Sunday, September 4, 2022

HOÀNG LONG HẢI: Ô CHÂU ÁC ĐỊA

 


 

 TUỆ CHƯƠNG

HOÀNG LONG HẢI

(trích trong tập: Quê Ngoại)

 

            Theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim thì…

“Năm tân sửu (1301) thượng hoàng đi sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đem vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận, Chế Mân lại xin dâng châu Ô và châu Rí làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết ý thuận gả. Đến tháng 6 năm bính ngọ (1306), cho công chúa về Chiêm Thành.

            “Sang năm sau (1307) vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và Rí, đổi tên là Thuận châu và Hóa châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.

            “Huyền Trân công chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm Thành, hễ khi vua đã chết, thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.

            “Anh tông được tin ấy, sai Trần khắc Chung giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công chúa về. “

                                                      (VNSL - TTk - Q. 1 trang 167)

 

            Theo chính sử, việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành, lúc ban đầu, không thấy nói tới việc dâng đất hai Châu Ô và Rí. Vì vậy vua Chiêm chỉ cho mang vàng bạc và sản vật làm sính lễ mà thôi. Mãi đến khi “triều thần có người không thuận”, nên Anh Tông cũng không thuận chăng. Vì vậy, “Chế Mân lại xin dâng đất châu Ô và châu Rí làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả”. Do vậy, nhìn chung vấn đề, có hai châu Ô và Rí mới gả chông chúa. Còn như không có đất, chắc gì đã có việc hôn nhân?!

Đâu có riêng gì "Triều thần có người không thuận" như Trần Trọng Kim viết mà trong dân gian cũng có nhiều người thương trách:

 

"Tiếc thay cây quế giữa rừng,

      Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.

Hay:

Tiếc thay hột gạo trắng ngần

      Đã vo nước đục lại vần lửa rơm

 

            Cây quế ám chỉ Huyền Trân công chúa, giữa rừng là giữa nước Chiêm Thành còn mọi rợ. Dĩ nhiên, thằng Mán, thằng Mường là mấy ông vua Chiêm.

            Hột gạo trắng ngần cũng là ý nói công chúa Huyền Trân. Vo nước đục là gả ho Chế Mân, sau lại “đi lạc” với Trần Khắc Chung là coi như lửa rơm; hay mối tình của hai người, - công chúa và Trần Khắc Chung - cũng chỉ là ngọn lửa rơm?

            Nước ta, ở miền quê, thường khó kiếm củi để đốt, nấu nướng. Nông dân tận dụng rơm để làm chất đốt. Rơm là phần ngọn của cây lúa, sau khi gặt về, đập lấy hột xong, người ta chất rơm thành đống cao, thường gọi là “Cây Rơm”.  Người ta rút rơm để đưa vào bếp đốt dần. Lửa rơm cháy mạnh, nhưng mau tàn. Người nấu lửa rơm phải canh chừng, hẽ rơm trong bếp cháy tàn thì bồi tiếp thêm rơm vào cho ngọn lửa được liên tục. Khi nấu cơm, muốn cơm mau sôi, cho rơm vào nhiều. lửa cháy to. Khi cơm đã cạn, cho rơm vào bếp ít lại để cơm được chín. Nếu tiếp rơm vào nhiều, lửa cháy to, cơm bị cháy, khê nếu để lửa tàn, không còn hơi nóng thì cơm sống. So ra, nấu rơm khó hơn nấu củi.

 

            Đất châu Ô và Rí, sau đổi thành Thuận châu và Hóa châu. Thuận châu là tên ngày xưa, bây giờ gọi là gì? Phải chăng đó là đất thuộc tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị ngày nay? Một thời, Huế được gọi là Thuận Hóa, bao gồm cả châu Thuận và châu Hóa, hay chỉ đó là một cách gọi, Huế tượng trưng cho cả hai châu nầy?

 

            Có lẽ ngày trước, hình như việc mấy cô ra đi theo chồng không mấy khi vui?

            Vu qui là ngày vui? Trong thực tế, không ít cảnh “Nước mắt ngày vu qui!” Tại sao vậy? Rõ lắm! Trước hết, vì người con gái rất thương mẹ nên khi lìa nhà theo chồng, người con gái không vui là chuyện rất thường:

                       

                        “Cậy em em ở lại nhà,

                        Vườn dâu em đốn mẹ già em thương.

                        Mẹ già một nắng hai sương

                        Chị đi một bước trăm đường xót xa…”

                                    (Lỡ Bước Sang Ngang - Nguyễn Bính)


            Chỉ “một bước đi” mà những “trăm đường xót xa” thì sự xót xa đó phải là lớn lắm. Ca dao cũng có những câu tương tự như vậy: “Tay mang khăn gói sang sông, Mẹ kêu mặc mẹ theo chồng cứ theo.” Nhưng đến khi về nhà chồng rồi thì “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.” Ruột tuy đau chín chiều nhưng phải dấu, phải âm thầm, nếu không thế thì tại sao phải ra đứng ngõ sau mà không đứng ngõ trước. Ngõ trước có nhiều người qua lại, sợ người ta thấy đấy!

            Ngày nay, tôi thấy con gái khi lấy chồng thường hay cười hơn khóc. Vậy thì người đời nay hạnh phúc hơn người xưa?

            Tuy nhiên, với trường hợp người chị của Nguyễn Bính thì không chỉ thương mẹ. Nếu chỉ vì thương mẹ thì sao gọi là “Lỡ Bước…” Có thể người chị của thi sĩ đã có một người tình, chị ông phải bỏ người tình, phụ tình mà đi lấy chồng.

            Huyền Trân công chúa cũng vậy. Công chúa cũng có một người tình, nhưng vì lời hứa của vua cha, vì sự nghiệp của nhà Trần, vì nước nên phải qua làm dâu xứ Hời để mở mang bờ cõi. Cảm thông tình cảnh đó, vua Tự Đức viết lời cho bài ca Nam bình, theo tôi nhớ thì hình như nhà vua, mô phỏng theo một bài thơ của công chúa (?):

 

                        Nước non ngàn dặm ra đi

                        Cái tình chi,

                        Mượn màu son phấn

                        Đền nợ Ô-Ly

                        Tiếc thay vì đương độ xuân thì (1)

           

            Có người bảo rằng Huế là tiếng gọi trại của Hóa. Đất kinh đô, thường kỵ húy, tức là tránh gọi thẳng tên các ông vua, bà chúa, phải gọi trại đi để khỏi mắc tôi “khi quân” nên Hóa thành Huế. Cũng có người cho rằng không phải như thế.

            Thật ra, ở Huế, nói trại là việc rất thường, phổ biến. Hồng trại thành Hường, Nhậm trại thành Nhiệm vì Hồng Nhậm là tên vua Tự Đức. Chỉ một cái tên Hoa là tên vợ vua Minh Mạng mà lắm sự lộn xộn xảy ra: Thanh Hoa (tỉnh) đổi thành Thanh Hóa (có dấu sắc) hoặc Hoa nói trại là Huê (Hoa Kỳ hay Huê Kỳ cũng là một), hoặc Đông Hoa đổi thành Đông Ba (Cửa Đông Ba, chợ Đông Ba – “Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại, cầu Trường Tiền đức lại xi-moong”), v.v… Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, … đổi thành một, hơi, bơ, tứ, niêm, siếu,… để trở thành một ngôn ngữ Việt Nam “mới”, cũng chẳng lạ gì nếu các ông vua Nguyễn còn tiếp tục ngồi trên ngai vàng ở Huế cho tới… bây giờ.

            Vậy thì Hóa có đổi thành Huế cũng không có chi lạ cả.

            Người Việt, nói chung, và dân Trị-Thiên nói riêng, ngày nay nên có một ngày kỷ niệm công lao công chúa Huyền Trân cho phải đạo, mặc dù Thuận châu hay Hóa châu chỉ là sự đổi chác và “lật lọng” của vua nhà Trần, mà con cháu phải gánh cái nghiệp binh đao, máu đổ xương rơi, hơn nơi nào hết trên dãi đất hình chữ S. Cái nghiệp ấy, đau đớn đến cái độ, Huy Phương phải cất tiếng than:

 

                                    Châu Ô, châu Lý mà chi nữa,

                                    Đất đã mang về nỗi biệt ly.

 

            Cái nghiệp người xưa làm, người nay chịu. Điều người xưa làm ấy, như tôi nói ở trên là “lật lọng”. Việc đó có nói trong chính sử, còn sau đây là dã sử:

            Khi Chế Mân chết, - lúc ấy Chế Mân cũng đã già - lấy vợ mới chưa được một năm mà qua đời là vì tuổi già sức yếu hay công chúa Huyền Trân có số sát phu -, vua Anh Tông lo quá, sợ theo phong tục Chiêm, con gái mình sẽ lên giàn hỏa, nên hỏi triều thần có ai chịu vào Chiêm quốc, giả nói là đi phúng điếu nhưng thực ra là để lén cứu công chúa đem về?

Đi cứu người đẹp!

Có trang phong nhã hao hoa nào tình nguyện xin đi? Không ai bằng Trần Khắc Chung. Theo dã sử thì Trần Khắc Chung là người tình cũ của công chúa. Đi cứu người tình cũ của mình, có cái nào “vạn hạnh” hơn cho Trần Khắc Chung. Không cần vua hỏi, Trần Khắc Chung cũng đi, huống gì vua đã hỏi có ai tình nguyện.

            Vì trọng trách vua giao, vì tình yêu với Huyền Trân, Trần Khắc Chung đã “xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ”, đem công chúa về tới đất Thăng Long, sau một năm “đi lạc” vì bão. Đường từ Bình Định (thành Đồ Bàn, kinh đô Chăm-Pa từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15) ra Hà Nội đâu có bao xa mà “chàng và nàng” đi lạc những một năm. Một năm đi lạc là một sự lạ, và không kém phần kỳ thú. Một chuyến “đi lạc” hay nhất trong những thiên tình sử của nhân loại, hơn cả “Tiểu Nhiên Mỵ Cơ”.

            Thế là sau gần hai năm, công chúa Huyền Trân ra đi rồi lại trở về. Người (hay giai nhân) của nước Đại Việt ra đi thì không mất, (“một sợi lông chân”, như tục ngữ thường nói) -, nhưng Chiêm Thành thì không bao giờ lấy lại được đất hai châu Ô và Rí. Trong cuộc đấu đá tranh giành nầy, người ta cho rằng người Việt thì khôn mà người Hời (tên nôm na của người Chiêm) thì dại. Hãy nghe quan đại thần Hoàng Cao Khải tự hào về cái khôn của dân tộc mình:

 

                       

                    Công chúa Huyền Trân

 

                                    Đổi chác khôn ngoan cũng nực cười

                                    Vốn đà không mất lại thêm lời

                                    Hai châu Ô, Rí vuông ngàn dặm

                                    Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi

                                    Lòng đỏ khen ai lo việc nước

                                    Môi son phải giống mãi trên đời

                                    Châu đi rồi lại châu về đó

                                    Ngơ ngẩn trông theo mấy đứa Hời

                                                                        Hoàng Cao Khải

 

            “Châu đi rồi lại châu về”. Viên ngọc (châu) đã đi mà lại về. Hơn truyện Kiều xa: “Biết đâu Hợp phố mà mong châu về”.

            May mà nước Chiêm Thành sau đó bị tiêu diệt, không bao giờ phục hưng lại được. Giả tỉ nước Chiêm Thành ngày nay vẫn còn đó, thì mối hận bị mất đất biết bao giờ mới nguôi, và chiến tranh giành lại đất của Chế Chí (2) khi nào mới dứt.

            Giả tỉ nhà Trần hồi ấy, đem con gái về thì trả đất lại cho Chiêm Thành, thế là sòng phẳng. Hoặc ít ra, gả một công chúa khác cho Chế Chí thì đâu đến nỗi gây nên mối thù hận ngàn năm! Quả thật An nam là một đế quốc, Tây gọi là L’Empire d’ Anam. Đế quốc thì thường hay ức hiếp các nước nhỏ, gây nên thù hận.

Vua, hay những người cầm quyền của một nước, thường vì quyền lợi riêng mình, đem đất dâng cho người. Người dâng đất thì vui mừng, vì đất là đất chung, - cha chung mắc chi mà khóc - nhưng người dân, hay nói rộng ra là dân tộc, bị mất đất thì lòng thù hận biết bao giờ nguôi? Ông vua già Chế Mân, được vợ trẻ đẹp thì mừng hí ha hí hửng, nhưng dân Chiêm ở hai châu Ô và Rí phải bỏ quê mà đi thì có vui được chăng?

            Việc nầy khác với việc Mạc Đăng Dung dâng đất năm động cho Tàu. Sử chép:

            “Quan nhà Lê sang Vân Nam kể rõ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh mã sang đánh.”

            “Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy.  Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thường thì là người ta mượn tiếng “vị nghĩa” mà làm những việc “vị lợi” mà thôi. (3)

            “Năm đinh dậu (1537), vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm đô đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan (4) rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất, nhân dân sang nộp và chịu tội, thì tha cho khỏi chết.

            “Mạc Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.

            “Đến tháng 11 năm canh tí (1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế, cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động, là động Tê Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.

            “Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách, nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ mấy cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, vã lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô Thống sứ, hàm quan nhị phẩm nhà Minh.”

 

            Việc dâng đất năm động của Mạc Đăng Dung cũng là một sự “lật lọng” của người Việt chúng ta. Thật vậy! Đất năm động do Mạc Đăng Dung dâng cho nhà Minh chỉ là đất trên… giấy tờ. Trên thực tế, đất năm động ấy không có ở đâu cả. Có thể đó là đất của Tầu (Đất Tầu đem dâng cho Tầu), hay Tầu đã chiếm các động ấy từ lâu rồi, hoặc đất do Mạc Đăng Dung “tự biên tự diễn” trên… giấy tờ. Khi quan Tầu đi nhận đất, không thấy đất đó ở đâu cả, giận lắm, nhưng biết làm sao được. Tập họp binh mã lần nữa để sang hỏi tội Mạc Đăng Dung là việc đâu phải dễ. Vã lại, vua quan gì đó bên Tầu cũng đã được Mạc Đăng Dung “đấm mõm” cả rồi, “Ăn xôi chùa ngọng miệng”, biết nói năng ra làm sao! Hơn nữa, cái chết của Liễu Thăng ở núi Đạo Mã Pha (Chi Lăng), cái gương Vương Thông xin hàng, được Lê Lợi tha về, hay Mộc Thạnh, nghe tin Liễu Thăng chết rồi, ba chưn bốn cẳng “tam thập lục kế” cũng chưa hẵn đã phai mờ trong lịch sử xâm lăng của nước Tầu. Nói như Trần Trọng Kim ở trên thì khi đã có cái lợi cho bản thân rồi “cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi”. Ai bảo người Tầu yêu nước hơn người Việt?!

            Trong lịch sử nước ta, việc “bắc cự Tầu, nam diệt Chiêm” chưa bao giờ ông cha chúng ta thua thiệt, mất người mất đất. Đó là sự khôn ngoan hay “lật lọng”? Việc đó, tôi không dám nói chắc, xin để lịch sử phê phán. Tuy nhiên, ở đây, xin nói rõ, phải chi ải Nam Quan cũng là đất khống như đất năm động thời nhà Mạc thì nước ta khỏi mất đất mà cha con nhà Hồ (Hồ Chí Minh, không phải Hồ Quí Ly) cũng như đảng Việt Cộng khỏi mang tội với lịch sử.

            Đã lật lọng, người Việt chúng ta có khinh người khi gọi người Chàm là Hời. Tiếng Chàm hay Chiêm Thành hay Chăm-pa còn nghe được. Còn tiếng Hời nghe không tôn trọng người ta chút nào! Người Chiêm chết hiện thành con ma rút ruột đi ăn phân người thì gọi là ma Hời. “Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau đi.” Chế Lan Viên viết như vậy đấy. Tệ hơn, quan đại thần Hoàng Cao Khải, như viết ở câu thơ trên là lũ: lũ Hời: “Ngơ ngẩn trông theo một lũ Hời.” 

 

            Xin trở lại chuyện châu Ô và châu Rí, nói rõ là Rí, không phải Lý. Trong chữ Hán và chữ Nôm, không có chữ Rí nên ngày xưa ông cha chúng ta phải mượn chữ Lý để thay cho Rí. Nay chữ quốc ngữ có thể viết được chữ Rí, nên tôi giữ lại tên cũ là Rí cho đúng với tên của người Chăm.

            Khi mới “gia nhập” lãnh thổ nước Việt, Ô Rí là đất ô hợp. Chữ ô (hợp) nầy có 2 nghĩa. Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thì Ô có nghĩa là “nước đục, nhớp nhúa, chỗ đất thấp, ẩm, con quạ. “Ô châu ác địa”: Ngày xưa, khi Chiêm Thành nhường đất Ô châu lại cho nước ta, các đời vua thường di dân đến đó để mở mang đất đai, người ta đồn rằng đất đó là xứ ma thiêng nước độc, nên gọi là “Ô châu ác địa”. (Đào Duy Anh)

Khi còn nhỏ, qua gia đình, tôi biết nơi tôi sinh đẻ (thị xã Quảng Trị) ngày xưa thuộc đất Ô châu. Nếu có chuyện gì xấu xa xảy ra, tôi từng nghe mẹ tôi than bằng câu ca dao: “Đất nầy là đất Ô châu, ai đi tới đó mang bầu về không!” Bầu là cái bụng bầu hay ôm bầu tâm sự mà về quê! Tôi không rõ.

            Trong định nghĩa nói trên của ông Đào Duy Anh, ông viết “di dân đến đó”. Dân nầy là dân như thế nào?

Luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tôn có 3 tội lưu (bị đi đày ra khỏi xứ). Đó là: Lưu cận châu: đày vào Nghệ An, lưu viễn châu: đày vào Bố Chính, lưu ngoại châu: đày vào Tân Bình, Thuận Hóa. Các vua đời Lê cũng cho thành lập các dinh điền, giao cho các quan dinh điền sứ trông coi, đưa binh lính vào đấy để khai khẩn đất hoang.

Như vậy, tổ tiên đầu tiên của người Việt ở hai châu Ô và Rí là những tội đồ bị lưu ngoại châu hoặc binh lính dinh điền. (5)

            Không hẵn hoàn toàn như vậy.

            Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa năm 1558, ông mang theo tướng sĩ binh lính của mình, cũng như bà con thân thuộc. Những người đi theo Nguyễn Hoàng, nhìn chung, đâu phải hàng hạ lưu. Khi Nguyễn Hoàng vào tới Ái Tử (phía bắc sông Thạch Hãn), vì đây là cái truông cát (Truông Ái Tử, tên thường gọi) quan quân khát nước. Dân chúng đem nước ra dâng. Thấy vậy, Nguyễn Ư Kỷ, cậu của chúa Nguyễn, đi theo làm quân sư, mới nói rằng: “Nay mới đến trấn mà dân đem nước ra dâng. Ấy là điềm trời cho. Nước ấy là nước vậy.”

            Cảm cái ơn của dân chúng, Nguyễn Hoàng bèn đóng quân tại Ái Tử. Do đó, khởi thủy, chúa Nguyễn dựng đất ở phương nam, lập nên nghiệp lớn là ở Ái Tử. Ái Tử thuộc châu Ô hay châu Rí?

Để rõ hơn, tôi xin chứng minh:

            Sông Ô Lâu - cách cầu Mỹ Chánh đúng 9 km về phía nam, là ranh giới hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên. Thời chiến tranh Việt Pháp 1945-54, xe thiết giáp hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên hộ tống các đoàn công-voa dân sự, tới cầu Ô-Lâu thì hai bên bàn giao cho nhau. Thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, đường sá được chỉnh đốn thì ngay cầu Ô-Lâu, phía bờ nam có bảng đề ranh giới hai tỉnh. Có nghĩa là ty công chánh Quảng Trị chịu trách nhiệm chăm sóc, tu sửa cây cầu nầy. Cũng thời chiến tranh nói trên, phía thượng nguồn sông Ô-Lâu là chiến khu của Việt Minh, có ai đó, tôi không rõ tác giả, đặt bài hát như sau:

 

                        Ôi giòng Ô, vang chiều nay,

                        Trong khói sương buồn,

                        Mây chiều buông xuống,

                        Lau lách ven bờ, đìu hiu gió sương.

                        Thuyền lên chiến khu, mái chèo đưa nhanh

                        Lau xanh nghiêng nghiêng,

vươn mình giòng Ô…

Ôi! Giòng Ô,

Vươn mình băng qua khe suối,

Qua thác ghềnh, bọt tung sóng reo lao xao.

                        (Tôi chỉ nhớ có chừng đó – (6)


 (6) Anh Võ Cư, nhân viên ty Công An, (anh của Võ Tử Bé và Võ Hoa, hát rất hay), ở chiến khu về, tập cho tôi hát bài hát nầy và đàn vọng cổ bằng guitar. Hồi ấy, năm 1951, tôi chưa thấy người ta đàn vọng cổ bằng đàn guitar như anh Võ Cư.

 



            Trong cách đặt tên của người xưa, tên mới thường nhại theo tên cũ. Tên mới là Ô Lâu, nhại theo tên cũ là châu Ô.

            Lại cũng theo học giả Thái Văn Kiểm, trong một bài viết trên tờ “Phụng Sự” của Quân Đội Cộng Hòa xuất bản khoảng năm 1957, thì đất Nam Ô, nổi tiếng nước mắm ngon ở phía nam chân đèo Hải Vân, có nghĩa là “Phía Nam châu Ô” (Nam Ô). Theo cách nhìn như vậy, châu Ô có thể từ sông Ô Lâu tới đèo Hải Vân. Người ta thường dùng đèo hay sông là những vật cản thiên nhiên để làm ranh giới. Xem ra, theo nhận xét đó, thì tỉnh Thừa Thiên nằm gọn trong lãnh địa châu Ô ngày trước.

            Phần đất còn lại, tỉnh Quảng Trị, thuộc châu Rí chớ còn gì nữa. Như vậy, châu Rí, kể từ phía bắc sông Ô Lâu tới chỗ nào thì hết địa phận?

            Xin trở lại lịch sử. Sử chép:

            “Nước Chiêm Thành hay sang quấy nhiễu, ngài (Lý Thánh Tông – tg) thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?) nghe thấy người khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị. Thánh tông nghĩ bụng rằng: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!” Lại đem quân trở lại đánh, bắt được vua Chiêm thành là Chế Củ. Năm ấy là năm kỷ dậu (1069). Thánh tông về triều, đổi niên hiệu là Thần Vũ.

            “Chế Củ xin dâng ba châu để chuộc tội, là châu Địa lý, châu Ma Linh và châu Bố Chính. Thánh tông lấy ba châu ấy và cho Chế Củ về nước.

            “Những châu ấy nay ở địa hạt tỉnh Quảng bình và tỉnh Quảng trị.”

                                    (Việt Nam Sử Lược -Trần Trọng Kim.

     Q. 1 trang 100)

            Theo cách đặt tên như nói ở trên, tên Nam Ô và sông Ô-Lâu, thì tên Bố Chính nay còn ở trong tên huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, tên Ma Linh, còn lại trong tên phủ Vĩnh Linh, huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị.

            Nếu Gio Linh thuộc châu Ma Linh ngày trước thì châu Rí nhỏ lắm, giới hạn từ hết địa phận huyên Gio Linh, phía tả ngạn sông Hiếu Giang, con sông chảy ngang làng Điếu Ngao, làng của Leyna Nguyễn, nay là phường 2 thị xã Đông Hà, nên gọi là sông Điêế Ngao, tới sông Ô Lâu. Vậy châu Rí nằm gọn giữa hai con sông: Sông Ô Lâu ở phía nam và Hiếu giang ở phía bắc, bề ngang từ biển lên tới biên giới Việt Lào đã hẹp, hẹp nhất trong cái eo của bản đồ Việt Nam, chưa tới 50km, và bề dài, đoạn giữa hai con sông nói trên cũng chưa tới 50km.

 

            Bài viết nầy, chỉ là việc khai triển lại cuộc nói chuyện hạn chế với một số bạn cũ, gồm cả những cựu giáo sư Nguyễn Hoàng từ Việt Nam qua thăm đồng hương, trong dịp “hội ngộ học sinh liên trường Quảng Trị” tổ chức tại Houston, Texas đầu tháng 7 năm 2008 vừa rồi.

 

                        Mass cuối tháng 7-2008

                        hoànglonghải.

 

(1)        Nước non ngàn dặm ra đi,

Cái tình chi,

Mượn màu son phấn

Đền nợ Ô Ly,

Tiếc thay vì đương độ xuân thì

Số lao đao hay nợ duyên gì

Má hồng da tuyết

Cũng như liễu hoa tàn trăng khuyết

Vàng lộn theo chì

Khúc ly ca, sao còn mường tượng nghe gì

Thấy chim hồng nhạn bay đi

Tình lai láng

Hướng dương hoa quì

Dặn một lời Mân quân

Như chuyện mà như nguyện

Đặng vài phân

Vì lợi cho dân

Tình đem lại mà cân

Đắng cay muôn phần./

 

(2) Chế Chí: “Từ khi Chế Mân chết rồi, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước trước, cho nên năm tân hợi (1311) Anh tông cùng với Huệ võ vương Trần Quốc Chân, Nhân huệ vương Trần Khánh Dư, phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm thành, bắt được Chế Chí đem về An-nam và phong cho người em là Chế- đà a-Bà làm vua Chiêm thành.

Chế Chí về An nam được phong  làm Hiệu thuận vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở huyện Gia lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù oán mãi. (trích SĐD – trang 168)

(3) Không rõ bây giờ, “dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, (và tư tưởng Mao, tư tưởng Hồ) - Cộng Sản Bắc Kinh và Cộng Sản Hà Nội có khác đi chăng. “Thế giới đại đồng” thì có đem ải Nam Quan mà dâng cho Trung Cộng cũng chẳng sao?!?!???

(4) Đóng “gần cửa Nam Quan”, không dám đóng ngay cửa Nam Quan vì sợ, bấy giờ cửa Nam Quan chưa được chính quyền Cộng Sản Hà Nội đem “biếu” cho Trung Cộng.

(5) Khi tôi còn ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, linh mục Quentin, người Úc, khuyến khích tôi đi Úc, ông sẽ giúp đỡ. Tôi gởi thư cho con tôi ở Mỹ, hỏi ý kiến. Sợ tôi đi Úc, con gái tôi nhắc lại lịch sử Úc, tổ tiên họ là những người tù Anh Quốc bị đày sang xứ sở nầy.

(6) Anh Võ Cư, nhân viên ty Công An, (anh của Võ Tử Bé và Võ Hoa, hát rất hay), ở chiến khu về, tập cho tôi hát bài hát nầy và đàn vọng cổ bằng guitar. Hồi ấy, năm 1951, tôi chưa thấy người ta đàn vọng cổ bằng đàn guitar như anh Võ Cư.

 

 

 

 

TRUYỆN NGỤ NGÔN AESOP TẬP 3


  CHUYỆN ÔNG CHỦ CỐI XAY CÙNG CON TRAI DẪN LỪA ĐI BÁN












Ngày xưa có Ông Chủ Cối Xay già và cậu Con Trai cùng dắt một con Lừa tới chợ để bán nó đi. Họ dẫn Lừa đi khá chậm cốt cho lừa bớt mệt hầu mong bán mau hơn, cùng được giá. 

Trên con đường thênh thang đến chợ tỉnh có vài Khách Bộ Hành nhìn cảnh này liền cười lớn ra điều chế giễu?


Một người la to lên:

-Trời ơi ngu quá? Sao lại đi bộ trong lúc còn cưỡi con Lừa kia được? Các người chắc không mong mình là kẻ khờ nhất trong thiên hạ đấy chứ?

Ông Chủ Cối Xay không muốn bị cười là kẻ "ngu  nhất trong thiên hạ" đành bảo con trai cùng mình cưỡi lên lưng Lừa mà đi.

Mới đi một đoạn đường, hai cha con lại có ba kẻ Lái Buôn đi ngang:

-Ô Hô! Chúng ta đang gặp cảnh gì đây? Phải tôn quý người già cả chứ cậu trai kia? Hãy xuống ngay để một mình lão già kia cưỡi Lừa thôi?

Dù Lão Chủ không mệt nhưng Lão cũng phải bảo con trai trèo xuống để một mình Lão cưỡi; như vậy mới làm vừa lòng ba gã Lái Buôn kia.












Tại một cổng vào Chợ khi họ vượt qua vài người đàn bà đang mang vài rỗ rau cùng vài thứ linh tinh đi bán. Hai cha con lại nghe mấy người đàn bà kia chế giễu:

- Kìa mấy chị xem? Lão già sao ác quá? cứ bám mãi trên lưng lừa lại để đứa bé tội nghiệp kia phải đi bộ?

Lại nữa? Người cha nghe vậy quá xốn xang trong lòng bèn bảo Con Trai trèo lên sau lưng Ông.


Chẳng mấy chốc hai cha con lại nghe tiếng la lớn của một đám người khác trên đường:


-Thật là một tội ác! Bắt con lừa tội nghiệp kia phải mang cả hai người. Trong lúc cả hai đều gánh được con lừa tội nghiệp kia là đàng khác?


-Chắc họ phải đi bán con lừa mà họ không nói đấy thôi?


Ông Chủ và Con Trai vội trèo xuống xong tìm một cái cọc gỗ, rồi hai cha con cùng ra sức gánh Lừa tới Chợ. Ít lúc sau hai cha con đến nơi. Cả khu chợ ồn ào cả lên khi hai cha con cột con lừa vào cộc cùng đang hổn hển gánh tới.


 










Một đám đông người bu quanh lại để nhìn cho rõ con vật  bị gánh một cách lạ lùng?

Lừa không ghét cảnh bị gánh như thế nhưng nó rất ghét cái cảnh đông người bu lại chỉ trỏ cười nói lung tung? Sự khó chịu khiến Lừa đá phành phạch và hí lên inh ỏi. Vừa khi cả ba đang qua giữa một cái cầu, rủi thay sợi thừng đứt mất làm Lừa rơi tòm xuống sông?


Ông Chủ Cối Xay đáng thương tay không về nhà. Cũng do cái tội muốn chiều ý mọi người cuối cùng chẳng làm vừa ý được ai cả! Ông Lại còn mất toi luôn con Lừa./.



LỜI BÀN:
CÂU chuyện trên khiến chúng ta nhớ câu chuyện đẽo cày giữa đường mà ắt hẳn nhiều người chúng ta đều có nghe qua. Việc của mình thì mình phải định đoạt lấy, tự chủ độc lập là trên hết. Chiều theo ý người khác, nhưng người khác lại có nhiều ý thích khác nhau, không ai giống ai cả. Có khi việc của ta lại trở thành 'vật hi sinh' cho họ làm "sân diễn" để hạ thủ lẫn nhau cũng nên. Người bị động là ở điểm này đó là nạn nhân của thời cuộc của tranh chấp tư tưởng hay thậm chí mưu đồ cho nhiều người khác. Chúng ta nếu bị động chiều chuộng hay nghe theo lời người khác thì cuối cùng không làm vừa lòng ai được cả. Được lòng người này lại mất lòng kẻ kia do ý tưởng của họ đa phần là chống hay đố kỵ nhau mà thôi. Anh nông dân đẽo cày ngày xưa do chiều theo ý nhiều người cuối cùng cái cày thành khúc gỗ vô dụng...hậu quả là do chiều ý kẻ khác không độc lập với ý kiến của mình.
Chuyện này chúng ta cũng phải cẩn thận "độc lập tự chủ" trong công việc không phải là 'bướng bỉnh kiêu căng' không nghe lời khuyên bảo của kẻ giỏi giang hơn mình. Tự phụ kiêu căng lại là 'người thầy xấu' đưa ta tới thất bại. Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn và kẻ a dua xu nịnh ta lại là kẻ thù tệ hại nhất chính kẻ này sẽ vun bồi cho cái tính xấu của cá nhân ta phát triển cho đến ngày ta sụp đổ hoàn toàn.

TÓM LẠI BÀI NGỤ NGÔN TRÊN LÀ...

*NẾU BẠN GẮNG LÀM VUI LÒNG TẤT CẢ MỌI NGƯỜI BẠN SẼ KHÔNG LÀM VUI LÒNG ĐƯỢC AI CẢ


*Ở SAO CHO VỪA LÒNG NGƯỜI Ở RỘNG NGƯỜI CƯỜI, Ở HẸP NGƯỜI CHÊ

*Phải chủ động trong công việc của mình, không bị động bởi ai, không ba phải như kiểu "đẽo cày giữa đường"

===================== 


THỎ RÙA  CHẠY  THI













Thỏ kia luôn luôn xem thường và nhạo báng Bác Rùa khi nào cũng cục mịch nhất là 'chậm như rùa'? 

Một ngày Thỏ gặp Rùa liền chào nhưng kèm thêm một câu hỏi châm biếm:


-Này bác Rùa có khi nào bác tới được nơi nào không vậy?


-Có chứ, ta không những tới được mọi nơi mà không chừng lại tới nhanh hơn ngươi nữa đấy . Nếu ngươi không tin hãy đua xem thử? Ta sẽ chứng minh cho ngươi thấy.


Thỏ được dịp cười to hơn khi nghe câu nói ngồ nghỉnh của Bác Rùa. Nhưng đây là dịp để Chú đùa chơi nên đồng ý 'chạy thi' với Bác. Anh Cáo là người được đề nghị làm trọng tài cho cuộc đua. Cáo sẽ vạch ra đoạn đường chạy thi và ra lệnh thời điểm khởi hành. 


Phút đầu tiên như bạn thấy đó, thỏ vụt một cái là hơn Rùa một khoảng xa lắc? Nhìn hình ảnh Rùa ì ạch chạy theo mới nực cười làm sao? Thỏ là kẻ cười to nhất Chú ỷ tài khinh thị nằm bên vệ đường ngủ một giấc chờ Rùa?


Bác Rùa chẳng nói chẳng rằng cứ miệt mài bò mãi. Chậm mà đều Bác chẳng bao giờ nghỉ dù một thoáng giây thôi? Cho đến lúc Rùa ngang qua nơi Thỏ đang nằm.Thỏ ta chẳng hề hay, vẫn còn say sưa trong giấc ngủ êm đềm? 


Chợt Thỏ choàng tỉnh!


Ôi thôi! Bác Rùa sắp tới đích đằng kia rồi?! 


Thỏ quýnh lên dùng hết sức mình nhảy thật nhanh nhưng không còn kịp nữa vì Bác Rùa đã chạm được đích trước chú Thỏ kiêu căng./.


LỜI BÀN


-NGƯỜI GIỎI Ỷ TÀI KIÊU CĂNG KHÔNG LO LÀM VIỆC SẼ THUA NGƯỜI VỤNG MÀ CHĂM CHỈ MIỆT MÀI

-CHẬM MÀ CHẮC

                                              

======================

                           
GIÓ BẮC THI TÀI VỚI ÔNG MẶT TRỜI













Gió BẮC và Ông Mặt Trời luôn luôn gây gổ do không ai chịu nhường ai là KẺ MẠNH NHẤT? Vừa lúc hai vị này đang cãi thì có một Khách BỘ Hành đi dọc theo con đường thiên lý, trên người kẻ này đang khoác chiếc áo choàng.

Mặt Trời liền đề nghị:

-A! đây là cơ hội chúng ta đấy nhé. Hãy đồng ý đi xem ai có sức mạnh làm kẻ Bộ Hành kia cởi được chiếc áo khoác xem nào?

- Được thôi!
Gió Bắc gằn giọng trả lời.

Vừa dứt tiếng, Gió liền thổi ngay một làn hơi lạnh buốt mạnh mẽ chắc khác gì cơn bão. Làn gió từ trên mây kêu vù vù đánh xuống ngay kẻ BỘ Hành kia.
Trận gió đầu này làm chiếc áo khoác quất bần bật vào thân kẻ đi đường. Nhưng gió thổi càng mạnh chừng nào người đó càng quấn chiếc áo bó sát thêm vào thân?

Gió càng tức bực, giận dữ chiếc áo kia càng chuốc lấy thất bại não nề, cuối cùng Gió đành chịu thua!?

Đến phiên Mặt Trời. Những ánh nắng đầu tiên của ÔngMặt vừa dịu dàng vừa ấm áp khiến kẻ Bộ Hành kia cảm thấy thoải mái dễ chịu sau cơn chịu đựng ngọn gió quái ác kia. Người Khách giờ này không còn e ngại gì nữa liền cởi chiếc áo khoác vắt bên vai. Giờ Ông Mặt Trời bắt đầu cho ánh nắng dần dà nóng lên...

Khách bắt đầu cởi chiếc mũ ra quệt mồ hôi đọng trên lông mày. Ánh nắng càng nóng, cuối cùng ông ta bỏ luôn chiếc áo khoác buông mình xuống một bóng râm của tàng cây cạnh đường để tránh ánh nắng gay gắt dọi xuống.

LỜI BÀN:

DỊU DÀNG TỪ TỐN CÙNG LÒNG TTỬ TẾ KHI NÀO CŨNG CHIẾM ĐƯỢC LÒNG NGƯỜI; TRÁI LẠI CƯỜNG LỰC VÀ VŨ PHU CHỈ CÓ THÀNH CÔNG BAN ĐẦU NHƯNG LÚC NÀO CŨNG CHUỐC LẤY THẤT BẠI SAU CÙNG
                                       


                   ==============

 KHI SƯ TỬ CHIA PHẦN?























Ngày xưa có bộ tứ: Sư Tử, Cáo, Lang và Sói sống chung nhau. Cả bốn đồng ý đi săn chung và cùng chia phần với nhau những gì kiếm được.

Ngày đó Sói rượt theo bắt được một con Nai. Lập tức gọi ba người bạn kia tới cùng chia 'chiến lợi phẩm'.


Chẳng cần hỏi han ai, Sư Tử tự cho mình làm ông chủ trong bữa Tiệc đó. Xong y tự tay cắt phần chia con mồi ra làm bốn. Sư Tử ta làm dáng công minh chính trực kêu số cho bốn người:


-Một...Sư Tử dỏng dạc nó đếm bằng vuốt của mình...ta tức là Sư Tử SỐ MỘT. Hai là Sói, Ba là Lang và BỐN là Cáo.


Nói xong Sư Tử cẩn thận chia con nai thành bốn phần đều nhau.


-Ta là Chúa Sư Tử dĩ nhiên ta chọn phần MỘT. Kế tiếp phần HAI cũng là ta ...lý do ta mạnh nhất. Kế tiếp phần BA cũng là ta do ta là kẻ can đảm nhất trong đám này.


Nói đến đây Sư Tử tham lam đưa cặp mắt đỏ ngầu -hung ác lừ lừ nhìn quanh:


-Nào? còn phần BỐN ai đứng ra nhận về mình nào?


Vừa nói hắn vừa gầm gừ trong cổ họng mấy cái VUỐT trương ra 
với  ngụ ý chực chờ làm chuyện gì đó 'rất nhiều  tàn độc'?!


LỜI BÀN 
Chưa bao giờ trên thế giới này nội dung câu chuyện kiểu "Sư Tử Chia Phần" hiển hiện một cách rõ ràng như hôm nay. Thế giới hôm nay hoàn toàn hầu như gần hết kẻ mạnh bao giờ cũng cầm thứ 'cán cân công lý' do họ tự tạo ra. Thân phận nhược tiểu tất cả đều chịu thiệt thòi và lấn ép. Lý kẻ mạnh trong thời đại hạt nhân hôm nay là lý lẽ của những nước có kho vũ khí hạt nhân đầy ắp trong sân nhà họ.
Kẻ mạnh ban phát luật lệ và công bắng cho riêng họ, thu tóm quyền lợi cho họ. Đã hưởng hết mọi quyền lợi nhưng bao rủi ro và tai nạn gần như đổ lên đầu các nước nghèo nàn thua kém. Kẻ mạnh vừa hưởng hết mọi thứ nhưng lại quyết định đánh phá xâm lấn bất chấp mọi thủ đoạn mọi lời ta thán của thế giới.
Kẻ mạnh là kẻ chiến thắng sau cùng và ban phát công lý điều này phải chăng là định luật.
Trong giao thiệp làm ăn trong đời thường, luật bất công trên vẫn áp dụng. Kẻ có tiền có quyền thế thường lấn ép người nghèo khổ thế cô. Ai sẽ là hiệp sĩ bênh vực cho người yếu thế khi phần hơn phần đúng từng về phía kẻ mạnh tiền và quyền lực.
Trong một nước cũng thế thôi, Ai nắm quyền lực kẻ đó là vua là chủ nhân ông của chế độ của đất nước. Đám dân đen bị trị là thành phần đa số nhưng luôn chịu thiệt thòi và áp bức.
Thế giới của con người tại sao còn nhiều chiến tranh và đau khổ phải chăng phát xuất từ ý nghĩa bên trong câu chuyện ngụ ngôn trên?

-LÝ KẺ MẠNH BAO GIỜ CŨNG THẮNG 

-LÝ KẺ CƯỜNG QUYỀN BAO GIỜ CŨNG GIÀNH PHẦN ĐÚNG
 
-THÂN PHẬN NHƯỢC TIỂU BAO GIỜ CŨNG THUA THIỆT

                                 

                      ĐHL  DỊCH 

Saturday, September 3, 2022

QUẶNG TITAN- ƯỚC MƠ ĐỔI ĐỜI CỦA MỘT THÔN NGHÈO VEN BIỂN

 







hình minh họa Đụn cát có TITAN 

QUẶNG TITAN  

Chào bạn đọc

CHUYỆN KỂ SAU ĐÂY CỦA MỘT TIỀU PHU THỜI GIAN SỐNG VỚI THÔN LÀNG GẶP NGƯỜI DÂN VÉT CÁT TITAN ĐÓ LÀ NHỮNG ƯỚC MƠ CHÁY BỎNG DO MIẾNG CƠM MANH ÁO...

 

*

QUẶNG TITAN-  ƯỚC MƠ CỦA MỘT THÔN NGHÈO VEN BIỂN

ký ức




Chiếc xe đạp thồ với đống củi chất đầy của anh bán củi  vừa vượt qua khỏi quán Ông Uy thì bắt đầu đổ dốc. Hình ảnh cái quán nghèo với một ông già có bộ quần áo vá cả trăm mảnh cùng cái ống thuốc lào dài lê thê bên cạnh đã trở thành quen thuộc trong mắt một kẻ tiều phu như anh. Cái quán của ông Uy là điểm dừng chân của người vừa dưới dốc lên. Họ đi chợ tỉnh về, họa hoằn lắm mới ghé quán ông già. Nhưng cũng từ cái quán này nó là điểm báo hiệu cho ai bắt đầu đổ dốc; phải chuẩn bị tinh thần cùng gân cốt sẵn sàng kìm lại một sức nặng bắt đầu lao xuống. 


Bắt đầu đổ dốc đó cũng là lý do cho  anh bán củi tạm quên đi hình ảnh ông ngồi giữ quán đang mơ màng bên cái ống thuốc lào cùng khói thuốc la đà, bay bổng. Anh phải gắng sức cùng chú ý ghì cho được chiếc xe củi nặng. Chiếc xe đạp thồ  đổ dốc Tân Sơn. Rừng cây đốn hết, con dốc sau nhiều cơn mưa lớn đầu mùa, hai bên là những hố sâu do nước xói. Nước lũ mùa mưa tạo nên nhiều hố nứt toang hoác. Mấy cái hố sâu là mối đe dọa thực sự, làm những ai đang thồ than củi đổ dốc đều rợn người lo sợ. Giá như không đủ sức để kìm sức nặng đang theo đà xuống dốc thì đố ai biết trước tai họa ra sao.



 hình minh họa: 1 xe thồ củi 


Hết dốc, con đường bằng phẳng hơn. Người thồ củi bắt đầu thở phào nhẹ nhỏm. Hôm nay anh chợt thấy lạ do nhìn thấy một bên con đường Tỉnh Lộ 23 có nhiều đống cát đen làm anh bắt đầu chú ý. Tuần trước anh có thấy một hai đống, nhưng anh chỉ nhìn thoáng qua, không chú ý làm gì.

Hôm nay có người trong thôn trả lời anh:

-Cát quặng Titan đó!

Giờ thì có quá nhiều đống cát đen titan. Những đống cát tuy không hàng lối thẳng ngay, nhưng số lượng của nó khiến anh tin điều người trong thôn vừa trả lời anh, đó là sự thật.

Sự thật kia là gì? 

có nghĩa là cái thôn này- nơi cha mẹ hai bên, anh và vợ anh cùng bà con thôn xóm cuộc sống chắc chắn sẽ thay đổi. Mớ kiến thức cỏn con ngày trước đi học tồn đọng trong trí óc, cho anh biết quặng titan người ta đang cần, thế giới đang cần để làm nhiều thứ hợp kim cần thiết. Anh nhớ mang máng, trong tạp chí nào đó ngày trước có nói về  "thép nhôm". Loại hợp kim khi dùng trong quân sự chúng vừa nhẹ vừa cứng. Nhờ vào titan nó tạo lợi thế cho những chiếc thiết vận xa M113 lội nước...rồi hôm nay kỹ nghệ sau chiến tranh chắc chắn phải cần nó. Người ta sẽ về đây tạo dựng nhà máy, xưởng lọc thôn anh sẽ hết nghèo, bà con em út của anh sẽ là những công nhân cùng đồng lương khá giả...

Còn nhiều ước đoán nữa, nhưng đó là nguồn tin tốt lành đến cho tất cả mọi người.

   con bò cố kéo xe cát titan trên con đường cát lún


Suy nghĩ tốt đẹp tràn đầy hi vọng khiến hôm đó anh thồ xe củi không biết mệt.

 Có mấy con bò cố gắng kéo chiếc xe đầy cát đen ướt, và lóng lánh hợp kim titan. Lớp cát đen chỉ đóng một lớp mỏng dọc bờ biển. Đoạn đường kéo cát từ ngoài biển vào con đường đất liên tỉnh xa khoảng non hai cấy số. Người ta hăng hái nạo vét những mớ cát ướt bỏ vội lên mấy chiếc xe bò. Mấy con bò nước dải ròng ròng mắt cơ hồ muốn trợn ngược. Chúng đang cố hết sức kéo như lết trên con đường lún cát…người và vật  đều cố gắng... chút nữa thôi, con đường ngoài kia không bao xa càng nhiều cát đen càng nhiều tiền.

do những đống cát đó là QUẶNG TITAN!

Mấy con bò cố mà lết. Chẳng đếm được bao nhiêu làn roi từ tay người chủ- nóng nảy, thúc hối, gò ép, tàn nhẫn vun vút đánh vào lưng...  Khối cát đen ướt đẫm, càng lúc càng nhiều, cao dần đổ thành nhiều đống cạnh con đường Tỉnh Lộ 23 chạy xuyên qua thôn Cam Bình.

Xã 'họp- thôn bàn', người dân trong thôn thì xầm xì mừng rỡ, ngóng tin... Ngư dân bỏ lưới và thuyền lo đi vét cát titan. Mấy bác làm ruộng, bỏ cày đi cào cát titan. Thợ rừng bỏ rẫy rừng, cùng nhau đi vét cát titan. Mấy con bò đúng ra giờ đó chúng đang kéo gỗ trong rừng hay cày ruộng, nay phải theo chủ đi kéo đất titan…mai đây sẽ có mỏ titan. Nghe đâu Liên Xô hay Tiệp Khắc sẽ mở nhà máy titan tại thôn này.  Nước nào cũng được, có việc là có tiền. 

Những làn roi vun vút, bò ơi gắng lên!  Ta cần càng nhiều cát titan càng tốt. Bà con phải vét thật nhiều cát đó mang vào. Mấy con bò thở hồng hộc một cách tội nghiệp, tiếng người hò hét cùng tiếng roi quất tron trót ...tất cả hợp lại thành một âm thanh huyên náo, hỗn độn, ai nghe đều cảm thấy hăng hái, nức lòng. Khác với tháng ngày trước, quang cảnh trước mắt người bán củi giờ như một ngày hội, thôn xóm cùng bà con anh sẽ được "lột xác, đổi đời", nói theo ước mơ của những người thiếu, khổ thời bây giờ.

*

THỜI GIAN QUA ...MỘT THÁNG, HAI THÁNG  ...BA THÁNG ...


Những ngày khác, người bán củi tiếp tục thồ củi xuống dốc. Anh chứng kiến những đống cát đen theo tháng ngày khô dần, vơi đi theo gió biển. Cứ mỗi lần về anh có ý hỏi lý do. Có người khá biết chuyện nói  cho anh hay vài lý do nào đó. Lúc đầu anh nghe xuôi tai nhưng ba tháng đã qua, giờ hỏi lại thì bác Cháu đội trưởng cũ nể mặt anh thồ củi trước đây cũng là dân trong đội, do lấy vợ mới lên ở trên dốc, nhưng bác chỉ trả lời ậm ừ cho qua mà thôi?!

Những chuyến cát thưa dần rồi dứt hẳn. 

Hôm nay đổ dốc, anh bán củi nay không còn gặp ai để hỏi nữa.

CON DỐC NĂM XƯA NGƯỜI TIỀU PHU HÀNG NGÀY ĐẨY CỦI VỀ 

1995- CUỐI DỐC TÂN SƠN VỀ THÔN CAM BÌNH xa xa là biển Hàm Tân 


Thế là hết!

Người tiều phu chắt lưỡi than thầm.

 Sự mừng rỡ trong lòng anh giờ  tiêu tan như bọt nước xà phòng. Trời sắp tết, nhiều ngọn gió mạnh từ biển vẫn tiếp tục thổi vào càng lúc càng nhiều. Sóng bạc đầu ngày đêm liên miên đập vào bờ cát đìu hiu. Mùa gió là mùa "đói cá". Ngư dân hết việc úp thúng; họ ngồi vá lưới chờ có dịp sóng êm, dù nửa buổi sẽ hối hả kêu nhau chèo thúng ra bờ kiếm đôi con cá vụn. 

Trong này, cư dân sống dọc theo con đường tỉnh lộ 23, đoạn băng qua mấy xóm làm nông, gió biển càng lúc càng mạnh tiếp tục quất vào. Gió làm tung lên từng đám cát mờ nhạt, bốc lên dọc theo con đường đất đỏ. Trên đường, mấy người bán than củi đang cúi đầu, gắng sức thồ xe. 

 Bao đống cát đen titan đã đổi thành màu xám nhạt. Những đống cát  từng mang ‘hi vọng” vẫn còn im ỉm 'chờ khách' phương nao.

  Hàm Tân vùng biển, gần tết, gió mạnh thêm từng ngày khiến mấy đống cát đen kia càng lúc càng vơi dần, lụn tàn trông thảm hại làm sao. Cát bay hết, hi vọng tàn theo. Cho đến một ngàychẳng còn ai trong thôn để mắt hay nhắc đến chuyện Cát Titan nữa./.

  

ĐHL edit 18/6/2022 

edit 25.7.2023

===================

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...