Saturday, September 3, 2022

QUE DIÊM CUỐI CÙNG TRONG RỪNG SÂU

 


  Thôn Xuân Khê, tên nghe khá thơ mộng nhưng có thể ít người Quảng Trị biết đến nó. Hơn nữa theo trí nhớ người viết, địa danh này chưa hề được ghi chú trên bản đồ; ngoại trừ Thôn Ái Tử đã có từ lâu trên bản đồ Bộ TTM/ VNCH. 


Từ Thôn Ái Tử, lên hướng núi khoảng vài cây số thì đến Thôn Xuân Khê. Vùng này, có một con suối lớn uốn khúc chảy về đến vùng Ái Tử. Suối không lớn nhưng đủ cung cấp nguồn sống cho bốn trại tù cùng mấy thôn nghèo heo hút sống cạnh giòng nước.  Có số ít dân cư mới về lại sống cuộc đời hẻo lánh trong thôn Xuân Khê. Vùng trung du, đìu hiu vài ba  mái tranh nghèo, bên kia con suối là trại tù chúng tôi tức là Trại 4 Ái Tử. 

Năm mươi năm rồi, người viết vẫn nhớ về Xuân Khê nằm khuất sau những mảng đồi sim tím. Tháng tám về, những đồi sim có trái chín đầy. Bóng tù thấp thoáng trong mấy lùm sim. Những ngày đi rừng lấy gỗ.

*

 Chúng tôi nhớ làm sao, hình ảnh chiếc cầu ghép bằng nhiều tấm 'ri' sắt của Mỹ do chúng tôi tạo dựng, bắc qua con suối lớn. Hình ảnh ngày xưa, quả là một thế giới khác, một trại tù cách biệt với dân. Một chiếc cầu sắt được bắc qua con suối trước  lúc dân làng trở lại.

 Tôi không quên tiếng cót -két của chiếc cầu, những lần đi rừng đốn gỗ.  Như mọi bữa, chúng tôi lên đường thật sớm,  nhiều đóm sao khuya còn lấp lánh trên trời. Chén cơm lưng lửng trong cái lon gô. Cái lon gô giờ lại nằm lọt trong cái bao cát, tôi mang xéo một bên nách. "Vũ khí" chúng tôi giờ là rựa, rìu cũng từ trại rèn ra xong phát cho từng người. Chúng tôi đã quen thuộc với chuyện đi rừng. Ai cũng rành chẳng khác chi "sáu câu vọng cổ" của nghệ sĩ cải lương ngày cũ. Chúng tôi lại thương cho mấy cái bao tử, lúc nào cũng đòi hỏi có thứ gì 'dằn' vào cái khoảng trống không.  Phần cơm đi rừng đã ít, lại chỉ được ăn để có sức mang gỗ về trại. Thế thì phải "linh động"  cho vấn đề sinh tồn. "Ngộ biến phải tùng quyền"- có nghĩa là trong 'cái đói ló cái khôn. Chúng tôi luồn vào rừng sắn của trại trong đêm, tìm bụi nào cao, nhiều củ...có nghĩa chỉ cần nhổ trộm hai, ba bụi sắn thôi là đủ. Những đồi sắn bạt ngàn, cả mấy trăm bàn tay người tù, khai hoang vỡ đất. Hai năm nay, bao công phá núi san rừng, đốt dọn, lượm đá, đắp vồng...Chỉ vài bụi thôi, chẳng thấm tháp gì trong hàng muôn triệu cây sắn, anh em chúng tôi có "cái no" để về lại trại.

  Tôi nhổ lên hai ba gốc sắn đã đầy cái bao cát mang theo.Thời gian đó đi rừng còn "giao khoán", có nghĩa chúng tôi đi cùng tổ không có bộ đội CS dẫn đi, miễn sao tối có gỗ về trại là được. "Trời đất" vừa sụp đổ chẳng ai còn mộng chạy đâu. 

*


   Con đường lên Rừng "Anh Tuấn" khá xa, khoảng hơn mười cây số. Thời gian đó, người dân làng nào khai hoang vùng rừng nào thì chúng tôi tạm đặt cho cái tên làng đó cho dễ nhớ. Làng (thôn) Anh Tuấn ở quận Triệu phong lên khai hoang trên này. Chúng tôi đặt khu rừng mới này là "rừng Anh Tuấn".  Đứng từ rừng "Anh Tuấn", chúng tôi có thể thấy được con đường đèo Ba Lòng tức là gần giáp với Hướng Hóa, phía bắc. Nhìn về huớng tây, rừng Trấm nay đã tan hoang sau hai năm vừa dân vừa tù khai phá. Gỗ cây về làm trại chúng tôi phải đi càng lúc càng xa hơn. Sau này ngay cả đi củi cho trại cũng xa. Trấm đang xây dựng đập-Đập Trấm- những mảng đất khai hoang  đứng xa vẫn thấy hình dạng loang lổ.

 Vừa đi tôi vừa miên man nghĩ đến hình ảnh buổi chiều vác gỗ về trại. Đó là những thời gian cuối cùng của một ngày lao động, khi ánh chiều tà còn lại những vạt nắng cô đơn trên những mảng đồi đầy sim chín. Chúng tôi sẽ  được "thoải mái" tận hưởng những trái sim chín mọng, ngọt ngào.
  Rừng dần dà gần lại trước mắt. Rừng càng xa, càng hi vọng còn nhiều cây thẳng.  Chúng tôi ngang qua các rẫy sắn của người dân đi thì trời sáng hẳn. Người dân từ những làng xa xôi dưới miệt đồng bằng phải lên đây. Họ từng chấp nhận ăn sắn thay gạo. Nhưng thật phủ phàng, các rẫy sắn hay bị heo rừng phá nát. Phần còn lại chia nhau mỗi người chỉ được vài thúng sắn tươi. Nhiều bận đi đi- về về;  xa xăm,  tốn kém,  "cơm đùm gạo bới", rốt cuộc bà con chẳng có chi,  nghèo lại hoàn nghèo - đói vẫn hoàn đói.

*

Chúng tôi băng qua vài hẻm núi mới vào được khu rừng rậm rạp, ít dấu chân người, mới hi vọng còn nhiều cây thẳng. Chia nhiệm vụ xong, chỉ còn tôi ở lại dưới khe lo chuyện nấu. 

   Hình ảnh cái hộp quẹt nội hóa- chúng tôi hay gọi là "bít- kê" (briquet) làm tại Chợ Lớn nhưng trong tù đã thành thứ hiếm. Nếu ai còn có cái zippo (tức là hộp quẹt Mỹ) thì  đã bị cán bộ CS thu giữ lâu rồi. Người viết lại lan man chuyện này cũng từ câu chuyện của "LỬA". Cũng đúng, do lửa là nguồn sống cho chúng ta, cho tù. Trong tù lửa là phương tiện đầu tiên cho ai muốn "cải thiện linh tinh"- để giúp no cái bụng.

Nhưng nếu ai đó còn cái hộp quẹt dù nội hóa, thô sơ cũng phải cần có dầu hỏa hay xăng và một thứ rất quan trọng đó là ĐÁ LỬA. Ôi chuyện kiếm cho ra đá lửa trong tù quả thật quá hiếm và quá quý.



Một mình dưới con khe, tôi phải có LỬA khi nhận nhiệm vụ nấu sắn. Tôi đem theo trong người hộp diêm THỐNG NHẤT- vuông vuông- trong còn đúng 3 que. Mớ củi khô tôi chẻ nhỏ,  một ít lá bổi làm mồi.
Những khúc sắn trắng "nỏn nà", trông hấp dẫn chẳng khác chi "làn da người đẹp", nằm gọn trong cái nồi gang do chúng tôi mang theo. Trại có đúc song, nồi gang. Nguyên liệu để đúc có từ mấy chiếc thiết vận xa M113 bị cháy trong rừng. Tù được lệnh lên rừng cưa về. Trại nấu ra thành song, nồi, thau, vá  (cán bộ CS người bắc gọi là môi). Đúc xong, trại phát về cho từng lán, khối, tổ. Ngang đây, người viết xin nhắc về  một người có liên quan đến những cái nồi gang đúc này. Anh đó có tên là Viễn Khởi người Huế. Anh là người tổ trưởng đúc nồi cho Trại Bốn chúng tôi. Sau này anh Viễn Khởi còn sống hay chết chúng tôi chẳng biết. Một thời gian ngắn  sau khi đúc song nồi, anh biệt tích luôn. Chẳng ai còn biết gì thêm về nhân vật này.



*
Tôi phải quẹt đến cái diêm cuối cùng tôi mới nhen được ngọn lửa. Trống ngực đập loạn xạ, tôi chẳng màng đến những con muỗi rừng đang vo ve hút máu tới tấp.  Mắt tôi căng ra, miệng đang dồn hết sức thổi phù phù...  Ngọn lửa bắt đầu leo lét cháy. Những làn khói yếu ớt từ từ tỏa lên bên hóc đá dưới con khe róc rách, ánh sáng mập mờ vì những tán cây rậm cùng sườn núi trên cao. Những đóm lửa đã bắt đầu bén lửa. Tôi chưa kịp mừng...
Chợt một ngọn gió xoáy nhỏ, thật ác, không biết từ đâu vụt qua. Ngọn lửa vừa bén, yếu ớt bốc lên chợt lịm tắt. Tôi hoảng hốt, run bắn người. 

Người tù "cải thiện" thức ăn cần nhất là lửa nấu những nơi kín đáo, muốn có lửa thì cần hộp quẹt hay diêm que Thống Nhất. Trong cuộc sống bình thường chúng ta khó cảm thông được niềm vui “được lửa” do chúng ta quá sẵn sàng để có lửa; ngoại trừ lâm vào hoàn cảnh trong rừng sâu tuyệt nhiên không còn phương tiện gì để tạo lửa mới thấy giá trị của lửa quý giá ra làm sao. Cái giá trị của lửa còn tăng lên gấp bội vào trường hợp của người tù đang lao dịch trong rừng và đang đối diện với cơn đói khát hành hạ mới có cảm thông sâu sắc cho nỗi mừng hay tuyệt vọng từ lửa.


-Ôi cũng do mình kiếm quá ít củi khô...
 -Trời ơi! mình phải làm răng đây?

 Que diêm trong cái hộp diêm đó là que cuối cùng tôi vừa quẹt xong. Nếu tôi nhảy qua bên bụi kia lấy ít mồi khô thì chút lửa than còn lại đó sẽ tắt hết. Làm răng, làm răng... tôi thực sự hoảng hốt. Ấn tượng cuống quít đó thật khó quên. Mấy anh đó,  trong rừng ra sẽ đói dường nào. Tưởng tượng bao thất vọng của cả toán. Vác cây ra, ai cũng đinh ninh sẽ có một nồi sắn chín, ăn no đến "phình bụng"...

Bạn đọc còn nhớ các phần cơm bới theo giờ ở đâu? Cả toán đã ăn hết trước khi xách rựa vào rừng. Ai cũng đinh ninh sẽ có sắn nấu do tôi lãnh nhiệm vụ nấu ở khe này:
     -Làm răng! làm răng đây hè?!

Người tôi thật sự run lẩy bẩy do quá lo cùng hối hận.
  Cuộc đời có nhiều lúc chúng ta run rẩy do yếu bóng vía sợ ma quỷ hay do sợ chết, mất của cải quý báu nào đó. Những lúc no đủ, dư dật khó ai đồng cảm với nỗi xúc động của một người tù "mất lửa" đang đối diện với lương tâm do việc làm không tròn. Tôi sẽ hối hận tột cùng khi chứng kiến nỗi buồn lòng, thất vọng do sự hành hạ của những miếng ăn bị mất. Những cái bụng trống không, thèm khát nhiều ngày như thế nào. Một lo sợ, run rẩy sau bao năm tôi vẫn còn nhớ. Thứ cảm giác chua cay, đau xót do miếng sắn thơm ngát dẻo ngon sẽ chín nhờ LỬA; nhưng vụt mất đi do một ngọn gió vô tình.  
    - Dưới khe một mình tôi không còn giữ gìn được ngọn lửa cho lòng tin của các anh?
  Một tia sáng lóe ra trong tích tắc...
   Miếng vải mỏng màu đà tôi vừa vá đắp vào hai bờ vai áo là cứu tinh ngay tích tắc đó. 
-XO...ẠC!
 Không cần suy tính, bao nhiêu sức lực của một ý nghĩ thoáng nhanh... Miếng vải là 'cứu tinh' thật rồi- nó có pha sợi ni lon nên bắt lửa rất nhanh.

Tôi vui mừng reo lên:
   -Cháy ! cháy! cháy lên nữa 'đi em' lửa đã lên rồi!

Tôi muốn hét lên thật to cho hai bên vách núi cùng  chia sẻ với tôi niềm vui được LỬA. Một khoảnh khắc, nhớ, cảm thông. Hồn tôi trôi nhanh về một thuở hồng hoang nào đó - tổ tiên ta tìm ra ngọn lửa. Lửa bao ngàn năm tạo nên bao mạch sống ấm no. Nhưng giây phút đó, chỉ một mình tôi dưới con khe mập mờ ánh sáng của chốn rừng sâu.

   Giờ nồi sắn đang sôi sùng sục như "reo vui" cùng chủ. Cái nắp nhôm đậy trên mấy lớp lá rừng đang rung lên từng chập...

- Sắn, sắn, sắn chín rồi, các anh ơi!

 Một niềm vui không hẹn mà gặp trong những ngày tháng buồn rầu, đói khát, vô vọng và chẳng có gì là vui... 

Tôi cẩn thận đổ nồi sắn chín đầu ra, trên lớp lá chuối rừng. Những củ sắn vừa chín, nứt nẻ, thơm phưng phức. Tôi vừa làm, vừa ăn thử một miếng sắn chín, vừa gật gù như tự thưởng công. Đậy mớ sắn đó lại, tôi còn nấu thêm một nồi nữa. Nồi thứ hai này nếu ăn không hết, cả toán sẽ chia nhau, giấu đem về trại. Bỏ thêm vài que củi, tôi lấy thêm một củ sắn ra ăn như tự 'liên hoan" hay ăn mừng cho tôi khi vừa thoát một tai nạn "hết diêm -không lửa". Vừa nhai tôi vừa cất tiếng hú gọi mọi người. Xa xa có tiếng hú đáp lại- họ đang ra.
   Ngọn gió lạnh lùng quái ác kia lại trở lại. Nó đang xuyên qua lòng khe.  "Thằng khốn nạn" đang trở lại. Nó như muốn trêu tôi hay muốn hại tôi lần nữa. Khi 'hắn' vụt qua cái khoảng trống trên bờ vai áo mà tôi vừa xé, làm tôi thấy lành lạnh.

 Không sao, tôi đã chiến thắng, sắn đã chín, đã sẵn sàng cho các anh đó ra ăn.

Bỗng dưng tôi hưng phấn hẳn lên, vội cất tiếng hú thật to gọi các anh trong toán thêm lần nữa.


*                                   

                        

Chúng tôi ra khỏi rừng thường trời đã xế bóng. Trời nắng đó là những ngày vui. Sẵn sàng vác gỗ lên vai, chúng tôi hướng về đồng bằng, chân bước nhanh như nhớ thương dưới đó.

Đoàn người vác gỗ nhấp nhô. Bóng họ ẩn hiện qua mấy trảng đồi. Tháng Tám về, không gian buồn tênh chen trong màu tím hoa sim như cam phận hay cảm thông cho những người thua trận. Ánh tà dương từ từ khuất dần phía tây.  

Trong rừng sâu núi thẳm của gió núi mưa rừng, một ngày xưa có những bóng tù len lỏi đi tìm cây gỗ thẳng. Một ngày xưa, khi bóng chiều bảng lảng xuống nhanh bên mấy trảng đồi có mùa sim chín mọng. Hòa trong vị ngọt của trái rừng, đó là kỷ niệm buồn da diết, đắng cay, từng  trải dài theo bước chân người tù đi nhanh./.

ĐHL ký ức tù binh 

ĐHL ký ức tù binh 

last edition  by ĐHL 

17/6/2022


ĐẤT RUỘNG ĐỘNG ĐỀN

 

  nhạc phụ tôi và những đám ruộng cỏn con ngày xưa Động Đền

(hình copy từ phim gia đình)

 Đất ruộng Động Đền quả thật hiếm hoi cho ai chỉ biết một nghề là làm ruộng.  Một dải đất pha cát ven biển Hàm tân,  chỉ  có biết chăm chỉ làm nông, cần cù, chịu khó, khai hoang tìm kiếm, có thể nói từng tấc đất một mới sống được qua ngày.

Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống gọi thay cho Động Đền.


 Người QT vừa lúc Di Dân vào Động Đền 1973-1974


   Ở tù cải tạo về, còn độc thân tính tôi siêng năng chịu khó.  Tôi không bao giờ bỏ qua bờ tranh, bụi lách hoang nào. Tính siêng năng đó đến từ lòng mong muốn kiếm thêm chút diện tích nào đó thế cho đám đất bạc màu trên cái rẫy có tên rất lạ là "CHỒM CHỒM".  Bản thân tôi những ngày đoàn viên về với cha mẹ, còn nhớ một cây cầy cổ thụ cao to, gỗ cứng ngắt, nên trơ trọi còn lại trên rẫy đó. Mọi người trong vùng ai cũng chê, nhưng tôi chẳng bỏ. Dù có phồng rộp hai bàn tay, tôi cũng chặt hạ nó cho kỳ được. Hạ cây gỗ cứng đó xong, chỉ nhờ đôi vai, tuy đường xa hai anh em tôi gánh hết về nhà.  Đến khi hỏi vợ xong, tôi đi phụ làm ruộng với cha vợ, cái tánh siêng năng cũng không giảm bớt mà lại còn tăng gấp bội.
   Động Đền hồi này có đến sáu thôn.  Người dân phải sống với đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp.  Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng, bờ be để sinh tồn. Lại  có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng miếng nước đem vào từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.
   Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó chỉ tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó. Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người dân xứ Động cũng còn nhắc lại.  Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt. Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh". Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...

 GIAN NAN  SAN LẤP HỐ BOM


       Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như  là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi,  mấy đứa em vợ, và cả tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp,  thế mà cả nhà tôi dám làm. 

   Kiên trì, nhẫn nại là sức bật cho chúng tôi đủ ý chí  san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt,  vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở.  Lúa cắt không đủ bù giống!  có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ,  chỏng ngọn lên trời như " 
than thân trách phận". Chúng thấp hơn đầu gối,  buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt .  Những nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay !  Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua cay.  Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả,  dù không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.

   Quê nghèo làm gì có trâu bò !  hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng,  mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn.  Mỗi lát cuốc,  tôi phải cắn răng, mím môi,  cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người và những cái bừa 'cải tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng trước khi cấy lúa.  Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa đất ẩm.  Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía làm sao !
   Trớ trêu thay, những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ nay đã ra người thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi , nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!

         CHUYỆN  KHOAI CÁ BÙ CƠM 

biển Cam Bình Động Đền vào sáng sớm


 Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những  

vồng khoai sau mùa ruộng.  Rơm rạ còn lại chịu lót làm phân cho mùa khoai đất ẩm.  Hình như khoai sắn là những gì đã định phần cho số dân Động Đền còn ở lại như chúng tôi,  để thấy rằng lúa cơm là những gì quý giá nhất ! và dầu có 'bong tay mỏi gối' cũng cắn răng san cho bằng cái hố bom to nhất xóm mới nghe ! Trời cũng an ủi cho số phận người dân ở gần biển, nhiều khoai thiếu gạo,  nhờ những mớ cá 'tươi rói'- dễ kiếm , trong khi ruộng đồng thiếu thốn bạc màu. 



chiều tà trên biển Cam Bình

                Biển Cam Bình lúc bình minh

*

       Cạnh bờ là những xóm nhà làm nghề biển. Xóm nhà ngư dân này còn mang những cái tên từ quê hương Quảng Trị vào như xóm Triệu Vân, Triệu Hải...đó là những xã làm nghề ngư của quận Triệu Phong ngoài Quảng Trị.  Họ ở  cạnh nhau để cùng kêu nhau đi biển. Cảnh nhà người làm biển, nương vườn nhỏ hẹp nhưng lại sẵn sàng qua lại giúp nhau những lúc khó khăn, chật vật.  Mùa gió chướng,  những ngày không đi biển, họ là những nông dân cần cù. Lúc này họ chịu khó khai phá từng mẫu rừng tràm bên bờ đại dương, biến chúng thành nương khoai xanh ngắt. Khoai Động đền ông Trời bù trừ cũng có tiếng ngon do trồng trên thứ đất pha cát, phải chăng nhờ thứ đất cát này có chút nào đó pha lẫn độ mặn của biển hay chăng.

       Mùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân . Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.

      NGÀY  CÚNG CƠM MỚI ĐẾN

     Thế là nhà vợ tôi cùng tôi  đã thành công san cái hố bom. Hố bom đó dĩ nhiên không thể rộng thêm nhưng đất đai cả nhà tôi đổ vào càng lúc càng nhiều . Số phận và kiên trì đã thách đố nhau. Hình ảnh cái hố bom đó đã thực sự biến mất; miếng đất hoang đã hiện thành sào lúa đầu mùa được sức trĩu nhánh. Lúa vàng óng ánh no tròn đầy hạt hòa với niềm vui của ba vợ tôi cùng tôi -người rễ tương lai- cả hai đang đứng bên lề ruộng ngắm say sưa.


    Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.
    Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân.  Tai tôi như thấm thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.
   Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông nhà.

   Trong NGÀY VUI CƠM MỚI, tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật. 

   Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI. Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn, phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp phơi trên cát, ít ai ra khơi.


  Tôi nhớ vào lúc tàn buổi cúng cơm mới, tôi gắng uống thêm vài ba chung rượu với gia đình bên vợ; có thể do trong lòng tôi muốn  "tận huởng" cho hết, cho trọn vẹn một ngày VUI CƠM MỚI khi  biết rằng hôm sau sẽ là chuỗi thời gian tiếp nối của cuộc sống cầm cuốc, rựa gian nan chật vật đang chờ...

*

Xuân Đinh Dậu 2017: lần cuối  nhạc phụ tôi (hình đang đứng) gói bánh tét cho cái tết cuối đời  tại Cam Bình/ Động Đền/ xã Tân Phước La Gi Bình Thuận (người viết đang ngồi quạt lửa)

   Nhớ lại chuyện xưa, thế mà nay đã hơn bốn mươi năm vùn vụt qua nhanh, kéo theo bao  nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh thôn xóm  nghèo nàn ngày xưa đó nay biến đổi gần như hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi như xưa nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp mới cùng cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng  ĐỘNG ĐỀN.

    Động Đền-Bình Tuy từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong  NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.


ĐHL EDITION 
6/6/2022

==================

HOÀNG LONG HẢI: NĂM DẦN KỂ CHUYỆN SĂN CỌP NGÀY XƯA QUẢNG TRỊ

 

Friday, January 28, 2022

 



Lời bạt: bước vào năm Nhâm Dần 2022 tức là năm CON CỌP, nhà văn Tuệ Chương Hoàng Long Hải người gốc phường Đệ Tứ thị xã Quảng Trị xưa có kể cho chúng ta nghe câu chuyện săn cọp. Trong câu chuyện săn cọp này, nhà văn có nhắc lại chuyện vua Bảo Đại tính ưa săn và đặc biệt ông nhắc lại tên tuổi địa danh Quảng Trị ngày trước.

 Câu chuyện đưa chúng ta cảm thấy gần gũi hơn và nhất là lối giúp cho bạn đọc nhớ lại một thành phố năm xưa giờ không còn nữa.

ĐHL

*

         Ngày xưa, - dĩ nhiên là thời gian chưa có cái gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” - rừng Trường Sơn có nhiều cọp, voi. Ngược sông Thạch Hãn, phía tả ngạn, con đường bộ lên tới Trấm, sau nầy gọi là xã Phong An, - phía tây làng An Đôn – là hết. Từ Trấm lên Ba Lòng – một thời gọi là chiến khu, thời Ngô Đình Diệm là quận Ba Lòng, người ta phải đi đường thủy, dùng đò.

         Phía hữu ngạn, có con đường từ đầu Cầu Ga đi ngược lên phía núi, qua các làng Như Lệ, Tân Lệ… rồi dọc theo sườn núi bên bờ sông, lên tới “Bơơng” - một thung lũng nhỏ, gặp một ngọn núi cao, con đường phải bọc vào phía trái, bên trong, rồi cũng lên tới Ba Lòng.

Con đường nầy thường được gọi là “đường Bảo Đại”, con đường làm ra để vua Bảo Đại đi săn, bởi vì một phần vua Bảo Đại rất thích săn bắn, thứ hai là do âm mưu của Tây: Nhà vua cứ vui chơi đi, việc nước (An Nam) đã có Tây lo. Nước ta bây giờ cũng vậy, bọn trẻ cứ vui chơi đi, việc nước đã có “đảng” lo. Bên Mỹ nầy có khác chăng? Mọi người hãy lo làm việc và vui hưởng đời sống tiện nghi và đóng thuế, việc chính trị đã có thượng viện, hạ viện lo, dân chúng khỏi lo – Âm mưu độc quyền đó, quí vị ạ.

 

“BẠN” ĐI SĂN CỦA VUA BẢO ĐẠI Ở QUẢNG TRỊ  LÀ AI ?


Tiệm may Phan Xuân Sang là một tiệm may lớn ở Quảng Trị, nằm trên đường Trần Hưng Đạo, - xưa gọi là Đường Ga – và đường Lê Thái Tổ, - xưa gọi là đường Cửa Tiền. Tiệm ngó ra ngã tư. Không phải ai cũng vô may ở đây được vì tiệm “chuyên may” đồ Tây, tức là may veston, người ta thường gọi là may “đồ lớn”. Ngay phòng trước, chỗ tiếp khách và may đo, trên vách tường lớn, gắn sát vách là bộ da cọp, có đủ đầu đuôi, đủ bốn chân, móng còn nguyên.

         Hồi còn trẻ, học cấp 2 và cấp 3, tôi thường đến nhà nầy, không phải để may vá gì - học trò may “đồ lớn” làm chi -, nhưng để chơi, trao đổi bài vở với Phan Xuân Phú, bạn học từ hồi nhỏ. Nơi chúng tôi thường lên là sân thượng  - nhà mới xây lại, không phải căn nhà ngói lụp xụp như trước 1945. - Ngoài Phú, tôi cũng thường chuyện trò với Phan Xuân Trọng, học trước tôi một lớp – người nói ngọng muôn năm – bao giờ chữ NH cũng thành D. Tôi thường hát câu nầy để ghẹo anh ta: “Cái Dà  (Nhà) là dà Việt Nam”. Sau Trọng làm “sĩ quan quan sát viên không quân”, rớt máy bay chết bên kia sông Thạch Hãn, làng Nhan Biều – làng ngoại tôi. ( ông Trọng tiền sát viên cho máy bay L19 bị đạn bắn lên và tử thương chớ không rớt máy bay /ĐHL)

Ông cụ tên Sang, anh con trai đầu tên Trọng,(1) thứ là Phú, út là Quí. Sang, Trọng, Phú, Quí. Bốn cha con họp lại là đủ bộ.

        Học chung, thi chung với tôi nhưng Phú không bao giờ qua được “cửa ải” Tú Tài 1 vì anh học hành “nghiêm chỉnh” hơn tôi nhiều. Tôi thì “chơi” bất kể giờ giấc, học bất kể giờ giấc, học tới sáng bạch, ăn chén cháo - con nhà nghèo - xong đạp xe đi học. Phú thì không thể như vậy được. Anh ta bảo: “Hại sức khỏe. Hại sức khỏe”. Chín giờ tối, anh ta lên giường rồi, còn tôi thì còn ngồi… “càphê Lạc Sơn”. Cũng phải  thông cảm cho anh ta một chút. Từ nhỏ, anh bệnh họan nhiều. Rõ ràng là anh nhỏ con, như anh bạn chí cốt Lương Thúc Trình của tôi vậy. Có lẽ hồi nhỏ anh còn bị té, mặt va vào cây bả đậu, có khi “mặt va thùng đinh” hay “bàn chông” Việt Cộng. Người ngợm như vậy, mặt mày như vậy mà anh ta cũng có vợ đấy, nhưng hơi chậm, và anh khỏi bị động viên”.

         Có lần Phú nói với tôi: “Tấm da cọp treo dưới nhà là tấm da cọp bắn trong một lần đi săn với “Đức Kim Thượng”. Nhiều người đòi mua nhưng ba mình không bán. Kỷ niệm quí của ông.”

Con hổ nầy bị bắn ở Đá Nổi (2), phía trên Ba Lòng, trước khi Đức Kim Thượng thoái vị. “Đức Kim Thượng” là người cao nhất hiện thời, là Kim. Kim Thượng là vua. Tiếng người dân tôn kính gọi vua trước 1945. Trong trận chiến năm 1972, sau khi quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược chiếm được “Quảng trị tui”, tấm da hổ kỷ niệm với Đức Kim Thượng của ông Sang trôi giạt về đâu? Uổng thiệt.

Thời Ngô Triều, ông cụ ̣ Phan Xuân Sang cũng thường nói ông là bạn đi săn với ông Cố Vấn ̣Ngô Đình Nhu. Chỉ có thế, ông không kể gì thêm.

Đường số 9 là đường qua Lào. Bắt đầu từ Đông Hà, lên Cam Lộ, Ca-Lu, Khe Sanh, Lao Bảo. Bên kia Lao Bảo là nước Lèo, - nước Lào đấy, xưa người ta thường gọi là Lèo. Nhờ con đường nầy, người ta dễ đi sâu vào rừng để săn cọp.

        Phú kể: có lần ông bố đi săn ở Khe Sanh, - (người viết: Những năm đầu đời nhà Ngô, tình hình còn yên bình.) – ông đi săn, gần một buôn làng của người Vân Kiều hay Stiêng gì đó, nghe ở buôn làng bên cạnh có tiếng người la cầu cứu, tiếng mỏ, tiếng cồng, tiếng thùng, nồi… đánh dữ dội. Ông bố liền xách súng chạy qua. Tới nơi, ông thấy một con cọp, đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước đang cào vào vách tranh của một cái nhà thấp. Ông nghĩ bụng: “Con cọp nầy dữ ghê.” Ông liền núp phía sau lưng cọp, bắn liền mấy phát  - ông săn bằng  súng Shotgun hai nòng. Con cọp gục ngay tại chỗ. Xem lại, ông thấy đó là con cọp què một chân trước. Ông từng nghe “dân mọi” địa phương nói tới con cọp nầy. Cọp què dữ và táo tợn, núp bắt người đi đường giữa ban ngày. Bộ da con cọp nầy, ông bán được hai chục ngàn, giá thời đầu thập niên 1960.

        Lại một hôm, ông Sang kể, hôm đó ông đi săn ở Khe Sanh về, ông lái xe chạy theo đường số 9. Gần tới Cam Lộ, qua một khúc quẹo, đèn xe hơi chiếu vào một đống to sù, sáng lấp lánh, nằm bên góc đường. Qua khỏi đống sáng ấy hơn mười mét, ông dừng xe lại, xách súng đi ngược lui. Nhờ đèn săn, ông biết đó là một con trăn rừng rất lớn đang nằm cuốn tròn lại. Ông đưa súng nhắm hướng bắn. Hai người cùng đi với ông cản lại. Con trăn to quá, lỡ nó không chết, quật lại thì “bỏ mạng”. Ông không nghe, ông “gan” hơn họ. Sau khi thấy được cái đầu trăn, ông nhắm vào đó, bắn hai phát. Xong, ông nạp đạn bắn thêm hai phát nữa. Con trăn nằm im. 

          Ba người, - ông và hai người kia -, vất vả lắm,  mới khiêng được con trăn bỏ lên xe, chỗ phía sau. Con trăn đã chết rồi mà nó còn vùng vẫy, đôi khi quẫy mạnh, khiến anh ngồi sau sợ quá, phải leo lên ngồi trên thành xe.

          Da lột đem bán, thịt để ăn và biếu bạn bè. Khi Phú nói chuyện với tôi xong, anh ta vào bếp, lấy cho tôi một miếng to bằng bàn tay. Miếng thịt trăn còn nhúc nhích, tôi sợ quá, không dám nhận.

 

MỘ ÔNG NĂM Ở MÃ TÂY LÀ AI ? 

Bà Năm quê ở làng Trà Trì, bỏ làng đi ra Bắc khi bà còn trẻ. Mấy chục năm sau, bà giàu có, trở lại Quảng Trị, mua ruộng ở làng, mua phố ở thị xã, xây nhà ở với chồng, và xây chùa “cúng Phật”. “Chùa Bà Năm” nằm trên đường Nguyễn Hoàng nối dài, đoạn gần trường Thánh Tâm cũ. (3)

ngả rẽ theo o lái xe đạp quẹo tay phải gọi là đường Nguyễn Hoàng sẽ đi qua Chùa Bà Năm 
                             ***

Chồng bà là một ông Quan Năm Tây - ngày nay gọi là Trung tá - đã về hưu, không về Tây mà ở lại quê vợ. Thỉnh thoảng ông đi săn cọp, voi ở rừng Trường Sơn để giải trí. Một lần, gặp con voi rừng, thường gọi là “voi một” - voi sống một mình - thường là voi dữ. Ông đưa súng nhắm vào mắt voi để bắn, nhưng trật. Con voi chỉ bị thương, xông vào ông tấn công. Hoảng hồn, ông trèo lên cây. Cây nầy không lớn, bị con voi xô ngã. Ông Năm té xuống, chưa kịp chạy thì bị voi lấy chân chà lên người ông Năm. Ông chết ngay tại chỗ. Bà Năm đem ông về chôn tại Mã Tây. 

Mã Tây là khu nghĩa địa cho người Tây chết tại Viêt Nam, không đem về nước. Nghĩa địa nầy khang trang, đẹp đẽ, có hàng rào xi-măng, các ngôi mộ đều xây xi-măng. Mộ ông Năm lớn nhứt, nằm chính giữa, có nhà mồ. Tôi tò mò, từng vô coi mộ ông Năm một lần với ông anh cả tôi. Khu mộ nầy nằm phía ngoài Cửa Tả thành cổ Quảng Trị, cửa ngó về hướng Nam, dọc theo đường Trần Cao Vân, nay là đường 49C. 

Sau khi ông Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, đuổi Tây về Tây, cả người sống lẫn người chết. Lính Tây, lính “Tây đen rạch mặt” (Sénégalais), lính Ma-rốc… chôn ở sân trước nhà thờ Thạch Hãn – trên đường Quang Trung –, chôn ở bến xe Nguyễn Hoàng, sau làm bến xe - và ở Mã Tây, đều theo nhau “hồi hương”. Xương cốt ông Năm cũng về Tây, khi ấy bà Năm qua đời đã lâu rồi./

Hoàng long Hải

25 tháng Chạp / năm Tý  (2021)

(ST từ mail thầy Thái Công Tụng/con dân Cam Lộ Quảng Trị)

 ======================== 

chú thích của ĐHL 


(1): Nhà May Phan xuân Sang còn có người con gái tên Hương. Chị Hương nay ở Oakland, tiểu bang California Hoa Kỳ. Ngày xưa người ta hay kêu bà Đào phu nhân của Bác Sang là Bà Trọng do lấy tên con trai đầu mà gọi 

(2): bến đò lên quận Ba Lòng thời TT Diệm, gọi là Đá Nổi do bãi sông toàn là đá to (nửa cái đầu) nhẳn thín, bước chân khỏi đò đi nghe rào rạo. ĐHL có lên Ba Lòng thời còn bé nhỏ lúc thân phụ làm trưởng chi CA quận này 

(3): thành phố QT có Chùa Bà Năm  lối đi theo ngả rẽ ở Đường Trần H Đạo gần tiệm nhà máy đèn hay tiệm Đông Mô Tô. Ngả rẽ này dẫn về đường Quang Trung

LẨM CẨM CHUYỆN NGÀY QUA - CHỞ CON ĐI THI

 



Hai tay tôi cứ ôm ghì trên vô lăng,  tập trung tất cả tinh thần để lái chiếc xe wagon buick 'gà tàng' theo Freeway 101, một xa lộ lúc nào cũng đông xe, bận rộn nhất bắc Cali này. Xe đi quá phi trường San Francisco một đoạn rồi quẹo phải. Mừng quá, tôi đã đi đúng địa chỉ- trung tâm con tôi thi hôm nay đây rồi!



Mới qua Mỹ, tôi mua được chiếc xe đầu tay. Tôi phải ký cóp trả góp tới mấy tháng. Dù xe cũ, nhưng đó là lần đầu tiên tôi làm chủ một chiếc xe, quả thật là 'hoách'. Nói khác đi, tôi tự cho đời mình đã "lên hương". 




Thật ra, xe chỉ là phương tiện đi lại bình thường ở nước Mỹ, nhưng đối với tôi quả là một chặng "đổi đời".  Vừa qua nước Mỹ, tôi phải lo đi học lái  xe. Nhớ chuyện 'trần ai' khi tôi phải tới DMV tức là Cơ Quan Lộ Vận rồi thi tới thi lui  tới ba lần mới đậu được bằng lái. Ai mà cho tôi đậu ngay được? một người như tôi, hai lòng bàn tay chưa hết chai sần do cầm cuốc rựa. Hai mươi năm rìu rựa bong tay từ tù cho đến lúc về nhà, có vợ con cùng tháng ngày chật vật với nương khoai rẫy sắn.  Qua được xứ Mỹ, tiếng Anh tiếng Mỹ đa phần 'ú ớ' làm sao. Tôi nhớ lần thi thứ hai, bà giám khảo người Mỹ từng hoảng hốt giật phăng tay lái của tôi- do tôi chen lane quá ẩu, suýt gây tai nạn. Nhưng tôi nhất quyết phải đậu cho được bằng lái xe. Cả gia đình mới qua, nhất là năm đứa con tôi đang cần tay lái của ba nó. Nào là chuyện đi khám bác sĩ, hay đưa đón con tới trường, ngay cả dịp chở con đi thi hôm nay.


*


Tôi chỉ mong chở con tới nơi, tìm ra chỗ đậu xe. Người cha như tôi chỉ mong ngần ấy. Nhớ ngày mới qua, đi đâu cũng lật bản đồ in sẵn.  Thứ bản đồ này tiệm xăng nào cũng có bán; mỗi cái khoảng ba bốn đồng bạc. 

Vừa lái xe, tôi vừa thầm thì trong miệng:


- Ta theo Freway 101, lên quá Phi Trường SFO, vượt đường X rồi đến Y chẳng hạn, xong quẹo phải gặp đường Z cua trái...v v 


Lẩm nhẩm trong miệng như thế, tôi chẳng khác gì một ông thầy pháp đang đọc "bùa chú".  Giống gì thì giống, đó là cách tôi tự dò theo bản đồ chỉ dẫn để khỏi lạc đường. Thật vậy, lúc đó tôi rất sợ lạc vào thành phố San Francisco. Mới lái xe, giá như mà đi quá đà, lạc vào San Francisco có lẽ tôi sẽ bị "tẩu hỏa nhập ma" mất. 


Khác với thời này, đi đâu cũng nhờ vào định vị vệ tinh GPS, tài xế cứ lần theo  chỉ vẽ trong máy Iphone rồi  theo nó là xong.


Thật là một  kỷ niệm đáng nhớ. Một gia đình vừa thoát khỏi vùng kinh tế mới: đói- thiếu kinh niên, qua được xứ Mỹ. Trong lòng hai vợ chồng lúc nào cũng "tòn ten"  nhiều ước mơ học hành cho con cái.


Chiếc xe tuy gọi 'gà tàng'  nhưng nó quả là "con ngựa trung thành" giúp tôi nhiều việc. Ngoài việc chính lái nó hàng ngày đi làm thợ assembler, biết mấy lần nó giúp tôi chở con đi phỏng vấn xin vào đại học.
 Hàng cuối tháng, tôi còn bới xách gì đó cho con.

***

 Làm sao tôi quên được cái cảnh người cha kiên trì ngồi đợi  hằng mấy giờ dưới parking một hãng hay văn phòng nào đó. Trên căn phòng của công ty lấy hẹn kia, con tôi đang được phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn đó không phải để xin việc làm nhưng trường đại học con tôi nạp đơn mượn chỗ lấy hẹn phỏng vấn cho nó mà thôi. Ngồi trong xe đợi con, lòng người cha cứ mãi lầm thầm khấn nguyện trời phật, ông bà phò trì phò hộ cho đứa con gặp điều may mắn... 


Rồi lại đến hôm nay, tôi thêm một lần nữa mừng rỡ do được dịp chở con trai thứ hai tới đúng nơi hẹn thi MCAT.

Tôi mở cửa xe cho con vào thi. Người cha ở lại bên ngoài parking. Tôi chẳng cần tính chuyện thời gian đợi lâu mau, chỉ một lòng khấn nguyện phật trời...


*




Ngọn gió biển buổi xế chiều từ vịnh San Francisco khiến tôi cảm thấy mát đến lạnh người. Trung tâm thi sát vịnh nên gió biển thổi vào lồng lộng. Một mình đứng đợi, tôi thư thả có dịp ngắm vài cánh buồm của mấy chiếc thuyền thể thao im lìm lướt sóng. Người chơi thuyền  dật dờ tới lui; trước mắt tôi, tất cả đều lạ lẫm. Tiếng qua Mỹ khá lâu, nhưng tôi chỉ ru rú ở San Jose chẳng dám đi xa, ngoại trừ cái việc là LÀM TÀI XẾ CHO CON.


Buổi thi hôm đó lâu thật. Trời đã về chiều mà con tôi chưa ra. Gió biển càng lúc càng lạnh. Tôi có thể vào xe tránh gió, nhưng tôi muốn ngắm  biển Vùng Vịnh. Hôm nay là lần đầu tiên tôi mới có thì giờ thoải mái đứng ngắm vùng biển Cựu Kim Sơn nổi tiếng đẹp và yên tĩnh.


*


Năm đứa con đang trên con đường học vấn. Tài xế cho con đi học trường này, đi thi nơi kia, học thêm học phụ, làm thiện nguyện làm sao tôi có thì giờ đi chơi đây đó được? 


Bao nhiêu ước mơ, giờ đây tôi thấy chúng đang hiển hiện. Quả là những phần thưởng khiến tôi không bao giờ biết khó nhọc là gì.


mũi tên hướng vườn điều và mái tranh nghèo gia đình tôi trước đây. Ngày hôm nay thời thế thay đổi, quê nhà nay đã khác xưa, có đường nhựa và cột điện lưu thông cùng tháp sóng ở phía xã Sơn Mỹ trên xa

Từ giã quê hương, trước hết bàn tay tôi được giã từ rìu, búa của người tiều phu ngày ngày vào rừng đốn củi kiếm tiền độ nhật. Gia đình tôi đã thoát được một quãng đời tăm tối nơi quê nhà. Tới quê hương mới, rõ ràng chúng tôi làm lại từ đầu qua hai bàn tay trắng. 


Giã từ một quá khứ "đốt rẫy làm nương" 

Tôi tiếp tục thư thả ngó ra biển... một quá khứ lướt qua như một giấc mơ. Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về trong một buổi chiều. Chính lúc này đây tôi có dịp ngó lại hai bàn tay mình chợt mừng vì những vết chai sần nứt nẻ trong quá khứ gian truân bên trời quê hương nay thực sự đã hết. Đôi bàn tay của người tiều phu bất đắc dĩ ngày đó không có thì giờ để lành lặn vết thương...cũng chấm dứt. Hình ảnh cánh rừng thâm u, bụi khói của những ngày đốt rẫy làm nương giờ chẳng còn trở lại. Tôi thật sự đã xa rừng xa tiếng chim kêu, vượn hú, một nắng hai sương, đôi bàn tay và hai vai nhức nhối. Những nhát búa và vết thương bàn tay chưa kịp lành lại thêm một lần trăn trở với đau đớn thịt da. Có thể những cảm giác ngày đó chỉ có tôi nhớ thật lâu do cảm giác đau đớn đó từng dày xéo thân tôi, một mình trong rừng.


*

Đất nước Hoa Kỳ từng dang tay đón nhận biết bao nhiêu thân phận và hoàn cảnh giống tôi. Giờ so lại, tại đây có gian nan cực khổ gì cũng là thiên đàng nếu so với ngày tháng cũ. Tương lai, mấy con tôi sẽ tự hào, kiêu hãnh những gì đạt được nơi quê hương mới. Chắc hẳn, các con tôi sẽ không bao giờ tưởng tượng ra những điều cha chúng thường nghĩ:

 Hãy trân trọng một quá khứ đói nghèo do đó là sức bật thăng hoa cho một tương lai tươi sáng.


Gió biển càng về chiều càng trở nên lạnh buốt giúp tôi chợt tỉnh để trở về với nhiệm vụ. Tôi vội vàng mở cửa xe quăng mình vào trong. Con trai tôi đã thi xong. Kết quả buổi thi này sẽ quyết định  cho những sinh viên ước mơ vào con đường y khoa bác sĩ. 





Trên đường về, tôi hồi hộp chẳng dám hỏi con; nhưng nhìn nét mặt phấn khởi của con, tôi mừng thầm do tin chắc nó đang có gì toại ý.  Xa lộ Freeway 101 hôm nay dường như vui hơn mọi khi. Chiếc xe 'gà tàng' thân yêu của tôi chạy thật êm như biết 'hòa chung' niềm vui cùng chủ./.


ĐHL Rằm tháng Tư Phật Đản 2022 



BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...