Thursday, August 18, 2022

NHỚ PHƯỜNG ĐỆ NHẤT THỊ XÃ QUẢNG TRỊ CŨ


Lâu nay trên các trang online Quảng Trị, ngoài cái 
PHƯỜNG ĐỆ TỨ của bác Tuệ Chương Hoàng Long Hải,
 ít ai nhắc đến cái Phường Đệ Nhất nơi có trung tâm 
thành phố mà cái NGÃ TƯ bà con chúng ta hay thấy.

 

Tại sao người viết hay nhớ tiệm Radio-TV Tân Mỹ?
 Chẳng lạ gì, do chỉ khi nào có ai đau yếu mới ghé tạt vào mua 
vài trái cam từ Sài Gòn ra gọi là "cam ký". Những trái cam được 
để trong cái khay tròn có cạnh cao. Người mình kể lại nghe 'cũng tội', hình ảnh thông thường đi mua cam ký hay ăn cam chỉ khi đau yếu mà thôi; khác với thời này chuyện ăn cam hàng ngày là bình thường. Người viết,  còn nhớ hình ảnh Mệ Khiết ngồi bán và nhớ cả hàm răng đen và hình như Mệ còn vấn cái khăn bịt đầu nữa. 
 Chú Khiết người dong dỏng, trắng trẻo hay bận cái sơ mi bỏ ngoài, khi nào cũng tươi cười, hiền hậu. Những cái radio hiệu sony hay philips, lớn nhỏ; có cái bọc da màu đà trông 'phát mê'. 
Hình như tiệm Tân Mỹ là đại lý honda đầu tiên ở QT thì phải? 
Những chiếc honda dame hiệu Cub 50, quá bền; bốn mươi năm sau chưa hư. Nhưng chuyện mua các thứ này là chuyện "người lớn", cỡ tôi lúc đó là đứa học sinh làm gì nghĩ đến chuyện mua máy hát mua xe honda?

1972 VÀ THÀNH PHỐ NÁT TAN 

 


Sau này cạnh Tân Mỹ có kèm một phòng khám bịnh 
bác sĩ quân y Hoàng Trọng Mộng. Ngó qua bên đường là 
phòng khám của các BS Lê Bá Tung và BS Hoa (?) Hình trên,
 bạn đọc thấy dấu hiệu chữ thập đỏ ngó qua bên kia đường cũng
 là phòng khám của BS Tung và Hoa. Kế tiệm sách Tùng Sơn 
chúng ta còn nhớ phòng răng Hồng Bàng ngó ra đường 
Trần H Đạo (?) nữa

 
Phường Đệ Nhất theo tôi, gần múi đầu Nhà Máy Đèn
 theo đường chính Trần Hưng Đạo xuống đoạn nhà sách
 Lương Giang, Sáng Tạo, hàng vàng Quảng Ngọc... cho 
tới Ngã Tư chính cắt ngang đường Quang Trung. Từ ngã tư 
Tân Mỹ - tiệm chị Võ thị Vinh - nó đi theo con đường
 Quang Trung chạy cho tới bờ sông Thạch Hãn 
(nơi gần nhà chị Quỳnh Hoa phu nhân của Kỹ sư Trí). 
------------------------ 
tuy nhiên tôi phải tin  theo nhà văn Hoàng Long Hải tức Tuệ Chương thì: 
Có khi gọi là thành phố Quảng Trị có

 6 phường. Ấy là kể theo tình trạng trước 1945. Phường Đệ Nhất và Đệ Nhị ở kế nhau,
 là khu vực nhà và phố chung quanh chợ
 Quảng Trị. Kể từ tiệm ăn Như Ý của bà mẹ 
Như Xuân + Định, - nhà ông Huy, -
 gia đình Thu Ba, Mỹ Lệ... dài ra tới 
sân Vận Động cũ, sau nầy 
là trường Nguyễn Hoàng là khu vực phường
 Đệ Tam. Từ đường Nguyễn Hoàng 
(trường Nguyễn Hoàng cũ), nhà bác Xạ Quí,
 thân phụ Quang Hiển, Bạch Mai... 
lên tới địa phận cầu Ga và nhà Ga Quảng Trị, là phường Đệ Ngũ. 

----------------------------------------- 


Theo Quang Trung hướng về bờ sông thì Phường Đệ Nhất
 có thể từ hai trường tư thục Teresa và Thánh Tâm 
đi lần tới ngã tư Tiệm Tân Mỹ nói trên. Bốn góc đường là Đồng Dụng, tiệm hớt tóc ông Toàn, quán sách Tùng Sơn, Radio -TV Tân Mỹ như chúng ta thấy trong hình. Tiệm Tân Mỹ thời này chưa có TV màu, nhưng TV trắng đen sắm được thì khá lắm rồi. 
"tậu" TV thì khi nào cũng mua thêm bộ phận antenna 
để bắt cho được đài Huế. 
Nói đúng ra thời này có phát sóng TV thì phi cơ 
bay lên bay vòng vòng quanh thành phố suốt thời gian phát sóng vì chưa có cột phát .
 Đài 11 phục vụ cho tuyến McNamara Ái Tử cũng vậy, 
toàn là phim cao bồi
: Wild Wild West, hay Star Trek (Lỗ Tai Lừa)...
 
Kể về tiệm sách Tùng Sơn làm sao tôi quên được loạt
 truyện tranh nhiều tập "CON QUỶ TRUYỀN KIẾP"
 và những tờ báo coi "cóp" để trên cái bàn gỗ nhỏ ở ngoài.
 Tiệm Tùng Sơn diện tích nhỏ bé hơn Sáng Tạo, 
Lương Giang,
 Tao Đàn nhưng nó ở ngay Ngã Tư - trung tâm QT làm người 
ta nhớ lâu.
 
Kể về cái Miệu Ông Voi, tại sao người viết nhớ lâu? 
chẳng qua vì tôi có đứa em trai học vỡ lòng bắt đầu từ đây.
 Mái trường nhỏ và ông thầy hồi này vào lứa tuổi trung niên giờ 
chắc cũng khó còn tại thế. Những ai học vỡ lòng hay lớp 1, 2
 ở đây đều được gọi là HỌC TRÒ MIỆU ÔNG VOI cho dễ nhớ.
 Thôn Đệ Nhất con em thành thị khá đông. Giờ các em thuộc lứa tuổi ngũ niên. Tôi cũng ưa cái ý ‘ngồ ngộ’, đề nghị các em nên kêu nhau thành lập cái hội cựu học trò miệu ÔNG VOI cho vui. Hồi này P. Đệ Nhất người ta thấy dân trong phường năng họp ở đây. Bầu ra bác phường xem chừng cũng na ná giống ở hải ngoại bây giờ là làm phường trưởng 'muôn năm' ? Thế nhưng bác Nguyễn Văn Vị - chủ lò mì Vạn Hoa- tuy không có 'lương lá' chi với cái chức phường trưởng bác làm lâu dài phục vụ cho phường một cách vui vẻ không nề hà. Đó là do tình bà con thôn xóm mà ra.  Tôi quên giải thích tại sao gọi Miệu Ông Voi? Do có hai con voi phủ phục? nhưng xin ai nhớ nhắc giúp hai con voi đằng trước miệu này đầu ngó vào trong hay ra ngoài tôi quên mất? (Theo Trần Hữu Hội, cư dân phường này còn nhớ:
 hai con voi đâu mặt lại với nhau chứ không ngó ra hay vô gì cả).
 Tiệm ăn Tàu Thanh Thanh, tôi khó quên, do hay sà vào đó ăn loại mỳ heo, 25 $ một tô. Tiệm Thanh Thanh này không đặc sắc bằng Nhuận Ký và Đường Ký tại đường Phan bội Châu nên không đáng nhớ. Bên cạnh tiệm THANH THANH là tiệm bánh kẹo Chị Uyển tức phu nhân anh Nguyễn Hữu Sinh, trước khi vào chợ.

Trước mặt tiệm Thanh Thanh là con hẻm vào Lò Mỳ Vạn Hoa mà người chủ là bác Nguyễn Vị mấy đời làm phường trưỏng phường Đệ Nhất này. Tôi nhớ con hẻm này do nhà dì tôi ở đây. Dì tôi là em dâu bác Vị. Sau vụ Mậu Thân 1968, mẹ tôi cùng các em tôi lên đây ở chung với nhà dì tôi. Vào sâu trong hẻm, trước khi qua nhà bà Toàn làm nghề sửa kim hoàn , đổi đô la thời đó là đến cái lầu của chú Lành, trung sĩ quân y, anh ruột Cô Hồng, xong mới đến nhà dì tôi, lò mỳ Vạn Hoa.
 
Nhà bác Vị chủ lò mỳ này có cây đào cổ thụ gần cả trăm năm, người ta đồn linh thiêng. Bởi thế mệ Vị tức là mẫu thân bác Vị hái đào bị "ma xô" sau này khi nào mệ cũng chống nạng. Thân phụ của bác vị cũng là thân phụ của dượng Ngọ (Nguyễn văn Ngọ) tôi nghe đồn là thầy pháp cao tay lắm bởi vậy bị ma nó "thù" làm cho mệ bị gãy chân chống nạng sau này? Tin hay không tin, chứ tôi thì chẳng bao giờ héo lánh dưới cây đào tiên rậm rạp cao ngất này do..."sợ ".
 
Tôi nhắc nhiều tới nhà bác Nguyễn văn Vị vì tôi không 
quên được cái lò mỳ mà những đổi thay lò mỳ cho đến nay tôi còn nhớ.

Lò mỳ nằm sâu nhất trong xóm và cuối ngõ kiệt tôi vừa kể này. Lò xây bằng gạch. Những thanh củi to lớn được đốt bên trong suốt nửa ngày cho lò thật nóng. Xong mới người thợ mới hì hục kéo tro than ra chùi sạch bằng nhũng thanh gỗ dài có quấn bao tải ướt ở đầu. Giả mỳ đầu tiên khi nào cũng cháy nhiều và còn dính một ít hạt than. Lúc này tôi được chú Lô cho mấy ổ mỳ 'cháy', nhưng nóng hổi ăn ngon đáo để. Tiếp tục làm giả thứ hai thì mỳ mới đẹp.
 
Những cái cần xế đựng mỳ có sẵn mối lái. Những đứa bé bán mỳ cũng vô lấy mỳ ở đây. Giai đoạn làm bột thật là công phu. Toán thợ thanh niên, sức vóc, ủ bột nhồi bột sau khi có thêm bột "la virre " nhập từ Pháp cho nở mỳ. Khối bột mềm mại trắng bóc, thợ rứt ra đều đặn, không quên bỏ lên cái cân bàn. Những con bột trông như những con đỉa lớn màu trắng, nhọn hai đầu đặt dài theo mái chèo gỗ mỏng dẹp. Chú thợ dùng nửa miếng dao cạo thoăn thoắt rạch 1 đường ở giữa từng con bột trước khi chuồi sâu vào lò mỳ. Các đường bột đã đầy lò, chú thợ đậy mấy cái lỗ lò trông như mấy cái lỗ châu mai mà chúng ta hay thấy tại các lô cốt thời Pháp vậy. Mỳ vàng tới, là toán thợ hối hả kéo mỳ ra. Những ổ mỳ nóng dòn, vàng hươm rớt nghe rôm rốp vào những cái cần xế đan bằng tre. Những ổ mỳ nóng đến nỗi lúc này tôi không thể nắm lên tay lâu được. Bạn chớ chê mỳ cháy; nó ngon nhất lúc này. Tôi ăn bao nhiêu chú Lô người thợ chính của bác Vị chẳng nói chi; em út mà!

 
Góc chợ Quảng Trị từ trên tầng nhà Mệ Khoá Lạng ngó tới đằng kia là lầu ông Hứa đức Hào, và sau lưng nhà gạo ông Hào là đường Quang Trung có lầu Mệ Xạ Bình tức là nhà chị Q. Hoa


Sau này thời đại dầu hỏa "lên ngôi" (đúng ra gọi là dầu cặn (diesel) khi đốt nó hôi nặng mùi hơn dầu hoả), lò mỳ không đun nóng bằng củi vì thiệt ra trong thời chiến tranh khó mua củi hơn dầu nhiều. Đốt bằng dầu vừa sạch vừa tiện công hơn. Lò mỳ bằng gạch lò Vạn Hoa vẫn giữ nguyên. Nhưng không đốt than thì lại thế bằng các máy thổi chạy bằng dầu. Những luồng hơi lửa trông như súng phu lửa trong chiến trận mà chúng ta thấy trong phim ảnh, thổi ào ào hàng giờ vào trong cái lò gạch. Khi đủ độ nóng, thợ lò chùi sơ là bỏ con mỳ vào được. Lạ thay tôi thích ăn mỳ đốt bằng lò củi hơn nhiều. Các tiệm mỳ điện sau này cũng có, ví dụ Liên Thịnh nhưng làm mỳ ngọt thôi. Lò mỳ Vạn Hoa công suất nó nhiều, cung cấp nhiều mối buổi sáng và mỳ ra chiều ít hơn dành cho bán tối. Kinh doanh mở rộng hơn, lò Vạn Hoa còn cung cấp những cái thùng 4 mặt kiếng hình khối vuông, sơn màu vàng cho các mối bán mỳ xíu lẻ mượn lâu dài. Nhớ về lò mỳ Vạn Hoa tôi còn nhớ một "thiên tình sử" giữa anh Lô làm thợ và con gái bác Vị tức chị Anh. Chú Lô người Huế lưu lạc Quảng Trị làm với bác Vị. Anh lanh lợi, hoạt bát, đẹp trai. Có điều tôi nhớ chú hát vọng cổ rất hay. Làm lụng với con gái ông chủ lâu ngày, tình yêu phát sinh. Hình như phân biệt giữa giai cấp "chủ tớ" hồi này là lằn ranh ngăn cách sâu đậm, gia đình chị không ưa. Chuyện tình anh chị qua nhiều phen gay cấn lắm nhưng "thề non hẹn biển" nên cũng tới nơi, tức là 'bến đổ tình yêu". Cái miếu âm hồn trong xóm cũng đã lâu năm bên hông nhà chị Chư tức mẹ ca sĩ Khả Tú lâu nay. Nhưng cái thời tôi ở trong xóm này chắc Khả Tú chưa ra đời. Và chị Chư lại bà con với dượng Ngọ tôi mà nay lại ở gần nhà tôi ở San Jose này. Chị Yến, chị đầu của chị Chư thì là vợ của chú Lành, mà chú Lành là anh ruột cô Hồng. Bà con quanh đi quẩn lại, té ra biết nhau cả thôi. Đó là tôi chưa nhắc đến anh Viễn Khởi dòng Tôn Thất đâu trong Huế, tình duyên sao lại tới với chị đầu con gái bác Vị. Chú Khởi một thời có nhiều bàn tán về cái chức chi nghe đâu "to lắm " mỗi lần ra xóm trong bộ đồ lính "rằn ri" đội mũ đỏ mà lại có tài xế lại lái xe "dân sự"? Tôi lúc này là đứa học trò, chẳng để ý làm gì. Lạ lùng thay vào trong trại tù cải tạo sau này bên Ái Tử, lại thấy chú Khởi cũng ở tù nhưng lại làm trưởng khối "đúc song nồi" cho trại, chuyên cưa vụn xe lội nước quân đội M 113 trong rừng về trại nấu lỏng ra mà đúc.  Sau này chú Khởi "biến mất" tôi không còn thấy cho đến lúc này cũng "bặt tăm hơi"?
 
Lướt theo chiều gió
Một con thuyền, theo trăng trong
Trôi trên sông thương,
nước chảy đôi dòng (nhạc)
 
Vạn Đò Bến Hộ, bến đò Quảng Trị ngó qua bên tê là Nhan Biều thấp thoáng trường Nông Lâm Súc


Ra lại con hẻm vừa nói trên, đi về trái ra bờ sông qua khỏi các tiệm tồn xi măng ông Tài vài vài căn phố nữa mới tới tiệm xi măng đồ xây dựng túc là nhà chị Quỳnh Hoa trước khi giáp giới bến đò. Anh Quang hội trưởng QT giờ còn trẻ, thằng Quốc bạn tôi em anh Quang hồi này học với tôi một lớp. Tôi ít tới nhà, lâu lâu đi ngang thấy ba thằng bạn tôi tức là ba anh Quang lâu lâu ở mô về, đeo 3 cái mai vàng sáng chói ! Thằng Quốc ngó thì "hoang " vậy mà rất thương tôi, tôi thì hiền mà hắn chẳng khi nào ăn hiếp tôi cả. Bên kia kế ngõ vô chợ là tiệm Hứa Đức Hào thương gia mễ cốc thuộc loại lớn nhất nhì tỉnh Quảng Trị. Con ông Hào tức là Hứa Thạnh thân với thằng Quốc bạn tôi. Hứa Thạnh hắn thuộc dân "Bồ Đề" nên chơi với Trương Sừng - dân Phường Đệ Tứ là bạn trong xóm với tôi.

 
 
Đạo có Fb là Hoàng Đạo


Góc này có vài tiệm bán tạp hóa nhà lụp xụp hơn ngó qua là chợ cá và hàng thịt. Họ vào từ năm 1954 nói tiếng Bắc. Có nhà thằng Đạo học với tôi từ hồi Trường Nam Tiểu Học. Cái giọng Bắc của nó rất chuẩn với chính tả nên thầy giáo thường bắt thằng Đạo đọc chính tả cho cả lớp. Tại sao mà tôi gọi là chuẩn - theo cái từ lúc này - vì tôi còn nhớ chữ có dấu hỏi như chữ ‘bảo vệ’ thì giọng Bắc đọc cái accent "nặng xuống", trái lại những chữ có dấu ngã như chữ ‘bão’ thì giọng Bắc đúng thì đọc cao hơn.


                             Trương Sỹ Dũng hiện nay cùng gia đình ở Long Khánh
 
Cái thằng ôm ốm đen đen, cùng nhóm với Trương sĩ Dũng , nhưng Trương sĩ Dũng sau 1975 tôi còn gặp một xóm tại Động Đền Hàm Tân còn như thằng Đạo thì mất hút từ lúc sau tiểu học.
 
 
                             Từ Đông Hà vô qua Cầu Ga sẽ bắt đầu vào Thị Xã QT
 
Kể miên man như thế, tôi không biết cái bến đò cuối đường Quang Trung thuộc về quyền hành chánh của phường nào. Còn mấy quán chè và bún thịt nướng gần cái bến Đò thì thuộc phường Đệ Nhất hay không? Tôi tin chắc rằng người dân phố Quảng Trị hay phường Đệ Nhất không ai quên được mấy quán chè và bún thịt nướng ở cạnh bến đò này. Ở đây có mấy cây ngô đồng nó lên cao khá nhanh che cho mấy quán chè. Hình như vị trí này hiện nay là cái miếu thờ bộ đội to lớn và mấy quán cà phê hiện tại thì phải.
 
Bà con phải nhắc đến cái Quán Cơm XÃ HỘI do chính quyền Tỉnh trợ cấp, giúp cho học sinh nghèo và người lao động. Tôi không có dịp vào đây vì đã ăn cơm nhà rồi. Nhưng các học sinh ngụ cư, từ xa tới tỉnh học, hay nhắc đến Quán Cơm Xã Hội Quảng Trị. Sau lưng Quán Cơm XH này tới hướng Vườn Bông xưa là Đình Thạch Hãn. Nhà máy nước đá Mỹ Phát - tức là chú Hiếu - gần đình này. 


hình: chiếc xe jeep đang dừng trước tiệm Mỹ Phát nước đá Người đàn bà đạp xe đạp nếu cua phải là vô Chùa Bà Năm con đường này tên là Nguyễn Hoàng (?) là con đường nhỏ đâm thẳng tới trường Thánh Tâm tức gặp lại Quang Trung


***

Năm ngoái tức là năm 2016 khi dự đám tang bà Quảng Tường (tức là mạ của Ngọc Hà và chị Bích) tại TP San Jose, bắc California, người viết có gặp thím Mỹ Phát. Khi tôi nhắc lại chuyện nước đá hiếm hoi vào ngày hè nam nắng xứ Quảng Trị ra răng, thím Hiếu cười vui, hồn hậu. Thím không ngờ cho đến nửa thế kỷ sau vẫn có người nhớ đến tiệm nước đá của chú Hiếu; ôi cái cái tiệm nước đá năm xưa của chú Hiếu trên đường Trần Hưng Đạo ngó qua nhà máy đèn (điện).  Chú Hiếu thì mất lâu rồi, chú mất ở tiểu bang Hạ Uy Di tức là đảo Hawaii mà thiên hạ hay bay tới du lịch.
 
Ngó qua bên kia là trường Nữ Tiểu Học (đây còn gọi là Vườn Bông) nhưng sau này lại trở thành ‘hiu quạnh’ vì phải dời về dưới xa cuối đường Trần Hưng Đạo do con số học sinh càng lúc càng đông.  Trại Hiến Binh sát bờ sông gần đình Thạch Hãn cũng dời về trước mặt cổng thành Đinh Công Tráng.
 

Ngã ba này  ngờ ngợ nhớ phía trái chạy thẳng tới rạp xi nê Đại Chúng: Như vậy người đàn bà cầm giỏ phải từ trên chợ tỉnh đi về ?


Gần 1972 ông Hứa đức Hào cũng xây thêm một cái lầu tới 5-7 tầng nhưng chưa ở. Gần 1972, phong trào xây lầu tự nhiên thi đua nhau "ào ào" . Tôi còn nhớ, tiệm Tân Mỹ cũng xây thêm 3 tầng nữa nhưng mỗi tầng mới phải xây thấp hơn vì sợ "quá tải". Con đường Quang Trung và cái tên phường Đệ Nhất mà trong bài hát CON ĐƯỜNG BUỒN HIU của cố nhạc sĩ ca sĩ Nhật Ngân có đoạn "...ngày hai buổi đi về đường Quang Trung", hai đứa em gái tôi thì có kỷ niệm nhiều vì đi học đường này. Riêng tôi, thời này tôi ở nhà cậu tôi ăn học tại Phường Đệ Tứ mà con đường Lê văn Duyệt qua Góc Bầu ghẹo Duy Tân đi lên Nguyễn Hoàng lại quen thuộc hơn nhiều.
 
Kể về phường Đệ Nhất cùng một đoạn Quang Trung như là một hoài niệm nho nhỏ về một thành phố nay đã xóa nhòa dấu vết, chẳng còn một viên gạch rong rêu ngày tháng cũ. Người viết chỉ mong góp một nét vẽ sơ sài, hi vọng giúp cho ai từng ở đó nhớ về vài hình ảnh e nay phai mờ trong ký ức.
 
 
                      Bệnh Viện QT cuối Đường Trần Hưng Đạo gặp QL1
 
Dù 'vật đổi sao dời' Quảng Trị ngày xưa vẫn theo dấu chân những người phố Quảng. Phường Đệ Nhất - hình ảnh con phố, tên đường, chưa hẳn đã mất tên trong bao trái tim hoài cổ.

NHỚ TIỆM LƯU KHÁCH NHỚ MÓN CHÁO TIM CẬT


 


CHÁO TIM CẬT

 

NHỚ TIỆM LƯU KHÁCH NHỚ MÓN CHÁO TIM CẬT
by ĐHL



CHÁO TIM CẬT
Tôi hay nhắc về chuyện “ăn hàng” nơi thành phố năm xưa QT, thế mà lại không nhắc đến tiệm ăn Tiệm ăn Lưu Khách thì quả là đáng trách. Thành phố Quảng Trị có to lớn bao la gì cho lắm đến nổi quên cái tiệm ăn có món cháo tim cật ăn ngon nhớ đời thì quả tôi phải tự trách mình sao lại vô tình
Con đường phố chính Trần Hưng Đạo chia hai bên này là Phan bội Châu đâm tuốt ra bờ sông. Bên kia bắt đầu con đường Lê thái Tổ, từ Trần hưng Đạo đi qua Lưu Khách tới Đồng Dụng cắt Phan đình Phùng hơi nhếch một xí trước tiệm sửa xe motor Bảy Hiền. Từ Bảy Hiền ta theo bờ hồ chạy tuốt về Cửa Tiền tức cắt Phan Thanh Giản và cũng nắp theo bờ hồ đi qua bún bò Cô Em, Cô Ba và đi về trường Nguyễn Hoàng …

Kể thế là dông dài, nhưng người viết mong giúp trí tưởng tượng của các bạn từ từ vẽ lại trong trí nhớ dù có mập mờ một tí nhưng hi vọng nó sẽ dần dà hiện ra con đường thân quen năm cũ …
Múi đường Lê Thái Tổ này có một căn nhà của vị mục sư tin lành hình như là thuê lại ra sao đó. Xong mới đến Lưu Khách. Và tiếp Lưu Khách là tiệm xe đạp Đồng Dụng, băng qua Phan đình Phùng là tiệm sửa xe Bảy Hiền.
Tiệm ăn Lưu Khách nó khác Đường Ký và Nhuận Ký với lý do Lưu Khách là tiệm ăn Việt Nam khác với Đường Ký Nhuận Ký chuyên Mỳ Hoành Thánh Mỳ xào, Bánh Bao
Lưu Khách có một món ‘trứ danh’ vào thời đó khiến người viết phải chân thành mà nhắc lại đó là CHÁO TIM CẬT.
“Tiếng lành đồn xa” từ phường Đệ Tứ mà mà một học trò như tôi phải ‘thân chinh’ lên đến đây mà ăn cho được. Công chức và quân nhân thời đó ăn rồi truyền miệng cho nhau. Họ là khách của món ăn VN nên năng tới lui. Tôi là học trò nhưng có cơ hội tới tận bếp để mua đem về mới mục kích cái món Cháo Tim Cật ra sao ?
Chú nấu bếp chỉ cần bỏ nước súp lên chảo, dưới là lửa ga. Nước súp là điều quan trọng vị ngon ngọt ở trong đó. Không đợi lâu, vừa sôi là chú bỏ vá cơm vào chảo. A cháo tim cật là vậy ? Bỏ vá cơm vào vừa sôi lại là một vá TIM CẬT bỏ ngay vào. Xong chú đổ ra gament của tôi thêm hành ngò ở trên mặt.
Thế là tôi có một tô cháo tim cật đem về nhà. Cháo tim cật Lưu Khách nó khác với cháo hầm, cháo gạo khác là vậy. Người làm bếp sẽ bỏ cơm vào, cách nấu hạt cơm này là bí mật của chủ. Thưởng thức nó chúng ta sẽ không có thứ cảm giác như ăn cháo hầm mà cũng không phải là hạt cơm ... Nước hầm cũng là bí mật thứ hai và sau hết là cách trộn tim cật là bí mật thứ ba. Tất cả cho khách ăn một tô cháo tim cật ngon thơm ngát mũi. Sần sật bùi của tim cật cùng béo của ít gan..một hỗn hợp rất đồng đều không dai quá lẫn trong vị ngọt của nước súp . Ăn xong là nhớ, cứ tới Lưu Khách ăn thêm hay mua xách về nhà.
Ba tiếng CHÁO TIM CẬT tại Lưu Khách nghe thật đơn giản. Nhưng chỉ có Lưu Khách là “TUYỆT CHIÊU” mới là chuyện lạ. Cháo chỉ dành cho quán hay các triêng hàng rong. Nhưng khi đã là cháo Tim Cật nó được ‘nâng lên một cấp’ do thứ cháo này được lên tên món ăn tại một TIỆM ĂN như tiệm Lưu Khách.
Tôi thì tin rằng ngày xưa Quảng Trị, thành phố này khi nhắc về tiệm ăn nếu chúng ta quên đi LƯU KHÁCH với thứ CHÁO TIM CẬT thì thật là quá thiệt thòi cho cuốn hồi ức quá khứ của một THÀNH PHỐ NĂM XƯA
ĐHL chiều nhớ món ăn phố Quảng Trị
19/9/2020
=========================
PS
Bà con Tiệm Lưu khách đọc bài và comment:
Trước hết xin rất chân thành cám ơn người viết bài viết này . Cũng đã gần 50 năm rồi mà tác giả vẩn nhớ như in từng chi tiết nhất là “cái vị ngọt của nước súp , và cái hỗn hợp không dai quá “ấy.Tôi cũng là người từng được thưởng thức những tô CHÁO TIM CẬT trong ngôi nhà “LƯU KHÁCH”đó , và đó cũng là kĩ niệm tôi luôn nhớ mãi trong suốt thời kì thơ ấu của tôi ở Quãng Trị . Đọc lại bài viết này tự nhiên thấy nhớ Quãng Trị quá , một lần nữa xin cám ơn tác giả đã nhắc lại cái tên LƯU KHÁCH của một thời xa vắng . ( kí tên : Nga -con gái ông LƯU KHÁCH)
Cám ơn Chú !
Đọc bài Chú viết Con nhớ Ba Con quá luôn !😭
Ngoài CHÁO TIM CẬT còn có món CHÁO LƯƠN mà con ghiền nữa a🥰🥰 . Ba Mạ con là chủ tiệm quán LƯU KHÁCH ngày xưa

NGÀY XƯA CƠM MỚI


nhớ về vùng quê Động Đền, Hàm Tân, Bình Thuận
  


Xuân Đinh Dậu 2017: lần cuối  nhạc phụ tôi gói bánh tét tại Động Đền Tân Phước La Gi Bình Thuận (có vc người viết về thăm)

*

ĐẤT RUỘNG ĐỘNG ĐỀN


    Trong đêm thanh, trăng tàn canh, 
bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh 
Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà 
(Gạo Trắng Trăng Thanh -Hoàng Thi Thơ
 


***
       
 Đất ruộng Động Đền quả thật hiếm hoi cho ai chỉ biết một nghề là làm ruộng.  Một dải đất pha cát ven biển Hàm tân,  chỉ  có biết chăm chỉ làm nông, cần cù, chịu khó, khai hoang tìm kiếm, có thể nói từng tấc đất một mới sống được qua ngày.
 

Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống gọi thay cho Động Đền.

   Ở tù cải tạo 
về, còn độc thân tính tôi siêng năng chịu khó.  Tôi không bao giờ bỏ qua bờ tranh, bụi lách hoang nào. Tính siêng năng đó đến từ lòng mong muốn kiếm thêm chút diện tích nào đó thế cho đám đất bạc màu trên cái rẫy có tên rất lạ là "CHỒM CHỒM".  Bản thân tôi những ngày đoàn viên về với cha mẹ, còn nhớ một cây cầy cổ thụ cao to, gỗ cứng ngắt, nên trơ trọi còn lại trên rẫy đó. Mọi người trong vùng ai cũng chê, nhưng tôi chẳng bỏ. Dù có phồng rộp hai bàn tay, tôi cũng chặt hạ nó cho kỳ được. Hạ cây gỗ cứng đó xong, chỉ nhờ đôi vai, tuy đường xa hai anh em tôi gánh hết về nhà.  Đến khi hỏi vợ xong, tôi đi phụ làm ruộng với cha vợ, cái tánh siêng năng cũng không giảm bớt mà lại còn tăng gấp bội.

   Động Đền hồi này có đến sáu thôn.  Người dân phải sống với đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp.  Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng, bờ be để sinh tồn. Lại  có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng miếng nước đem vào 
từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.

   Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó 
chỉ tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó. Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người dân xứ Động cũng còn nhắc lại.  Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt. Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh". Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...

                                SAN LẤP HỐ BOM

                                         

       Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như  là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi,  mấy đứa em vợ, và cả tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp,  thế mà cả nhà tôi dám làm.


 

Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa, thiếu phân, thiếu nước.    

Tính kiên trì cùng nhẫn nại là sức bật cho chúng tôi đủ ý chí  san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt,  vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở.  Lúa cắt không đủ bù giống!  có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ,  chỏng ngọn lên trời như " than thân trách phận". Chúng thấp hơn đầu gối,  buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt .  Những nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay !  Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua cay.  Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả,  dù không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.

   Quê nghèo làm gì có trâu bò !  hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng,  mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn.  Mỗi lát cuốc,  tôi phải cắn răng, mím môi,  cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người và những cái bừa '
cải tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng trước khi cấy lúa.  Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa đất ẩm.  Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía làm sao !
 
 Trớ trêu thay! những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ nay đã ra người thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi , nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!

          KHOAI CÁ BÙ CƠM 

 
 Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những  

vồng khoai sau mùa ruộng.  Rơm rạ còn lại chịu lót làm phân cho mùa khoai đất ẩm.  Hình như khoai sắn là những gì đã định phần cho số dân Động Đền còn ở lại như chúng tôi,  để thấy rằng lúa cơm là những gì quý giá nhất ! và dầu có 'bong tay mỏi gối' cũng cắn răng san cho bằng cái hố bom to nhất xóm mới nghe ! Trời cũng an ủi cho số phận người dân ở gần biển, nhiều khoai thiếu gạo,  nhờ những mớ cá 'tươi rói'- dễ kiếm , trong khi ruộng đồng thiếu thốn bạc màu. 

CHIỀU BUÔNG TRÊN BIỂN ĐỘNG ĐỀN HÀM TÂN [hình Đinh thị Hiệp]
                                                        Biển Cam Bình lúc bình minh. Ảnh: T.Tú
  


            S át bờ biển là những xóm nhà làm nghề biển. Họ ở  cạnh nhau,  nương vườn nhỏ hẹp. Mùa gió chướng,  những ngày không đi biển, họ là những nông dân cần cù. Lúc này họ chịu khó khai phá từng mẫu rừng tràm bên bờ đại dương, biến chúng thành nương khoai xanh ngắt. Khoai Động đền ông Trời bù trừ cũng có tiếng ngon,  vì trồng trên thứ đất pha cát,  xen lẫn độ mặn của biển.

       Mùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân . Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.

        CÚNG CƠM MỚI

 
Muôn câu hò, hò hò khoan, đang mãi vang trong đêm dài, 
Gái trai làng chiều hôm nay đang mãi say theo tiếng chày 
đêm chơi vơi gạo cười tươi, như chuyền hơi ấm, ấm lòng người ,,,(HTT)


         Thế là nhà vợ tôi cùng tôi  đã thành công san cái hố bom. Hố bom đó dĩ nhiên không thể rộng thêm nhưng đất đai cả nhà tôi đổ vào càng lúc càng nhiều . Số phận và kiên trì đã thách đố nhau. Hình ảnh cái hố bom đó đã thực sự biến mất; miếng đất hoang đã hiện thành sào lúa đầu mùa được sức trĩu nhánh. Lúa vàng óng ánh no tròn đầy hạt hòa với niềm vui của ba vợ tôi cùng tôi -người rễ tương lai- cả hai đang đứng bên lề ruộng ngắm say sưa.

  Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.


    Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân.  Tai tôi như thấm thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.

Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông nhà.



   ngày cưới vc người viết 1/1/1983 tại Động Đền (Thôn Cam Bình) Tân Thiện Hàm Tân (nay là Xã Tân Phước)


Trong NGÀY VUI CƠM MỚI , tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật. 

   Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI. Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn, phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp phơi trên cát, ít ai ra khơi.

cánh đồng trong bút ký và ông nhạc của tác giả (1995) lúc tác giả sắp đi Mỹ


  Tôi uống thêm vài ba chung rượu vì muốn vui, muốn "tận huởng" cho trọn vẹn một ngày VUI CƠM MỚI  do biết hôm sau sẽ chuỗi thời gian tiếp nối của cơ khổ đang chờ...


****

Thế mà đã bốn mươi năm vùn vụt trôi nhanh kéo theo bao  nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh nghèo nàn của thôn xóm ngày xưa đó nay thay đổi hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi đó nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp và cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng  ĐỘNG ĐỀN.

 Động Đền -Bình Tuy, từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong  NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.


ĐHL 
EDITION 

6/6/2022

Wednesday, August 17, 2022

CHIM RUỒI HUMMINGBIRDS LẠ LẮM

 



NHỮNG CHÚ HUMMINGBIRD VƯỜN TÔI

 

Nếu bạn thực lòng yêu thiên nhiên, thì nơi  nào bạn cũng thấy nó đẹp cả .

“If you truly love Nature, you will find beauty everywhere.” – Van Gogh –


                    ***


Tôi ngồi lặng yên ở vườn sau để chú ý nhìn theo một con chim nhỏ xíu đậu trên một cành khô. Phải cố tâm và tập trung con mắt mới theo dõi được chú chim này.  Con chim im lặng, nói đúng hơn tôi chưa bao giờ nghe nó hót. Đó là loài hummingbird, loài chim nhỏ nhất nước Mỹ mà hôm nay tôi trông thấy tận mắt.



  Điều đáng miêu tả về giống chim ruồi-tức là hummingbird- trước tiên là thân hình của nó. Mảnh khảnh, nhỏ bé so với loài chim khác. Theo tôi, nó nhỏ hơn cả chim sâu bên quê nhà; hèn chi nó được đặt cho một thứ tên là 'chim ruồi'. Thật lạ, cái mỏ chú chim lại nhỏ xíu, dài, hình tượng như một que tăm, cong cong, sẳn sàng chui sâu vào những cái hoa hình loa kèn, dễ dàng hút nhụy. 




Hôm nay tôi tả lại loài chim ruồi này với những gì mắt thấy tuy 'tai không nghe' vì như đã viết trên -chim này tôi chẳng bao giờ nghe nó hót.
Sau cái hình thể nhỏ bé của nó, phải nói là cách bay của nó hết sức đặc biệt. Đôi cánh nó đập nhanh đến nỗi tôi chỉ thấy hai vệt mờ hai bên hông nó . Tôi cho nó đập nhanh bằng đôi cánh ruồi không hơn không kém. Kỳ lạ, nó có thể đứng yên một chỗ, (đây là duyên cớ thứ hai người ta đặt cho cái tên là chim ruồi, vì ruồi có thể bay đứng yên một nơi , đập cánh vù vù) bay lên, xuống theo chiều thẳng đứng , xiên , ngang , tùy thích và tốc độ rất nhanh.

Nó xuất hiện rất bất ngờ. Khi tôi đang ngồi vườn sau, từ đâu nó xẹt ngang trước mắt tôi nhanh như tia chớp ! Nó vụt qua lại từng cái hoa xem không gì ưa thích, vụt, chú ta bay mất qua vườn bác bên cạnh hay đâu đó , đố trời biết ?!



Quý bạn đừng tưởng tôi không biết mấy chú Hummingbird này thích ăn gì ư ? Nó thích nhất là hột cải vườn tôi. Những mùa trước, khi lấy giống hạt cải, tôi hay bực mình vì không biết 'giống gì' nó phá mấy bông cải của tôi ? Cứ sáng lại thì tôi phát giác ra những mảnh vỏ bị cắn tơi tả rơi xuống đất. Tôi trùm nylon lai.  Một sáng tôi dậy sớm ra vườn, một con hummingbird từ trong hốt hoảng bay vụt ra.


  -A!  thì ra là chú mày, hummingbird!


Ban ngày cũng thế, tôi ngồi  'canh' sau vườn , không biết từ đâu bay vụt lại; gặp tôi nó bay biến mất.


Tôi chỉ canh chừng mấy chú hummingbird cùng bầy se sẻ, chim giẻ, chim sâu khi tôi cần có mớ hạt cải làm giống thôi. Những lúc khác,  tôi để chúng tha hồ bay giỡn vườn sau cho tôi ngắm chơi...


Phải kể đến vài con chim sâu, tuy nhỏ nhưng so ra còn to hơn chim ruồi, chúng  đang nghiêng đầu trong lùm chanh hay len lỏi trong mấy nhánh plume vừa xanh lá.  Nhưng chim ruồi có khả năng sục sạo tìm tòi tất cả loài hoa trong vườn tôi. Khi hoa cúc, hoa lili thậm chí hoa ngò, tần ô vừa hé, mấy cái mỏ tí xíu nhưng dài của chim ruồi vẫn rúc vào.

Thứ chim ruồi này hay viếng vườn tôi rất lẹ và bất ngờ.  Chúng hoạt động thật im lìm và dĩ nhiên là không gặp sự đe dọa nào. Hơn nữa, chim ruồi quá nhỏ chẳng thứ chim nào để ý và làm hại chúng. Nói thế, tôi không bao giờ xem thường tốc độ bay của chim ruồi. Chúng xẹt qua như 'tia chớp' nhưng cũng có khi đứng yên một chỗ trong không khí. Có điều thú vị, cánh nó đập quá nhanh, nhanh đến nỗi mắt tôi chỉ thấy hai vệt lờ mờ bên thân nó. Chim hummingbird này còn bay lên xuống theo chiều thẳng đứng, bay ngang qua lại rồi đập cánh đứng yên, cái mỏ dài khoằm cắm sâu vào cái hoa bất kể lớn nhỏ...

Còn những chú chim khác... Bầy sẻ lâu lâu sà xuống miếng đất tôi vừa cuốc xong, xem có con sâu nào không? Chú Jay trên cành thông kia , nghểnh cổ hót líu lo. Con chim to hơn chim sâu đang nghiêng đầu trong lùm chanh hay len lỏi trong mấy nhánh plume vừa xanh lá. Chỉ có chú hummingbird,nhỏ bé, im lìm, đơn độc, thoáng nhanh là làm tôi chú ý nhất sau cái vườn này.

Mùa cải cay này tôi đang cần hạt giống. Khoảnh đất trồng cải cay này giờ đã ra hoa vàng tươi, trái bắt đầu nhú ra khá dài. Tôi đang chuẩn bị thì giờ ngồi vườn sau giữ cải khi hạt giống bắt đầu khô, cũng là lúc những chú hummingbird thèm thuồng ' tấn công' cho kỳ được. Có điều tôi đang lo,vì đọc tin rằng giống hummingbird hoạt động kiếm ăn cả ban đêm.


Nếu thế, thì tôi đành chào thua những chú chim ruồi mà thôi./.



ĐHL 30/5/2015

edition 17/8/2022 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...