguyễn Văn Chuyên làm giám đốc văn phòng này (trước đây đại tá Chuyên đã từng làm tỉnh trưởng Long Khánh).Nói chung các ty sở nội ngoại thuộc của tỉnh đóng góp sức mình tuy theo phần việc chuyên môn trong vụ định cư của đồng bào Quảng Trị bận rộn nhất là các Ty Xã Hội, Công Chánh Kiến Thiết, Ðiền Ðịa, Nông Nghiệp, Cán Bộ XDNT, Thông Tin v.v… và các ty hành chánh, tài chánh nội thuộc tòa hành chánh tỉnh. Trong khu vực Ðồng Ðền này có một vị Linh Mục rất nổi tiếng, đó là LM Nguyễn Viết Khai người hơi thấp, và hình như cái đầu không bao giờ ở yên trên cổ ông ta (ông hay lắc lắc cái đầu!). Thời đệ nhất Cộng Hòa, LM Khai rất thân thuộc với Dinh Ðộc Lập, nhiều lúc ông tự nhận là người lo phần hồn cho các yếu nhân phủ Tổng thống thời đó! Có thể nói vào thời đệ nhất Cọng Hòa, LM Khai như là người có uy thế bao trùm ảnh hưởng lên chính quyền cũng như ngoài xã hội, nói khác đi chỉ sau có LM Cao Văn Luận, Viện trưởng viện đại học Huế mà thôi! Trong hơn 4 năm làm việc tôi chỉ gặp LM Khai có 2-3 lần, trong đó 1 lần ông tới cơ quan tôi về việc đất đai. Nhưng cũng lại có người nói ông bị rút phép thông công (không được đứng trên nhà thờ với tư cách là một vị linh mục!) nguyên do nghe nói hồi đó ông LM có liên hệ trên mức tình cảm với cô Năm Nhân H., chủ tiệm bán hay cung cấp văn phòng phẩm tòa hành chánh tỉnh, cũng như các cơ quan ty sở ngoại thuộc. (LM Khai được biết đã qua đời đâu năm 2000). Ở Bình Tuy còn có Linh Mục Hoa hạt trưởng, ngài cũng có làm thơ với bút hiệu Xuân Ly Băng! Nghe nói sau 1954, ông Trần Ðình Trường lúc đó ở Nghệ An thấy không thể ở với CS, ông đã trốn qua ngả Lào rồi sau vào Saigon, lúc đầu tạm trú tại khu nhà chung của giáo phận Vinh số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm Saigon quận 1, mới đầu ông tạm làm tài xế cho Linh Mục Khai, hiện nay ở Mỹ là ông tỷ phú Trường chủ nhân của nhiều khách sạn ở New York, thường là mạnh thường quân cho các cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, trong vụ khủng bố 911 ở New York năm 2001 ông từng hiến tặng cho hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ cả 2 triệu dollar, cũng như đã cứu trợ và giúp đỡ thiên tai ở châu Phi! Cũng nhờ ông Trường là chủ của nhiều tàu buôn lớn trước 30/4/1975 (tàu có tên gọi Trường Xuân, là tên ghép của ông và người vợ) mà bao nhiêu ngàn người lánh nạn CS đã được vượt thoát khỏi VN tháng 4, 1975. Những điều về ông Trường tôi biết được qua ông Dược Sĩ Nguyễn Ðức Chân (sanh 1932), quê ở huyện Hương Khê, Nam Hà Tỉnh (cỡ ngang tuổi ông Trường), ông Chân năm 1955 vượt biển bằng ghe gần Thanh Hóa, ghe chở cả 100 mạng người, tấp vào Truồi, Cầu Hai sau đó được đưa lên Huế làm ở cơ quan phủ đặc ủy di cư, 2 năm sau ông Chân vào Saigon, (có lúc LM Khai mời ông Chân làm hiệu trưởng trường tư thục Ngô Ðình Khôi ở Phan Thiết nhưng ông từ chối vì đang là sinh viên trường Dược), sau này tên trường được đổi là trường Chính Tâm và ông Cao Xuân Hiệp (sanh 1935) người Diễn Châu Bắc Nghệ An, sau đi Khóa 22 Thủ Ðức, qua Mỹ diện HO 4, hiện định cư ở Houston Texas, cả 2 ông này đều đã từng tạm ngụ số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm quận 1 Saigon nói trên, ông Hiệp ở chung phòng với ông Trường, còn ông Chân khác phòng, thì nay ông Chân đã định cư ở Virginia, lúc đó ông Long cũng là bạn ông Trường và là thư ký riêng của cha Trương Cao Khẩn, Linh Mục Khẩn phụ trách các việc liên quan tới giáo phận Vinh. (Bỏ qua về vấn đề tình cảm riêng tư, mà mỗi cá nhân một khác nhau, không ai giống ai, “bá nhân bá bọc chứa,” người thích uống rượu, người hút thuốc, người thích ca hát có máu văn nghệ, người có máu cờ bạc, có người lại thích đa thê! Nhưng nếu chỉ nói riêng về lãnh vực kinh doanh thì xin hiểu cho tôi, tôi nói về ông Trường với tất cả tấm lòng kính trọng và khâm phục! Người tay không mà dựng nên cơ đồ dù ở VN trước 1975, hay sau 1975 qua Mỹ định cư mới là người tài giỏi!). Ca dao ta vẫn nói; “nước lã mà vả nên hồ, tay không mà dựng cơ đồ mới hay!” (Ðược biết ông Trường đã mất tháng 4, 2012)

trích từ báo

 (nguoiviet.com)

NGUYỄN NGỌC DIỆP- ĐỐT LÒ HƯƠNG CŨ



By Nguyễn Ngọc Diệp 
Cựu PTT Tỉnh Quảng Trị 


THĂM   DÂN

Tác giả: Nguyễn ngọc Diệp


            Thời gian đảm trách chức vụ mới, Phó tỉnh trưởng, vì có đầy đủ thẩm quyền nên tôi giải quyết công việc hành chánh tốt đẹp. Riêng việc thực hiện kế hoạch hồi cư định cư cũng đạt được kế hoạch nhưng vẫn không tạo cho chính tôi sự an tâm về cuộc sống của đồng bào định cư (thành phần dân chúng các quận đã mất đất, tạm sinh sống trên lãnh thổ các quận phía nam sông Thạch Hãn) vì hoàn cảnh tổng quát tạo ra đời sống đó....



***

Nguyễn Ngọc Diệp: KẾ HOẠCH HỒI CƯ, ĐỊNH CƯ, KHẨN HOANG LẬP ẤP, ĐẠI LỘ KINH HOÀNG

 



Tác giả: Nguyễn ngọc Diệp (nguyên phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị trước 1975)


            Thời gian ngắn sau khi Quảng trị (QT) được giải tỏa, tiểu khu Quảng Trị đưa binh sĩ trở lại diện địa để dần dần nắm chủ quyền lãnh thổ với sự trợ lực hữu hiệu của sư đoàn thủy quân lục chiến (TQLC) mà bộ tư lịnh đóng ở một trường tiểu học tại Cửa Việt. Các lực lượng bán quân sự như cảnh sát, cán bộ xây dựng nông thôn cũng theo bước về QT để bình định lãnh thổ....


***

Nguyễn Ngọc Diệp: SINH KHÍ BAN ĐẦU-TRƯỜNG TƯ THỤC HIỀN LƯƠNG

 


 

Trường Hiền Lương Nghĩa Thục và kỷ Niệm Hồi Cư 

 

            Đang độ mùa hè nên buổi sáng trời trong xanh và mát dịu nhưng ở giữa đồng không mông quạnh thế này không làm sao nghe được tiếng ve sầu râm ran như ở Huế. Buổi sáng tôi thức giấc khá sớm, xếp chăn mền gọn ghẻ, bỏ vào tủ khóa kín rồi tự chế một tách cà phê thật thơm, ngồi nhâm nhi một mình trong căn nhà tôn vắng lặng này để nghĩ về cuộc đời dâu bể tang điền. Hương vị cà phê giúp tôi nhớ chút ít về những kỷ niệm thuở còn học trung học, đại học Huế. Hồi đó có dịp tôi đi theo đoàn sinh viên Huế ra thăm chiếc cầu Bến Hải oan khiên thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng Trị. Chiếc cầu dài chín chục thước tây chia đôi đất nước. Nửa phần về bờ Nam cầu được sơn màu xanh biển đậm. Một nửa ra phía Bắc cầu được sơn màu đỏ tươi chói rực dưới ánh sáng mặt trời mùa hạ làm cho người giàu óc tưởng tượng phải rùng mình  vì nghĩ đến máu me và chết chóc, chiến tranh và tàn phá. Hình ảnh và vai trò con sông Gianh (Ranh) ngày xưa đang sống dậy trong lòng tôi. Lịch sử đôi khi cũng  chỉ là sự lập lại quá khứ cách này hay cách khác. Giờ đây con sông Thạch Hãn hiền hòa đang đóng vai trò lịch sử thay cho sông Gianh  nghiệt ngã ngày xưa và sông Bến Hải mới đây…


https://chuyendaiho.blogspot.com/2022/10/ong-cuu-pho-tinh-quang-tri-nguyen-ngoc.html



***


 

Saturday, November 5, 2022

TOÁN TÙ BINH ĐI CHỢ ĐÔNG HÀ


NHỮNG NGƯỜI PHỐ CŨ

hình ảnh thị trấn Đông Hà trước 1972

*
Đông Hà cuối 1975

Đó là thời gian sau ngày "gãy súng", người lính miền nam ai còn sống tại mặt trận trở thành tù binh và sau này là những người tù 'cải tạo'. Trại mới lập xong trên những triền đồi trung du của miền Ái Tử thì đã gần hết năm 1975. 

Có một ngày chúng tôi có mặt trong  một toán tù được trại dẫn đi Chợ Đông Hà. Lý do dễ hiểu nhất do trại Bốn chúng tôi mới lập nên tăng gia về rau xanh chưa có.

  tờ bạc miền bắc 10$ hồi 1975 tại Đông Hà 

Ôi sung sướng làm sao nhưng cũng hiếm hoi làm sao khi có dịp 'sổ lồng', được 'cán bộ' dẫn đi về đồng bằng. Chúng tôi xem như là một dịp may hiếm có, đó là được 'ra phố' dù có đi bộ từ trại ra Đông Hà hơn mười mấy cây số. Đoạn đường này không còn là chuyện gian nan  khi chúng tôi đã quen lên rừng đốn gỗ. Hàng ngày vác gỗ, chúng tôi lội bộ mười mấy cây số về lập trại đã quen chân.

***

Tôi đã thấy lại Đông Hà. Sự choáng ngợp chẳng khác gì choàng tỉnh sau một giấc ngủ dài đầy chiêm bao mộng mị. Đã tàn cuộc chiến sau một cuộc đổi đời đầy kịch tính, trước mắt tôi chợ Đông Hà đông đúc lạ thường. Người dân, bộ đội khắp nơi tập trung về thị trấn này mua bán. Bộ đội từ Lào về, từ bắc vô, người Quảng Trị ở lại trước 1972, lớp mới hồi cư nay về đây làm đất sống mới.

 Từ Đà Nẵng 'con buôn' vơ vét hết bao thứ hàng hoá ẩm mốc trước đây, đem ra bán tại chợ này. Tất cả đều quý báu. Những lớp người bên kia sau bao năm từ Lào, từ ngoài bắc nay chiếu cố, giành nhau mua. Cuốn album có hình đàn bà 'mắt nhắm mắt mở' khi nhìn nghiêng, nay được xem là chuyện 'nhiệm mầu'? Những cái kiếng mát trước đây chúng tôi hay chê là 'thầy bói', không ai đụng đến, nay đều 'quý như vàng'? Đó là chưa kể những chiếc đồng hồ Orient, Citizen ' hai cửa sổ...không người lái', lúc này người ta xem là món hàng thượng đẳng! Những xấp bạc 10 $ đỏ lòm loại bạc Bắc lớn nhất thời đó. Người ta 'ký cóp' tém nhặt, cất bao năm nay tung ra mua hết.  Chợ Đông Hà thực sự bừng lên, sống lại chẳng khác chi một 'phép nhiệm mầu'...

***

Chúng tôi được cán bộ cho đi mua 'rau muống' tôi có dịp gặp nói đúng hơn là THẤY những con người phường, phố cũ năm xưa. Lò mỳ Vạn Hoa không còn nay lại đi bán mỳ lẻ. Những mệ, những o bán thịt tại chợ QT nay cũng trở lại nghề cũ ở đây. Cái tiệm Đường Ký ngày xưa ba tôi hay dẫn tôi vào ăn mỳ xào mềm  hay hoành thánh tôi thì thích bánh bao nay là cái quán nhỏ lèo tèo bên đường...

Còn nhiều cái để kể nữa ...có bạn tù mấy anh từng biết chuyện về trung đoàn 56, trong toán mua rau chỉ cho tôi người đàn bà còn mặc chiếc áo dài tha thướt trong thời buổi này:

-Vợ Trung Tá Phạm Văn Đính đó!

Trong trí nhớ của tôi, Bà đó tha thướt trong tà áo dài màu hồng nhạt, đẹp trẻ đi theo với chiếc xe bán tải toyota chở đầy lốp xe đạp từ Đà nẵng ra...

Trung tá Đính vào lúc này lại là Trung Tá 'Quân Giải Phóng' Ngày tôi còn ở trại Một tại Ái Tử, có ông ta vừa đi 'thăm anh em tù binh' tại Trại này. Tôi nghe bàn tán ông mang "quân hàm" trung tá bộ đội. Tôi nhớ trại Một do trại này là trại anh em chúng tôi vừa đốn cây xây dựng khi từ Ba Lòng chuyển trại về Ái Tử vào ngày 21 tháng 5 1975... ngày đó mấy người bộ đội coi tù nấu ăn, họ xầm xì với nhau:

-Thằng Đính về thăm đấy? 'dĩ nhiên họ gọi là 'thằng' do họ biết ông Đính là hàng binh, dù mang lon trung tá, đội nón cối như họ...


Mấy mươi năm sau, giờ tra cứu trên online những cái gì ngày đó nay là sự thật bằng hình ảnh

căn cứ Carol trước khi thất thủ -hình của Hoa Kỳ


TRUNG TÁ ĐÍNH được 'đồng hóa' thành Trung Tá Bộ Đội bắc quân và vẫn lên Thượng Tá... Từ cuối tháng 3 cho đến 19/5/1975 tù binh chúng tôi bị giam tại Thung Lũng Ba Lòng trú ngụ tại các lán  trại mà trước đây là 'hàng binh' của Ông Đính tức là Trung Đoàn 56 ở.
Tôi còn nghe lời đồn là ông đã dẫn hàng quân đó theo quân miền bắc đánh chiếm Cửa Việt đêm rạng 27/1/1973 nhưng cái này không chắc chắn bằng ông Đính biết...

Phóng viên giải phóng là Đoàn công Tính tới thăm gia đình "thượng tá" Phạm v Đính (ông Đính sơ mi trắng) là có thật 
nhưng bà vợ này là vợ sau là đúng hơn. Bà Đính trước vừa sau khi ông Đính đầu hàng đã lấy chồng khác.

Ông Đính sau ngày đầu hàng đây là hình ảnh sưu tầm được qua tài liệu của CSVN

toàn bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 56 đầu hàng bắc quân người bắt tay là Thiếu Tá Vĩnh Giác trung đoàn phó

*
Nhưng câu chuyện tôi kể là chuyện của những người phố phường năm trước nay tất cả không còn gì. Người viết chỉ muốn kể lại câu chuyện một lần đi mua rau và về lại Đông Hà trong những ngày sau cùng cuộc chiến...

Sau khi được cán bộ cho vào cửa hàng tập thể trước chợ mua một người một 'xuất cơm' 1$ ăn xong rồi sẽ gánh rau về trại. Phải nhắc chuyện 1$ cho 1 'xuất' (hồi đó gọi là xuất) cơm gồm những gì: 

-Một tô cơm trắng
-1 con cá nhỏ kho hay chút đồ xào 
-1 bát canh nhỏ 

Đời tù gặp bữa ăn như vậy là sướng hơn tiên. Dù là tiền của chúng tôi; vấn đề là cán bộ cho phép 'du di linh động' là quá thoải mái còn đòi chi hơn. Lại nữa, ăn cơm xong còn được qua bên lò kem quốc doanh gần đó mua cho được cây kem lớn. Người ta xếp hàng dài chờ mua cây kem, 1 người mua chỉ 1 cây ăn tại chỗ cho hết mới dám đi. 

Tôi gặp một người quen biết đó là người tôi hay kêu là Dượng Khánh.  Dượng là anh rể ông Nguyễn văn Vị chủ lò mỳ Vạn Hoa cũng là phường trưởng phường Đệ Nhất tp Quảng Trị. Dượng Khánh đu sau chiếc xe đò Đông Hà vô hướng Quảng trị,  ngoái đầu lại khi nhận ra tôi. Ông không ngờ gặp tôi trong hoàn cảnh éo le đó.  Dượng một tay đeo vào thành xe, một tay cố móc ra một ít tiền trao lẹ cho tôi, lắc đầu ảo não:

- Không còn chi hết, sụp hết rồi!

 Chiếc xe hàng lộc cộc cố lết vô Quảng Trị. Trên xe kẻ đu, người  bám cố nhồi nhét vào trong chiếc xe chật ních. Hai bên đường, người đi bộ, ngược xuôi. Nón cối bộ đội nhấp nhô, mấy chiếc molotova tất bật chạy ngược lên Đường 9...


***

Sau cảnh 'vật đổi sao dời' được ra phố, được về đồng bằng, chúng tôi cảm thấy may mắn và thoải mái làm sao!  Tự do tạm bợ, tuy chỉ nửa ngày nhưng đây là một ngày đáng nhớ. Thật vậy, chúng tôi nhớ Đông Hà, một "Thành Phố Lính". Một thị trấn ngập tràn khói lửa chiến tranh mất từ năm 1972. Hôm nay những người lính trở về trong thân phận khác xưa khi quê hương  giờ đà thay chủ!

***

Bên phải con đường ra từ Chợ Đông Hà ra lại QL 1, tôi nhìn ra cái quán "Đường Ký" nay là một quán hàng lụp xụp nằm thấp lè tè bên đường. Tuy nhiên cái bảng hiệu Đường Ký đủ lớn cho chúng tôi nhận ra. Ngoái lại sau giã từ ngôi chợ, cái tháp canh cao nhất của Đông Hà nhỏ dần,  mất hút.

 Dọc đường Quốc Lộ, có vài đoàn xe molotova từ nam ra lại bắc. Đoàn xe chở đầy hàng, trùm vải tăng kín mít. Xe chở gì chúng tôi chẳng cần biết, chỉ lo gánh mau về trại mà thôi. 



Riêng tôi vừa gánh vừa miên man nghĩ về- NHỮNG NGƯỜI PHỐ CŨ. Chua chát làm sao! mới đó mới đây mà ngỡ nằm mơ ./.

Chủ Nhật 28/10/ 2018 
edit 5.11.2022 San Jose USA by ĐHL

MƯA QUÊ HƯƠNG VÀ NỖI BUỒN GIÁP HỘT


(tu bút)

Mưa quê hương, đó là lúc ta đưa tay hứng những giọt nước trong ngần, mát lạnh; chợt một niềm thương, nỗi nhớ len lén vào lòng. Kỷ niệm về một thuở tuổi thơ, những chiếc thuyền giấy nổi bập bềnh theo trọt nước trước hiên. Ngày đó xa rồi,  dưới mái tranh quê hay miền trung chứa chan hoài niệm.  Nhưng mỗi khi quê hương mình đang chống chọi trong dòng nước lũ cố tìm sự sống thì bao giọt mưa kia lại hiện thân cho nỗi lo sợ hãi hùng. Mưa quê hương mỗi khi đông về kèm theo nước lụt từng biến thành khổ ải, tang thương. Bao dòng nước mắt đau thương của  miền trung vẫn tuôn rơi mãi, trở thành số phận.

Cố gắng quên, nói cho văn vẻ hơn ta sẽ cho rằng mưa là khúc luân vũ "đáng yêu" của trời đất ban bao giọt nước trong ngần, long lanh rơi xuống trần gian.  Chất phát cùng gần gũi với người làm ruộng- mưa là lúc kẻ nông phu ngước mặt nhìn trời, lòng hả hê vui sướng khi nghĩ đến bao hạt lúa vàng căng đầy nhựa sống cho mùa gặt tới.  

Lắm lúc mưa là lúc người thi sĩ nhìn qua khung cửa hay nghe tiếng nước rơi trên hàng sầu đông rồi dệt nên nhiều vần thơ mượt mà, cảm tác. Người nhạc sĩ chợt rung động vội ghi ngay từng nốt nhạc buồn trong tiếng mưa rơi. Lại buồn thay cho người cô phụ, con tim giá băng quặn thắt, bao năm dài nhớ chồng vĩnh viễn đi xa. Tình cảm hơn, ta lại nghĩ về bao mối tình mãi vương vấn tơ lòng, ai đó lúc tương tư  trên  căn gác vắng. Sống với hoài niệm, biết ơn, ta sẽ nhớ về chuyện ngày xưa trên vùng biên giới xa xôi, có anh chiến sĩ vội kéo tấm poncho  lúc màn mưa theo gió quất xối xả vào người...


Nói sao hết chuyện trần gian khi mưa trời rơi xuống.  Dù sao chăng nữa, mưa muôn đời vẫn là mưa. Đó là sự  kết tinh bao làn hơi, trả lại thế gian những giọt nước tinh khiết, sau bao chuyến phiêu lưu kỳ thú trong không gian thênh thang và quãng khoát. Những mầm xanh sẽ nhú, bao mạch sống sẽ tiếp nối vào đời cũng nhờ mưa.  Lạy trời mưa xuống    Lấy nước tôi uống    Lấy ruộng tôi cày... Niềm ước mơ, mong muốn của ngừơi dân quê mộc mạc biết bao. Những khao khát thực tế  của những ai 'chân lấm tay bùn'.  Cảnh sống của lớp người "cày sâu cuốc bẫm" như  quyện vào những câu ca dao chất phát. Dù qua bao thế hệ người làm nông vẫn luôn ghi nhớ nằm lòng.Người bám đất và đất nuôi người. Người dân quê lớn lên từ ruộng đồng chỉ những ước mong đơn điệu. Cuộc đời mộc mạc, họ đâu mơ chi phù phiếm xa hoa? Bao ước mơ từ xóm làng lam lủ không gì hơn là hình ảnh của những "bát cơm đầy"hay "rơm đun bếp". Lụt về!  Khi "ông tha mà bà chẳng tha" , điệu luân vũ của trời và đất giờ trở nên 'cuồng nhiệt say mê' sẽ gieo muôn triệu khối nước đày đọa tội tình lên bao tấm thân gầy nghèo khổ, những kiếp người chỉ biết những mong muốn đơn thuần bình dị. Mưa bỗng dưng hóa thân thành khổ ải, tang thuơng khi bao dòng nước lũ băng băng, chảy xiết!  Ôi! những mái tranh tan tác,  nổi trôi;  bao ruộng nương chìm đắm. Mưa giờ không là thơ là nhạc, mà là những tiếng khóc  ai oán tỉ tê!



Miền trung bao đời vẫn thế: căng mắt canh chừng cơn thịnh nộ của thiên nhiên khi thu về đông đến. Những giấc ngủ chập chờn trong gió thét mưa gào. Lụt -bão sao mãi hoài  là 'định mệnh an bài' cho miền đất khổ -nắng cháy da người-mưa dầm thối đất?  Thế mà lạ làm sao? Ai đi xa cũng muốn mau về nhà. Chỉ vắng nhà ít hôm thôi, người xa nhà chưa gì đã nhớ đã thương. Mẹ già nhớ hàng cau, thương bụi rơm bên mái tranh nghèo, vấn vương làn khói cơm chiều hay chắt chiu từng chút rơm đun bếp. Bác nông phu nhớ con trâu già cùng mấy thửa ruộng thân yêu. Bác nhớ làm sao những trưa nghỉ cày lúc ngồi vấn thuốc. Đó là những trưa bác dựa lưng bên gốc cây làng ngó lên Trường Sơn xanh thẳm. Tình quê chỉ ngần ấy thôi nhưng mặn mà chẳng chút nhạt phai. Một quê huơng gian khó với thiếu thốn gian nan nhưng tình quê mãi mãi nồng nàn, lòng yêu thuơng làng nước chẳng hề phai nhạt.

*

NỖI BUỒN GIÁP  HỘT

                 đồng ruộng xã Triệu Tài (năm 1974 tác giả có đóng quân tại Tham Triều -đi ngang đây còn xác chiếc trực thăng cobra của Mỹ rơi trên cánh đồng này, sau này chắc xác nó đã bị cưa bán nhôm nhựa)


 ***

Thời gian dần qua, các thế hệ  sau này chắc sẽ dần dà  quên đi hai chữ GIÁP HỘT.

LỤT LẠI VỀ, chuyện "đày đọa của ôn trời" chẳng hề thay đổi. Nước tràn vào làng, chảy băng băng ngoài ruộng. Lụt mấp mé vào đến cái trọt nước trước hiên. Mấy cặp mắt đau đáu  nhòm chừng, phấp phỏng lo âu:  

 Lạy trời nước rút!  

 Cái sập lúa vẫn còn an toàn trước mắt mạ. Trai tráng trong nhà chẳng còn việc chi, đang đi kiếm vài mớ cá nước lụt. nước lên phủ ngập cánh đồng, đôi bờ tre xóm dưới lờ mò theo làn mưa. Cái tơi không đủ che thân, người lo đi cất rớ, kẻ khác đi nơm. Mớ cá kiếm về, nặng mùi bùn đất làm ai cũng vui quên cơn gió lạnh.

Mạ gia tôi kể lại cho vợ chồng tôi nghe chuyện dưới quê ngày xưa vào cơn giáp hột. Môn khoai cũng cạn sạch, nhưng lúa ngoài đồng chưa chín. Có lúc túng quá người mình phải ra đồng truốt những hạt lúa chín trước ở phần chót bông về giã ra nấu ăn tạm.Những ngày giáp hột như thế, người dưới quê ngó quanh nương chẳng còn gì bỏ được vào om. 

 Thế mới biết tại sao người xưa (hay miền trung) năng để dành, hà tiện chắt chiu từng miếng ăn là thế. Dù được mùa, nhưng chẳng ai quay lưng "phụ phàng" với củ khoai, khúc sắn.



Hình ảnh mạ ngồi cắt từng mớ khoai măng, phơi khô phòng đói.  Những sợi khoai khô vuông dài, mạ mừng do phơi được nắng. Ngoài khoai khô, mạ còn cất vài thúng sắn lát, mong mỏng cong cong... Khoai sắn phơi khô, con nhà nông ai mà chẳng quý. Nhớ hình ảnh mạ lom khom cất đặt từng mớ khoai khô vào trong sập gỗ, mạ cất đặt như nâng niu thương mến vô cùng.

Mạ còn gắng chắt chiu, gom từng cọng rơm, mong răng ngọn lửa phập phồng trong gió ngoài nương vẫn nấu chín nổi nồi cơm hấp sắn. Mớ cá hôm nay, những con cá mụn mạ kho cho cả nhà, sao thơm tho ngon miệng lạ thuờng. Giêng Hai đến, "cắn ngón tay không chảy máu".  Bao thiếu thốn, bao tính toán lo toan.  Trai tráng vác cày ra ruộng thì lại phải lo ăn, mà ăn 'làm răng' thì đã có mạ lo. Mạ lo, là 'lo ăn cho đủ  đến khi GIÁP HộT.

Chỉ rứa thôi,  khi cái vòng lo toan không bị ôn trời làm cho trắc trở thì con nhà nông thở ra nhẹ nhỏm. Cũng là lúc cái "vòng đời" lam lủ tính đủ một năm tròn mong sức người vẫn còn dẻo dai để cấy cày làm ra hột gạo. Mong làm răng thoát cái cảnh nước tràn vô đồng mà chảy băng băng làm ngọn lúa không ngóc đầu lên được. Đó là lúc trời còn giúp cho con nhà nông lo toan đủ hai vụ cấy cày. Đầu mùa gieo mạ cấy lúa, cuối mùa gánh về nhà những gánh lúa được mùa nặng hột. Trời còn thương thì người làm ruộng chẳng màng chi tuổi đời chồng chất, tưởng sức mình như đeo mãi với ruộng lúa con trâu...


Chuyện ngày xưa, chuyện những ngày GIÁP HộT, mỗi lần "qua truông" anh nông phu bấm đốt tay tính thêm được một tuổi đời. Vòng trần thế già thêm mưởi hai tháng.  Bên mảnh đất thân yêu muôn thuở, bên mái tranh ấp ủ tình quê, cạnh bụi chuối bờ tre người nông dân vẫn mãi tấm lòng chung thủy đất-người. Ngày lại ngày qua bốn mùa xuân hạ thu đông 'cày sâu cuốc bẫm'. người làm ruộng chỉ một niềm mong đợi đơn sơ  n răng cho đủ tới khi GIÁP HộT !" Thế thôi, một đời dân dã, đơn thuần người miệt quê chẳng ai biết mong chi lâu dài hơn nữa./.



ĐHL tu bút

5/11/2022

 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...