Wednesday, August 17, 2022

CHỮ NHÀN CỦA TÔI ĐƠN GIẢN THẾ THÔI

 

Thursday, April 21, 2016

CHỮ NHÀN CỦA TÔI

 "Cho đến một lúc tâm hồn ta thật lắng đọng,  lắng tai nghe tiếng chim ca chào đón ánh duơng để biết trân quý, nâng niu một ngày.  Cuối cùng ai cũng nghiệm ra rằng: cuộc đời mà chúng ta đang sống chỉ là chuyến du lịch ngang qua 'cái ga tạm' đó thôi"

San Jose 22/4/2016 dhl




  Tuy ở xứ người nhưng tôi cũng tạo được một khoảng không gian ở vườn sau để có những giây phút lắng đọng tâm tư thư giãn ngó trời trăng mây nước. Tôi chẳng cần gì phải có một hòn non bộ xây dựng lắm công phu mới tạo được một không gian "nhàn" cho riêng mình. Ở đâu cũng được, dù một căn gác nhỏ trong khu apartment hay khu nhà single house đắt đỏ hay trong một khu mobile home, chữ "nhàn" nó phát xuất từ trong tâm tưởng của tôi mà ra.

   Chứng minh ư? thì tôi đang ngồi đây, có gì đâu ! một mình tôi ngồi ở vườn sau, cái ghế nhựa, một luống cải vừa lên , vài chậu cúc đủ loại hết mùa , cây ổi lá đang ra và chưa bao giờ thấy trái. Thế mà lạ thay tôi vẫn thấy khung trời quê hương đang đến với "riêng tôi"-- một mình.



A, thì ra chữ nhàn 
nó khá dễ dàng, không bắt buộc phải "lắm tiền mua"!

  Tôi  xin ghi lại mấy câu thơ của cụ Nguyễn công Trứ, xưa tôi học dưới mái trường cũ Nguyễn Hoàng .  một ý nghĩa thâm thuý của bài cổ văn do cô , thầy q,uốc văn day cho...


"Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn "
hay"Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc "...
"
 
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn "(Nguyễn công Trứ)

theo ý tôi nghĩ,  rõ ràng trong khi chợ nhóm trước nhà mình, không ai tránh được cảnh ồn ào huyên náo. Nhưng chợ tan rồi, thiên hạ ai về nhà nấy rồi , đêm về trăng lên ta sẽ có cảnh nhàn, yên tĩnh.

  Như vậy, dù nhà ta ở không cần phải lên đến 'thâm sơn cùng cốc' mới tìm ra cảnh nhàn. Ngay trước chợ lúc hết người trăng lên trước thềm cửa, yên tĩnh bên ấm trà hay cốc rượu ta vẫn hưởng được cảnh tiêu sái của thiên nhiên của vũ trụ là trăng thanh gió mát được thôi . Như thế, tôi nghiệm ra rằng ở đâu cũng được, ta chẳng cần 'cầu kỳ' lắm thứ .


  Tôi cũng chẳng biết về thiền hay yoga gì , thả hồn trầm lặng dựa lưng vào chiếc ghế nhựa nghe tiếng bầy chim ríu rít vườn sau, ngắm mây bay thế là nhàn rồi, thế là thỏa mãn rồi; trong cái ham muốn khôn cùng của thiên hạ ai biết đươc cái giới hạn của sự đầy đủ, biết đủ là đủ, vậy thôi.

   Ngang đây, tôi kể bạn nghe chuyện bầy chim vườn sau của tôi. Tôi dám quyết đoán bầy chim tôi hay cho cơm là thứ chim se sẻ y hệt những bầy chim se sẻ ngày xưa Quảng trị. Xứ Mỹ đúng thứ chim này phải to chứ; trái lại bầy chim sẻ tôi hay cho cơm nó nhỏ thó nhanh nhẹn, lạ nhất màu lông chúng cũng màu đà(
 người Bắc gọi là nâu). Bầy chim sẻ tôi hay cho ăn , cứ sáng là ríu rít đậu chờ ở vườn sau.



   Tôi quên nói với các bạn rằng xứ người ta loài vật không bao giờ sợ người vì có ai làm hại nó đâu. Tôi chợt cười nhớ lại khi đi bộ trong xóm nhà tôi. Bên lề đường mấy chú quạ vừa kiếm trái cây rụng bên đường vừa "thao láo " mắt nhìn tôi chẳng có gì "kiêng dè" cả. Chưa hết, đi ngược lên sau các đám cỏ quanh mấy biệt thự trên các triền cao, mấy bầy nai mẹ con đang nhởn nhơ kiếm cỏ. Cũng chưa hết, mấy bầy gà tây hoang dã từ trên chóp núi nó xuống tận đây kiếm ăn có sợ ai đâu !


   Chữ hoà bình tôi kể chưa hết với bạn, không biết bạn có tin không? Có bữa con tôi nhìn ra cửa sổ, sáng thật sớm mấy con nai về kiếm cỏ non ngay vườn trước nhà tôi. Trời sáng hẳn chúng "thản nhiên nghênh ngang" lên lại núi !


   Trở về chữ nhàn của tôi với bầy chim sẻ vườn sau; khi tôi một mình trầm lắng thì chúng cũng tíu tít chờ ăn. Cũng có mây con chim xanh chúng giống chim xanh quê mình. Chim xanh này hung dữ,hay ở một mình không từng bầy như bầy chim sẻ, khi đến giành cơm là bầy chim sẻ bay tán loạn chờ con chim xanh đi mất mới dám bay trở lại. Dĩ nhiên bầy sẻ này làm sao sợ người , nhất là tôi hay cho nó ăn. 



      tôi đã chụp được hình con giẻ này đang nghểnh cổ hót liu lo tiếng đổ hồi như sơn ca

   Chưa hết, tôi còn nghe từ vườn nhà bên khi mặt trời và nắng ấm lên cao có tiếng chim kêu mà tôi nghe từa tựa tiếng sơn ca,[thật ra là loài chim giẻ xám JAY] tiếng chim tôi  nhớ nằm lòng; xưa tôi hay đi bộ qua chùa Sắc Tứ Ái Tử. Ngày xưa qua chùa Sắc Tứ, tôi hay xuyên qua mấy cánh đồng cát hoang. Vừa đi tôi vừa ngắm mấy con sơn ca chúng thỉnh thoảng bay lên trời cao vỗ cánh đứng yên. Tiếng chim hót đổ hồi, liên tục , cao ngất một hồi rồi từ từ hạ cánh, im lặng; tiếp tục lại con sơn ca khác bay lên và lập lại nhịp điệu như thế . Đặc biệt, tiếng chim sơn ca lanh- lảnh trong vắt khác với tiếng bầy chim se- sẻ nghe sao "ríu -ra, ríu -rít ".


    chim sơn ca VN nghe liu lo,  trong vắt 










Giờ tôi nói đến đám cải vườn nhà :
Đám cải của tôi đã lên hơn ba lá , màu xanh nõn nà .Một thời gian nữa nó lên bông , sắc hoa vàng rực. Màu vàng hoa cải cũng là một trời quê hương khi mùa đông về. Những gánh cải cay từ Nhan Biều trong chuyến đò ngang đem qua Chợ Tỉnh; từ Sãi gánh lên, sau năm ba cây số gánh bộ.

  Tôi nghiệm ra rằng sau thì giờ vật lộn với công ăn việc làm, cùng những bất đồng ngôn ngữ, những căng thẳng từ luật lệ phép tắc xã hội xứ người ta, tôi phải tạo cho tôi một không gian nào đó tĩnh lặng cho mình. Dù nhỏ bé đơn sơ nhưng khi tôi thoả mãn và bằng lòng thì chữ NHÀN đến không khó.

 

Bông hoa quỳnh đầu tiên tui trồng tại xứ Mỹ- quỳnh ở đây khác quỳnh VN vì nó nhiều lá ít hoa- Nhưng hoa mau tàn  


    hình bên phải :chậu Quỳnh ky niem này thầy Trịnh huy Trường tặng năm 2011, năm  nay 2013 bắt đầu ra hoa 



từ chậu này, hiện nay nhà tôi gầy ra khá nhiều. cái hay của Quỳnh này ra rộ hoa đỏ rực vào đúng tết-- hoa kéo dài gần 3 tuần lễ

   Tôi lại nhớ về trường xưa , thầy cô cũ hay câu  cổ văn còn văng vẳng đâu đây. Rồi cảm thấy tâm hồn mình vượt khỏi cách trở không gian, như bay bổng trở về với làng xưa xóm cũ bên mái tranh nghèo dào dạt tình quê .
 Lời thơ cổ văn nay còn mãi, nhưng thầy cô xưa, bạn hữu đồng môn càng lúc càng vắng dần. Tất cả sẽ lần lượt nắm tay nhau ra đi  đó chăng? Hình như ra đi chính là trở về mới đúng ý nghĩa và ý nghĩa này sẽ được nghiệm ra khi chúng ta có thì giờ nhàn hạ, tự mình tạo nên một KHOẢNG KHÔNG GIAN TĨNH LẶNG bất cứ nơi nào để trầm tư suy nghĩ. 

   Cho đến một lúc tâm hồn ta thật lắng đọng,  lắng tai nghe tiếng chim ca chào đón ánh duơng để biết trân quý, nâng niu một ngày.  Cuối cùng ai cũng nghiệm ra rằng: cuộc đời mà chúng ta đang sống chỉ là chuyến du lịch ngang qua 'cái ga tạm' đó thôi.


Đinh HL 2013
edition 21/4/2016

===============================================

 chiều chiều bồng cháu ra ngồi chơi vườn sau. Ông và Cháu cùng nhau ngắm vài cành lá hay vài bông hoa bình dị , tui thiết nghĩ đây cũng là chữ nhàn  ý nghĩa 

DHL July 4th 2017
ÔNG NGOẠI VÀ CHÁU NGOẠI ĐẦU TIÊN LÀ CU BÔ SINH 21/7/2016

CHUYỆN CON TRĂN DƯỚI BỤI CỎ HÔI


xã Sơn Mỹ tháng  9/1988
kỷ niệm ngày đầy tháng con trai thứ hai: Đinh trọng Trữ Khang 



BỔI CỎ HÔI CHO KHOAI NHIỀU CỦ


Đám đất quanh vườn tôi càng lúc càng bạc màu vì tôi chưa bao giờ cho nó nghỉ. Hết vụ bắp xong lại trồng khoai. Trồng khoai mà không có bổi thì chỉ có cuốc ra "rễ khoai" chứ chẳng có củ nào. Bổi càng lúc càng hiếm; hết cắt xa rồi lại cắt gần.

Cây bổi lót cho vồng khoai, người dân xã Sơn Mỹ chúng tôi gọi là cây 'nàng nàng' ; ngoài quê Quảng Trị còn gọi là cây cỏ hôi hay cây bông cợi, ở tù 'cải tạo' nhất là tại Ái Tử chúng tôi hay đi cắt loại "phân xanh" này hết núi sạch rừng. Tôi nghĩ vậy không biết có đúng chăng?

Hôm đó tôi gặp may do có đám bổi mọc gần nhà, cạnh con đường dẫn vào xóm trong. Vừa cắt bổi, tôi vừa nghĩ đến ngày đầy tháng đứa con trai thứ hai, chưa biết lấy chi làm cho nó 'vui cửa vui nhà'?
Nhà tôi lúc đó thật ra ở tạm trú dưới mái trường, nơi vợ tôi dạy cho con em trong thôn. Từ ngày có gia đình tôi trú ngụ, mái trường hết cái cảnh 'buồn hiu- buồn hắt' nhờ có tôi là người trông nom. Dù sao, nhờ vào công việc tự nguyện vừa trông nom trường, tôi vừa có đất của trường để trồng trọt kiếm thêm lợi tức[1]

Đám bổi xanh ngắt, đẫm ướt hơi sương vào sáng sớm. Tôi khom người cầm cái liềm cắt bổi tiếng nghe soàn soạt. Vừa cắt, tôi vừa nghĩ tới ngày "khảm tháng" tức là đầy tháng đứa con trai. Có thể vợ tôi chỉ cần mua thêm ít nếp, hai cặp đường đen trên chợ. Chuyện gà vịt, thì nhà tôi đã có con gà mái tơ chưa nhảy ổ.

Những lúc cắt bổi, tôi hay sợ mấy 'chú' rắn lục. Loại rắn này hay đeo vắt vẻo trên cành lá. Thứ lá này có màu xanh lục, tiệp với màu da của rắn lục lá nên khó phân biệt. Thật vậy,  hai tay tôi vừa làm nhưng lại 'ơn ớn' trong người. Nhưng nghĩ tới hình ảnh cuối mùa thu hoạch tức ngày bới khoai-  bao nhiêu là củ khoai to căng tròn, láng bóng nhờ có thứ lá bổi đó làm phân lót vồng, thế là tôi quên cả lo sợ.

-Sợ thì lấy chi ăn?

Đúng vậy, "sợ thì lấy chi ăn" bụng bảo dạ thế; ý nghĩ kia giúp tôi càng bạo dạn hơn lên. Tay trái trần trụi vơ lấy mấy cành bổi, tay phải tôi cắt thoăn thoắt, xong gom thành từng đống...

Đám bổi mới lên sau vụ mưa đầu mùa, mới đó mà đã bị cắt sạch thành từng đống. Triền đất cạnh cái vực lở trong làng, giờ đã lộ ra nền cát trắng, lợn cơn lá khô. Những gốc bổi cây cỏ hôi vừa bị tôi cắt xong, chơ vơ như những ngọn chông nhìn thẳng lên trời.



Chợt tôi điếng người! tim như thót lại ...một vật gì đó, dài tròn như khúc gỗ nằm yên cạnh chân tôi bao lâu mà tôi chẳng hề hay biết?

-UI CHAO CON TRĂN!

Màu của nó thì tôi không lầm vào đâu được. Những bông tròn như loài trăn gấm còn sót lại ở những vực khe gần biển Hàm Tân sau thời kỳ "khai hoang phục hóa ", di dân Quảng trị vào đây hồi 1973. Tôi không ngờ con trăn nằm bất động ở miếng đất bổi gần vực lở này. Không chừng , nó có thể nuốt con gà, con chó, hay con gì đó của nhà chú Đồng, hàng xóm với tôi?

Thật ra, tôi không sợ hãi ngoại trừ lay hoay như 'gà sắp nhảy ổ ' , không biết tính sao, sợ con trăn đi mất . Nó mà bò đi xem như tôi mất tiêu 'một đống tiền'! Ngoài liềm trong tay ra, tôi chẳng có cái gì ! bao không ,mà dây cũng không.
Con trăn giờ hơi nhúc nhích , hình như nó từ từ... di động ?

Bỗng có một bóng người đang tới gần...tôi mừng quá:

-Chú Đồng, chú Đồng ơi, con trăn! con trăn!

Chú Đồng [*]đang dắt chiếc xe đạp thồ ra khỏi nhà ; sáng nay hình như chú ấy lên rẫy trễ hơn mọi khi.

-Mô? ...Mô?

Chú Đồng vứt ngay chiếc xe đạp nghe cái "phịch" bên con đường mòn, chạy tới gần tôi. Thời này mà nghe chuyện được trăn là chuyện vớ được cả đống tiền chứ không phải là chuyện sợ hãi, rùng rợn nào cả. Chuyện trong thôn người ta đem bán trăn đồn "hà rầm"! ba con thú như tắc kè, trút nhím còn bán được huống gì trăn là món hàng "cao cấp".

Tôi đưa tay chỉ xuống con trăn đang nằm bất động như khúc gỗ dài cạnh chân tôi chưa tới một mét.

-Chú Phúc giữ chặt khúc đuôi nghe, để tui chận khúc đầu hắn cho!

Chú Đồng nói là làm ngay. Phần tôi lúc này không biết sao rất can đảm, chẳng e dè chút nào. Đây là lần đầu tiên trong đời, tay tôi túm vào loài rắn. Tôi mím môi dùng hai tay cầm chắc vào phần đuôi. Chú Đồng túm ở phần cổ, hai người nhấc bỗng con vật lên...

Con trăn dài gần hai mét, nặng chình chịch. Lần đầu tiên trong đời tôi túm một con rắn lớn-con trăn. Mà lạ ghê ! nó im lìm 'ngoan ngoản' không một phản ứng chống cự gì cả; như "bị bệnh' , ai làm gì thì làm. Đó là cái may mắn cho cả hai chúng tôi . Chú Đồng vừa cùng tôi xách con trăn ra phía đường vừa nói lớn cho tôi nghe:

-Chắc hắn đớp gà của tui nên hai ngày ni tui tìm không ra con gà mệ nơi chú Phúc ơi!

-À ra rứa!

Tôi đồng ý với chú Đồng, chắc nó ăn con gà mệ của chú chứ không ai vào đây cả. Trăn ăn rồi thì nằm yên chờ tiêu hóa...tiêu hóa ra răng tôi chẳng biết. Biết ra sao qua sách vở mà thôi; lời kể trăn chưa ăn thì hung hăng, nhưng ăn rồi thì nằm yên ai làm chi thì làm?!

Quả thế, hắn nặng thiệt. Khúc bụng của nó trĩu xuống. Hai chú cháu ráng hết bình sinh túm ở đầu và đuôi mang nó đi. Ngang nhà tôi , vợ tôi mới thức dậy, vội che mắt không dám nhìn khi thấy hai chúng tôi xách con trăn bông đi ngang. Thời kỳ này, nhà ông Thu ở xóm trên , cạnh con đường chính lên xã là nhà buôn bán trăn cung cấp cho Thành Phố (Sai Gon). Cũng may nhà ông Thu không xa lắm. Chưa vào sân nhà, hai chú cháu đã kêu ông Thu ơi ới!

Trước cái sân rộng của nhà ông Thu đang phơi vài mẫu da trăn chờ ngày lên Thành Phố (SG) bỏ mối. Hồi này tôi biết mang máng có thể da trăn dùng làm bót loại cao cấp cho phụ nữ hay thứ chi đó ? Tôi chẳng cần biết làm chi; chỉ cần biết số tiền con trăn hôm nay là bao nhiêu thôi?
Ông Thu ra dáng chuyên nghiệp, lấy cái thuớc dây ra,rồi nhíu mày đo đo ...tính tính gì đó:

-Con trăn ni...thiếu một tấc ...Chà tiếc thiệt! nếu khôn thì hắn thuộc loại BA rồi ! giờ hắn thuộc loại 2 thôi!

Người viết cũng xin nói rõ một tí với bạn đọc:
Loại BA thì khoảng từ 30. ngàn trở lên giờ nó loại Hai thì trong vòng hai chục ngàn trở xuống.
Hai chúng tôi nghe thì nghe và biết thì biết vậy. Nếu chúng tôi không bán con trăn này ở đây thì biết bán nó chỗ nào? Không bán thì vô lý đem về nhà cho vợ con sợ bỏ " chạy tán loạn ' hay sao?
Giờ ông Thu mới 'tính chi ly' thêm một lần nữa , ông cho giá cuối cùng là mười tám ngàn đồng , tiền 'chồng'ngay không thêm không bớt.

Thời này một ngày tôi vào rừng bửa ra cho đầy chiếc xe đạp thồ củi về chợ bán chỉ vỏn vẹn 100 đồng bạc 'cụ Hồ' thôi. Nói thế để bạn đọc hình dung giá trị mười tám ngàn đồng ngang đâu?
Chú Đồng và tôi không nói ra, nhưng chắc rằng đều cùng một ý tưởng đó là: tiếc hùi hụi ! do con trăn 'trời cho' kia chỉ thiếu có MỘT TẤC.

Chỉ một tấc mà mất đi MƯỜI NGÀN bạc ,lớn quá đi thôi?! bao nhiêu gánh khoai mới được một ngàn.

Mấy đứa con nít lúc này nghe chúng tôi bắt được trăn bu tới sân nhà ông Thu càng lúc càng đông. Mấy o đang nách rổ đi chợ Tân Sơn, chỉ dám ngó sơ vô sân nhà ông Thu. Con trăn bông vẫn nằm yên không chống cự , chẳng vùng vẫy gì; tuy thế, tay chúng tôi đâu dám buông , cả một đống tiền!

TIỀN TRAO NGAY GIỮA SÂN NHÀ ÔNG THU: MƯỜI TÁM NGÀN!

Chủ nhà giờ bỏ con trăn vào cái bao, chuẩn bị chiều nay giao lên Ba Tô, có mối của ông trên đó.


Hai chú cháu cầm tiền xong liền rủ nhau ra quán chú Hoàng trước chợ "liên hoan "một bữa cho 'sướng cuộc đời'. Cả hai đồng ý cùng tiêu chung một ngàn, còn lại mỗi người chia nhau tám ngàn rưỡi.

Chú Đồng bỏ ngày rẫy , tôi mất một ngày bứt bổi trồng khoai. Tiếc gì hai ngày lao động ; khi không , của đâu trên trời rơi xuống.

Chú Hoàng chủ quán, giờ đem hai chai bia Sài Gòn 'xanh' ra kèm theo một ít lòng heo bóp rau răm làm món nhậu. Hình ảnh dân lao động như chúng tôi ngồi uống bia Sài Gòn, ăn thức nhậu như hôm đó kể cũng lạ ? nhưng mà chẳng lạ gì do chuyện bán con trăn một chút chi trong làng ai cũng nghe tin.
tác giả và chú Hoàng chủ quán gần chợ Sơn Mỹ 7/1995

Quán chú Hoàng vừa là quán ăn, chú còn sửa xe đạp. Thời này xe đạp là phương tiện chính cho người dân di chuyển. Vào rừng cũng nó- đó là xe đạp "thồ". Đi buôn xa cũng nó- tức là xe đạp thồ heo con hay chuyên chở hàng hóa. Hình ảnh con đường đất liên tỉnh 23 lở lói hư hao và phương tiện chỉ là những chiếc xe đạp là số một mà thôi. Nếu không có xe đạp thì chỉ có hai bàn chân con người tháng ngày nhịp bước chai lì  cũng như bao bàn tay thô ráp của giới nông dân năm tháng làm bạn với rẫy nương. 
Tôi khó quên trước mặt quán chú Hoàng còn có hai cái quán chuyên sửa xe đạp khác của anh Oai và anh Lợi nữa. Một thời thợ sửa xe đạp làm không hết việc...

Chú Đồng và tôi vừa uống bia vừa nói chuyện "trên trời dưới đất", không đâu vào đâu. Chuyện rẫy bị đốt luộc [**] khổ như thế nào? chuyện con heo rừng phá sắn, chuyện thằng Thanh bẫy được con heo rừng thật to, tiếc thiệt đến khi vào thăm lại bẫy, con heo rừng chết ngắt ba ngày, thịt có mùi thối!?

Nói gì thì nói, hai chú cháu không dám quá chén , nghĩa là "liên hoan" trong 'một ngàn thôi' , không quá hạn. Vừa nhấp nháp miếng bia Sài Gòn thơm thơm vị bia la de ngày xưa , tôi vừa lấy tay sờ ngoài túi quần xem tám ngàn rưỡi phần tôi còn không? cùng lúc cảm giác ngụm bia mát lạnh đang trôi dần, sâu vào cổ.

Chú Đồng hôm nay vui vẻ cười nói , nhưng chú không biết rằng tôi còn mừng vui hơn chú nữa do cái hôm may mắn đó chính là ngày đầy tháng con trai tôi khi không cha nó "TRÚNG SỐ" TRỜI CHO ./.


ĐHL
edition 25/72017
nhớ về Sơn Mỹ một thời trồng khoai ,bứt bổi

update mùa dịch CoronaVu Hán Hoa Kỳ 8/4/2020

*********************************************************************
 nhà văn Huy Phuong có viết ve tác giả bài này nhu sau... "Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên trong vùng “kinh tế mới”.."
dù ngay cả bạn bè họ cũng không hình dung ra 'cái cực' ở cái vùng kinh tế mới xã Sơn Mỹ ra sao ?
Họ nói cực là do thiếu tiền bạc mới là một cách nghĩ thôi.
Sơn Mỹ hồi đó cực từ ngọn gió , cục đất , cho đến miếng nước :
-Gió thổi thì đạp xe không nỗi, có lúc xe đạp như ngừng hẳn khi phải ráng đạp ngược gió ..
-đất cát lún bánh xe thồ đẩy củi về nhà , đoạn trường thật sự
-nước phải đi múc ...từng ly , cái gàu nước phải nghiêng lóng cát ra mới có đúng 1 ly nước đó . Bạn hãy xem đáy giếng nước mạch ra chỉ vỏn vẹn bằng mặt cái thau trên thành giếng cả chục người gánh thùng ra ...đợi
Thôi chờ 1 giờ sáng 2, giờ sáng gánh thùng ra , té 'tư tưởng lớn gặp nhau" vài người đã có mặt bên thành giếng rồi .
Làm ra củ khoai, củ sắn thì cái nạn sùng ăn , sùng khới , hay hạt điều thì sâu đục đọt
Muốn mang nông phẩm về tới Lagi thì phải đạp xe chở về 10 cây số
 20/12/2014


-BỔI: phân xanh , lá cây non để lót trong vồng khoai khi mục nát rất tốt cho cây có năng suất . Bổi người làm nông còn dùng để trộn với phân heo bò để một thời gian làm phân hữu cơ 
[1] hồi này tôi xin làm phu trường để có thêm 'tiêu chuẩn' vài ký gạo nhưng không được vì 'lý lịch'
[*]:chú đây là cách gọi thân mật bà con lối xóm
[**] :rẫy luộc : rẫy chặt hạ xong , chưa khô hoàn toàn bị cháy dang dở nên dọn dẹp rất tốn công 

GS NGUYỄN CHÂU: Nhân Đọc hai bài của TS Nguyễn Hữu Liêm về Triết Gia Friedrich Nietzsche

 


Nhân Đọc hai bài của TS Nguyễn Hữu Liêm về Triết Gia Friedrich Nietzsche

Tìm hiểu: Quan Niệm "Amor Fati"

 Nguyễn Châu

 

Trong bài viết nhan đề Cái Âm Ðiệu Tủi Thân, Bi Ðát đăng trên báo Văn số 80, tháng 8-2003, (talawas, 03.09.2003) Nguyễn Hữu Liêm đã bàn về tương quan giữa âm nhạc và sự mất nước của nhà Nguyễn, của Việt Nam Cộng Hòa...qua giọng hát của một số nữ ca sĩ như Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan. Những lý luận lẩm cẩm, sai lầm về âm nhạc, về lịch sử và tương lai dân tộc... mà Nguyễn Hữu Liêm vấp phải, đã được nhiều người vạch ra và điều chỉnh. Nay còn lại vấn đề triết học, tưởng cũng cần nói thêm, vì, được biết, Nguyễn Hữu Liêm, ngoài nghề Luật sư, còn làm thầy dạy triết học ở San José City College. Việc chẳng đặng đừng bởi "làm thầy thuốc mà sai chỉ hại chết một người, làm chính trị mà sai hại cả một nước, làm văn hóa mà sai thì hại nhiều thế hệ".

Cớ sự là sau khi lập luận một cách thiếu căn cứ để chứng minh rằng "Cái thối nát của con người khởi đi từ sư thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức..." Nguyễn Hữu Liêm dẫn chứng triết gia Nietzsche để hỗ trợ cho lập luận của mình. Ông Liêm viết: "Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt..."

Đó là lập luận và kiến thức cùa Nguyễn Hữu Liêm cách nay 19 năm, vào năm 2003. Mới đây, Nguyễn Hữu Liêm lại dở "bài bản và luận điệu cũ" để nói về Văn Học Việt Nam, đăng trên BBC tiếng Việt (duới tiêu đề "Thử Nhìn vào Khủng Hoảng Văn Học Việt Nam qua Kiều và Nietzsche" ghi là TS Nguyễn Hữu Kiêm.

Sau khi phê phán những người Việt viết văn và làm thơ một cách thậm tệ, TS Nguyễn Hữu Liêm kết luận:

"Cái yếu của văn chương Việt Nam là nhiều chữ quá mà không nói lên được điều gì. Văn chương - qua dạng truyện ngắn thuần mô tả - làm cho người đọc bị kiệt sức. Một múi chanh của sự thể nhân sinh - phần lớn là số vốn cuộc đời bản thân - khi vào trong tay của nhà văn Việt thì bị vắt đến nát nhừ nhằm rút ra thêm được chút tàn lực chất chua, chất chát.

Như những tập tự truyện gần giống nhau và đồng bản chất kể lễ, nhà văn Việt nói tới, nói lui thì cũng chỉ một âm điệu đã nhàm - cái âm điệu bi đát, ai oán, đầy tiêu cực và thiếu tinh thần. Cuối cùng họ chỉ lặp lại chính mình. Từ đó, các hội nhà văn, nhà thơ trở thành những đoàn thể cho văn thi sĩ Việt định danh, tùy thuộc ngân sách nhà nước, là những "echo chamber" cho những bất mãn chung chung, vang vọng âm ngữ bầy đàn vốn đã kéo dài trên thế kỷ qua."

 

Từ đó, hầu hết văn chương tiếng Việt - và sau này di cư qua Mỹ, Pháp, văn tiếng Anh, Pháp bởi người gốc Việt - phần lớn vẫn chỉ là những chùm cước chú cho Truyện Kiều. Từ trong quặng mỏ chứa thuần các lớp thân phận, ta cứ thấy hoài một chuyện - những biến hóa chữ nghĩa được mãi khai thác từ cái cuốc mòn văn chương nhà ta. Văn chương Việt - Việt hay Anh, Pháp ngữ - chỉ là những tuyển tập thú tội.

 

Ở đó, bi đát không vươn lên được tầm bi tráng; số phận cá nhân chỉ là một lát mỏng cắt ngang khúc cây từ hoàn cảnh tập thể dân tộc trong sự trống vắng về ý chí tác hành bằng ý thức sử tính và thời đại.

 

Đọc văn Việt thì như là nghe vọng cổ, hay nhạc bolero - cũng như cha ông ta đọc Kiều. Nó chỉ làm cho ý chí hành động bị tê liệt. Nói hơi đại ngôn một tí rằng, thể loại văn chương, thi phú nầy chính là nguồn gốc sâu xa cho hầu hết những thảm kịch lịch sử Việt Nam cho đến hôm nay - một lịch sử chỉ hoàn toàn chứa đựng những năng động thuần chất tình cờ, ngẫu nhiên - không mang một tinh yếu ý chí cá thể.

 

Trong khi thi ca Tây phương biến bi kịch cá nhân thành là một nguồn kích khởi ý chí hành động; thì ngược lại, văn thơ Việt nhấn chìm người đọc vào số phận bi đát của nhân vật. Càng đọc thi ca Việt ta càng bị đắm mình vào cái đập nước ngôn từ do chính chúng ta tự kiến lập lên".

 

Rồi Nguyễn Hữu Liêm hô hào"

"Hãy vịn vào Nietzsche mà đứng dậy"

...Chính vì thâm nhiễm Kiều với chủ nghĩa số phận bi thương, thụ động mà Việt Nam phải bị Thực dân Pháp đem cho một linh hồn mới. Từ bi kịch đô hộ đó, từ khát vọng vương lên làm lịch sử, ta cầu cứu đến Marx với lời sấm ý chí, "Ta sẽ dẫm lên đống gạch vụn từ quá khứ để tái tạo lại lịch sử như là một Thượng đế mới." Nhưng, tai họa không thể rời nàng Kiều.

Nhắm mắt gán Marx vào hồn Kiều đã trở nên một thang thuốc tự vận. Cuối cùng, khi đã hết thực dân và đế quốc, văn chương Việt lại lần nữa vực linh hồn Kiều sống lại trên nghĩa trang Marx." (ngưng trích)


Qua những lập luận và tuyên phán của Nguyễn Hữu Liêm trong hai bài viết cách nhau 18 năm, người ta thấy Nguyễn Hữu Liêm đã lặp lại sai lầm quá khứ khi dùng bài bản của để nói về Văn Học.

 

Riêng tôi thì nhận thấy rõ rằng quả thật Nguyễn Hữu Liêm chưa hiểu được quan điểm và triết lý của Friedrich Nietzsche, một triết gia Ðức cuối thế kỷ 19 (1844-1900). Đây là một triết gia đã gây ảnh hưởng rất lớn lên tư tưởng của cả Âu châu, đã chuyển hóa cả một thời đại khi tuyên bố "Thượng Đế đã chết"...

 

Về truyện Kiều, tôi thấy rõ TS Nguyễn Hữu Liêm thực ra chỉ biết loáng thoáng chứ chưa đọc kỹ để có thể thấu hiểu tư tưởng "Nhân định thắng Thiên" trong truyện Kiều.

Thật vậy, khi Nietzsche tuyên bố đã ám sát Thượng Đế thì Nguyễn Du tuyên bố "Nhân định thắng thiên" cả hai đều có ý hướng loại bỏ ảnh hưởng của Thượng Đế khỏi thân phận con người...

Trong bài nói về khủng hoảng Văn Học Việt Nam, Nguyễn Hữu Liêm viết:

"Từ "Phận đành chi dám kêu oan"(Kiều) đến "Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình" (Tướng hồi hưu, Nguyễn Huy Thiệp) ta thấy rằng: Cái ác, cái xấu tất cả đều ở bên ngoài ta, là từ xã hội, nơi tha nhân. Khi sự yếu đuối ý chí được lấy làm biện minh cho thụ động trong oán hờn liệt kháng thì thơ văn Việt chính là một lời nguyền tự đến - a self-fulfilling prophecy."

Câu "Phận đành chi dám kêu oan" ghi là Kiều, nhưng trong truyện Kiều không hề có câu này! Về các câu bắt đầu bằng chữ "Phận" có tất cả 16 câu (Phận hèn, phận bạc, phận mỏng, phận bèo...) không có câu mà Nguyễn Hữu Liêm trích dẫn! Đây là một bằng chứng cho thấy trình độ hiểu về Kiều của TS Nguyễn Hữu Liêm.

Ảnh hưởng của Nietzsche đối với tư tưởng thế kỷ 20

Nietzsche đã viết rằng có một số người được sinh ra sau khi đã qua đời [born posthumously], đây đích thị là trường hợp của bản thân ông ta. Nietzsche mất năm 1900. Sau khi ông qua đời, các triết gia Ðức như Max Scheler, Karl Jaspers và Martin Heidegger đã dốc sức vào món nợ của Nietzsche, cùng với các triết gia Pháp như Albert Camus, Jacques Derrida và Michel Foucault, trong nỗ lực cứu con người ra khỏi tình cảnh mà triết lý Hiện sinh gọi là "bị ném vào thế giới" nghĩa là bị bỏ rơi mặc cho định mệnh hành hạ và không chế. Triết lý Hiện sinh, một trào lưu triết học và phê bình văn học đã khởi nguyên từ tư tưởng và triết thuyết của Nietzsche. Do đó, lịch sử của thế kỷ 20 về triết học, thần học và tâm lý học sẽ không thể hiểu được nếu không tìm về Nietzsche.

Các nhà thần học như Paul Tillich và Lev Shestov thừa nhận đã được lời tuyên bố "Thượng đế đã chết" của Nietzsche soi đường. Martin Buber, một nhà tư tưởng Do thái giáo lớn nhất thế kỷ 20, đã xem triết học Nietzsche là một trong ba ảnh hưởng quan trọng nhất trong cuộc đời ông ta. Martin Buber đã dịch phần đầu cuốn Also sprach Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế) ra tiếng Ba-lan. Các nhà tâm lý học như Alfred Adler, Carl Jung cũng đã chịuảnh hưởng Nietzsche rất sâu xa. Sigmund Freud, nhà phân tâm học nổi tiếng cũng đã nói về Nietzsche rằng, qua triết học Nietzsche, ông ta đã hiểu sâu được chính mình hơn. Các nhà viết tiểu thuyết như Thomas Mann, Hermann Hesse, André Malraux, André Gide và John Garner cũng nhận cảm hứng từ Nietzsche và đã viết về Nietzsche. Các thi sĩ và các nhà soạn kịch như George Bernard Shaw, Rainer Maria Rilke, Stefan George và William Butler Yeats cũng thế. Như vậy Nietzsche là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất thời đại. Sự kiện này không những chỉ bắt nguồn từ tư tưởng triết học của Nietzsche mà còn vì ông ta là một nhà văn lỗi lạc của ngôn ngữ Ðức quốc.

Triết lý của Nietzsche được mệnh danh là triết học về Siêu Nhân (Übermensch, thường được dịch là Superman). Khái niệm "Siêu Nhân" của Nietzsche được hiểu là một con người có khả năng vượt lên trên mọi giới hạn, mọi ràng buộc của đạo lý thường tình đã có từ bao nhiêu đời và do các tôn giáo đặt định ra. Nietzsche xem mọi lệ luật giáo điều đều là "nô lệ tinh thần" đặt trên căn bản ham muốn và đố kỵ, đó là thứ luân lý của những kẻ hèn yếu, đố kỵ và sợ hãi sức mạnh, sợ cả sự tự hào và tự quyết của bản thân. Theo Nietzsche, những thứ đạo lý thường tình mà thế gian đang theo chỉ ngấm ngầm làm suy yếu nghị lực nhân bản là sức mạnh để đưa con người đến chỗ vĩ đại nhất và hoàn thành những mục đích cao cả nhất. Chính những thứ thường tình này đã sinh ra bi kịch của nhân loại (Die Geburt der Tragödie, 1872). Nietzsche tin rằng thời đại của các tôn giáo cổ truyền đã qua rồi (Götzendämmerung -Hoàng hôn của Thần tượng, 1889)

Câu nói thời danh gây chấn động của Nietzsche là "Thượng đế đã chết" trong tác phẩm nhan đề Also sprach Zarathustra (Ainsi parla Zarathustra - Thus spoke Zarathustra). Vì "Thượng đế đã chết" cho nên cần phải đặt lại vấn đề đối với tất cả các giá trị, tái thẩm định các giá trị để đi đến một lý tưởng mới: Übermensch. Nietzsche ca tụng Der Wille zur Macht (Ý chí đưa đến Sức mạnh, Walter Kaufmann dịch ra tiếng Mỹ là The Will to Power).

Der Wille zur Macht là cuốn sách do người chị của Nietzsche biên soạn dựa theo các ghi chép và bản thảo mà ông ta để lại sau khi chết, xuất bản năm 1901. Ðây là tác phẩm mà Nguyễn Hữu Liêm đã chỉ biết bản dịch tiếng Anh, nhưng lại đưa ra để dẫn chứng và gán cho Nietzsche những điều mà sách này không nói tới.

Thật vậy, Nguyễn Hữu Liêm viết: "Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay..."

 

  • Trước hết, điều cần phải nói là Nietzsche không có tác phẩm nào mang tên là The Will to Power mà chỉ có cuốn Der Wille zur Macht dịch ra Việt ngữ là Ý chí đưa đến Sức mạnh hay Quyền Lực. Nguyễn Hữu Liêm dùng The Will to Power mà không nói là bản dịch Anh ngữ cũng không chú thêm tiếng Việt cho người đọc, như vậy là không đúng phép tắc.
  • Thứ hai, trong Der Wille zur Macht của Nietzsche không đề cập đến cái mà Nguyễn Hữu Liêm gọi là "tâm thức amor fati". Và tệ hại hơn nữa, là Nguyễn Hữu Liêm đã gán cho chủ trương Amor Fati của Nietzsche một nội dung hoàn toàn trái ngược cả ý nghĩa lẫn chủ trương.
  • Thứ ba, nội dung của Der Wille zur Macht chỉ có phần mở đầu nói về cái vĩ đại. Cái Vĩ đại chỉ có hai thái độ hoặc là im lặng hoặc chỉ nói với tính chất vĩ đại mà thôi. Tính chất vĩ đại theo Nietzsche, đó là sự ra ngoài quy ước đạo lý (Zyniker / cynic) và với tính hồn nhiên. Nietzsche viết "Cái mà tôi nói đến là lịch sử của hai thế kỷ sắp tới. Tôi mô tả những gì đang đến, những gì không thể xảy ra một cách nào khác: đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa Hư vô (die Ankunft der Nihilismus). Toàn thể văn hóa Âu châu sẽ di chuyển về nơi tan rã.


"Người đang nói ở đây cũng chẳng làm được gì hơn, ngoài việc trầm tư: như một triết gia vốn dĩ cô đơn từ bản năng, đã tìm thấy lợi thế bằng cách đứng bên lề và bên ngoài..."

Nietzsche đặt vấn đề: "tại sao sự xuất hiện của chủ nghĩa Hư vô lại trở thành tất yếu? Vì những hệ thống giá trị mà chúng ta đang có từ trước đến nay đã đưa đến những hậu quả chung cuộc; vì hư vô chủ nghĩa đại diện cho kết luận hợp lý sau cùng của những giá trị vĩ đại và các lý tưởng - vì chúng ta phải kinh qua hư vô chủ nghĩa trước khi chúng ta có thể tìm ra cái giá trị nào, trong số những giá trị này, là giá trị đích thực. Ðôi khi chúng ta đòi hỏi những giá trị mới".

Der Wille zur Macht nói về Chủ nghĩa Hư vô. Nietzsche khẳng định không phải nỗi đau khổ xã hội (dù là tâm lý, thể lý hay trí tuệ) là nguyên ủy tạo nên chủ nghĩa hư vô. Hư vô bắt nguồn từ sự cáo chung của Thiên chúa giáo, vì cuộc sinh tồn của thế giới không thể giải thích theo quan điểm Thiên Chúa giáo nữa. Sự bật ngược từ chỗ "Thượng đế là chân lý" đến niềm tin cực đoan "Tất cả đều giả tướng", "Tất cả đều vô nghĩa". Như vậy, trong Der Wille zur Macht không có "cái bệnh tủi thân amor fati" mà Nguyễn Hữu Liêm đã đưa ra.


Ý nghĩa đích thực của Amor Fati

Về ngôn ngữ, "amor fati" là "tình yêu dành cho số phận hay định mệnh của mình" tiếng Anh tạm dịch là "Love of your fate". Nội dung của thành ngữ "amor fati" không liên quan gì đến "cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình" như Nguyễn Hữu Liêm đã hiểu. Amor Fati của Nietzsche làm tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của Alfred de Vigny trong bài La Mort du Loup (Cái chết của con chó sói):


Gémir, pleurer, prier, est également lâche.
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le sort a voulu t'appeler
Puis, après, comme moi, souffre et meurs sans parler"
(câu 13-16)

Rên rỉ, khóc than, cầu nguyện đều là hèn nhát
Hãy kiên cường làm cái nhiệm vụ lâu dài và nặng nề
Trên con đường mà số phận đã muốn gọi
Rồi, sau đó, hãy như ta, chịu đựng và ra đi không nói một lời.



Về triết học, Nietzche đã xem "amor fati" như là một "công thức về sự vĩ đại của con người". Ông không hề nói "số phận bi đát" như Nguyễn Hữu Liêm đã gán cho amor fati của Nietzsche [1] . AMOR FATI! "Yêu lấy định mệnh của mình" là thái độ của Siêu Nhân chấp nhận cuộc đời với tất cả những gì nó chứa đựng cả đau khổ lẫn hạnh phúc, hoan lạc. Ðó là hành động ôm chặt lấy cuộc đời với tất cả đam mê của một chiến sĩ tâm linh. Nietzsche hoàn toàn tin vào sức mạnh toàn năng và vô hạn của Lý trí và Trí tuệ. Amor Fati không phải là lối sống thụ động đối với những hậu quả của cuộc đời, mà chính là dấn thân vào cuộc thách đố với những gì mà đời đang đem lại. Theo Nietzsche, khi con người "Yêu địnhmệnh của mình" thì nó vượt thoát hết mọi ràng buộc và giới hạn của cuộc đời: Tự do của con người nằm trong sự ưa thích cái đang hiện Hữu và cái đã hiện Hữu cùng với sự lựa chọn và yêu quý nó như thể là không có cái gì tốt hơn để ta mong muốn. Amor Fati của Nietzsche là nguồn cảm hứng cho một số triết gia hiện sinh Ðức như Heidegger và Jaspers với chủ trương sống là lựa chọn giữa những khả thể hiện Hữu của cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Sự chọn lựa hiện sinh là vô hạn và bìnhđẳng.

Tóm lại: Nguyễn Hữu Liêm đã không hiểu được ý nghĩa của thành ngữ "amor fati" gốc tiếng La-tinh nên đã phạm một sai lầm lớn về kiến thức. Ðây là một sai lầm do khả năng lãnh hội yếu kém. Có lẽ vì không hiểu rõ triết lý của Nietzsche, nên Nguyễn Hữu Liêm đem "công thức amor fati" diễn giải thành "cái bệnh tủi thân" rồi gán cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Hữu Liêm viết: "Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay..." Ở đây, Nguyễn Hữu Liêm đã bộc lộ những yếu kém về kiến thức triết học cũng như văn học. Thật vậy, nhìn chung, đa số dân Việt không hề có được cái "amor fati" của Nietzsche, vì nếu có được tâm trạng này thì người Việt đã trở thành Siêu nhân, không "tủi thân", không chỉ "ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt..." như NHL mô tả nữa. Ở đây, còn thêm một điều lố bịch nữa, đó là, Nguyễn Hữu Liêm chỉ áp dụng cái bệnh tủi thân cho "dân Việt" miền Nam thôi: Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt..." Thế miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh...thuộc dân Nga và Tàu hay sao?


Về Văn Học Việt Nam

Khẳng định rằng "cái bệnh tủi thân của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều" chứng tỏ Nguyễn Hữu Liêm chỉ hiểu truyện Kiều ở trình độ lớp 9 mà thôi. Nguyễn Hữu Liêm không nhìn thấy được sự phấn đấu với hoàn cảnh và sự phản kháng định mệnh của nàng Kiều qua câu chuyện, thật đáng tiếc cho một người làm thầy dạy Triết. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định rằng: "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều", thế thì sao gọi là an phận? Kiều đã hơn hai lần quyết chí vượt khỏi hoàn cảnh: một lần "Sẵn dao tay áo tức thì giở ra" định tự tử khi biết mình bị lừa vào lầu xanh; lần thứ hai, quyết định đi theo Sở Khanh để thoát cảnh giam cầm tại lầu Ngưng Bích; lần thứ ba, đêm khuya, một mình thân gái, Kiều liều mạng "Cất mình qua ngọn tường hoa/ Lần đường theo bóng trăng tà về tây..." Kiều leo qua tường chạy trốn để thoát khỏi "nanh vuốt" và sự nham hiểm của Hoạn Thư... "Thân ta, ta phải lo âu/ Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này/ Ví chăng chắp cánh cao bay/ Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa (2015-2018)". Cả ba lần vượt thoát đều thất bại, Kiều mới chấp nhận định mệnh một cách miễn cưỡng: "Biết thân chạy chẳng khỏi trời/ Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh" (câu 2163-2164). Xin nêu ra một vài dẫn chứng cụ thể để Nguyễn Hữu Liêm suy gẫm lại về những hiểu biết của mình về Truyện Kiều.


Về thái độ của người học triết

Triết học là một hành trình đi tìm chân lí cùng tột của sự vật. Người học triết xuất hiện như một kẻ trầm tư suy nghĩ, tiếp nhận, phân tích các sự việc xảy ra trong thời gian và không gian với một thái độ khiêm cung, từ tốn và cởi mở. Thái độ triết học không cho phép sử dụng những thuật ngữ triết học mà không giải thích, chẳng hạn "âm nhạc là logos của tâm thức". Viết là viết cho người khác đọc, độc giả báo Văn không phải toàn là sinh viên lớp triết ở San Jose City College, làm sao ai hiểu được ông Liêm muốn nói gì? Là một người học triết và đang dạy triết (dù là giáo sư, là phụ giảng hay trợ giáo) đều cần phải tỏ ra có tư cách một nhà giáo, nghĩa là không được phép có thái độ trịch thượng, thiếu lễ độ, những ngôn ngữ của "phường đá cá lăn dưa" Thế mà, trong bài Cái Âm Điệu Tủi Thân Bi Ðát Nguyễn Hữu Liêm đã sử dụng tối đa loại ngôn ngữ "đầu đường xó chợ này" một cách hằn học đối với đích danh các nữ ca sĩ lớn tuổi bậc chị Khánh Ly, Khánh Hà... Xin trích dẫn một vài thí dụ về ngôn từ của Nguyễn Hữu Liêm: Nói về Khánh Hà, NHL viết "Cái nồng độ nức nở này như là một thứ trade-mark, một gia vị đặc thù, một thứ nước dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn nào cô ca sĩ sưng môi này cũng cứ quậy lên không cần phân biệt." Nói về Ý Lan, NHL viết: "Cũng một bản nhạc đó, mà khi Ý Lan hát lên thì thành ra tức tưởi, bi ai - và đặc biệt là tính đĩ. Hễ đến đoạn nào thay đổi âm khúc thì Ý Lan lắc lư cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm, khàn vô cổ họng cái tiếng lớ để gia tăng cái bi kịch của tính lẳng lơ nhưng đầy tang thương của tiếng hát". Về cộng đồng tỵ nạn thích nghe Khánh Ly, Khánh Hà và Ý Lan hát, NHL viết: "Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc."

Văn tức là người. Qua những câu văn này, người ta có thể biết được bản chất của Nguyễn Hữu Liêm. Một người học triết mà không có thái độ triết học thì làm sao có thế thấm nhuần triết lý để có thể truyền đạt cho kẻ khác? Nghe Nguyễn Hữu Liêm "xoi tỳ, bới vết" của các nữ ca sĩ hải ngoại, nào là "ca sĩ sưng môi", nào là "tính đĩ", "tính lẳng lơ"... người ta không hiểu Nguyễn Hữu Liêm đi nghe nhạc, hay đi khảo sát đạo đức của các ca sĩ? NHL gán cho ca sĩ trình diễn "Tính đĩ" và "Tính lẳng lơ", sự kiện này, theo phân tâm học, thì đó là do tâm thức ẩn ức tình dục của người xem, nên nhìn đâu cũng thấy khêu gợi ham muốn nhục dục cả. Vậy NHL không nên vạch áo cho người xem lưng qua những lời không đẹp đối với phái nữ. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Liêm đã đưa Khổng Tử và Socrates để hỗ trợ cho lập luận của ông ta về âm nhạc, nhưng Nguyễn Hữu Liêm lại không nhớ lời Khổng tử dạy về đạo làm người. Trong sách Luận Ngữ, Khổng tử đã nói với Tử Trương rằng: "Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại, vô cảm mạn: tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ. Quân tử chỉnh kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhơn vọng nhi úy chi: tư diệc bất oai nhi bất mãnh hồ" nghĩa là "Người đường hoàng, đúng đắn, đối với quần chúng chẳng luận là nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, chẳng hề dám khinh dể ai, như vậy chẳng phải là thư thái mà chẳng cần kiêu mạn hay sao? Người quân tử đội mũ ngay ngắn, y phục chỉnh tề, nhìn ngó một cách tôn nghiêm, sự oai nghi nghiễm nhiên mà co, khiến người trông vào mà kính nể, như vậy chẳng phải là uy nghiêm đằm thắm, chẳng cần phải tỏ ra hung dữ sao?" Nếu là người có uy thế thực sự, có đầy đủ kiến thức thì cần gì phải lớn lối, đằng đằng sát khí, trùng trùng sân mạn, lên tiếng thóa mạ "tha nhân", dạy đời một cách thiếu lễ độ.

Ðể chấm dứt "chuyện chẳng đặng đừng" này, xin mạn phép nhắc thêm một câu của Khổng tử về đạo làm người: "Bất tri Mạng (mệnh) vô dĩ vi quân tử giả. Bất tri Lễ, vô dĩ lập giả. Bất tri Ngôn vô dĩ tri nhơn giả." nghĩa là:

"Chẳng hiểu Mệnh Trời (số phận), chẳng đáng gọi là người quân tử. Chẳng biết Lễ độ (kính trên, nhường dưới, khiêm tốn, thật thà) thì không thể đứng ngang hàng với người được. Chẳng biết ý nghĩa trong lời nói, thỉ chẳng thể nào hiểu được người."

Khổng tử còn đi xa hơn: "Xảo ngôn, lệnh sắc tiễn hỷ nhân": dùng lời nói xảo quyệt, lừa mị, tô điểm nhan sắc giả tạo, đều là xa rời đức nhân", vì về phương diện đạo lý hai hành vi trên đều là sự lừa dối người khác.

NGUYỄN CHÂU, gs Triết Học


[1]Chú thích của talawas: Friedrich Nietzsche nói về Amor fati trong "Der Wille zur Macht" (The Will to Power) ở câu 1041, trong "Die fröhliche Wissenschaft" (The Gay Science) ở đoạn 92 (276), và trong "Ecce Homo" ở đoạn 10.

SaigonUSA News, Số 618, November 22, 2003

 

 

 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...