Saturday, August 6, 2022

50 NĂM - MÙA HÈ RA ĐI



LỜI MỞ: 
 Hôm nay là mùa Hè 2022 đúng 50 năm hay vừa tròn NỬA THẾ KỶ qua đi cho câu chuyện bi thương Đại Lộ Kinh Hoàng của lưu dân Quảng Trị. Năm Mươi Năm đủ để một người vào tuổi Ngũ Niên là lứa tuổi có thể nói, 'gấp đôi trưởng thành' cho một người Việt Nam đủ chính chắn để viết lên đôi dòng Chính Sử. Thế mà lạ thay đối với Sử VN hiện nay, 'phía thắng cuộc' vẫn im lặng. Công lý hay Sự Thật ở đâu? Ở nước người, các uẩn khúc quốc gia dù lớn đến đâu qua 40 năm đều được chính quyền Bạch Hóa. Sai đúng Thiện và Ác vào 50 năm nay đều thuộc về lịch sử. Chính sử biên ra không nhằm bỏ tù ai nữa nhưng đê làm gì? Để Chân Lý Hóa những ngõ khuất trong dòng lịch sử dân tộc ta ba miền  Nam Trung Bắc. Người can đảm là người dám nói lên sự thật, kẻ công minh thì không bao giờ a dua xu nịnh mọi con dân nước VN ta đều có quyền sống và có được sự thưởng phạt công bằng. Dòng Thạch Hãn vẫn trôi mãi với thời gian qua bao làng mạc quê hương ấp ủ những nạn nhân, người QT từng bỏ mình oan khuất bên truông cát vô tình...Hoa đăng tưởng niệm trôi trên dòng sông quê hương, dòng sông của những oan hồn tức tưởi nhưng để vinh danh ai? Sao chưa có nén nhang nào giải oan cho bao oan hồn người dân xứ Quảng? Lịch sử nước Việt sẽ mãi nín thinh và bất cập, sẽ khúc mắc cùng u uất mãi với tiền nhân nếu cứ đối xử bất minh với dòng sông thân thuộc đó. Nhưng có che đậy ra sao,  dòng nước đó chẳng rửa sạch bao nỗi oan cừu nếu không ai dám nói hay viết lên sự thật.  Đại Lộ Kinh Hoàng- bao linh hồn vẫn mãi lẩn khuất trên ngàn cây nội cỏ, bên truông cát năm xưa dù năm mươi năm hay lâu hơn nữa, vẫn mãi không tan do chưa có ai dũng cảm nói lên giúp họ

ĐHL  hè 2022 


du kích địa phương và bộ đội miền bắc  tràn ngập tp Quảng Trị sau khi toàn bộ tp này di tản vào hè 1972 (ngả tư Quang Trung và Trần Hưng Đạo) 



NỬA THẾ KỶ ĐÃ QUA, NHƯNG OÁN KHÍ  CHƯA TAN

 Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.

Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi.
Thôi đành phải ra đi!
Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.📷
Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

HÌNH DƯỚI:
2000   XÁC NGƯỜI  ở lại bên Đại Lộ Kinh Hoàng được thanh niên thiện chí và báo Sóng Thần thu dọn chôn cất 

Người TP Quảng Trị dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.


Huế cũng dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?

Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê hương ai mà không lòng đau như cắt.

hình: sau gần 2 năm tạm cư tại Hòa Khánh Non Nước ; người QT từ Đà Nẵng lại tiếp tục ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp của Quốc Vụ Khanh VNCH từ vào cuối năm 1973📷
*
Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.


từ Hòa Khánh Đà Nẵng, người tị nạn tiếp tục chuẩn bị ra đi vào nam theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP của Quốc Vụ Khanh VNCH cuối 1973

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại. Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.

Giọng nói của người ra đi lại hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương mới. Lạ làm sao, người Quảng Trị vẫn giữ được phong cách, bản ngữ nghe như tiếng tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể, hai người xa lạ chợt nhận ra nhau qua chất giọng "quê miềng". Ấm nồng đồng hương bất chợt gặp nhau trong phút giây tao ngộ, tương phùng. Chúng ta gặp lại nhau một thoáng âm thanh, nghe ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.


Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.


hình:

thế hệ sau hiện nay hay về thăm quê cha đất tổ. Phút đưa người thân lên xe, bà con Quảng Trị xúc động rơi nước mắt tiễn bà con về lại quê hương thứ hai tức là phương nam sau chuyến về làng

Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.
ĐHL
Hè 2022

Friday, August 5, 2022

MÙA HÈ RA ĐI

 


HÌNH NGÃ TƯ QUANG TRUNG - CS BẮC VIỆT VÀ MTGPMN CHIẾM THÀNH PHỐ QT SAU MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972

RA ĐI

Chuyện ra đi của người dân Quảng Trị đó là chuyện của 'ngày xưa' có nghĩa là xưa lắm rồi. Thế mà lạ thay, dù "xưa lắm rồi," nhưng người Quảng Trị ai mà chẳng một hướng tâm tư về kỷ niệm mà ngậm ngùi, cảm thương cho số phận người dân quê mình.
Trong hoàn cảnh chiến tranh thì đành chấp nhận. Nhưng thương là thương cho người dân Giới Tuyến sao cứ mãi ra đi. 

Ai ly hương mà không nhớ không buồn, ai từng lâm vào cảnh hai vai mang gánh nặng "tản cư" thì làm sao quên được mùa hè chinh chiến đó?

Qua cầu ngó lại phía sau lòng đau như cắt. Bên kia sông Hiếu Giang cầu Đông Hà đổ sụp, tạ từ làng xưa, thôn cũ, mái lá tiêu điều phất phơ theo ngọn lửa điêu tàn.



Thôi đành phải ra đi!

Người Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà ngoái nhìn chiếc cầu lần cuối. Từng đoàn người hốt hoảng. Phương tiện chỉ còn là hai bàn chân và đôi triêng gióng. phải đi, phải liều mình qua vòng lửa đạn, hướng về nam là chốn dung thân hay con đường sống. Những đứa trẻ thơ ngồi trong hai đầu thúng. Dặm trường xa mẹ oằn lưng gánh nặng; phải chăng người mẹ quê gắng hết sức mình mang cả đất nước lên vai?

Người Phố Quảng dang tay đón đoàn người chạy loạn, qua cầu Thạch Hãn tạm yên được bao ngày rồi cũng phải ra đi? Bao xác người để lại bên đường, mắt chưa nhắm khi hồn còn vương về chốn cũ.

Huế dang tay nhân ái, đón chờ người chạy nạn. Chốn cố đô ì- ầm đạn pháo chẳng nào yên. Những phận người nơm nớp canh nhau giấc ngủ, khó lòng bình an khi Quảng Trị và Huế khoảng đường ngắn quá làm gì tránh được âu lo.

Vài ngày ở tạm Huế, rồi lại tiếp tục gánh gồng, người Quảng Trị vẫn còn đi mãi. Đôi vai nặng tiếp bước đường thiên lý. Hải Vân Sơn chớm chở đám mây ngàn. Dặm đường thiên lý trải dài, trên đỉnh Hải Vân tay người chiến nạn tưởng như với đưoc mây trời?




Đà Nẵng tiếp tục mở vòng tay nồng ấm chở che cho người chiến nạn. Hòa Khánh, Hòa Cầm, Non Nước bao trại tạm cư tiếp tục dựng lên cho người quê mình che mưa đụt nắng. Những ký gạo, từng ổ mỳ đắp đổi qua ngày cho người Quảng Trị đợi chờ một tia sáng nào đó trên con đường chạy nan. Biết bao kỷ niệm qua hai năm tỵ nạn, ngụ cư. Người Đà Nẵng chia sẻ ngọt bùi với lưu dân Quảng Trị. Hai, ba năm trời không quá ngắn mà chẳng quá dài nhưng nói lên tấm lòng bao dung chia sớt, người Quảng Trị mãi mãi trân trọng, biết ơn.

Xin cám ơn Huế, cám ơn Đà Nẵng xin cám ơn bao tấm lòng nặng tình ân nghĩa người Quảng Trị phải tiếp tục ra đi. Chiến tranh hay kiếp phiêu bồng, lìa xa quê nhà ai mà không đứt từng khúc ruột.

sau gần 2 năm tạm cư tại Hòa Khánh Non Nước ; người QT từ Đà Nẵng lại tiếp tục ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp của Quốc Vụ Khanh VNCH từ vào cuối năm 1973

*

 Phương nam xa xôi, ai ngờ lại đến? Tình luyến lưu giữa người Đà Nẵng và lưu dân Quảng Trị vừa chớm nồng thì đã vội chia tay. Người QT tiếp tục tha hương vào tận phương nam. Vùng đất lạ chào đón buớc chân người 'giới tuyến'. Mồ hôi lại đổ trên bao cánh rừng xa lạ, trên những bãi biển hoang sơ, những vùng đất cát trắng bạc màu hay đất đỏ phì nhiêu hoặc ruộng lúa bao la nơi miền lục tỉnh. Tất cả đều đón người Quảng Trị trong tình cảm chân thành, bao dung. Xin cám ơn bao tấm lòng vàng, người ra đi nhớ biết bao những vòng tay rộng mở.

Trời phương nam, người Quảng Trị có nhiều lúc chạnh lòng nhớ về quê cũ. Lòng đau đáu thương bờ tre đám ruộng. Cánh chim chiều lẻ bạn nhớ kẻ đi xa. Kẻ thị thành nhớ con phố cũ, từng con hẻm  thân quen. Người học trò nhớ thầy, thương bạn, hình ảnh mái trường ấp ủ biết mấy mộng mơ, hoài bão... Nói sao cho hết đoạn trường cho người Quảng Trị?

Người đi có thêm kỷ niệm chắt chiu tháng ngày trên vùng đất mới. Quê hương thứ hai: miền nam mưa nắng hai mùa, truớc lạ sau quen, đã trở thành mối nợ ân tình. Người nam phương chân chất hào hiệp, tình cảm dần hồi càng trở thành thâm sâu gắn bó. Đó là những gì an ủi cho người Quảng Trị ly hương nhưng chẳng hẹn ngày về.

Kiếp nhân sinh như phù ảnh, thập niên nối tiếp thập niên trôi mau về quá khứ. Hai chữ ra đi như một định mệnh an bài, là dấu ấn, chợt chuyển mình vươn lên chẳng khác gì huyền thoại? Bao khốn khổ, đau thương nay vụt trở thành sức mạnh cùng nghị lực phi thường. Người ra đi quên đi mặc cảm, tủi hờn, vươn lên phía trước tìm sức sống mới, niềm tin mới nơi phương trời xa lạ.

Những thanh âm, tiếng nói, người ra đi mang theo hoà nhập với cuộc sống nơi quê hương thứ hai. Lạ thật? người Quảng Trị vẫn giữ được những phong cách cùng bản ngữ nghe sao tình tự quê nhà. Xa tận chân trời góc bể góc hai kẻ xa lạ chợt nhận ra nhau thoáng nghe qua giọng nói. Ấm nồng quê hương tìm lại, bất chợt trong phút giây qua một thoáng âm thanh, tuy ‘trọ trẹ’ thế mà tình cảm khó rời.

Đứa bé năm xưa, mẹ gánh con trên thúng trong cơn chạy nạn thất thần và hoảng hốt. Làn hơi thở của người mẹ trong run sợ mệt nhọc, tưởng chừng muốn đứt? Mẹ gắng gánh con đi cho qua vòng vây đạn pháo.


thế hệ sau hiện nay hay về thăm quê cha đất tổ. Phút đưa người thân lên xe, bà con Quảng Trị  xúc động rơi nước mắt tiễn bà con về lại quê hương thứ hai tức là phương nam sau chuyến về làng


Rồi hôm nay con đã lớn khôn nhưng bóng mẹ xa rồi!

Con ơi! có lần nào con về thăm Quảng Trị, đó khác chi một chuyến 'hành hương' về quê cha, đất tổ. Trên con đường thênh thang, trải dài về chốn quê nhà, con hãy lắng lòng tưởng niệm cho một khoảng đường hay một chặng đời của ba mẹ hay bà con xứ Quảng. Ngày đó mẹ gánh con đi qua vòng vây đạn pháo. Một chặng đường nhưng biết bao nhiêu người đành nằm lại? Trời phương nam trong một tầm tay nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ với được. Những đôi mắt chưa hề nhắm hết. Bà con mình nằm lại đây, vĩnh viễn nằm lại đây, trong tức tưởi oan khiên do không hiểu tại sao mình phải chết? Con hãy về trong một chuyến hành hương, hãy thắp lên một nén nhang lòng để tưởng niệm bao oan hồn u uẩn. Chỉ một chặng đường sao quá đau thương trong máu và nước mắt người dân mình ngày đó? Giờ đây mẹ cho rằng: phố xá, dinh thự có thể đã xoá nhoà cái truông cát dài oan nghiệt kia, một chặng đường mang bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng", chặng đường của khổ đau năm cũ.

Thế hệ tiếp nối tiếp thế hệ, nơi quê hương mới cháu con Quảng Trị luôn mang trong người ước muốn tiếp nối hoài bão của mẹ cha. Mẹ kể cho con chuyện những ngày giáp hạt- quê hương mình phần phật mưa bay, bao cơn lụt hàng năm nay trở thành định mệnh. Chính đó là sức bật nhiệm mầu cho con vươn vai trên xứ lạ quê người, cho lớp người Quảng Trị ra đi trong đau thương nhưng lòng hẹn lòng sẽ không bao giờ thất bại.

Người quê mình tuy ly hương sẽ không bao giờ quên những vòng tay nặng nghĩa ân tình tháng ngày che chở. Hãy cùng nhau xem phương nam như một vùng "đất hứa" vì nó từng xây lại cuộc đời cho bao kẻ mất quê. Cát bụi thời gian phôi pha ngày tháng cũ nhưng hồn xưa bỗng sống dậy khôn nguôi, những u hoài cho ai ra đi không hẹn ngày trở lại.

Quảng Trị ơi! bao đau xót cho một lần đi.

ĐHL  EDIT 

2/10/2021

Wednesday, August 3, 2022

ĐỘNG ĐỀN THÌ ĐẤT LỞ, ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI

 

Tuesday, November 7, 2017

ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI


                                                            
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người 


(lyrics)

ĐỘNG ĐỀN thang 7/1995


ĐỘNG ĐỀN THÌ ĐẤT LỞ, ĐẤT LỞ THÌ NGƯỜI ĐI 

Mà đâu phải đi Mỹ? người Động Đền sau giai đoạn 1975-77 đi tứ tán chân trời góc bể . Kẻ vô tận Cà Mâu Sóc Trang rừng đước rừng tràm bao la, người ra tận Phú Quốc đảo biển xa xăm còn người thì lên tận vùng Tây Nguyên hay Đức Linh rừng núi bạt ngàn ...


Nói về người Động Đền thì liên tưởng đến một vùng mấy xã ven biển Hàm Tân . Động Đền là tên không phải một xã hay một thôn nào cả .

Khi ra đi tôi có nhịp ghi lại vài tấm hình của một vùng đất lỡ nói trên




Đây là những hình ảnh cuối cùng tôi ghi lại nơi vùng đất tôi đang giã biệt. Đúng vậy, trước khi giã từ Động Đền, trước khi làm tiệc chia tay vào ngày 21/7/1995 tại thôn Cam Bình. Tôi đi bộ lên lưng chừng dốc này và nhìn lại thôn xóm để chụp lại vài cái hình gọi là lưu niệm.


                                    Ngay Chia Tay 21/7/1995

Cái xứ tôi sắp chia tay nghèo và loang lổ như vậy đó. Đất đai hoang tàn lỡ lói, chẳng còn thứ gì mọc được. Một vùng cát trắng bạc màu, dốc cao xói mòn, toang hoác.

Phía chân đồi là cái nghĩa địa của người dân tha phương Quảng Trị, những bác, những ôn những mệ, ba tôi hay bà con lối xóm đã xuôi tay về nơi miên viễn. Một nơi mà họ không còn buồn tủi, hay lòng đau đáu nhớ về quê cũ mỗi buổi chiều buông trên núi Bể hướng tây, hay tiếng sóng biển theo gió đưa về trong canh khuya thanh vắng.




Người Quảng trị, dân Đông hà, bà con Gio Linh, Cam Lộ đều gần nhau, sống bên nhau những ngày xa xứ lao lung và khi nhắm mắt cũng nằm gần nhau trên cái bãi cát trắng tha hương có hai chữ Chồm Chồm.

Quê hương kỷ niệm của tôi là thế đó. Khi ba tôi đi xa mấy chục năm rồi chỉ còn mẹ già còn lại xóm xưa với trí óc mụ mẫm lu mờ chẳng còn nhớ còn thương hay u hoài bất tận.


Ôi quê nhà diệu vợi và bao nỗi nhớ mông lung.


Người Động Đền

Monday, August 1, 2022

QUẢNG TRỊ XA XƯA- HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ



...Khi tôi về nghẹn ngào trong nắng
Tưởng rằng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về
Nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời
Không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ...
 (Đường xưa Lối Cũ)


=====================  



hình đầu con ĐƯỜNG NGỰ XƯA nay đã bít lối
===



  bài viết này xin gửi
 về bà con Phường Đệ Tứ QT xa xưa... ĐHL


 ***

 CON ĐƯỜNG NGỰ là đường nào?Nó bắt đầu từ đường Lê v Duyệt rẽ thẳng góc đâm về huớng An Tiêm .  Khởi đầu là cái quán của mạ tôi . Cái quán trước đường Cửa Hậu là cái quán nhỏ từ đời mệ ngoại sang qua lại cho mạ tôi bán ở đây . Quán sát cái giếng nằm lọt vào đất ông Xạ Lịch tức là anh chú bác với mệ ngoại tôi . Quán nhỏ mà đắt khách vì trong xóm cần gì là có ngay . Từ cái kẹo, chai bia , ly rượu, kim chỉ , giấy tiền vàng bạc , vở sách bút chì ...thuốc hút , đá lạnh nước chanh , mỳ xíu ban sáng ...tôi kể không hết .  Quán trước cửa Lao Xá nên hay có lính tráng ra mua . Những lần thăm nuôi tù nhân trong Thành quán cũng bán được một mớ . ..

Chiều chiều \, tôi lại nhớ chú Vân  đi lái xe về là ghé quán uống một ly rượu thuốc trước khi vô nhà . Nhà Chú thím Vân ở xa sau xóm nơi ngó ra cánh đồng lúa An Tiêm và hạnh Hoa. Nhà chú ở một bên đường Ngự, đối diện với nhà Ông Lâm tức là ba chú Tùng và chị Dao ...
 Sau lưng là trường Ấp tân Sinh mới được xây một dãy dài .
XÓm Cửa Hậu càng lúc càng đông. Đồng bào tản cư tránh chiến tranh, vợ con lính càng lên nhiều và xây liên tục nối xa tận ngoài đồng kể không hết .

Sau trước 1967 có thêm Đại Đội Chiêu Hồi đóng gần nhà Ông Nguyễn tri Duyến, ông thân của các chị Đoàn, chị Liễu nên càng vui thêm.
Qua vài bài viết từ trước tới nay, người viết cố 'moi tìm' trong tim óc những gì mình nhớ lại thôn xóm năm xưa để bà con "những người còn lại" đôi lúc được thả hồn về "đường xưa lối cũ"..
Giờ để tiếp nối, mời bạn đọc và những người quen biết cũ 'đi chuyến tàu kỷ niệm', hình dung lại xóm Cửa Hậu xa xưa  trong  bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ...
                                       
 ***

  TRÊN TRANG BLOG  tôi viết đến đây chắc bạn đọc ít ai biết. Đó là con đường gắn liền với tôi lúc sinh ra lớn dần lên một thời niên thiếu trước Cửa Lao Xá mà nay đã thực sự mất tên, và bị lấp mất bởi nhà cửa người ta xây lên trên. Đã thế con đường Lê văn Duyệt cũng vô cớ bị xóa tên. Theo sử thì tả quân Lê văn Duyệt cũng là một võ tướng thời xưa công tội là chuyện của nhà Nguyễn , đến đời Thiệu Trị cũng được phục danh và cái Lăng Ông to lớn ai ở Sài Gòn mà chẳng ghé một lần trong đời.
Đường Phan đình Phùng đã có trong lịch sử thành phố QT xa xưa ròi, việc tréo ngoe chồng lên con đường Lê v Duyệt thì không hay chút nào. 

hình người viết chụp cho cậu Võ Cư năm 1969, ông đang đứng chính ngả ba Lê văn Duyệt và lối vô Cổng Thành Cửa Hậu (đã bị lấp sau 1967)- ngó thẳng ra con ĐƯỜNG NGỰ--trên cổng thành phía cánh phải  chúng ta thấy có một mái che tồn nhô lên, mấy chú bảo an đêm nào cũng gác đó , lâu lâu đánh kẻng đổi gác, vài ba tiếng rời rạc trong đêm trường ...
 

*
Bây giờ tôi lại kể về con ĐƯỜNG NGỰ. Con đường này chính ngay Cửa Hậu ngó ra thẳng về An Tiêm. Lúc tôi còn nhỏ, mệ tôi thuờng kể là con đường vua Ngự nên gọi là thế nhưng trong nhà Ngoại tôi không biết vua nào. Chẳng qua là truyền miệng cho nhau. Cho đến gần đây, ông Nguyễn lý Tưởng có giải thích thêm thời vua Hàm Nghi chạy ra Tân SỞ 1884 đặt tên để ghi nhớ vua Hàm Nghi khi thất thủ kinh thành 1884 có di chuyển qua đây.  Dân quân ở đây đắp thành một con đường đất lớn để quan quân di chuyển. Như vậy về thời gian cho đến 1972  lớn lên cạnh con đường lịch sử hơn cả trăm năm...

   Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa hay Lý  ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Bình tôi lứa anh Liệu anh Thăng, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước, nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu , thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa . Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo , thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu. Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), nhà anh Nguyễn Lam ở đầu con kiệt vào nhà anh Báu. Hàng ngày anh Báu đi về dưới thôn Hạnh Hoa gánh nước về cho mẹ già. Đàn ông con trai nhưng trông dáng anh gánh nước nhịp nhàng làm sao.


   Trở về con đường Ngự, cạnh cái giếng là cái quán tạp hóa mạ tôi. Người tù trong Cửa Lao Xá (hay Cửa Hậu) hay được phép mua hàng khi đi làm tạp dịch về. Mấy chú coi tù hay ra mua hàng ở quán mạ tôi nên nhà tôi bán hàng khá đắt. Cái quán này là đầu đường Ngự nằm vào đất của nhà ông Xạ Lịch (Lê ái Lịch), bà ngoại tôi kêu là anh (con chú bác). Ông  Lịch theo công giáo với vợ. Ông có mấy cậu là Lê ái Phương và anh cả là Lê ái Long ở xa, còn có dì Cúc...Nhà ông Lịch thời này tuy không giàu bằng nhà ông Lê ái Thanh, anh của ông Lịch có nhà cạnh bên. Nhà ông Lê ái Thanh ông thân của cậu Lê ái Minh có xe đò chạy QT- Huế (tên là Thiện Thành). Cậu Long con ông Lịch tuy là công chức nhưng cũng "tậu" được một chiếc xe Gobel , 'còm măng' từ bên Ý gữi qua ! Tôi còn nhớ , cả xóm đều chạy tới coi chiếc xe mới về được đựng trong một cái thùng gỗ bằng ván thông to lớn. Sau khi dùng 'xà beng' cạy ván ra, chiếc xe GOBEL mới toanh sừng sững dứng ở trong trông thật "hách". Thời gian này xe honda chưa có , ngoài trừ những chiếc mobilette, Lambretta, hay velo solex ...cũ xưa!



Cũng đầu đường Ngự phía bên kia là nhà của chú Huỳnh Chốn thân sinh của Huỳnh Rô, và Huỳnh Toàn,  số nhà là 65 Lê v Duyệt. Nhà của chú Huỳnh Chốn là chủ xe Phước Toàn tên của hai đứa em của Rô. Hình như Huỳnh Rô có đúa em gái tên Liên nữa. Trước khi nhà Huỳnh Rô ở, đây là nhà của chú Nguyễn văn Ba, cha của đứa bạn thân Nguyễn văn BỐn của tôi. Thời này nhà  bạn tôi đã có xe đò chạy Qt Huế. có cho chú Kỳ thuê làm quán may. Cái quán ngó ra là cái cống thông ra hồ của Thành CỔ. TÔi nhớ  chú Kỳ rất vui tính và nghịch. Chú ngồi may vậy mà lấy tờ bạc cột một đầu kéo ra giữa con đường nhựa, còn đầu kia tôi còn nhớ buộc vào cái máy may singer. Sau khi "ngụy trang" sợi chỉ khách đi ngoài đường cúi xuống lượm bị chú Kỳ đạp lẹ cái máy may, sợi chỉ kéo phăng tờ bạc lui làm người khách "tiu nghỉu" , trong quán chú Kỳ và tụi tôi cười sướng cái bụng. Người lượm bạc "trật" chỉ biết cúi đầu đi nhanh , chẳng dám cự nự một lời. Đêm về ngay đầu đường Ngự này, tức là cái cống và cái cột đèn của con đường Lê v Duyệt trước cổng Thành, tụi tôi chơi đá lon,' hô la manh' với nhau.

  Bắt đầu đi sâu vào là nhà bà ngoại tôi hay nhà tôi lớn lên bên các cậu tôi là Võ Cư ,Bé , Phương , Hoa , Ba , Bình...lớn lên các cậu tôi đi Trường Thiếu sinh Quân hay binh nghiệp khác. Cậu đầu Võ Cư trước là trung đoàn 95 VM , sau này về lại bên Cộng Hòa là công an. Có thời bên VM cho người đàn bà về lại 'móc nôi' nhưng bất thành. 1968 nhà sập một nửa nhà dưới cái nhà ngói trên hư hại ít ỏi. Tôi tuy là đứa cháu ngoại nhưng là thắp huơng khói sớm tối trong nhà ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất sớm từ 1949, sau này bà ngoại tôi lại làm bà vải tận chùa SẮC TỨ bên Ái Tử thỉnh thoảng có việc gì tôi mới qua chở bà về. Đối diện nhà Ngoại tôi tức là bên kia con đuòng là nhà Ôn Vui và mệ Dịu. Nhà Ôn Vui có hai cây khế, một cây chua một cây ngọt. Cây khế ngọt yếu ớt ít trái hơn. Cây khế chua to lớn rậm rạp phủ một nhánh qua sân nhà Ông Nguyễn trọng Thệ. Nhà mệ Dịu làm nghề thợ may trong nhà. O Lài là con gái đầu. Ôn mệ Vui có người con trai tên Hiền đi ăn học đâu xa thỉnh thoảng mới về. O Lài là chị lớn đi tu đạo sau về nhà, em o Lài tên Diệm xấp xỉ tuổi tôi.  Bên lưng nhà mệ Dịu là nhà O Hoài mẹ chị Huờng và Hoàn. Còn người con gái nữa là Hòa cũng. xấp xỉ tuổi tôi. Tội nghiệp 2 con trai o Hoài, thằng Gioan thằng Huởng bị VC pháo vô thành, lạc ra ngoài khoảng 1967 chết oan mất thằng Gioan. Tuổi nhỏ anh em chúng tôi trong nhà ngoại cùng trang lứa như mấy nàng hồi đó là Diệm, Hòa bốc chẵn lẽ ăn thua sợi thun (địu) hay 'cò cò' tức còn gọi là "chơi thiên trời" vui vẻ hồn nhiên đúng là thời con nít ...

 Theo con đuòng này tiếp nhà ôn Vui mệ Dịu là nhà Ông Nguyễn trọng Thệ như vừa nói. Ông Thệ là ông thân của các chú Nguyễn trọng  Kỳ- Khôi -Tống -Toàn.  Anh Nguyễn trọng Toàn sau này là chồng của chị Thí. Ông Thệ có cái tính rất sạch. Sáng chiều chi cũng thấy ông cầm cái chủi cán dài quét quét trước cươi (sân). Ông Thệ hình như là người Ngô Xá. Rảnh là ông thay áo quần lên phố thăm ông Thầy Thoàn (thân sinh tướng  Hoàng xuân Lãm ). Nhà ông Thệ trước đây mua lại của chú Vọng. chú Vọng hay đi chiếc mobilette chạy lẹt đẹt. Sau này chú VỌng về ở gần nhà mệ Cửu Mình là mệ cậu Hiếu ở kế bên trụ sở phuòng Đệ Tứ - hay gần kiệt xuống nhà bạn Nguyễn Văn và Ng Kiệt.


Sau 1967, nhà này 
ông Thệ bán cho chú Huỳnh Chốn, ba của Huỳnh văn Rô. Còn nhà Huỳnh Rô số 65 trước đường thì lại bán cho mẹ và dì tôi . Nhưng nhà tôi số 65 trước đường ở một năm thì bị cháy vì vụ Mậu Thân 1968. Sau đó nhà tôi phải lên thôn Đệ Nhất làm ăn.

  Tiếp tục con đường Ngự, nối tiếp nhà Ngoại tôi là nhà của bác Hà công Kinh tức là ông thân của Hà thị bích Huờng. Thời tôi còn nhỏ, đây là nhà của ông Lâm , thân sinh của võ sĩ Bách Tùng Lâm; tức chú Tùng lấy tên ba người:  ông Lâm , Bách là anh của chú Tùng. Ông Lâm có võ gia truyền , sau này chú Tùng mới là võ sĩ nổi tiếng. Chú Tùng , chú Bách cở tuổi với hai cậu Võ Phương và Võ Hoa tôi. Một thời 1960 nhà của ông Lâm còn là nhà tranh , có đụn rơm và buị tre. Tôi còn nhớ trong Sài gòn, ra làm một cuốn phim , đóng cảnh thanh niên chiến đấu. Có thể vào thời Ấp chiến Lược thịnh hành. Đêm đó thật vui, có cả anh Nguyễn Bích chồng chị Thạnh với các thanh niên trong thôn được dựng cảnh thanh niên chiến đấu , bận đồ đen cầm đuốc lập lòe chạy cạnh đống rơm trước máy quay phim thật vui. Sau này nhà ông Lâm bán lại cho nhà  Hà thị bích Huờng. Ba của Huờng là bác Kinh làm kiều lộ hay là công chánh tỉnh QT. Bên kia nhà ông Thệ thì bán cho nhà chú Huỳnh Chốn. Cả hai ông Lâm và ông Thệ không đi đâu xa mà ra mua đất phía sau ruộng tức là tiếp tục con đường Ngự để lập vườn vui thú điền viên.


ĐƯỜNG NGỰ HÔM NAY CHỈ CÒN DẤU TÍCH PHÔI PHAI

Bức hình này người viết xin đánh dấu hôm nay là ngày năm 2022  Lấy từ cái mốc thời gian là năm 1972 tức đã tròn 50  năm hay đúng nửa thế kỷ lạnh lùng qua đi, nay con Đường Ngự chỉ còn là gờ đất mỏng manh giữa cảnh đồng lúa lên xanh tốt.
 ôi thời gian, chỉ là kỷ niệm xa dần cho những ai ra đi nhưng còn thương về quá khứ 
Bao nhiêu kỷ niệm ập về cho người viết bài này. Chính đây là đoạn đường mà người viết thời còn bé bỏng hay men theo con con đường này đi về tận bờ sông Vĩnh Định rồi phanh mấy vạt dưa quả của người làng An Tiêm trồng ven bờ để tìm ra năm ba con rế trong mùa hè nghỉ học. Thuở đó gờ đất này là một con bờ đất cao chia cánh đồng lúa ra hai. Thỉnh thoảng mới có một cái cống đất thông nước ruộng cho cánh đồng. Giờ đây đoạn đường phía khởi đầu con đường đã không còn. May thay phía cuối cùng là ruộng không ai giành đất xây dựng mới còn một ít dấu vết.
 
Có còn hơn không; cám ơn bạn đọc Kim Nguyễn một lần nữa,  đã hào sảng thời gian không ngại khó đi ra ruộng tìm và chụp cho một tấm hình minh chứng cho một dấu vết lịch sử của thành phố Quảng Trị năm xưa.


***
  Con Đường Ngự dài lắm! Nó chạy thẳng về tận bờ sông Vĩnh Định có làng An Tiêm. Như người viết đã trình bày, lúc sinh ra thì đã thấy nó rồi. Thời trước 1963, từ đường Lê v Duyệt đi ra khỏi nhà ông Lâm là gần hết nhà, hai bên toàn ruộng.  Hồi đó, mùa mới cấy lúa tôi hay cùng chị Dao con Ông Lâm ra bắt cua đồng tức con đam, ốc bưu (bươu) đi vài giờ là có cả gàu đầy. 


  Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều 'người lớn'. Nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên . Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có. TÔi không cầm dây nỗi,  người lớn mạnh mới cầm nỗi cho con diều lên cao hơn trăm mét. Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận ruộng Hạnh hoa dưới xa.Cậu Võ đình Cư tôi mang mấy ống sáo diều từ ngoài Gio Linh vào , những cái sáo này nghe cậu tôi kể lại do môt tay nghề làm sáo diều làm cho . Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật , hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo , hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn . Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo , thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi.


  TÔi  lại lan man nữa ! tiếp theo nhà của Hà thị bích Huờng là nhà ông Nguyễn tri Duyến. Ông Duyến là ông thân của chị Đoàn, chị Liễu và đúa em trai cùng một em gái nữa. Nhà chị Liễu có hai con chó trắng và đen làm tôi khi nào đi ngang cũng "ngán". Con chó đen nuôi sau to lớn hơn , sủa vang nhưng không "độc" bằng con chó trắng. Con chó trắng chờ tụi tôi đi ngang qua là im lặng chạy vụt ra không sủa tiếng nào để cho mình đề phòng mới đáng sợ. Phía bên tê đường , sau cái nhà ngói của Rô là nhà của chú Phan Hưu cũng cảnh sát như cậu Cư tôi. Đất nhà chú Hưu đang ở là cái hồ rộng quá đến sau nương của nhà bác Dô bên xóm kia. Phía bên kia hồ thì xe kéo của MACV từ trường NH về đổ rác. Phía cạnh hồ sát con đường Ngự này thì người ta lấy đất cày đổ thêm tạm làm cái nền cho nhà chú Hưu. Trước khi có nhà Chú, ngang đây có bụi tre càn không cao không rậm nhưng mỗi khi trời tối có việc đi sau xóm về nhà ngang đây tôi đều 'ngán' vì sợ "ma". Nhắc lại bụi tre này, tôi lại nhớ Mệ Thuần tức là mẹ của ông Thuần mệ mắc bệnh lẫn đêm đêm mệ cứ cầm cái đèn dầu lò mò đi ra tận bụi tre này. Thời này tôi và mấy đứa bạn cứ cho là mệ bị "ma nhập ". Trước kia tôi hay câu cặm ở cái hồ này. Những buị tre gần hồ chiều chiều có tiếng con chim chài màu xanh đậu chờ mồi. Đất đai phủ dần hồ thay vào đó là nền nhà chú Hưu Trong xóm chỉ có nhà chú Hưu là khổ nhất. Vợ chú sinh xong đứa trai cuối thì thím bị tâm thần. Cúc là con gái đầu , ngang tuổi tôi , thay mặt mẹ tảo tần phụ ba nuôi bầy em. Trưa hè, lúc lúc tôi lại nghe tiếng thím nói và la mắng những gì không hiểu nỗi. Tuy vậy thím không làm phiền ai , chỉ cái bệnh là nói những lòi độc thoại đầy vẻ bất mãn. Hai đứa trai đầu của chú Trung và Phùng hay bên phía bích Huờng mấy em trai- tôi xin lỗi- hồi này đặt cái tên là... "Chó Nậy... Chó Con". Nhà chú Chốn, thì có Cu Rô...thời này mấy đứa con nít hay có cái tên "cu ..." nằm đầu mới vui. Tỷ như em trai thằng Nguyễn v Bốn, bạn tôi có thằng "cu Đen" vậy ! gọi tục danh , tên "cu "
      -Ê mi đi mô rứa Cu...?

 Riết hồi tôi quên luôn cái tên thật của mình luôn? Tôi không biết sao trong xóm tôi lại nhiều "tên Cu " lắm vậy?

 Thành Cỗ còn đâu trơ vách đá
lối xưa ngơ ngác dọ lối về ?
 

  Trước hiên nhà ngoại tôi sau 1968 có một bàn ping pong khá lớn. Cho thuê giờ kiếm thêm "mắm muối". Khách trong xóm ngoài các bậc cha chú như chú Hưu ,đánh rất hay là đối thủ với cậu Cư tôi. Đa phần là khách con nít như mấy "thằng cu" tôi vừa kể trên . Giờ hỏi lại, chẳng hẳn mấy đứa em này...không quên cái bàn ping- pong đó.

Tên tôi thật may, ngoài cái chữ "sù sựa" do chú Trương Đá đặt cho tôi vào năm 1960, thoát cái nạn tên là "Cu Phúc" , tôi không biết vì sao nữa? Tại sao mà chú Trương Đá đặt tôi cái tên "sù sựa"? vào khoảng 1960 lúc mẹ tôi cho em gái tôi là Đinh thị Hiệp bú , chú Đá có tới nhà thăm cậu Hoa tôi và thấy Đinh thị Hiệp khoảng chưa đầy năm tuổi đang bị ngợp sữa. "cái chi rứa phúc ? " chú Đá hỏi . Tôi lúc nhỏ nói chớt nổi tiếng trong xóm vì hai cái răng cửa bị sún, trả lời lắp bắp , "dạ ...cái sù sựa" tức là sữa ! Từ đó chú Trương Đá đặt cái biệt danh này cho tôi. Suốt thòi kỳ "sún răng" này mấy thằg bạn như Trương SỪng, Trần Tài, nhất là Nguyễn văn BỐn(còn gọi là thằng Vạy) gọi riết tên tôi là "sù sựa " đến nỗi tụi nó quên mất tên tôi luôn. Sau tôi cũng quen, cứ cho là tên mình cũng chẳng sao.

Tiếp theo nhà chú Phan Hưu là nhà ông Phương có người con trai đi lính không quân . Anh hay lái nguyên bộ đồ bay ghé tạt thăm ông bà.  Ông Bà Phương có chị con gái đi nữ tu nhà dòng sau lại về.  Chị ấy trắng trẻo đẹp gái và quá hiền lành . Kế là nhà vườn mới của ông Thệ( sau khi bán nhà cũ cho nhà Huỳnh Rô, ông Thệ xây nhà mới ở lô đất mới này). Sân trước trồng mấy cây trứng gà , ông không bỏ thói quen quét cái sân đổ bằng đất cày ngoài ruộng gánh vô "láng xì cón " . Cũng là cái chỗi cán dài , bộ Bà Ba trắng, và cái dáng của ông. Tôi rất thân với nhà Ông, cứ ra nhà ông chơi. Sáng sáng là ông dậy sớm chế ly cà phê sữa rồi. Tôi còn nhớ như in ba ông - ông Thệ, ông Kinh cùng cậu Cư tôi sao mà mê "tài bàn " tức là tổ tôm đến thế.  Khi nhà này, mai nhà khác ... cái thú vui của ba người là tài bàn.  Có khi ba ông đánh cho đến sáng mới về. 

***
  Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có Đại Đội Vũ Trang Chiêu Hồi được thành lập. Lịch sử 
Trung Tâm  chiêu Hồi này phải trước 1967 chắc chắn có Mỹ trợ giúp. Do sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ hình như trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất khổ. Những mái nhà này nền thấp nên mỗi khi nước lụt về là tràn ngập gần nửa nhà.

 Năm 1967 là năm cổng Thành Cửa Hậu bị đánh để giải thoát tù chính trị . Phía 'bên kia' cũng giả dạng "chiêu hồi ", xong hay ra chơi phía quán truóc đường nhắm địa thế cổng thành và sau đêm đánh xong họ cũng "biến mất "? Hồi này tôi quen một anh lính chính quy người Hà Nội tên Sơn , đẹp trai , giọng Hà Nội rất hay. Sơn hay la cà từ ty Chiêu Hồi qua chơi nhà ngoại tôi , vào phòng học tôi ở mái sau.  Thấy tôi chăm học , Sơn rất thích. Anh còn mở bóp lấy tấm ảnh kỷ niệm một quán nuóc ơ Hà Nội trước ngày anh đi lính vô nam và sau đó "chiêu hồi". Sau khi cổng lao xá Cửa Hậu bị đánh (1967) , Sơn ,người bạn chiêu hồi mới quen cũng biến luôn? Hồi này còn có mấy anh CHiêu Hồi lính chính quy khác nữa mà tôi quên tên mất. Lính Mỹ có công nhiều trong việc xây dựng Trung tâm Chiêu hồi này . Xe chở đất liên tục ngày tháng để lấp đầy vạt ruộng rộng thì phải biết là bao nhiều thuớc khối đất chở từ xa về. Xe Mỹ chạy ra vô suốt ngày , đến nỗi tôi học được vài ba tiếng Anh cũng đề đầu đường vô, cạnh cái cột đèn dòng chữ trên tấm giấy carton "Children, slow down" , tôi không biết  thêm chữ please cho lịch sự như bây giờ .  Mấy ông Mỹ lái xe chở đất xong đi ra ngo ngó vào tấm bảng.

  Quân đội  Mỹ còn đem về đại đội Chiêu Hồi này ban nhạc hợp tấu giúp vui cho mấy anh VC. Bữa đó, cả xóm chạy ra nghe đội hòa nhạc Mỹ hòa tấu bản "ĐÊM ĐÔNG" nghe hay đáo để. Cậu Võ Hoa tôi lò dò lấy cái máy Cassette ra thu tiếng, làm như là phóng viên , tôi không nhớ có thu được không?

  Từ sau thời gian thành lập ty Chiêu Hồi là phong trào xây nhà ra xa hơn nữa, hai bên con Đường Ngự. Căn bản những người cố cựu trước đường ra "lập nghiệp" ngoài này như nhà ông Thê, nhà Ông Nguyễn v Ba tức là ông thân thằng bạn tôi Nguyễn văn Bốn. Nhà ông Lâm tức là võ sĩ Bách tùng Lâm , nhà chú Vân lái xe trácion QT- Huế ,,, còn thêm người dưới làng vì tình trạng chiến tranh lên đây lấn ruộng ở hai bên con đường thật nhiều. 

 chủ những chiếc xe chở khách hiệu RENAULT giống trong hình trong xóm tôi gồm nhà Chú Thanh, chú Chốn, Chú Ba, ông Khóa Thanh ...

Nhưng tôi phải nhắc đến nhà chú Xứng ỡ kế nhà ông Thệ . Nhà chú Xứng mới ở sau này. Có cái tôi nhớ là chú làm nghề cắt dép bằng lốp xe hơi mà đầu tiên trong đời tôi thấy. Chú làm nghể dép lốp này bán trên chợ Tỉnh . Tuy là cắt dép lốp , nhưng không có hình dáng dép lốp như bộ đội sau này, mà hình dép nó đẹp hơn, tuy cũng có những quai dép bằng ruột xe. Hết nhà chú Xứng làm nghề guốc dép mới tới nhà chú Nguyễn văn Ba tức là ba thằng Bốn bạn tôi , có nhắc trước ở phần trên . Chú Ba bán căn nhà 65 Lê văn Duyệt ngoài đường cho chú Huỳnh Chốn xong ra đây vừa có đất xây cái nhà ngói "to đùng" vừa có chỗ đậu xe và còn dư đất xây thêm nhà trên nữa. Đất đai tại sao mà rẻ? Thời này có phong trào di dân lập nghiệp trong Long Khánh. KHông phải di dân lập ấp 1973 đâu , thưa bạn đọc. Phong trào này có từ lâu. Nhà cậu tôi cũng treo bảng bán , may mà không ai mua. Nhưng cũng vì lưu luyến nên chần chừ. Do đó vì phong trào vô nam này mà đất ngoài ruộng này rẻ như bèo. THời buổi chiến tranh ai ở càng gần đường phố thì cái bụng lai yên tâm hơn. Kế cái "gia trang " của thằng Bốn là nhà của ông Lâm , thấn sinh chú Tùng ,tức là võ sĩ Bách Tùng Lâm như tôi vừa nói đoạn trên. Ông Lâm bán nhà cạnh nhà cậu tôi cho ba mẹ Hà thị Bích Huờng xong thì ra đồng. Cũng nhà gỗ nhà tranh và làm ruộng thôi. Nhà ông Lâm hay gọi cho đúng là nhà chú Tùng(làm trưởng nhóm lính gì của Mỹ gọi là xi ti gì đó?)có cái đụn rơm và mấy cây mít , um tùm cái ao rau muống. 

 chú Vân tài xế lái thuê xe tac xi  chạy Huế Quảng trị ,xe này chở 12 người khách là chật cứng



Ngó qua đường Ngự là nhà chú Vân ba của Nguyễn thị Ba , Nguyễn thị Bốn , có một "thằng Cu " nữa hay em trai mà tôi hay gọi là Cu Vân. Giấy tờ là Quyền nhưng tôi có khi nào nghe đâu, cứ con trai là "cu" xong lắp thêm tên cha là "yên chuyện". Cái lối gọi này như một cái "luật bất thành văn " tự nhiên cho tất cả bà con trong thôn xóm. Chú Vân lái xe tắc xi thuê cho chủ , nghèo hơn . Đi về là chú không quên ghé quán mạ tôi đầu đường NGự uống một hai cốc rượu thuốc mới vô nhà. Chú làm tài xế cho người ta nên nghèo. Cái nền nhà xây xong , chỉ trơ mấy hàng táp lô năm này qua năm khác. Cũng phía này kế nhà chú là dảy trường ấp tân sinh khá dài gồm mấy lớp. QUa lại bên này đường là nhà chú Thí em rễ Chú BA. Lạ là bà nội của thằng Bốn tức mẹ của chú Ba lại thích ở với o Gái vợ chú Thí thôi. Chú Thí cũng là tài xế lái thuê nên nghèo hơn nhiều. Sát nhà chú Thí là nhà chú Ngụng làm lính trong thành. Nhà chú cũng lên ngụ cư sau này. Tôi nhớ chú Ngụng là nhớ chiếc xe Dodge Cartge khi nào chú về nhà cũng kéo một cái xe rơ -móc (remorque) đầy nước về cho nhà xài , khỏi gánh. Nhà chú Ngụng ở đằng trước , phía sau là một cái xóm  dưới các làng mới lên đây tạm cư,  người ở chen chúc.  Vì chiến tranh mà họ tạm cư lên đây. Ruộng vườn bỏ lại dưới làng , ăn theo đồng lương "lính tráng" chắc là khó khăn nhiều.  Phía cạnh xóm này là bãi tha ma lâu đời tiếp giáp với hai thôn CỔ Thành và Hạnh Hoa. Hồi này có làng Cổ Thành gần Trí Bưu và Hạnh Hoa còn Thành Cổ người ta còn gọi là Thành chứ không phải Cổ Thành như bây giờ hay gọi. Ví dụ ngày đó người dân hay nói ...lính trong Thành , có pháo kích trong Thành , khu gia binh trong Thành , Tiểu Khu sau này đóng trong Thành...

   Ra lại con đường Ngự, tiếp tuc bên phải là cái vườn ông bà Tám. Cái vườn rất rộng của bác Tám tức là ông bà thân của chị nguyễn thị Hoa , Nguyễn v Lành , Nguyễn thị Thêm (Quỳnh Ni sau này). Nhà bác Tám tôi nhớ mang máng lúc trước bán tiệm tạp hóa duói Góc Bầu gần tiệm Bác Kỳ . Tiệm bà Kỳ sát bên nhà chú Tịnh( sau này bút danh là Trịnh duy Nhượng ), bạn cậu Võ Hoa( sau này bút danh là Trần giã Viên . Sau này bác Támcũng theo phong trào "di dân" ra con đường Ngự này "khai hoang lập ấp ". Cái vườn cuối cùng trước khi chạy 1972 mới đáng nói vì bác Tám ông đã tạo dựng một vườn ổi xá lị rộng mênh mông, trước cửa ngõ là cái quán bán lẻ cho xóm kiếm thêm lợi tức trong nhà.

  Đối với vườn bác Tám là xóm nhà ngụ cư cuối cùng cả chục gia đình từ duói làng lên vì chiến tranh lên tỉnh. Là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được cho đến cái mút thời gian 1972
Con đường NGỰ CÒN DÀI lắm , nó phải chạy ra xa nửa gần giáp với bờ sông Vĩnh Định giáp với thôn An Tiêm. Một thời tuổi nhỏ tôi có những "chuyền phiêu lưu" đi theo con đường đất rộng cao như con đê này về các vườn dưa gần An Tiêm kiếm rế . Tôi không quên được những cây mắm xôi , những bụi chứa dại và mấy con châu chấu voi to lớn. Hai bên là cánh ruộng loáng nước mùa cấy , cho đến lúc nước lụt với cảnh nước đục ngầu mêng mông , hay mùa khô cánh đồng trơ gốc rạ...

Tuổi dại lớn lên bên con ĐƯỜNG NGỰ cùng tình bà con làng xóm , tôi cứ nhớ mãi suốt đời. 

                                                      bông cỏ hôi
  Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên  những khóm hoa ngũ sắc, mấy bụi mâm xôi, bụi dứa dại, cây lá ngái mọc dại  bên đường;  lạ thật, qua xứ người, mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot  năng nhắc tôi nhớ về '
đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...


bông ngũ sắc

Rồi tất cả cùng chung số phận, cái tên đường Lê văn Duyệt  cùng thành phố đó mất rồi . Cũng như con ĐƯỜNG NGỰ, nó theo nhau về miền dĩ vãng. Nỗi cảm hoài u uẩn cho những gì thuộc chuyện xưa tích cũ đến khi viết lại cho thế hệ mai sau là góp nhặt cát đá dựng xây lại hình ảnh xa xưa giờ đã mất.


 

Đinh hoa Lư 17/3/2014
 

Sunday, July 31, 2022

NHỚ CÁI GIẾNG KHÔ NƯỚC NHỚ NHÀ ANH NGUYỄN LAM

 



Anh Nguyễn Lam
(CHS NH 1955-1962)

Cái giếng trước con kiệt vô nhà ôông Đội Lạp tiếng thì có giếng đó nhưng cứ cạn queo, nước chẳng bao giờ có. Chỉ mừng cho dân trong xóm khi không có nước thì đi móc gàu người khác bỏ lại cũng khỏi lỗ công đi vét nước.
 
Tui nhắc cái giếng để nhớ nhà anh Báu con trai mệ Báu chuyên đi gánh nước cho mẹ già. Trong xóm không ai gánh giỏi hơn anh Báu. Nước phải về tận thôn Hạnh Hoa mới có. Lại là nước uống mới quý làm sao. Cứ thấy anh sáng sáng chiều chiều là gánh nước về cho mạ. Hai cái thùng dầu hỏa cũ, vuông, mấy lá chuối thả trên mặt thùng cho nước khỏi chao, anh gánh một mạch từ cái giếng nước uống đầu thôn Hạnh hoa về tận xóm nhà ôông Đội Lạp. Khoảng đường khá xa nhưng hai chân anh chạy nhịp nhàng dẻo queo, thấy mà thèm cái sức và đôi vai chịu khó của anh Báu và nhất là anh quả là NGƯỜI CON CHÍ HIẾU
 
Cái giếng này ngó qua là nhà Anh Nguyễn Lam. Nhà anh Lam sát cạnh Khuôn Hội Đệ Tứ, ngó ra đường Lê văn Duyệt. Thằng Lợi em trai út của anh Lam học với tui lên tận lớp Đệ Tứ.
Tui hay tới nhà anh Lam để mua bánh ướt. Lúc này tui là đứa con nít, mạ cho hai đồng là tới nhà anh để mua. Chị Nghệ em gái anh Lam đổ bánh ướt nhà dưới. Ngồi chổm hổm bên chị Nghệ chờ chị cuốn cho đủ HAI tì bánh ướt gói trong lá chuối, cộng thêm chút nước mắm nấu trong cái chén mang theo. Một thời chưa có kỹ nghệ nylon như sau này. Lá chuối làm chuẩn; mọi thứ đều gói lá chuối.
 
Anh Lam thời nay đã đi làm; anh là anh trưởng trong nhà. Anh còn có hai đứa em trai là anh Thảnh và em trai út là thằng Lợi, bạn tui. Tội nghiệp thằng Lợi chỉ học xong lớp đệ tứ, hắn đi lính và sau đó mất sớm. Tui biệt tin thằng Lợi trước năm 1972 sau hỏi mới biết...
 
Tui nhớ cái nhà anh Lam, cái nhà xưa thời kiểu thời trước còn lại. Cái chái dọc phía bên làm nhà bếp và làm bánh ướt. Xóm tui nhiều nghề, nhiều nhất là bánh ướt, đổ bún, hàng ăn, đậu hũ ...kể không hết. Chiều chiều có hai đồng mạ cho tiền ăn hàng không lên nhà anh Lam mua bánh ướt thì tới mụ Đạo hay mấy o nhà xóm trước mặt hồ đối diện xóm Trần Tài mua bún. Bún hay bánh ướt gì cũng mua tận bếp nên nóng hổi. Chủ lò cho chút nước mắm nấu sẵn thế là le te chạy về ...
 
Kể chuyện xóm anh Nguyễn Lam để nhớ con đường kiệt vào sâu phía trong là nhà anh Ngô Tùng và Ngô Dũng tức là anh con Sáu bạn học ngang lớp tụi tui. Một thời tui hay lên tận xóm này chơi đá lon và hô la manh với con sáu thằng Lợi còn anh Dũng anh Tùng thì còn lo học bài dưới ngọn đèn đường đâu thèm chơi với lũ con nít tụi tui ...
 
Từng con đường kiệt từ đường Lê v Duyệt vào sâu trong xóm. Tất cả đều đâm ra cánh đồng ruộng Cổ Thành, Hạnh Hoa...đồng ruộng lan rộng đến xóm Tiêu xóm Đồng về xa hơn nữa sẽ gặp làng An Tiêm...
 
Nói sao hết những hình ảnh thân thương của đường xưa lối cũ. Trong đó có những bậc tiền bối những lớp đàn anh nay lần lượt đã chia tay làm người THIÊN CỔ
 
Từ đại tá Nguyễn Bé, Trung Tá Ống Viết Lạc, thiếu tá Hùng Móm, cho đến các thiếu tá Thuận, Thiếu tá Quang, Thiếu Tá Thương (em O Gái bán chè tươi) Thiếu tá Trương Đá... Đại Úy Ngô Tùng cho đến Thiếu tá Khanh, con ông Cai Ngữ, đại úy Liệu  và còn nhiều nữa... cho đến các cậu tui Phương, Ba, Cư,  Bình, Hoa đều đã ra đi và nay đến anh Nguyễn Lam bậc đàn anh lão làng bao nhiêu năm đi theo bà con Quảng Trị vào phương nam quê hương mới của bà con Quảng Trị tận xứ Tân Hà, Bình Tuy và nay Anh cũng chia tay ra đi để về với lớp lớp tiền nhân  của PHƯỜNG ĐỆ TỨ  thân yêu muôn thuở.
 
Người viết mường tượng trong chốn siêu hình nào đó, các bậc đàn anh quê hương năm cũ đang nắm tay nhau về thăm nơi chôn nhau cắt rốn:
CÁI CỔNG THÀNH CỬA HẬU UY NGHI MUÔN THUỞ, CON ĐƯỜNG LÊ VĂN DUYỆT THÂN YÊU SỐNG LẠI TRONG CÕI VÔ HÌNH... RỒI ĐOẠN ĐƯỜNG QUA CHÙA TỈNH HỘI, QUA ĐẬP RÌ RÌ BÊN DÒNG THẠCH HÃN THÂN YÊU NƯỚC LẶNG LỜ TRÔI, TRONG HỒI CHUÔNG CHÙA TỈNH HỘI NGÂN NGA, TRONG MỘT CÕI THINH KHÔNG SIÊU THỰC ...
 
Từ phương xa, tui xin thắp lên một NÉN HƯƠNG LÒNG ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN ANH NGUYỄN LAM NGƯỜI PHƯỜNG ĐỆ TỨ NĂM XƯA
 
Đinh Hoa Lư
 

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...