Wednesday, July 27, 2022

CÂU CHUYỆN CỦA MỘT CUỐN TỪ ĐIỂN




Tự điển Pháp Việt phổ thông (Dictionnaire Général Francais Vietnamien) Nhà sách Vĩnh Bảo S. 1949


Đại gia đình bên ngoại tôi tản cư từ Quảng Trị vào đến Đà Nẵng xong vào Bình Tuy theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp 1973, vốn văn hóa mang theo là cuốn từ điển Pháp Văn của soạn giả Đào Văn Tập.

Cuốn Từ Điển này phát hành vào năm 1949. Phía gáy sách còn đề ba chữ lớn VÕ TỰ PHƯƠNG đó là tên của cậu tôi, ghi nhớ một thời đi học trước khi giã từ đời học sinh biền biệt vào nam.

HÌNH 1959 (?) chụp tại ảnh quán LIDO QT: (lúc cậu tôi AET Võ tự Phương mới ra trường SQ Thủ Đức về thăm QT)
6 anh em xuất thân từ Phường Đệ Tứ Thị Xã Quảng Trị: 127 đường Lê Văn Duyệt cũ-
trái sang hàng trên: Võ tự Phương, Võ tự Bé , Võ đình Cư
trái sang hàng dưới: Võ Bình, Võ Ba, Võ Hoa 


Cậu Phương tôi vào nam trước là đi Thiếu Sinh Quân (AET) và sau khi ra trường, người cậu đương nhiên đăng vào trường Sĩ quan trừ bị. Cậu tôi sau khi ra trường Thủ Đức lại vào quân chủng Thủy Quân Lục Chiến. Tôi còn nhớ khoảng năm 1959 lúc ra trường Thủ Đức, cậu tôi có ra quê Quảng Trị. Mấy người cậu  chụp chung một tấm hình tại Lido Ảnh Quán trên phố Quảng Trị:  Các cậu Cư, Bé, Phương, Hoa, Ba, Bình và tấm hình này có treo trong nhà ngoài QT. May thay sau này trong nam vẫn còn lưu lại được một tấm.



Cho đến lúc Cậu lấy vợ trong nam thì Mệ Ngoại, Các cậu và Dì Liễu có vào Sài Gòn  làm đám cưới tại Nhà Hàng Mỹ Cảnh. Từ ngoài trung vào tận Sài Gòn vào thời đó là cả một quá trình và tốn kém cho ngoại. Lúc này dì Liễu chưa buôn bán lớn như sau năm 1968 mà hoàn cảnh gia đình ngoại lúc đó mới sau 1960. Các cậu đều còn học sinh, cho đến sau này cậu Ba cậu Bình nối tiếp cậu Phương đi vào Thiếu sinh quân như anh mình. 

trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu

Cho đến một ngày của cuộc chiến VN, bên sông Vàm Cỏ một ngày của năm 1970 cậu Phương hi sinh vì nước. Bên kia sông đơn vị Biệt Động Quân có người and trai tức là cậu Võ tự Bé đóng quân mà không hay em trai mình đã đền nợ nước.  


cậu Võ tự Bé (ngồi) tháng 7 năm 2022 tại Fremont California những ngày già yếu


Những ngày già cả ở xứ người tức là Hoa Kỳ cậu Bé thường buồn rầu kể lại như thế. Đám cậu P. được đưa về QT; quan tài cậu có xe Tiểu Khu QT hộ tống về chỉ viếng ngang cửa ngõ nhà Ngoại mà thôi và đưa ngay qua chùa Sắc Tứ để an táng. Gần một tuần lễ sau ngày Cậu tạ thế, Cậu P mới về lại quê hương và an táng tại chùa Sắc Tứ. Nơi này có mẹ già tu hành gửi thân nơi cảnh phật và có mộ phần của em trai Võ Ba cũng như cháu chắt và người thân khác sau này...Nhớ làm sao khi nghe tin Cậu tử trận, tôi vội lái xe chiếc xe honda qua ngay chùa Sắc Tứ báo tin và chở Mệ ngoại về nhà. Mệ vừa ngồi sau yên chiếc honda, tôi vừa lái qua lại thành phố QT cùng nghe tiếng khóc rấm rức của Mệ sau lưng, tiếng khóc nho nhỏ thoang thoảng theo làn gió vút 

-Con ...con ơi!  


bà ngoại trong ngày đám tang cậu Võ Ba tôi hi sinh vì nước vào năm 1969

Có thể bà Ngoại đau xót lắm; do cậu P là người cậu từ biệt quê hương sớm nhất và cậu đi biền biệt ít khi về QT. Chỉ lần cậu ra trường 1959 và một lần vào năm 1969 khi cậu Võ Ba Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 hi sinh tử trận tại Gio Linh mà thôi. Đám cậu Ba xong, cậu P  tôi vào lại nam và 1 năm sau cũng đền nợ nước.

Tôi là đứa cháu sinh ra và lớn lên từ bên ngoại nên những kỷ niệm của nhà ngoại tôi đều nằm lòng. Các cậu tôi thường truyền tay cho nhau, anh học xong trao cho em. Trong nhà cha mất sớm, các cậu lần lượt theo bước chiến chinh khoác quần áo trận như bao lớp trai thời loạn. Những cuốn sách đầy hình ảnh kỷ niệm trong nhà ngoại tôi đều nhớ; từ cuốn L’Anglais Vivant cho đến từ điển Anh Văn bỏ túi của Lê Bá Công tôi đều nhớ. Cái nhớ sâu đậm nhất dưới mái nhà ngoại là sách vở một thời thiếu thốn, vài cuốn sách truyền thừa hay chuyền tay nhau từ đời cậu đến cháu.

Nhà ngoại tôi Chỉ có cuốn Từ Điển Đào Văn Tập này là dày và giá trị nhất. Tôi không biết sao lúc chạy giặc 1972 lại đem theo được? Có thể Cậu khi vào tận phương nam lập thân, để lại cuốn từ điển Pháp Văn xuất bản từ năm 1949 là cuốn sách duy nhất theo bước chân nhà ngoại có thể là theo tôi đưa cháu ngoại chăm học nhất nhà vào đến trong nam.

tết 1993, dưới mái nhà tranh xã Sơn Mỹ Hàm tân, nền đất mối mọt nhiều nên cuốn sách Pháp Văn kỷ niệm này bị mối bò lên làm hư đục thủng một số trang sách 


Sau 1975, với đời nông dân nương rẫy suốt mười lăm năm tại đất Hàm Tân Bình Tuy, thỉnh thoảng lúc rảnh tôi thường tham khảo vài từ Pháp. Nhờ nó cho đến nay tôi còn nhớ vài thành ngữ mà người Việt Nam hay dùng nhưng lại phát xuất từ Pháp văn. 

Ba năm về lại địa phương, chưa lập gia đình, ở với cha mẹ cùng hai đứa em trai, tôi chăm nom sửa nhà, cuốc đất trồng khoai. Tu nhiên năm thì mười họa tôi cũng dỡ cuốn từ điển của người cậu năm xưa để nhớ về một thời học sinh ngoài quê cũ. Nhìn lên cái sạp hẹp, cao cao đan bằng phên tre, chỉ có cuốn từ điển Pháp Việt đó là giá trị nhất. Dưới mái tranh nghèo, cuốn sách được đặt một nơi cao ráo và nhất là tránh được mưa san cùng mối mọt. Một thời sau 1975 học ngoại ngữ là vấn đế ‘quốc cấm’ chứ đâu phải như thời bây giờ. Chuyện kể thế hệ sau không ai tin, sau 1975 sách vở Anh văn đều bị đốt  hay tịch thu may thay có thể cuốn từ điển dày này tiếng Pháp nên số nó còn tồn tại, và chờ tôi cho đến lúc tù cải tạo về. Cạnh nhà có hai vợ chồng già người An Cư, ông mệ Phục là gia đình gần gũi và thân với ba mẹ tôi nhất. Bác Phục gái là cháu nội của Cụ Nguyễn văn Tường vị quan lớn dưới thời nhà Nguyễn. Bác Phục trai là ông già trong thôn, bác rất khó tính nhưng lại thân với ba tôi và nhất là đối với tôi người con trai lớn của gia đình vừa tù cải tạo về. Giọng nói của Bác  rất nhanh, khó nghe cho kịp. Thế mà lạ bác Phục có lúc lại nói chuyện với tôi, ngày tôi mới tù về.  Con trai lớn của bác là anh Hưng còn tù cải tạo ở đâu xa chưa về. Anh là sĩ quan- hải quân trung úy, ra trường thủ khoa. Tôi về với gia đình vào năm 1980 còn anh Hưng khoảng hai hay ba năm sau mới về sum họp với gia đình.  Tưởng cũng nhắc lại một chút về anh Hưng. Mẹ của anh là cháu nội của ông Quận Công Nguyễn văn Tường. Nhà bác cạnh nhà ba mẹ người viết. Hàng ngày vừa nách cái rỗ rau ra chợ hay những lúc bác làm nương hay qua nhà mẹ tôi, hai bà hay nói chuyện qua lại tôi nghe loáng thoáng một ít. Năm 2017 về thăm quê nhà, người viết còn gặp lại anh Hưng người thủ khoa hải quân VNCH nhưng anh chẳng hề muốn làm hồ sơ đi Mỹ. Gặp lại tôi anh vui vẻ lắm. Hai bác mất rồi, anh yên lặng sống với gia đình xóm cũ. Căn nhà bên cây sanh trong xóm, cái miếu xóm vẫn bình lặng yên bình. Vợ anh chẳng ai xa lạ, Lê thị Trúc người bạn Nguyễn Hoàng cùng lớp Đệ Tứ 3 năm xưa với người viết...

Chuyện bác Phục ông, có một chút gì đó liên quan với cuốn từ điển của Cậu tôi kể ở phần trên. Số là Bác Phục là người trí thức, tuổi già ông chỉ làm bạn với đọc báo hay những cuốn sách xưa tiếng ngoại. Mỗi khi đi ngang nhà bác, tôi vẫn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ ngồi ở căn giữa chăm chú trên cuốn sách nào đó trên cái bàn thấp.  Có một hôm trời đã xế chiều bác chống gậy đi qua nhà tôi. Bác qua nhà  tôi là chuyện lạ. Bác chỉ ngồi đọc sách trong nhà chứ hiếm khi đi đâu. Lay hoay quanh nhà hay ra chợ sau vườn con heo con gà…đều một tay bác gái trông coi hết. Tôi cũng ngạc nhiên khi bác hỏi mượn cuốn từ điển Pháp Việt này để tra từ. Tôi thắc mắc trong lòng, ủa sao bác biết tôi có cuốn từ điển này thế. Tôi lật đật lấy cuốn sách trao cho bác. Hình ảnh bác Phục rung rung hàm râu, lật từng trang tại trước cửa nhà tôi. Bác không mượn về do bác không hiểu một từ nào đó khi đang đọc sách…




Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh bác Phục gật gù gật gù …


-Đúng ừ ừ…đội mũ rơm đội mũ rơm…

Có thể  bác đã tra nghĩa cái từ khó trong sách Pháp bên nhà là động từ “ĐỘI MŨ RƠM” thì phải. Tôi cũng chẳng để ý trang nào từ nào, bác tra nghĩa xong, mượn cuốn sách vài ba ngày rồi trả. Cả xóm, đào đâu ra cuốn từ điển, cái thời sắn khoai thay gạo, rẫy rừng mù mịt thế kia? Ngày xưa nghe đâu thời Pháp bác là công chức nghành Bưu Điện Đông Dương; đó là lời bác gái nói với nhà tôi vậy. Bác chỉ thân với ba tôi. Ba tôi đi đâu xa, ra thăm con cái ngoài Cam Ranh chẳng hạn, qua bác mượn cái mũ nỉ. Cái mũ nỉ của Đức làm gì có cái thứ hai trong xóm Cam Bình thời đó. Tết Giáp Tý 1984, Con gái bác, chị Liên từ Tây Đức về thăm nhà nơi vùng quê này, đi đâu thì đi ngày tết cũng qua chụp cho vợ chồng tôi cùng đứa con trai đầu lòng một tấm hình màu làm kỷ niệm. Một thời hình màu là của hiếm, chỉ có nước ngoài về mới có.

Lập gia đình xong, sau 1984 có con trai đầu lòng tôi lên xã Sơn Mỹ ở với vợ con cạnh vách tường loang đổ của mái trường quê. Làm một căn nhà tranh giữa lô đất của Trường tôi cũng trịnh trọng đặt cuốn Từ Điển Pháp Việt có tên Võ tự Phương bên gáy sách ở ngăn sách giữa nhà. Tôi quý cuốn Sách đó thật. Nó quả có nhiều từ ngữ phong phú kể cả thành ngữ điển tích, cụ Đào Văn Tập đều giải thích biên soạn rốt ráo. Rồi đến một ngày, quá bận rẫy nương, cuốn sách cứ nằm yên vậy và một tai họa âm thầm đến cho Sách. Mái tranh vách đất là nơi của mối. Bầy mối từ dưới đất đã âm thâm men theo vách lá tiến lên ăn và đục thủng giá sách của tôi. Bầy mối đã tiến sâu vào giữa lòng cuốn từ điển Pháp Việt đục thủng và mất chữ môt số trang.

Cho đến ngày đi Hoa Kỳ, tháng  năm 1995 tôi trịnh trọng tặng cuốn từ điển này cho vị bác sĩ dưới vùng ba mạ và gia đình tôi ở. Bác sĩ Hà Anh, thời trung học là bạn học với em trai tôi Đinh trọng Thịnh. Tôi tặng cuốn sách cho BS Hà Anh với lời ân cần rằng có lúc cần tra cứu vài toa thuốc ngoại chữ Pháp và nó là cuốn từ điển kỷ niệm của gia đình tôi, của các cậu tôi và trong đó có tên một người cậu tên Võ tự Phương đã hi sinh vì nước.

Cho đến năm 2017 khi về lại VN thăm gia đình, hỏi lại cuốn sách kỷ niệm này thì gia đình người bác sĩ này bảo rằng do thay đổi chỗ ở nhiều lần này cuốn sách đó không còn nữa. Thời gian xa cách đã lâu, qua mấy chục năm trời, tôi không trách gì cả. Nghĩ cho cùng,  cuốn sách đó đâu phải là kỷ niệm gì của họ. Chỉ có kỷ niệm của mình thì mình mới quý thôi.

Cuốn sách, cuốn từ điển xa xưa xuất bản thập niên 1940 nay đã theo cát bụi thời gian. Chính soạn giả Đào văn Tập, các cậu tôi tất cả nay đã không còn. Chỉ còn trong trí nhớ, tôi mường tượng cuốn sách cũ dày, bìa cứng màu đỏ tía; ngoài ra tôi chỉ còn nhớ được mang máng một vài thành ngữ Pháp Việt nhưng chữ còn, chữ mất./.


San Jose  25/7/2022

cháu ngoại ĐHL


CÀNH HOA BẰNG LĂNG CÒN LẠI

 



ký ức

***

Những đóm lửa cuối cùng của một ngày dọn rẫy của tôi còn leo lét cháy.  Mặt trời từ từ lặn dần sau ngọn Núi Bể và rặng Mây Tào phía tây. Tôi vội vàng gom cuốc, rựa cùng rìu ra về.  Chẳng khi nào tôi quên cái cái bon nhựa bới nước, đồ dùng bới cơm hàng ngày, vài ba thứ trong cái chòi nho nhỏ. Giờ tôi mới kéo chiếc xe đạp thồ từ trong lùm cây rậm ra. Chiếc xe thồ này khá đa dụng- đi lại, vào rừng, thồ củi... Mùa này, nó là phương tiện giúp tôi đạp vào rừng.

Trước khi rời rẫy, tôi chẳng bao giờ quên cột những thứ lặt vặt thật kỹ vào cái "bót ba ga". 

CHIẾC XE ĐẠP THỒ





 
đốt rẫy làm nương

   





Chiếc xe thồ quả là một "gia tài" cho những người lao động, nghèo,  nhất là những ai "đầu tắt mặt tối"  sống nhờ vào rẫy- rừng. Tránh cho xe khỏi bị cây đâm lủng lốp, tôi phải dắt nó đi qua mấy đám rẫy bạn trong làng. Mấy đám rẫy chưa đốt dọn hết còn nham nhở, lởm chởm, quá nhiều gốc nhỏ, nhọn hoắc, chẳng khác chi hàng ngàn "mũi chông" đen đúa chỉa mũi lên trời. Vài ánh lửa còn leo lét cháy, còn bốc những làn khói yếu ớt cuối cùng. Bạn làm rẫy về trước tôi khá lâu. Quanh tôi giờ đó quả  thật quá vắng lặng. Lũ chim rừng trốn đâu hết; không còn ồn ào huyên náo như buổi sáng mai. Vừa đi, tôi vừa hú gọi xem còn ai về cùng, nhưng chẳng còn ai.


 Tôi dắt xe thêm một đoạn thì vừa tới Khe Lớn. Dong suối đó chảy về Xã TÂN THẮNG,  qua Cầu Kiều, trước khi đổ ra vịnh Hàm Tân. 

    Năm đó ít có nạn "rẫy luộc". Rẫy luộc là một khổ nạn hay nói đúng ra là cơn 'ác mộng' cho người làm rẫy. Rẫy bị cháy bất ngờ khi cây còn nhôn nhốt, chưa khô hẳn. Hậu quả gây cho người làm rừng phải bỏ công sức ra gấp mấy lần để  đốt dọn lại cho xong đám rừng cháy dang dở. Cả một đám đất rừng còn nhiều cây cành lỏng chỏng trơ vó lên trời như 'oán như than' nhưng "bỏ thì thương vương thì tội" biết bao nhiêu sức lực phát rừng, chặt gốc mới có đám đất này. Đã tốn công dọn lại nhiều lần, lại thêm phại chịu thêm một điều đáng buồn.  Rẫy đã "LUỘC"  thì không cháy hết- cháy không hết thì ít mun tro. Hậu quả quá ít mun tro thì đất tuy mới nhưng không tốt bằng rẫy người ta. Một ký ức cay đắng khi tôi gặp khổ nạn 'rẫy luộc' một lần. Cái rẫy đó đã 'hành' tôi "mất ăn, bỏ ngủ" làm mãi chẳng xong.  Đốt dọn nhọc công gấp ba lần, nhưng thu hoạch chẳng đáng bao nhiêu. Rõ ràng hao công tốn sức.
 
***



  Tôi đã tới Khe Lớn.  Bên kia khe, có đường rộng hơn. Qua bên đó, tôi sẽ thong dong đạp chiếc xe thồ về nhà. Giờ đây, mấy đám rẫy vừa dọn đốt gần xong nằm lại sau lưng, chờ qua một đêm thanh vắng để ngày mai vang dội tiếng rìu rựa. Một cánh rừng, non nửa năm trước còn rậm rịt, nay chỉ còn những khoảng trống, toang hoác, khó coi?

Bạn làm rẫy thực sự về trước tôi lúc nào? Tôi tiếp tục nhìn quanh xem còn ai, nhưng chỉ còn lại một không gian vắng vẻ, rờn rợn. Những liếp rừng dày đặc phía xa sau lưng tôi, giờ đen xẩm lại.  Những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tàn còn thoi thóp hắt lên vài tầng mây lảng đảng cuối trời.  Mấy cánh rừng phía xa đó, chúng đang chờ đợi cho mùa rẫy sang năm. Một vùng đất  hẹp núi lấn sát biển của Hàm Tân  nơi người  Quảng Trị sinh sống, đang tìm mọi cách mưu sinh qua ngày. Người dân làm tất cả mọi cách, từ đốt rẫy, làm than, cưa cây đẳn gỗ, hay ra khơi làm cá. Mọi công việc nặng nhọc chỉ lo thỏa mãn cho sự đòi hỏi của 'cái ăn' trước mắt.  "Miệng ăn núi lở", thực tế trước mắt tôi sao quá rõ ràng, hậu quả của chuyện "phá rừng tầm thực" - quanh năm suốt tháng "quần thô áo vải",  lưng đẫm mồ hôi nhưng nghèo đói lại hoàn đói nghèo?



    








Mùa khô nước cạn, tôi chỉ cần lội qua con suối. Dựa chiếc xe thồ bên bờ suối,  tôi xuống khe mài lại rìu rựa cho đỡ thì giờ sáng mai. Tảng đá mài thiên nhiên này người dân làng kể cả tôi hàng ngày đi qua khe dùng mài dụng cụ nên nó càng lúc càng nhẳn thín. Nơi này cũng là "trạm nghỉ chân " cho dân làm rẫy. Thuờng là những khi vác gỗ trong rừng ra, hay cho những toán thợ rừng ngồi chờ nhau tại đây.

 Trời còn đủ sáng  cho tôi vừa mài rựa vừa ngắm giòng nước trong vắt chảy qua làm chân tôi mát lạnh. Vài chiếc lá khô đang trôi theo dòng nước. những chiếc lá này sẽ vĩnh viễn xa rừng trôi mãi về duói kia, một vùng đất lạ lẫm, có người, và cuối cùng có sóng biển vỗ mãi ngàn năm. Chúng sẽ đi mãi về dưới kia đi qua vài ba thôn mới , mang tên Đội 1, Đội 2... dân làng sẽ sống nhờ  rừng.  Những chiếc lá khô này sẽ ngang qua  Cầu Kiều trước khi thăm biển và mãi mãi ra đi không còn về lại cánh rừng đã mất. 

 Vừa mài rựa  tôi vừa suy nghĩ mông lung.  Hình ảnh những ngày phát dọn, bao âm thanh 'chan chát' từ những nhát rìu- tiếng 'răng rắc' chuyển mình từ những thân cây sắp đổ-  tiếng thở phào nhẹ nhỏm khi cây đổ theo ý mình. Tiếp đến những ngày đốt dọn, mặt mày tôi lem luốc, sức nóng hừng hực của lửa và bụi tro. Làm sao tôi quên những phút giây thoải mái giải lao trong cái chòi nhỏ. Điếu thuốc rê 'to tướng' vấn trong tay, xong  phì phèo nhả khói, tôi lặng ngồi ngắm về biển Hàm Tân một màu xanh biếc...



  
Chợt mắt tôi dừng lại khi bắt gặp một nhành hoa tim tím  lấp ló bên  lùm cây dưới con khe.

       - Ồ  Hoa bằng lăng!

 Từ nhánh chồi của một gốc bằng lăng bị đốn từ lâu, chùm hoa bằng lăng hiếm hoi của môt cánh rừng đang bị đốt phá gần hết, như e ấp nép mình bên những lùm cây dại và dây leo vướng mắc xung quanh . Chùm hoa lẻ loi này như muốn khoe màu hồng tím 'nhàn nhạt' bên con suối lặng lờ trôi,  bên những khoảng tối do những lùm cây sót lại bên bờ khe.  Một cánh rừng trong cơn "hấp hối" - trống trải từng ngày cùng bao lùm cây còn lùm cây dại, bao khúc gỗ mục gãy đổ nằm vắt vẻo đó đây. Tôi từng đốn hạ bao cây bằng lằng nhưng chưa bao giờ gặp mùa hoa bằng lăng nở. Cho đến khi đốt cây xong rồi thì tôi chẳng biết sắc hoa bằng lăng đẹp đẽ ra sao. Tôi chưa được phút sung sướng, tận mắt chứng kiến màu tím bàng bạc hồng của loài hoa này. Chùm hoa bằng lăng đơn độc hôm đó, đã ban cho tôi một cảm giác thích thú, có thể tạm gọi là "chiêm ngưỡng" bên dòng suối vắng trong một buổi chiều tàn.




   Nhánh hoa 'đơn côi' nép mình bên dòng khe vắngnhư muốn vươn mình lên khoảng trời cao để tìm về với rừng  xanh, muôn ngàn cây cao vòi vọi. Nó chỉ nứt mầm từ một gốc bằng lăng mẹ còn sót lại bên kha, không biết rằng rừng và cây cao nay đã không còn. Nhánh hoa bằng lăng như đang  muốn sống, muốn cống hiến vẻ đẹp của mình với thiên nhiên - tạo vật. Gốc cây bằng lăng mẹ từng sống chung với cánh rừng trùng điệp, một quá khứ phong phú biết bao. Tất cả giờ đã  cùng nhau ra đi, trôi vào dĩ vãng thật xa. Rừng thiêng nay hình ảnh chỉ còn là khói, sương- huyễn hoặc... những sợi khói còn 'thoi thóp thở' và chẳng còn gì là "trăng trối" ngoài hình ảnh những đống cây rừng leo lét cháy xa xa. 

  Đám rẫy về chiều, chỉ còn tôi và khóm hoa bằng lăng lấp ló.  Chỉ một mình tôi khám phá cùng chiêm ngưỡng khóm hoa còn sót lại. Tôi chợt tiếc cho thân phận nó, cũng như một rừng sắc tím bằng lăng giờ đã mất. Một sắc hoa rừng cạnh con suối đơn côi; và có thể cùng bao cành cây khô gãy đổ... đang "chứng kiến" cảnh biển dâu thay đổi cuộc đời.  


 Giòng suối vẫn nhè nhẹ trôi; róc rách qua vài hẻm đá hay thân cành gục ngã. Từ bụi lách đầu ghềnh, tiếng chim bìm bịp kêu lên vài ba hồi như cùng nhau tấu lên bản nhạc chiều tàn.

Tôi ngắm cành hoa thêm lần nữa,  rồi vội vàng bó lại rìu, rựa  rồi đẩy chiếc xe đạp lên dốc suối. 

  -Ngày mai về, mình sẽ không quên ngắm nhành bằng lăng này lần nữa trước khi nó tàn.

      Đường về đã quá chiều. Tôi vội đạp xe nhanh qua mấy đoạn quanh co, gập ghềnh của vài cái rẫy cũ, bỏ hoang. Hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy hứng khởi, yêu đời.  Con đường làng hôm đó sao nên thơ và đáng yêu một cách khác lạ ./.

hoa bằng lăng hôm nay đang khoe mình trên nhiều phố thị tại VN


ĐHL

4/1/ 2013

EDIT  23/6/2022

NHỮNG ĐỨA CON MỸ LAI CÒN LẠI

 


        
 PHẦN MỘT


  THẰNG ĐEN THỨ NHẤT -XẤU SỐ

     Vừa lên khỏi con dốc Sơn Mỹ một đoạn là quán chè mụ Mít. Cái quán đơn sơ. Một cái bàn gỗ ọp ẹp, hai tấm ván bìa làm thành hai cái ghế dài, nửa tấm ván lớn làm bàn. Chỉ vậy, mà quán chè mụ Mít khá đông khách. Khách phần đông là đàn bà, con gái, những người đi bán than dưới chợ tỉnh La Gi về. Nhà họ quanh quất quán này, không xa lắm.


Quán mụ bán vài loại chè bình thuờng như đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh ... không màu mè như chè đô thị, tuy vậy mà đông Khách. Tầng lớp lao động, rẫy rừng, ly chè, mụ Mít đập cho vài cục đá lạnh thế là họ 'thỏa mãn' rồi. Mụ nhớ, thì mụ rắc cho một giọt dầu chuối cho thơm ly chè, nhưng mụ quên thì thôi, không ai phiền hà.



  quán nước bên đường 1995 (dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hinh cua ĐHL  )



Trời xế chiều. Mấy o bán than, mấy ôn đạp xe buôn heo con, coi bộ cũng hết. Hơn nữa, mụ chỉ còn một ly chè cho thằng con út. Con trai mụ đi rẫy, chiều nào hắn cũng về sớm. 

***

 

Mụ Mít giờ đang ngồi thừ người ra; dáng thư giãn sau một ngày bán buôn mệt nhọc. Ngó vậy mà trong lòng mụ mấy hôm nay như "sóng cồn, lửa cháy". Mụ ghen tức với mụ Hồng bán cá trên chợ xã Sơn Mỹ: 

  -Con mệ Hồng bựa ni oai dữ rứa? cả nhà con mệ sắp đi Mỹ rồi mà, răng mà không oai?!

 Mụ Hồng có đứa con lai Mỹ nhưng không là con nuôi mà là con ruột. Bởi nó lai mẹ nên pha hai dòng máu thành ra là đứa con lai đẹp trai là đằng khác. Có cái may mắn, con mụ Hồng là con lính Mỹ trắng nên chẳng hề có màu da đen như mấy đứa Mỹ đen khác. Mấy hôm nay cả nhà mụ Hồng đang rục rịch chuẩn bị đi Mỹ. Phái đoàn phỏng vấn xong trước tết. Nghe đâu giấy mời xuất cảnh cũng gởi về rồi. Gần cả tháng này mụ Hồng  đã nghỉ bán cá ngoài chợ. Trong chợ, ai cũng trầm trồ "chỉ chọt" mụ Hồng. Tuy chưa đi Mỹ mà mụ coi bộ "trắng da dài tóc", huống chi qua bên nớ- xứ Mỹ giàu có ngất trời. Thằng con trai của mụ Hồng đã xin nghỉ học cấp ba dưới thị xã La Gi, chuẩn bị đi cùng gia đình.

Trong lòng mụ Mít vừa buồn vừa đau ghê gớm. Mụ quay quắt trong người, ăn không còn biết ngon, ngủ thì hết còn thẳng giấc như bữa trước. Không biết chuyện đau của mụ từ "tiếc của" hay "sám hối ăn năn". Hoàn cảnh mụ Hồng khác với mụ Mít; do mụ Mít chỉ tình cờ "lượm" mấy đứa con lai Mỹ đen tận ngoài Đà nẵng. Sau đó mấy đứa con lai này cũng theo ba mạ nuôi vào Bình Tuy theo diện KHẨN HOANG LẬP ẤP 1973 đi từ Đà Nẵng nên chúng đã có tên trong sổ gia đình rồi.
Con lai Mỹ trắng dĩ nhiên thì làm sao vào tay mấy mụ được chỉ còn lại mấy đứa con rơi Mỹ đen "quỷ tha ma bắt ", ngoài Đà Nẵng không ai thèm nuôi mà họ  còn ghê là đằng khác. Trước tiên do Mụ Mít nuôi để làm phước, sau là có cơ hội kê khai thêm vào sổ gia đình. Thời chạy giặc 1972 ngoài Đà Nẵng,  có thêm nhân khẩu tức thêm gạo, thêm mỳ không thiệt thòi chi. Tiếp đến, vào Bình Tuy có một khẩu lại thêm gạo và tôn lợp nhà nên còn lợi thêm.

Thằng Đen như mụ Mít hay gọi cũng giống như những đứa con lai da đen khác, đa số chúng đều được gọi là " thằng đen" cả. Sau 1975, hết trợ cấp, mấy đứa con nuôi này trở thành những tay lao động CHÍNH trong nhà. Chúng làm than, củi cùng phá núi, san rừng chi chúng đều rành rọt. Chúng là con lai nên vóc dáng to lớn, lao động mạnh nên chẳng ai cảm thấy thiệt thòi; trái lại, sau 1975 tại các vùng rẫy rừng người ta còn mừng là đằng khác.
Chỉ có mụ Mít hôm nay quả là thiệt thòi nhất trong xã. Có thể là "quả báo" hay chăng?  Chuyện do Mụ bắt thằng Đen làm việc quần quật ngày này qua tháng nọ.  Mọi ngày nó phải vào rừng rất sớm, tối mịt mới về. Con trai mụ làm rừng chỉ đôi ba bữa lại 'than đau-van mệt' ; đã biếng thế, nhưng mà mụ Mít bới cho con trai mình toàn cơm trắng cá kho khô. 

Còn thằng Đen? 


Nó, quanh năm suốt tháng mịt mù trong rừng. Hết phát rẫy, đợi khô xong đốt dọn. Xong, mụ bắt làm than kiếm thêm tiền. Mụ bắt chước do thấy thiên hạ đi bán than, mấy chiếc xe đạp thồ nghểu nghện mấy bao than cao ngất, có tệ chi "cũng hơn trăm bạc!" mụ Mít chắt lưỡi  thèm thuồng.


Đen làm trong rừng cật lực thế mà Mụ cho thằng Đen ăn ít quá! bới vào rừng chỉ toàn là sắn lát dính vài hột cơm trắng cho có; ruốc kho khô mặn chát, không có chi tươi cả.

Mấy bữa nó đau. Cực quá, nó xin mụ cho nghỉ ở nhà một ngày cho khỏe nó gắng làm bù. Nó coi bộ sốt thiệt. Muỗi trong rừng cắn nó bao lâu nay sao mà không sốt rét cho được? Thế mà mụ chửi, mụ la. Mụ Mít bảo nó làm biếng, không biết công ơn mụ lượm nó từ Đà Nẵng vô; nuôi nó lên vóc dáng như hôm nay.


Thế là Đen tuy đau trong người, nhưng hắn vẫn phải tiếp tục lủi thủi vác rìu rựa vô rừng.




 dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hình 1995 của tác giả


Một bữa trong làng xôn xao, thằng Đen con mụ Mít chết rồi, chết vì sốt rét! Nhà mụ cũng võng nó về trạm xá dưới huyện Hàm Tân lo cứu nó, nhưng nó chết giữa đường.


Tội nghiệp, Thằng Đen chết thật lặng lẽ. Trong làng chẳng có mấy người đi đưa đám nó. Cái mả nó sơ sài, nằm bên cồn đất xấu rìa làng. Nơi này là đất bỏ hoang, không ai canh tác.

                 *

Thời thế đổi dời.
Mấy hôm nay mụ nghe thiên hạ đồn 'nhà giàu' mô từ Sài Gòn về tận thôn lùng sục mua con lai. Nghe đâu giá mỗi đứa con lai tới "MƯỜI MẤY CÂY VÀNG"- sau khi hoàn tất 'thủ tục' giấy tờ xong.

Ôi! "cả đống vàng " trong tay, mà mụ nỡ lòng vứt đi. 


Mụ Mít mấy hôm nay như kẻ mất hồn. Người mụ trông 'như ngây như dại', ăn không ngon, ngủ chẳng yên. Mấy đứa con mụ Hồng đi lo thủ tục "cắt khẩu" trên huyện về, khi lái honda qua nhà mụ, chúng còn ngó vô nhà mụ như an ủi mà lại muốn khoe khoang, làm mụ Mít tức muốn sôi gan, lộn ruột.


Đêm nằm mụ trăn trở do không ngủ được. Trong giấc ngủ chập chờn, mụ thấy hình ảnh thằng Đen đang thất thểu bước vào rừng. Dáng nó ốm, cao lêu nghêu. Cái quần đùi cụt, chiếc áo ka-ki bạc màu, vá mấy nơi...

Ánh sáng phía rừng chợt lóe lên; những tia sét lóa cả mắt, kèm theo tiếng nổ ầm ầm của sấm làm mụ Mít giật thót mình. Những giọt mưa đầu mùa bắt đầu rơi mạnh, nghe "rào rào" trên hai mái tôn xi măng. Nỗi sợ mơ hồ ập đến, làm mụ co rúm cả thân người vào tận góc giường như muốn trốn chạy một ám ảnh nào.


PHẦN HAI

 THẰNG ĐEN THỨ HAI - TỐT SỐ  


 từ ba thôn Hà -Mỹ- Lễ  (viết tắt từ Gio Hà, Gio Mỹ và Gio Lễ) xã Sơn Mỹ ngó lên ngọn núi Bể và ngọn Mây Tào cao hơn hình của tác giả tháng 7/1995 


Thời gian tiếp theo, cả nhà mụ Mít không biết đổi đi đâu, không còn ở vùng Sơn Mỹ này nữa. Cái quán, người chủ khác bán. Khách ăn chè đôi khi rảnh rang bàn tán chuyện nhà mụ Mít. Ít người thuơng cho hoàn cảnh của mụ còn nói "đáng đời!"
Nhà mụ bỏ đi do chẳng còn ai đảm trách việc nặng trong rừng sau khi thằng Đen chết, lại còn cái miệng đời "thị phi, to nhỏ" là một chuyện khác. 
Chuyện đi Mỹ càng ngày càng rầm rộ trong một vùng quê "chó ăn đá gà ăn muối" này. Dĩ nhiên không ngoài cái chuyện "mua bán, gán ghép" những đứa con lai còn sót lại sau cuộc chiến tranh. Nói đúng ra khi những cặp mắt "lùng sục" tìm ra những đứa con lai còn sót lại nơi "khỉ ho cò gáy"- một vùng quê sắn khoai còn thiếu, huống gì cơm.

Thời gian đó, khi những đứa con lai tại đô thành đã ra đi hết, thì những đứa con lai tại đây dù da đen cũng quý "hơn vàng". Suy cho cùng, da chúng 'càng đen' càng đúng "nai vàng chính hiệu" đó thôi.          

Thằng Đen (lại một thằng đen khác) lúc mấy tuổi còn đi giữ bò làm rẫy hắn có tên là Cu Đen. Hắn con mụ T. chịu vừa nghe tin chịu "làm chồng" con gái ông thầy thuốc thú y miệt dưới, tức là vùng Tân Thiện, để con ông được đi Mỹ theo diện con lai.


Đen coi như bắt đầu "đổi đời". Hắn đương nhiên bỏ nghề làm rẫy để bắt đầu "tập tành" nếp sống quá mới lạ đối với hắn. Thật vậy, từ lúc hắn sinh ra cho đến tuổi trưởng thành, hoàn toàn là những ngày cơ cực. Mười mấy năm, rẫy rừng làm bạn, hết cái roi giữ bò thì những ngày mót sắn, lượm chai trong rẫy.  Mẹ hắn do cái tình mẫu tử- "rứt ruột" sinh ra hắn nên cũng không quá bỏ bê hay hành hạ "núm ruột" của mình. Có những ngày mạ hắn đem Đen đi xin học, dù đã quá tuổi, từ lớp một cho đến lớp năm trường làng. Để bù lại, Đen lao động rất siêng năng để bù lại thời gian đi học. Rồi phải được ăn diện "ra phết" cho giống "rể nhà giàu" mới được con mắt. Giai đoạn này chuyện kiếm con lai để đi Mỹ chẳng ai dấu giếm nữa do những gia đình con lai đi Mỹ 'ào ào' ngày nào mà chẳng nghe trên mặt báo hay mấy câu chuyện ở quán cà phê cũng như ngoài chợ. Có một điều đặc biệt, Đen là "rể" trên giấy tờ thôi nên Đen  không bao giờ được "léng phéng" với con gái ông. Chuyện bàn soạn hai bên là chuyện giữa cha mẹ mà thôi.  


Người viết có một chút biết về Đen do hắn có học lớp ba do vợ người viết đi dạy ở vùng này. Nó cao nhất lớp; chuyện này không ai ngạc nhiên do nó là con lai; hơn nữa lại đi học trễ. Bởi cao nhất lớp nên lúc nào cũng ngồi sau cùng để khỏi che mắt bạn bè. Tội cho hắn, do tai nó điếc nhiều vợ tôi kêu lên bảng phải nhìn thẳng vào nó ra dấu, nó mới hiểu.

Trời bù cho, Đen viết chữ rất đẹp ai cũng khen. Mạ nó một thời chịu khổ, kỳ thị, khi đẻ ra nó; nhất là sau khi "thời thế đổi dời"(1975), nói sao hết truân chuyên đắng cay của một người đàn bà có con lai Mỹ?


Trời cũng bù lại cho mạ thằng Đen này. Sau đó Đen làm rẫy giỏi và học hành cũng "bò" lên được lớp năm trường cấp I. Hình ảnh cái trường rách nát tả tơi, một thằng con lai da lại đen nổi bật trong đám học trò nghèo. Ai cũng nghèo, không rừng thì rẫy. Nói chung người trong làng, ai cũng thân phận giống nhau, chẳng thấy "phân biệt kỳ thị" gì nó cả. 


Dù sao, Thằng Đen này tốt số hơn Thằng Đen trong phần đầu truyện. Sau này nghe đâu qua Mỹ, Đen cũng đàng hoàng "giữ lời", trả lại đời độc thân cho người vợ con nhà giàu đó và đường ai nấy đi.


Mạ Đen sau này nghe đâu có về thăm lại xã xưa Sơn Mỹ một lần duy nhất.  Mạ hắn không quên chuyện quà cáp biếu bà con quanh xóm, không sót một ai. Người viết còn biết, người mẹ này còn biếu cho Xã một cái T.V. thật to. Từ đó, không ai còn nghe tin Đen nữa. Bà con bên "vợ" nó cũng chẳng biết gì tăm hơi thằng Đen nơi quê huơng của cha hắn- một đất nước quá mênh mông xa lạ. May mắn thay, sau này tác giả bài này được tin Đen khá thành công, an phận nơi quê hương mới.

                                        ***
Chuyện hai Thằng Đen, hai cuộc đời nơi vùng đất cao khô cằn sỏi đá, là những mẫu chuyện buồn của những đứa trẻ lai bất hạnh, lạc loài. Chuyện chiến tranh tuy dài lê thê, nhưng ít ai kết vào Thiên Bi Hùng Sử Chiến Tranh của đất nước chúng ta vài mẫu chuyện nho nhỏ- chuyện buồn của những đứa trẻ lai mang hai dòng máu Mỹ - Việt sau ngày tàn cuộc chiến ./.

Đinh hoa Lư  EDITION

2/7/2022

ghi chú: tên của các nhân vật đã được thay đổi 

NHỮNG BUỔI CHIỀU XƯA

 


Có những lần đi bộ, ngắm ánh chiều dần buông trên triền núi phía xa, tôi chạnh nhớ về những buổi chiều vàng trên quê hương xa thẳm.
Đối với tôi, hai tiếng quê hương giờ trở nên trừu tượng. Quê hương có thể là những ngày thơ dại nơi chôn nhau cắt rốn; cũng có thể là đất mới phương nam, lưu dân Quảng Trị đã chọn sau ngày ly tán. Trong tôi, quê hương còn là hình ảnh những buổi chiều vàng khi ánh nắng thoi thóp của một ngày tàn còn vương đọng trên những mãng đồi sim. Chiều tàn như thôi thúc người tù mau chân vác cây về trại khi trời kịp tối...
Có rất nhiều những buổi chiều vàng trong dĩ vãng. Chúng lưu dấu cho nhiều hoài niệm khác nhau. Thời gian cuồn cuộn trôi nhanh, xô đẩy dòng đời vào nhiều lối rẽ.
***
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều, một thời con nít, tuổi bé thơ hồn nhiên vui thú đó là những ngày rong chơi đá dế, thả diều.
Trời trở nồm vài ngọn gió từ mạn biển thổi lên, khi ánh nắng Nam Lào bớt gay gắt là lúc những cánh diều bọn tôi tha hồ bay bổng trên cánh đồng còn trơ gốc rạ.



Từ Cửa Lao Xá, Thành Cổ theo con Đường Ngự ra cánh đồng Hạnh Hoa là nơi bọn trẻ trong xóm chúng tôi làm nơi thả diều thi tài cao thấp. Cánh đồng giáp giới con đường Lê Văn Duyệt, ba tháng mùa hè trống không nhìn thẳng về bờ tre Xóm Tiêu, An Tiêm hay Ba Bến Trí Bưu còn rõ nét. Ruộng này chờ cày đất, đập bằng vồ, sau đó chờ nước từ sông Vĩnh Định lên cho vụ lúa. Nhưng bấy giờ cánh đồng là lãnh thổ của trẻ con chúng tôi làm bãi thả diều.
Ngày xưa chỉ ngần ấy thú chơi, nhưng lứa chúng tôi sao thương yêu nó đến thế? Những cọng tre chuốt mỏng, công phu mềm mại. Những đồng bạc nhịn ăn hàng, tôi mua cho được giấy bóng màu hồng hay xanh cùng cuộn dây gai, lọ hồ, lên tận Chợ Tỉnh mới có. Con diều dán bằng giấy vở, hồ bằng cơm nguội thì thuộc loại thô sơ hay "hết thời" không ai chơi? Những con diều màu mè, bay cao hơn, chắc chắn, có dây gai. Chúng đã tiến hay khá hơn nhiều, là niềm kiêu hãnh cho ai làm chủ nó, trong đó có tôi.
***
DIỀU NGƯỜI LỚN
Tôi không thể nào quên được thứ diều của người lớn, nếu không muốn nói của các cậu tôi. Diều người lớn cũng được thả trên cánh đồng này. Cánh đồng rộng lớn từ xóm Tiêu trải dài tận Hạnh Hoa. Con diều người lớn phải có đồng rộng để làm bãi phóng nó lên. Diều còn mang trên lưng tới ba ống sáo, bay cao 'tận mây'. Thật quá thích, mỗi lần tai tôi nghe được tiếng sáo diều. Tiếng kêu o o như từ trên mây vọng xuống,
Tiếng sáo diều sẽ kêu suốt buổi những khi trời no gió. Ngắm con diều người lớn làm, lòng tôi ước ao thán phục. Cuộn dây gai to lớn đã tuôn ra hết cỡ, sợi dây cong cong cao lên tận con diều đang căng gió phất phơ. Chỉ có các cậu tôi mới cẩm nỗi con diều này. Con nít chúng tôi chỉ có chạy theo, không đứa nào được cầm. Nếu có muốn , chẳng ai cho?
Diều đã lên cao bình yên, thỉnh thoảng lại chao chạnh qua lại theo hướng gió. Yên tâm, cậu tôi kéo diều về nhà. Buộc một đầu dây vào cột hiên, mặc cho con diều đu đưa mãi trên cao với tiếng sáo văng vẳng vọng xuống. Có con diều này, các cậu tôi xem chừng hãnh diện. Có khi các cậu để vậy suốt đêm. Nếu muốn ngưng chơi, con diều sẽ từ từ bị thu ngắn dây lại. Sợi dây ngắn dần, con diều mỗi lúc một to. Tôi cảm thấy chút nào hồi hộp khi Diều trở xuống. Diều đã về nhà, sau một buổi chiều bay bỗng trên đám mây cao. Đối với tôi, nó y như trở về 'từ chốn thần tiên' vậy.
***


Theo lưu dân Quảng Trị xa lìa quê cũ. Từ Mùa Hè đó ra đi, người Quảng Trị trong đó có tôi vĩnh viễn chia tay những buổi chiều vàng quê hương. Người đi không bao giờ còn có cơ hội thấy ánh tà dương được từ từ chìm hẳn dưới rặng Trường Sơn để lại những vệt sáng vàng vọt mờ dần trên nền trời phía tây.
Rồi một miền nam mưa nắng hai mùa. Người quê tôi sẽ dần dà yêu thương quê hương thứ hai này.
Miền nam trở thành hai tiếng thân yêu không biết lúc nào? Quê hưong mới chở che cho người dân mất đất. Nơi đây lại có những buổi chiều vàng. Người làm ruộng về nhà, để lại phía sau rơi rớt vài vạt nắng cuối ngày trên đồng lúa vừa cắt. Người tiều phu nhanh chân vác rìu ra khỏi rẫy. Rừng còn buông lơi bao làn khói xám, nhẹ bay trên cánh rẫy cuối ngày. Lũ mục đồng vội lùa bò về làng, trả lại cảnh rừng tối thẩm phía sau. Buôn bán tảo tần đường xa, có anh thương nhân đang gò lưng đạp nhanh xe mong sớm về nhà khi ánh chiều dần dà tắt hẳn trên dặm đường gió bụi...
***
Thời gian mãi trôi với bao buổi chiều vàng như thế. Bao kỷ niệm, bao mảnh đời cùng sánh vai nhau lùi lại phía sau. Có lúc nào ta dừng chân nhìn lại phía sau để đếm được cuộc đời đã qua mấy buổi chiều vàng? Từng vạt nắng 'thi ân' lên ngàn cây nội cỏ trước khi bóng tối phủ trở về rồi lại có ánh dương rực rỡ của bình minh.
Riêng trong tôi vẫn thương mãi những buổi chiều vàng ngày xưa khi nhiều cánh diều bè bạn bay cao. Tuổi nhỏ mãi rong chơi cho đến khi có tiếng mạ gọi con vang vang trong xóm. Trên cao tiếng sáo của con diều cậu tôi vẫn mãi ngân nga ./.


BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...