Tuesday, August 9, 2022

GS NGUYỄN CHÂU: NGUYỄN DU -VĂN TẾ THẬP LOÀI CHÚNG SINH

 


NHÂN MÙA VU LAN

                                                  ÐỌC                                  

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

 

của Nguyễn Du

 

NGUYỄN DU là một tác giả Việt Nam đã được thế giới biết đến từ hơn 100 năm nay qua tác phẩm thơ trường thiên, đó là ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH dân gian gọi là TRUYỆN KIỀỤ hay KIM VÂN KIỀU.

Văn chương và tư tưởng trong truyện Kiều đã được nhiều học giả tìm hiểu, phân tích... và hầu hết đều đã công nhận đây là một tác phẩm có giá trị.

 

Truyện Kiều đã trình bày một nhân sinh quan nhân bản bao gồm “thuyết định mệnh và thân phận con người”. Nhưng Nguyễn Du đã dành một phần quyết định cho con người về cuộc đời chứ không hoàn toàn phó thác cho thiên định:

 

“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”

hoặc:

“Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

 

Thi hào Nguyễn Du đã kết thúc truyện Kiều bằng triết lý Phật giáo “Vạn pháp duy tâm tạo” (mọi hành động và hệ quả trong cuộc đời đều do từ lòng người mà có) và tin tưởng rằng con người có thể dùng “TÂM” để chuyển hóa cuộc đời. Chính vì “Vạn pháp” do tâm sinh, cho nên con người-ở-đời phải hiểu rằng:

 

“Ðã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa”

 

Có lẽ từ quan niệm này mà Nguyễn Du đã viết nên bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” để chiêu hồn mười loại chúng sinh trong ngày rằm tháng bảy âm lịch, là ngày được truyền thống dân tộc Việt Nam xem như là ngày “Xá tội Vong Nhân” nghĩa là ngày mà các linh hồn của những người khi sống đã làm nên tội nên đã bị giam giữ, chịu hình phạt trong các tầng địa ngục... được ân giảm và ân xá để đi đầu thai vào cõi khác (theo giáo lý Phật).

 

“Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” còn được gọi là Văn “Chiêu hồn thập loại chúng sinh”hoặc ngắn gọn "Văn Chiêu Hồn".

Đây là một áng văn quốc âm (tức tiếng Việt) nổi tiếng về văn chương, tư tưởng và ý nghĩa, nhưng lại ít được các học giả nhắc đến, có lẽ vì cái chủ đề có vẻ thuộc về cúng tế.

Thật vậy, về văn quốc âm, tức là văn viết bằng tiếng Việt, bằng chữ nôm (tức là cách ký âm tiếng Việt bằng chữ Trung Hoa qua sự cải biến do ông Nguyễn Thuyên khởi xướng), Nguyễn Du có bốn tác phẩm được lưu truyền, đó là:

1.- Truyện Kiều

2.- Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh

3.- Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu

4.- Thơ Thác Lời Trai Phường Nón.

 

“CHIÊU HỒN THẬP LOẠI CHÚNG SINH” mở đầu bằng không gian và thời gian của tháng Bảy Âm lịch, đầu mùa thu Á đông, trùng với Lễ Vu Lan của Phật giáo.

 

Do đó, nhân Mùa Vu Lan, chúng tôi xin đọc lại bài văn CHIÊU HỒN THẬP LOẠI CHÚNG SINH của thi hào Nguyễn Du để cùng chia sẻ những nỗi đau thương của hàng vạn kiếp người, của những thân phận làm người thiếu may mắn trong cuộc đời mà tự ngàn xưa đã được ghi nhận là “buồn nhiều hơn vui”, là biển khổ, là bến mê...

 

Bài văn Chiêu Hồn này đã được truyền tụng trong dân gian một cách rộng khắp, có lẽ do các mùa và lễ Cúng Cô Hồn, khi làm lễ Cầu Siêu tập thể, có nơi dùng để làm bài đọc trong cuộc “cầu cơ” với một vài chế biến.

 

Bài văn có một số tên không giống nhau: một bản đề là “Bài Chiêu Hồn” (in năm 1926); một bản đề là “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” (Lê Thước, Văn Hóa Hợp Tuyển (1960 và 1963); một bản lấy tên là “Văn Chiêu Hồn” (1965); một bản là “Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh” (Ðàm Quang Thiện).

 

Chúng tôi nhận thấy nội dung của bài văn là “gọi hồn và bày tỏ sự thương xót đối với những linh hồn đau khổ trong cõi âm” do đó có thể chọn cái tên là “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” để tiện tìm hiểụ

Bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh gồm 184 câu, làm theo thể song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ kết hợp nhịp nhàng giữa thất ngôn và lục bát tạo nên nhiều cung bậc trầm bổng, bi hùng, rất dễ ngâm hoặc hát...

 

1) Nguyên bản:


 

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

 

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Ðường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh...

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn, phách chiếc, lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

 

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lỡ

Khôn đem mình làm đứa thất phụ

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

 

Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

 

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâủ

 

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

 

Ðau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, một đêm một dàị

 

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Ðã đêm Quản Nhạc lại ngày Y Chu

 

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàn khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâủ

 

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô hồn thất thểu dọc ngang

Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?

 

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Ðổi mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một ngườị

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nàỏ

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

 

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà khôngkẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho aỉ

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đị

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm

Nén hương giọt nước biết tìm vào đâủ

 

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy

Dẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em thiên ha,ỳ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô hồn nhờ gửi tha phương

Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

 

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Ðem thân chôn rấp vào lòng kình nghệ

 

Cũng có kẻ đi về buôn bán

Ðòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi naỏ

 

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính

Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu ngìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

 

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con ta,Ô biết là cậy aỉ

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ

Ðau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâủ

 

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xư,Ô chết vùi đường quan.

 

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thành

Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đỉ

 

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xa

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

 

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôi

Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

 

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương thần từ Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre

 

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

 

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

 

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nàỏ

Gái, trai, già, trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:“Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân lồị

Ðàn chẩn tế vâng lời Phật giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

 

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiêng biến ít thành nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng: có có không không.

Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng

Ðộ cho nhất thiết siêu thăng thượng đàị


 

2) Nội dung Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

 

Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết.

 

Tuy “mỗi người một nghiệp khác nhau” nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là “kẻ trước ngườisau mà thôi!”

 

Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào? chỗ

Cầu Nại Hà chữ Hán 奈何橋 (Nại Hà Kiều) là cây cầu ở tầng Địa Ngục Thứ Mười (Thập Điện Chuyển Luân Vương) bắc ngang qua sông Vong Xuyên (忘川) cuối cùng của Địa Ngục.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, các linh hồn sau khi qua Cầu Nại Hà đều phải lựa chọn giữa uống hay không uống nước Canh Mạnh Bà tục gọi là "Cháo Lú" để quên đi mọi thứ từ kiếp trước để bắt đầu một kiếp mới. Những linh hồn chọn uống canh Mạnh bà sẽ được chuyển đến Phong Đô là cửa ngỏ đầu thai chuyển kiếp. Nhưng linh hồn từ chối canh Mạnh Bà sẽ không được chuyển đi đầu thai ngay mà phải chịu những dày vò và hình phạt ngàn năm dưới dòng Vong Xuyên (Sông Mất)

 

Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Ðông của Thập Ðiện (tức mười tầng Ðịa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác.

Nại Hà là tên con sông ở Ðịa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà. Nguyên nghĩa  “nại hà” là “làm sao đâỷ?”; “chỗ nào đâỷ?”.

 

Kinh nghiệm đời cho thấy: con người khi còn sống trong xã hội, thì có phân biệt cao, thấp, sang, hèn... nhưng khi chết, thì đều bình đẳng! Nhất là những người chết mà trở thành cô hồn thì sự bình đẳng càng rõ rệt và thê thiết hơn:

 

“Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn, phách chiếc, lênh đênh quê người!

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên

Còn chi ai khá, ai hèn

Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngu”

 

Nguyễn Du đã tả những cảnh đời bi thương từ Dương gian đến Âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh “trường dạ tối tăm” bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những "nghiệp cảnh" khác nhau, nhưng tựu trung đều giống nhau về tính chất bi thảm!

 

Ðầu đề là “thập lọai” nhưng bài văn đã kể ra cả thảy là 16 nghiệp cảnh. Như vậy, chữ “mười” ở đây không phải là một số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, bao trùm như trong cách nói “mười phân vẹn mười”, “nhân vô thập toàn”...

 

Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế:

 

1.- Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tức là loại tham danh vọng mà quên mạng sống.

2.- Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về thân thế và nhan sắc...

3.- Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh, sát trong taỵ..

4.- Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung” theo đuổi chiến tranh, phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình...

5.- Những kẻ tính đường trí phú, bôn ba lìa bỏ quê nhà để tìm cách được giàu sang...

6.- Những kẻ “rắp cầu chữ quý” tức đi tìm chút tiếng tăm trong xã hội

7.- Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gió hiểm nguỵ..

8.- Những kẻ thương buôn đường xa                                                              

9.- Những kẻ phải đi lính, đi dân công, làm phu

10.- Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào hoàn cảnh “buôn nguyệt bán hoa”

11.- Những người hành khất “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”

12.- Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên

13.- Những kẻ hữu sinh vô dưỡng tức chết non

14.- Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha

15.- Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú...

16.- Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc...

 

3) Ý Nghĩa Cảnh Giác Người Ðời

 

Nêu ra các cảnh khổ trong cõi âm, dường như Nguyễn Du muốn cảnh giác người sống trong cõi dương là nơi mà những cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và tàn bạọ.. Tác giả nhắc nhở, làm cho mọi người thấy rõ rằng:

“Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi”

 

Vậy thì tham lam của cải ở trần gian để làm gì? Tranh giành để có thật nhiều tiền bạc, châu báu để làm gì mà khi nhắm mắt lìa đời chỉ ra đi với hai bàn tay không?

Cả những kẻ đầy chiến công, đầy quyền lực cũng có khi gặp thế khuất vận cùng mà tiêu tan hết:

“Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lỡ

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời”

 

Và những người quyền cao, chức trọng, đủ tài văn võ cai trị đất nước tương đương với các bậc danh thần, mưu sĩ như Y Doãn giúp vua Nhà Thương, như Quản Nhạc (Quản Trọng và Nhạc Nghị thời Xuân Thu Chiến Quốc...) cuối cùng cũng không vượt thoát được cái chết, không ra ngoài luật “hữu sinh, hữu tử” và vô thường biến dịch:

 

“Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Ðã đêm Quản Nhạc lại ngày Y Chu

 

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàn khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâủ”

 

Nguyễn Du liệt kê các loại thân phận, đặc biệt là các cô hồn rồi kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan tìm về Ðàn Chẩn Tế để lắng nghe kinh Phật..

 

“Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.”

 

"Thính Pháp Văn Kinh" để tu trì...để nương nhờ pháp Phật mà thoát khổ:

 

“Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.”

 

Nguyễn Du cũng nói đến điều kiện cần và đủ để các cô hồn được siêu thoát, đó là “Lấy Phật làm lòng” và nhận rõ bản chất của cuộc đời nhân loại chỉ là những hình bóng nổi trôi, chỉ là "hình, danh, sắc, tướng"... không có gì là chắc chắn, là trường tồn cả:

 

“Mười loài là những loài nào

Gái, trai, già, trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:“Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi...

 

Tóm lại, Văn tế Thập loại Chúng sinh của Nguyễn Du có thể xem như là một lời cảnh báo thế gian về các cuộc tranh chấp danh, lợi, bạc vàng, lãnh thổ, hơn thua gây bao nhiêu thảm kịch cho đời người.

Ðây là một áng thơ đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Ðức Mục Kiền Liên tìm cách cứu mẹ khỏi các khổ hình của Ðịa Ngục để báo hiếu.

 

NGUYÊN CHÂU

(San Jose, Mùa Vu lan 2022)

 

 

Monday, August 8, 2022

THE STEREOTYPE of MODEL MINORITY - THÀNH KIẾN VỀ THIỂU SỐ GƯƠNG MẪU TẠI HOA KỲ

 



-Mustafa Emirbayer: Ph. D 1989 , Harvard University là giáo sư Xã hội học tại đại học Wisconsin

 





-Mattew Desmond : phó giáo sư khoa Xã hội Học Ph.D đại học Wisconsin , hội viên sơ cấp Khoa Xã Hội Harvard University 


============== 

Lời mở đầu

    Trước khi vào bài viết của hai tác giả này chúng ta nên định nghĩa thế nào là  THÀNH KIẾN VỀ THIỂU SỐ GƯƠNG MẪU (stereotype of model minority) Thiểu số Gương Mẫu có liên hệ về dân tộc thiểu số tại Hoa kỳ. Nhóm từ này để chỉ về định kiến đối với  những dân tộc ít người  khi định cư tại Hoa kỳ vì họ luôn có ý huớng vươn lên và nổi bật về mọi mặt từ kinh tế giáo dục cùng những thành tích về gương mẫu vì ít gây tội phạm cũng như ổn định đời sống gia đình. Tại Hoa kỳ những nhóm dân thiểu số nằm trong phạm vi của định kiến này gồm phần lớn Á châu: Trung hoa, Việt nam, Phi , Ân , Nam hàn..

 Đinh hoa Lư

BA Social Science

San Jose State University, 2013

***


  Khó mà phủ nhận rằng đa số người Mỹ gốc Á hiện nay đã thành tựu khá lớn trong lĩnh vực giáo dục hiện tại dù họ chỉ chiếm tới 3 % dân số. Học sinh gốc Á hiện tại có tới 5 % trên tổng số sinh viên đại học. Người Mỹ gốc Trung hoa , Ấn độ, và Đại hàn đi vào đại học gấp hai lần so với người da trắng . Vào thời điểm năm 2003 có 30% học sinh da trắng tốt nghiệp cử nhân hay cao hơn trong khi đó sinh viên gốc Á tốt nghiệp tới 50%. Chúng ta biết rằng dẫu rằng không phải gốc dân Á châu đều tối ưu tai học đường-  nhờ vào các bậc cha mẹ của tằng lớp di dân hay tỵ nạn gốc Á này đều áp dụng đa phần đều có truyền thống giáo huấn nghiêm nhặt việc học hành con cái cũng như bài vở tại nhà.

Nhưng lối giáo huấn này chưa phải là nguyên nhân độc nhất cho sự thành công con cái của các nhóm dân Mỹ gốc Á này. Qua nhiều nghiên cứu chúng ta thấy rằng cha mẹ của dân da đen thuờng có kỳ vọng cao hơn ở con cái đối với người da trắng thế mà tỷ số học sinh da trắng lại tốt nghiệp cao hơn. Có nhiều  thứ để chúng ta tìm hiểu ra nguyên nhân tại vì sao? Có một "áp lực" nào đó chăng lên người Mỹ gốc Á đi đến thành công? Không phải phần lớn nhờ vào truyền thống cha mẹ mà có một nguyên nhân mạnh mẻ hơn: đó là Xã Hội Hoa Kỳ.

    Người Mỹ trắng tại Hoa kỳ đã nhìn ra "gương mẫu gốc thiểu số" này từ thế kỷ mười chín. Sau Nội chiến Hoa kỳ chính tờ báo Baton Rouge đã có lần so di dân Trung Hoa với người da đen , họ từng cho rằng "biết vâng lời và tháo vát hơn người da đen, làm việc cần mẫn không cần giám sát cùng lúc có có thói quen tươm tất sạch sẽ ". Cùng thời này tờ Thời Báo Nữu Ước lại nhạo báng di dân Ái nhĩ Lan như câu "John Chinaman"(ông Tàu) đáng được nhập vào xã hội Mỹ hơn ông "Paddy"(Ái nhĩ Lan). Hình ảnh về gương mẫu gốc thiểu số này chúng ta lại thấy sống lại vào thời có phong trào tranh đấu dân quyền năm 1966 khi William Peterson cho đăng vào tờ Nữu Ước Thời Báo CHủ Nhật về " Mẫu Chuyện Thành Công từ khuôn Mẫu của người Mỹ gốc Nhật " "một chuẩn mực của công dân mà chúng ta nên chọn lấy " . Ông ta viết "Người Mỹ gốc Nhật tốt nhất trong các nhóm dân trong xã hội chúng ta, kể cả người da trắng sinh ra tại đây" Peterson đã liên hệ đến người Mỹ gốc Phi châu và người Mỹ gốc La tin để chúng dẫn sự tương phản như là " những nhóm thiểu số tệ hại " Đề tài này của Peterson được người ta đọc nhiều và dĩ nhiên từ đó người Mỹ gốc Á đã thể hiện trên truyền thông đại chúng như là mẫu mực thành công của các dân tộc không phải là da trắng. Các tờ báo như Time, Newsweek, và Sixty Minutes đã "phong tước" cho người dân gốc Á "Thiểu Số Gương Mẫu"; Tạp chí Fortune từng gọi họ là "Thiểu số Siêu hạng" và ngay cả tờ The New Republic cùng công nhận họ là "Thắng lợi của người Á châu" là "câu chuyện thành công lớn nhất của nước Mỹ ". Các nhà báo từng nhiệt tình khen ngợi người Mỹ gốc Á đang "chiếm hết giải thuởng về khoa học ", nổi bật hơn những sắc dân khác từ học đường và cả sở làm " và ngay cả "vượt trội hơn người Mỹ trắng ".

    Có cách suy nghĩ về người Mỹ gốc Á trong phạm trù của Thành kiến về thiểu số gương mẫu, bằng cách  suy nghĩ về họ. Trước tiên và là điều trước nhất, ngay tại học đường họ lên như diều vì trúng vào những bộ môn đúng vào điểm mạnh của họ như là những môn có tính kỹ thuật, vật lý, toán kể cả khoa học vi tính tất cả đều hợp với những thứ họ được uốn nắn từ tuổi nhỏ theo thói quen trầm lặng cùng lễ độ. Đó là điều nói ra thẳng thừng nhưng đó lại là lối giải thích tích cực. Nhưng chúng ta nên suy nghĩ và lắng nghe cho kỹ lại , thì chả có gì để một định kiến được gọi là "tích cực " . Vì rằng định kiến chỉ là hệ quả của những gì chúng ta đơn giản hóa quá mức cho một lối nghĩ , nó sẽ gây nên những hậu quả nguy hiểm cho những người đang là mục tiêu cho họ. Đối với người Mỹ gốc Á, thành công   là những điều lo toan- không chỉ đối với thành công thôi ,ngay cả đạt đến mức độ trở nên thiên tài đều mang tới thiết thòi cho họ. Khi họ thành công--lấy thí dụ giải về khoa học mà mọi người đang thèm muốn, hay ngay cả thắng giải trong cuộc thi đánh vần--thì những người Mỹ không phải từ gốc Á lại cho rằng: "À, dĩ nhiên là họ thắng thôi. Họ là người Á Châu mà ". Nhưng khi họ thua thì những người này lại có lối suy nghĩ : " Tại sao lại không thắng? họ là người Á Châu mà ?!". Trong cả hai trường hợp phẩm chất chung  chủng tộc với  người Mỹ gốc Á đang chiếm ưu thế hơn cá nhân họ, đã che lấp hết sự thông minh cùng nổ lực của riêng họ.

   Còn gì nữa- mỗi loại xét đoán định kiến với cái từ "tích cực" đều có cái điểm đối với nó. Lấy thí dụ chúng ta nói "Người da đen đều là những lực sĩ mạnh bạo " nó lại có nghĩa rằng "Người da đen không thông minh lắm " Hay chúng ta cho "Người Do thái quá giỏi trong hoạch định về tiền bạc " câu này cũng có nghĩa là "Người Do thái keo kiệt cùng tham lam! ". Cũng tương tự như thế, tất cả lời ngợi khen vinh danh sự đóng góp của người Mỹ gốc Á chắc rằng đều có gắn thêm cái hậu ý đả phá (degrading) đi cùng 

Trong tác phẩm của Frank Wu, cuốn Da Vàng- Yellow có viết "Thông minh có nghĩa là biết cách tính toán thật khéo léo ; Được giải về toán cùng khoa học chỉ là cái giỏi máy móc không có tính sáng tạo , thiếu năng khiếu về giữa cá nhân và cá nhân và tài lãnh đạo. Có lễ độ, có nghĩa là chỉ biết nín lặng cùng khúm núm. Siêng năng tức phải là một kẻ cạnh tranh không công bằng trong những con người bình thuờng và không phải là một người đa năng cùng dễ mến .

     Đối với một số người Mỹ gốc Á, áp lực Khuôn mẫu thiếu số này đang trở thành một gánh nặng cho họ. Đàn bà trẻ gốc Á, thuờng đối mặt với áp lực từ cha mẹ cùng xã hội phải trở thành những học sinh giỏi những phụ nữ, bạn gái cùng những người vợ vẹn toàn... đã trở thành những con số tự vẫn cao lên mức báo động. Đàn bà gốc Á hiện nay tại trung học và đại học đều có con số tự vẫn cao nhất trong các sắc dân. Thật vậy, tự vẫn đã trở thành nguyên nhân đứng thứ hai trong số các các chết của đàn bà gốc Á từ lớp tuổi từ 15 đến 24. Có trường hợp, sau chiếc dương cầm độc tấu bóng lộn cùng những bảng ghi toàn diện kia một người đàn bà ngồi yên buồn bả bất động chẳng khác gì " cái xác đã chôn trên mặt đất".

   Bên cạnh trút tức bực lên tâm trí  nhiều người Mỹ gốc Á, thành kiến về gương mẫu thiểu số còn làm trầm trọng thêm hố ngăn cách chủng tộc. Sự e ngại về chuyện quá thành đạt của người Á châu thuờng tạo điều kiện dễ dàng cho cảm giác bất ổn tại các trường đại học giữa những học sinh không gốc Á, da trắng và không da trắng. Các sinh viên của đại học công nghệ MIT lại lấy các chữ đầu MIT mà giễu cợt rằng những chữ này là "Made In Taiwan" thay vì Massachusetts Institute of Technology (MIT). Sinh viên đại học UC Los Angeles thì lại diễu UCLA là "United Caucasians Lost among Asians" ( đám Da Trắng Lạc Lỏng Giữa Dân Á Châu ) Sinh viên của UC Berkeley thì được chào đón bằng từ ngữ " Hãy dừng lại lũ Á châu Kia " những chữ này viết bằng sơn ngay tại vách khu đại học kỹ sư, cùng lúc có một số cựu sinh trường này cho biết " có một số sinh viên nói rằng nếu họ thấy có đông sinh viên Á châu trong lớp họ sẽ rút lui vì tầm thi đua sẽ quá cao ".  Một tờ báo cũng ghi chú lời một sinh viên đại học Yale không phải gốc Á khuyên rằng : "nếu bạn kém về môn toán hay khoa học nhưng nếu bạn bị ghi danh vào lớp có đông sinh viên gốc Á , việc duy nhất phải làm cho bạn hãy chuyển qua thời khóa khác ngay ".

Do rằng họ nhìn những người gốc Á đơn thuần qua khia cạnh chủng tộc--một chủng tộc sáng giá về học lực. Một số sinh viên không phải gốc Á lại đối đãi với họ như là một mối đe dọa cho họ về thành công học vấn cũng như chuyện thịnh vượng tương lai.

   Thật khó xử, vì  thành kiến về khuôn mẫu của thiểu số lại khéo sắp xếp cùng với những tính toán cẩn thận cho việc áp bức cũng như hạ nhục những nhóm dân không phải da trắng. Thành kiến cũng là một sự ngụy biện.

  Khi xã hội Mỹ nhìn vào người Mỹ gốc Á và thốt lên " Các bạn đã làm được" cùng sau đó đối với các nhóm dân không phải là da trắng khác họ lại rầy la " Giờ, tại sao các anh lại không thể?" Người Mỹ gốc Á được đối xử như "thiểu số trung lưu" chúng ta hãy mượn lời nhà xã hội học Hubert Blalock, khi những tác phẩm của tác giả này là bằng chứng về sự trị vì của thống trị chủng tộc (racial domination)  ở ngay bên chúng ta trong đó những nhóm dân không  da trắng còn mòn mõi trong nghèo khó hay còn bị giam hãm trong bất công chỉ còn biết tự trách mình.  Cây viết Michael Lind  quan sát thấy rằng : "người bán hàng Việt Nam cùng người Phi làm tại phòng thí nghiệm hay thêm vào những công việc tức thời như bán chả gìo, đo lượng đường máu, bằng cách phục vụ thêm ngoài giờ. Một việc người da trắng tránh né nhưng từ đó họ làm dịu đi tội lỗi do tình trạng dơ bẩn từ hàng triệu người Mỹ bản xứ, không những từ những khu ổ chuột người da đen, những vùng nghèo khó của người Mễ mà đó là những người da trắng nghèo nàn nữa "./.


Matthew & Mustafa (2010)

Dịch Thuật: Đinh hoa Lư (27/10/2013)

edition 6/12/2021


source
Book
Desmond, Matthew & Emirbayer, Mustafa. (2010). Racial domination, racial progress, 327-331

Saturday, August 6, 2022

50 NĂM - MÙA HÈ RA ĐI



LỜI MỞ: 
 Hôm nay là mùa Hè 2022 đúng 50 năm hay vừa tròn NỬA THẾ KỶ qua đi cho câu chuyện bi thương Đại Lộ Kinh Hoàng của lưu dân Quảng Trị. Năm Mươi Năm đủ để một người vào tuổi Ngũ Niên là lứa tuổi có thể nói, 'gấp đôi trưởng thành' cho một người Việt Nam đủ chính chắn để viết lên đôi dòng Chính Sử. Thế mà lạ thay đối với Sử VN hiện nay, 'phía thắng cuộc' vẫn im lặng. Công lý hay Sự Thật ở đâu? Ở nước người, các uẩn khúc quốc gia dù lớn đến đâu qua 40 năm đều được chính quyền Bạch Hóa. Sai đúng Thiện và Ác vào 50 năm nay đều thuộc về lịch sử. Chính sử biên ra không nhằm bỏ tù ai nữa nhưng đê làm gì? Để Chân Lý Hóa những ngõ khuất trong dòng lịch sử dân tộc ta ba miền  Nam Trung Bắc. Người can đảm là người dám nói lên sự thật, kẻ công minh thì không bao giờ a dua xu nịnh mọi con dân nước VN ta đều có quyền sống và có được sự thưởng phạt công bằng. Dòng Thạch Hãn vẫn trôi mãi với thời gian qua bao làng mạc quê hương ấp ủ những nạn nhân, người QT từng bỏ mình oan khuất bên truông cát vô tình...Hoa đăng tưởng niệm trôi trên dòng sông quê hương, dòng sông của những oan hồn tức tưởi nhưng để vinh danh ai? Sao chưa có nén nhang nào giải oan cho bao oan hồn người dân xứ Quảng? Lịch sử nước Việt sẽ mãi nín thinh và bất cập, sẽ khúc mắc cùng u uất mãi với tiền nhân nếu cứ đối xử bất minh với dòng sông thân thuộc đó. Nhưng có che đậy ra sao,  dòng nước đó chẳng rửa sạch bao nỗi oan cừu nếu không ai dám nói hay viết lên sự thật.  Đại Lộ Kinh Hoàng- bao linh hồn vẫn mãi lẩn khuất trên ngàn cây nội cỏ, bên truông cát năm xưa dù năm mươi năm hay lâu hơn nữa, vẫn mãi không tan do chưa có ai dũng cảm nói lên giúp họ

ĐHL  hè 2022 


du kích địa phương và bộ đội miền bắc  tràn ngập tp Quảng Trị sau khi toàn bộ tp này di tản vào hè 1972 (ngả tư Quang Trung và Trần Hưng Đạo) 



NỬA THẾ KỶ ĐÃ QUA, NHƯNG OÁN KHÍ  CHƯA TAN

 Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.

Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi.
Thôi đành phải ra đi!
Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.📷
Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

HÌNH DƯỚI:
2000   XÁC NGƯỜI  ở lại bên Đại Lộ Kinh Hoàng được thanh niên thiện chí và báo Sóng Thần thu dọn chôn cất 

Người TP Quảng Trị dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.


Huế cũng dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?

Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê hương ai mà không lòng đau như cắt.

hình: sau gần 2 năm tạm cư tại Hòa Khánh Non Nước ; người QT từ Đà Nẵng lại tiếp tục ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp của Quốc Vụ Khanh VNCH từ vào cuối năm 1973📷
*
Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.


từ Hòa Khánh Đà Nẵng, người tị nạn tiếp tục chuẩn bị ra đi vào nam theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP của Quốc Vụ Khanh VNCH cuối 1973

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại. Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.

Giọng nói của người ra đi lại hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương mới. Lạ làm sao, người Quảng Trị vẫn giữ được phong cách, bản ngữ nghe như tiếng tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể, hai người xa lạ chợt nhận ra nhau qua chất giọng "quê miềng". Ấm nồng đồng hương bất chợt gặp nhau trong phút giây tao ngộ, tương phùng. Chúng ta gặp lại nhau một thoáng âm thanh, nghe ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.


Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.


hình:

thế hệ sau hiện nay hay về thăm quê cha đất tổ. Phút đưa người thân lên xe, bà con Quảng Trị xúc động rơi nước mắt tiễn bà con về lại quê hương thứ hai tức là phương nam sau chuyến về làng

Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.
ĐHL
Hè 2022

Friday, August 5, 2022

MÙA HÈ RA ĐI

 


HÌNH NGÃ TƯ QUANG TRUNG - CS BẮC VIỆT VÀ MTGPMN CHIẾM THÀNH PHỐ QT SAU MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972

RA ĐI

Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.
Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi. 

Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.



Thôi đành phải ra đi!

Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

Người Phố Quảng dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.

Huế dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?




Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê nhà ai mà không đứt từng khúc ruột.

sau gần 2 năm tạm cư tại Hòa Khánh Non Nước ; người QT từ Đà Nẵng lại tiếp tục ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp của Quốc Vụ Khanh VNCH từ vào cuối năm 1973

*

 Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm  thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại? Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.

Những thanh âm, tiếng nói, người ra đi mang theo hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương thứ hai. Lạ thật? người Quảng Trị vẫn giữ được những phong cách cùng bản ngữ nghe sao tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể góc hai kẻ xa lạ chợt nhận ra nhau thoáng nghe qua giọng nói. Ấm nồng quê hương tìm lại, bất chợt trong phút giây qua một thoáng âm thanh, tuy ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.

Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.


thế hệ sau hiện nay hay về thăm quê cha đất tổ. Phút đưa người thân lên xe, bà con Quảng Trị  xúc động rơi nước mắt tiễn bà con về lại quê hương thứ hai tức là phương nam sau chuyến về làng


Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối tiếp thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn tiếp nối hoài bão của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.

ĐHL  EDIT 

2/10/2021

Wednesday, August 3, 2022

ĐỘNG ĐỀN THÌ ĐẤT LỞ, ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI

 

Tuesday, November 7, 2017

ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI


                                                            
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người 


(lyrics)

ĐỘNG ĐỀN thang 7/1995


ĐỘNG ĐỀN THÌ ĐẤT LỞ, ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI 

Mà đâu phải đi Mỹ? người Động Đền sau giai đoạn 1975-77 đi tứ tán chân trời góc bể . Kẻ vô tận Cà Mâu Sóc Trang rừng đước rừng tràm bao la, người ra tận Phú Quốc đảo biển xa xăm còn người thì lên tận vùng Tây Nguyên hay Đức Linh rừng núi bạt ngàn ...


Nói về người Động Đền thì liên tưởng đến một vùng mấy xã ven biển Hàm Tân . Động Đền là tên không phải một xã hay một thôn nào cả .

Khi ra đi tôi có nhịp ghi lại vài tấm hình của một vùng đất lỡ nói trên




Đây là những hình ảnh cuối cùng tôi ghi lại nơi vùng đất tôi đang giã biệt. Đúng vậy, trước khi giã từ Động Đền, trước khi làm tiệc chia tay vào ngày 21/7/1995 tại thôn Cam Bình. Tôi đi bộ lên lưng chừng dốc này và nhìn lại thôn xóm để chụp lại vài cái hình gọi là lưu niệm.


                                    Ngay Chia Tay 21/7/1995

Cái xứ tôi sắp chia tay nghèo và loang lổ như vậy đó. Đất đai hoang tàn lỡ lói, chẳng còn thứ gì mọc được. Một vùng cát trắng bạc màu, dốc cao xói mòn, toang hoác.

Phía chân đồi là cái nghĩa địa của người dân tha phương Quảng Trị, những bác, những ôn những mệ, ba tôi hay bà con lối xóm đã xuôi tay về nơi miên viễn. Một nơi mà họ không còn buồn tủi, hay lòng đau đáu nhớ về quê cũ mỗi buổi chiều buông trên núi Bể hướng tây, hay tiếng sóng biển theo gió đưa về trong canh khuya thanh vắng.




Người Quảng trị, dân Đông hà, bà con Gio Linh, Cam Lộ đều gần nhau, sống bên nhau những ngày xa xứ lao lung và khi nhắm mắt cũng nằm gần nhau trên cái bãi cát trắng tha hương có hai chữ Chồm Chồm.

Quê hương kỷ niệm của tôi là thế đó. Khi ba tôi đi xa mấy chục năm rồi chỉ còn mẹ già còn lại xóm xưa với trí óc mụ mẫm lu mờ chẳng còn nhớ còn thương hay u hoài bất tận.


Ôi quê nhà diệu vợi và bao nỗi nhớ mông lung.


Người Động Đền

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư   Tác giả bài này có dị...