Wednesday, July 27, 2022

CÀNH HOA BẰNG LĂNG CÒN LẠI

 



ký ức

***

Những đóm lửa cuối cùng của một ngày dọn rẫy của tôi còn leo lét cháy.  Mặt trời từ từ lặn dần sau ngọn Núi Bể và rặng Mây Tào phía tây. Tôi vội vàng gom cuốc, rựa cùng rìu ra về.  Chẳng khi nào tôi quên cái cái bon nhựa bới nước, đồ dùng bới cơm hàng ngày, vài ba thứ trong cái chòi nho nhỏ. Giờ tôi mới kéo chiếc xe đạp thồ từ trong lùm cây rậm ra. Chiếc xe thồ này khá đa dụng- đi lại, vào rừng, thồ củi... Mùa này, nó là phương tiện giúp tôi đạp vào rừng.

Trước khi rời rẫy, tôi chẳng bao giờ quên cột những thứ lặt vặt thật kỹ vào cái "bót ba ga". 

CHIẾC XE ĐẠP THỒ





 
đốt rẫy làm nương

   





Chiếc xe thồ quả là một "gia tài" cho những người lao động, nghèo,  nhất là những ai "đầu tắt mặt tối"  sống nhờ vào rẫy- rừng. Tránh cho xe khỏi bị cây đâm lủng lốp, tôi phải dắt nó đi qua mấy đám rẫy bạn trong làng. Mấy đám rẫy chưa đốt dọn hết còn nham nhở, lởm chởm, quá nhiều gốc nhỏ, nhọn hoắc, chẳng khác chi hàng ngàn "mũi chông" đen đúa chỉa mũi lên trời. Vài ánh lửa còn leo lét cháy, còn bốc những làn khói yếu ớt cuối cùng. Bạn làm rẫy về trước tôi khá lâu. Quanh tôi giờ đó quả  thật quá vắng lặng. Lũ chim rừng trốn đâu hết; không còn ồn ào huyên náo như buổi sáng mai. Vừa đi, tôi vừa hú gọi xem còn ai về cùng, nhưng chẳng còn ai.


 Tôi dắt xe thêm một đoạn thì vừa tới Khe Lớn. Dong suối đó chảy về Xã TÂN THẮNG,  qua Cầu Kiều, trước khi đổ ra vịnh Hàm Tân. 

    Năm đó ít có nạn "rẫy luộc". Rẫy luộc là một khổ nạn hay nói đúng ra là cơn 'ác mộng' cho người làm rẫy. Rẫy bị cháy bất ngờ khi cây còn nhôn nhốt, chưa khô hẳn. Hậu quả gây cho người làm rừng phải bỏ công sức ra gấp mấy lần để  đốt dọn lại cho xong đám rừng cháy dang dở. Cả một đám đất rừng còn nhiều cây cành lỏng chỏng trơ vó lên trời như 'oán như than' nhưng "bỏ thì thương vương thì tội" biết bao nhiêu sức lực phát rừng, chặt gốc mới có đám đất này. Đã tốn công dọn lại nhiều lần, lại thêm phại chịu thêm một điều đáng buồn.  Rẫy đã "LUỘC"  thì không cháy hết- cháy không hết thì ít mun tro. Hậu quả quá ít mun tro thì đất tuy mới nhưng không tốt bằng rẫy người ta. Một ký ức cay đắng khi tôi gặp khổ nạn 'rẫy luộc' một lần. Cái rẫy đó đã 'hành' tôi "mất ăn, bỏ ngủ" làm mãi chẳng xong.  Đốt dọn nhọc công gấp ba lần, nhưng thu hoạch chẳng đáng bao nhiêu. Rõ ràng hao công tốn sức.
 
***



  Tôi đã tới Khe Lớn.  Bên kia khe, có đường rộng hơn. Qua bên đó, tôi sẽ thong dong đạp chiếc xe thồ về nhà. Giờ đây, mấy đám rẫy vừa dọn đốt gần xong nằm lại sau lưng, chờ qua một đêm thanh vắng để ngày mai vang dội tiếng rìu rựa. Một cánh rừng, non nửa năm trước còn rậm rịt, nay chỉ còn những khoảng trống, toang hoác, khó coi?

Bạn làm rẫy thực sự về trước tôi lúc nào? Tôi tiếp tục nhìn quanh xem còn ai, nhưng chỉ còn lại một không gian vắng vẻ, rờn rợn. Những liếp rừng dày đặc phía xa sau lưng tôi, giờ đen xẩm lại.  Những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tàn còn thoi thóp hắt lên vài tầng mây lảng đảng cuối trời.  Mấy cánh rừng phía xa đó, chúng đang chờ đợi cho mùa rẫy sang năm. Một vùng đất  hẹp núi lấn sát biển của Hàm Tân  nơi người  Quảng Trị sinh sống, đang tìm mọi cách mưu sinh qua ngày. Người dân làm tất cả mọi cách, từ đốt rẫy, làm than, cưa cây đẳn gỗ, hay ra khơi làm cá. Mọi công việc nặng nhọc chỉ lo thỏa mãn cho sự đòi hỏi của 'cái ăn' trước mắt.  "Miệng ăn núi lở", thực tế trước mắt tôi sao quá rõ ràng, hậu quả của chuyện "phá rừng tầm thực" - quanh năm suốt tháng "quần thô áo vải",  lưng đẫm mồ hôi nhưng nghèo đói lại hoàn đói nghèo?



    








Mùa khô nước cạn, tôi chỉ cần lội qua con suối. Dựa chiếc xe thồ bên bờ suối,  tôi xuống khe mài lại rìu rựa cho đỡ thì giờ sáng mai. Tảng đá mài thiên nhiên này người dân làng kể cả tôi hàng ngày đi qua khe dùng mài dụng cụ nên nó càng lúc càng nhẳn thín. Nơi này cũng là "trạm nghỉ chân " cho dân làm rẫy. Thuờng là những khi vác gỗ trong rừng ra, hay cho những toán thợ rừng ngồi chờ nhau tại đây.

 Trời còn đủ sáng  cho tôi vừa mài rựa vừa ngắm giòng nước trong vắt chảy qua làm chân tôi mát lạnh. Vài chiếc lá khô đang trôi theo dòng nước. những chiếc lá này sẽ vĩnh viễn xa rừng trôi mãi về duói kia, một vùng đất lạ lẫm, có người, và cuối cùng có sóng biển vỗ mãi ngàn năm. Chúng sẽ đi mãi về dưới kia đi qua vài ba thôn mới , mang tên Đội 1, Đội 2... dân làng sẽ sống nhờ  rừng.  Những chiếc lá khô này sẽ ngang qua  Cầu Kiều trước khi thăm biển và mãi mãi ra đi không còn về lại cánh rừng đã mất. 

 Vừa mài rựa  tôi vừa suy nghĩ mông lung.  Hình ảnh những ngày phát dọn, bao âm thanh 'chan chát' từ những nhát rìu- tiếng 'răng rắc' chuyển mình từ những thân cây sắp đổ-  tiếng thở phào nhẹ nhỏm khi cây đổ theo ý mình. Tiếp đến những ngày đốt dọn, mặt mày tôi lem luốc, sức nóng hừng hực của lửa và bụi tro. Làm sao tôi quên những phút giây thoải mái giải lao trong cái chòi nhỏ. Điếu thuốc rê 'to tướng' vấn trong tay, xong  phì phèo nhả khói, tôi lặng ngồi ngắm về biển Hàm Tân một màu xanh biếc...



  
Chợt mắt tôi dừng lại khi bắt gặp một nhành hoa tim tím  lấp ló bên  lùm cây dưới con khe.

       - Ồ  Hoa bằng lăng!

 Từ nhánh chồi của một gốc bằng lăng bị đốn từ lâu, chùm hoa bằng lăng hiếm hoi của môt cánh rừng đang bị đốt phá gần hết, như e ấp nép mình bên những lùm cây dại và dây leo vướng mắc xung quanh . Chùm hoa lẻ loi này như muốn khoe màu hồng tím 'nhàn nhạt' bên con suối lặng lờ trôi,  bên những khoảng tối do những lùm cây sót lại bên bờ khe.  Một cánh rừng trong cơn "hấp hối" - trống trải từng ngày cùng bao lùm cây còn lùm cây dại, bao khúc gỗ mục gãy đổ nằm vắt vẻo đó đây. Tôi từng đốn hạ bao cây bằng lằng nhưng chưa bao giờ gặp mùa hoa bằng lăng nở. Cho đến khi đốt cây xong rồi thì tôi chẳng biết sắc hoa bằng lăng đẹp đẽ ra sao. Tôi chưa được phút sung sướng, tận mắt chứng kiến màu tím bàng bạc hồng của loài hoa này. Chùm hoa bằng lăng đơn độc hôm đó, đã ban cho tôi một cảm giác thích thú, có thể tạm gọi là "chiêm ngưỡng" bên dòng suối vắng trong một buổi chiều tàn.




   Nhánh hoa 'đơn côi' nép mình bên dòng khe vắngnhư muốn vươn mình lên khoảng trời cao để tìm về với rừng  xanh, muôn ngàn cây cao vòi vọi. Nó chỉ nứt mầm từ một gốc bằng lăng mẹ còn sót lại bên kha, không biết rằng rừng và cây cao nay đã không còn. Nhánh hoa bằng lăng như đang  muốn sống, muốn cống hiến vẻ đẹp của mình với thiên nhiên - tạo vật. Gốc cây bằng lăng mẹ từng sống chung với cánh rừng trùng điệp, một quá khứ phong phú biết bao. Tất cả giờ đã  cùng nhau ra đi, trôi vào dĩ vãng thật xa. Rừng thiêng nay hình ảnh chỉ còn là khói, sương- huyễn hoặc... những sợi khói còn 'thoi thóp thở' và chẳng còn gì là "trăng trối" ngoài hình ảnh những đống cây rừng leo lét cháy xa xa. 

  Đám rẫy về chiều, chỉ còn tôi và khóm hoa bằng lăng lấp ló.  Chỉ một mình tôi khám phá cùng chiêm ngưỡng khóm hoa còn sót lại. Tôi chợt tiếc cho thân phận nó, cũng như một rừng sắc tím bằng lăng giờ đã mất. Một sắc hoa rừng cạnh con suối đơn côi; và có thể cùng bao cành cây khô gãy đổ... đang "chứng kiến" cảnh biển dâu thay đổi cuộc đời.  


 Giòng suối vẫn nhè nhẹ trôi; róc rách qua vài hẻm đá hay thân cành gục ngã. Từ bụi lách đầu ghềnh, tiếng chim bìm bịp kêu lên vài ba hồi như cùng nhau tấu lên bản nhạc chiều tàn.

Tôi ngắm cành hoa thêm lần nữa,  rồi vội vàng bó lại rìu, rựa  rồi đẩy chiếc xe đạp lên dốc suối. 

  -Ngày mai về, mình sẽ không quên ngắm nhành bằng lăng này lần nữa trước khi nó tàn.

      Đường về đã quá chiều. Tôi vội đạp xe nhanh qua mấy đoạn quanh co, gập ghềnh của vài cái rẫy cũ, bỏ hoang. Hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy hứng khởi, yêu đời.  Con đường làng hôm đó sao nên thơ và đáng yêu một cách khác lạ ./.

hoa bằng lăng hôm nay đang khoe mình trên nhiều phố thị tại VN


ĐHL

4/1/ 2013

EDIT  23/6/2022

NHỮNG ĐỨA CON MỸ LAI CÒN LẠI

 


        
 PHẦN MỘT


  THẰNG ĐEN THỨ NHẤT -XẤU SỐ

     Vừa lên khỏi con dốc Sơn Mỹ một đoạn là quán chè mụ Mít. Cái quán đơn sơ. Một cái bàn gỗ ọp ẹp, hai tấm ván bìa làm thành hai cái ghế dài, nửa tấm ván lớn làm bàn. Chỉ vậy, mà quán chè mụ Mít khá đông khách. Khách phần đông là đàn bà, con gái, những người đi bán than dưới chợ tỉnh La Gi về. Nhà họ quanh quất quán này, không xa lắm.


Quán mụ bán vài loại chè bình thuờng như đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh ... không màu mè như chè đô thị, tuy vậy mà đông Khách. Tầng lớp lao động, rẫy rừng, ly chè, mụ Mít đập cho vài cục đá lạnh thế là họ 'thỏa mãn' rồi. Mụ nhớ, thì mụ rắc cho một giọt dầu chuối cho thơm ly chè, nhưng mụ quên thì thôi, không ai phiền hà.



  quán nước bên đường 1995 (dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hinh cua ĐHL  )



Trời xế chiều. Mấy o bán than, mấy ôn đạp xe buôn heo con, coi bộ cũng hết. Hơn nữa, mụ chỉ còn một ly chè cho thằng con út. Con trai mụ đi rẫy, chiều nào hắn cũng về sớm. 

***

 

Mụ Mít giờ đang ngồi thừ người ra; dáng thư giãn sau một ngày bán buôn mệt nhọc. Ngó vậy mà trong lòng mụ mấy hôm nay như "sóng cồn, lửa cháy". Mụ ghen tức với mụ Hồng bán cá trên chợ xã Sơn Mỹ: 

  -Con mệ Hồng bựa ni oai dữ rứa? cả nhà con mệ sắp đi Mỹ rồi mà, răng mà không oai?!

 Mụ Hồng có đứa con lai Mỹ nhưng không là con nuôi mà là con ruột. Bởi nó lai mẹ nên pha hai dòng máu thành ra là đứa con lai đẹp trai là đằng khác. Có cái may mắn, con mụ Hồng là con lính Mỹ trắng nên chẳng hề có màu da đen như mấy đứa Mỹ đen khác. Mấy hôm nay cả nhà mụ Hồng đang rục rịch chuẩn bị đi Mỹ. Phái đoàn phỏng vấn xong trước tết. Nghe đâu giấy mời xuất cảnh cũng gởi về rồi. Gần cả tháng này mụ Hồng  đã nghỉ bán cá ngoài chợ. Trong chợ, ai cũng trầm trồ "chỉ chọt" mụ Hồng. Tuy chưa đi Mỹ mà mụ coi bộ "trắng da dài tóc", huống chi qua bên nớ- xứ Mỹ giàu có ngất trời. Thằng con trai của mụ Hồng đã xin nghỉ học cấp ba dưới thị xã La Gi, chuẩn bị đi cùng gia đình.

Trong lòng mụ Mít vừa buồn vừa đau ghê gớm. Mụ quay quắt trong người, ăn không còn biết ngon, ngủ thì hết còn thẳng giấc như bữa trước. Không biết chuyện đau của mụ từ "tiếc của" hay "sám hối ăn năn". Hoàn cảnh mụ Hồng khác với mụ Mít; do mụ Mít chỉ tình cờ "lượm" mấy đứa con lai Mỹ đen tận ngoài Đà nẵng. Sau đó mấy đứa con lai này cũng theo ba mạ nuôi vào Bình Tuy theo diện KHẨN HOANG LẬP ẤP 1973 đi từ Đà Nẵng nên chúng đã có tên trong sổ gia đình rồi.
Con lai Mỹ trắng dĩ nhiên thì làm sao vào tay mấy mụ được chỉ còn lại mấy đứa con rơi Mỹ đen "quỷ tha ma bắt ", ngoài Đà Nẵng không ai thèm nuôi mà họ  còn ghê là đằng khác. Trước tiên do Mụ Mít nuôi để làm phước, sau là có cơ hội kê khai thêm vào sổ gia đình. Thời chạy giặc 1972 ngoài Đà Nẵng,  có thêm nhân khẩu tức thêm gạo, thêm mỳ không thiệt thòi chi. Tiếp đến, vào Bình Tuy có một khẩu lại thêm gạo và tôn lợp nhà nên còn lợi thêm.

Thằng Đen như mụ Mít hay gọi cũng giống như những đứa con lai da đen khác, đa số chúng đều được gọi là " thằng đen" cả. Sau 1975, hết trợ cấp, mấy đứa con nuôi này trở thành những tay lao động CHÍNH trong nhà. Chúng làm than, củi cùng phá núi, san rừng chi chúng đều rành rọt. Chúng là con lai nên vóc dáng to lớn, lao động mạnh nên chẳng ai cảm thấy thiệt thòi; trái lại, sau 1975 tại các vùng rẫy rừng người ta còn mừng là đằng khác.
Chỉ có mụ Mít hôm nay quả là thiệt thòi nhất trong xã. Có thể là "quả báo" hay chăng?  Chuyện do Mụ bắt thằng Đen làm việc quần quật ngày này qua tháng nọ.  Mọi ngày nó phải vào rừng rất sớm, tối mịt mới về. Con trai mụ làm rừng chỉ đôi ba bữa lại 'than đau-van mệt' ; đã biếng thế, nhưng mà mụ Mít bới cho con trai mình toàn cơm trắng cá kho khô. 

Còn thằng Đen? 


Nó, quanh năm suốt tháng mịt mù trong rừng. Hết phát rẫy, đợi khô xong đốt dọn. Xong, mụ bắt làm than kiếm thêm tiền. Mụ bắt chước do thấy thiên hạ đi bán than, mấy chiếc xe đạp thồ nghểu nghện mấy bao than cao ngất, có tệ chi "cũng hơn trăm bạc!" mụ Mít chắt lưỡi  thèm thuồng.


Đen làm trong rừng cật lực thế mà Mụ cho thằng Đen ăn ít quá! bới vào rừng chỉ toàn là sắn lát dính vài hột cơm trắng cho có; ruốc kho khô mặn chát, không có chi tươi cả.

Mấy bữa nó đau. Cực quá, nó xin mụ cho nghỉ ở nhà một ngày cho khỏe nó gắng làm bù. Nó coi bộ sốt thiệt. Muỗi trong rừng cắn nó bao lâu nay sao mà không sốt rét cho được? Thế mà mụ chửi, mụ la. Mụ Mít bảo nó làm biếng, không biết công ơn mụ lượm nó từ Đà Nẵng vô; nuôi nó lên vóc dáng như hôm nay.


Thế là Đen tuy đau trong người, nhưng hắn vẫn phải tiếp tục lủi thủi vác rìu rựa vô rừng.




 dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hình 1995 của tác giả


Một bữa trong làng xôn xao, thằng Đen con mụ Mít chết rồi, chết vì sốt rét! Nhà mụ cũng võng nó về trạm xá dưới huyện Hàm Tân lo cứu nó, nhưng nó chết giữa đường.


Tội nghiệp, Thằng Đen chết thật lặng lẽ. Trong làng chẳng có mấy người đi đưa đám nó. Cái mả nó sơ sài, nằm bên cồn đất xấu rìa làng. Nơi này là đất bỏ hoang, không ai canh tác.

                 *

Thời thế đổi dời.
Mấy hôm nay mụ nghe thiên hạ đồn 'nhà giàu' mô từ Sài Gòn về tận thôn lùng sục mua con lai. Nghe đâu giá mỗi đứa con lai tới "MƯỜI MẤY CÂY VÀNG"- sau khi hoàn tất 'thủ tục' giấy tờ xong.

Ôi! "cả đống vàng " trong tay, mà mụ nỡ lòng vứt đi. 


Mụ Mít mấy hôm nay như kẻ mất hồn. Người mụ trông 'như ngây như dại', ăn không ngon, ngủ chẳng yên. Mấy đứa con mụ Hồng đi lo thủ tục "cắt khẩu" trên huyện về, khi lái honda qua nhà mụ, chúng còn ngó vô nhà mụ như an ủi mà lại muốn khoe khoang, làm mụ Mít tức muốn sôi gan, lộn ruột.


Đêm nằm mụ trăn trở do không ngủ được. Trong giấc ngủ chập chờn, mụ thấy hình ảnh thằng Đen đang thất thểu bước vào rừng. Dáng nó ốm, cao lêu nghêu. Cái quần đùi cụt, chiếc áo ka-ki bạc màu, vá mấy nơi...

Ánh sáng phía rừng chợt lóe lên; những tia sét lóa cả mắt, kèm theo tiếng nổ ầm ầm của sấm làm mụ Mít giật thót mình. Những giọt mưa đầu mùa bắt đầu rơi mạnh, nghe "rào rào" trên hai mái tôn xi măng. Nỗi sợ mơ hồ ập đến, làm mụ co rúm cả thân người vào tận góc giường như muốn trốn chạy một ám ảnh nào.


PHẦN HAI

 THẰNG ĐEN THỨ HAI - TỐT SỐ  


 từ ba thôn Hà -Mỹ- Lễ  (viết tắt từ Gio Hà, Gio Mỹ và Gio Lễ) xã Sơn Mỹ ngó lên ngọn núi Bể và ngọn Mây Tào cao hơn hình của tác giả tháng 7/1995 


Thời gian tiếp theo, cả nhà mụ Mít không biết đổi đi đâu, không còn ở vùng Sơn Mỹ này nữa. Cái quán, người chủ khác bán. Khách ăn chè đôi khi rảnh rang bàn tán chuyện nhà mụ Mít. Ít người thuơng cho hoàn cảnh của mụ còn nói "đáng đời!"
Nhà mụ bỏ đi do chẳng còn ai đảm trách việc nặng trong rừng sau khi thằng Đen chết, lại còn cái miệng đời "thị phi, to nhỏ" là một chuyện khác. 
Chuyện đi Mỹ càng ngày càng rầm rộ trong một vùng quê "chó ăn đá gà ăn muối" này. Dĩ nhiên không ngoài cái chuyện "mua bán, gán ghép" những đứa con lai còn sót lại sau cuộc chiến tranh. Nói đúng ra khi những cặp mắt "lùng sục" tìm ra những đứa con lai còn sót lại nơi "khỉ ho cò gáy"- một vùng quê sắn khoai còn thiếu, huống gì cơm.

Thời gian đó, khi những đứa con lai tại đô thành đã ra đi hết, thì những đứa con lai tại đây dù da đen cũng quý "hơn vàng". Suy cho cùng, da chúng 'càng đen' càng đúng "nai vàng chính hiệu" đó thôi.          

Thằng Đen (lại một thằng đen khác) lúc mấy tuổi còn đi giữ bò làm rẫy hắn có tên là Cu Đen. Hắn con mụ T. chịu vừa nghe tin chịu "làm chồng" con gái ông thầy thuốc thú y miệt dưới, tức là vùng Tân Thiện, để con ông được đi Mỹ theo diện con lai.


Đen coi như bắt đầu "đổi đời". Hắn đương nhiên bỏ nghề làm rẫy để bắt đầu "tập tành" nếp sống quá mới lạ đối với hắn. Thật vậy, từ lúc hắn sinh ra cho đến tuổi trưởng thành, hoàn toàn là những ngày cơ cực. Mười mấy năm, rẫy rừng làm bạn, hết cái roi giữ bò thì những ngày mót sắn, lượm chai trong rẫy.  Mẹ hắn do cái tình mẫu tử- "rứt ruột" sinh ra hắn nên cũng không quá bỏ bê hay hành hạ "núm ruột" của mình. Có những ngày mạ hắn đem Đen đi xin học, dù đã quá tuổi, từ lớp một cho đến lớp năm trường làng. Để bù lại, Đen lao động rất siêng năng để bù lại thời gian đi học. Rồi phải được ăn diện "ra phết" cho giống "rể nhà giàu" mới được con mắt. Giai đoạn này chuyện kiếm con lai để đi Mỹ chẳng ai dấu giếm nữa do những gia đình con lai đi Mỹ 'ào ào' ngày nào mà chẳng nghe trên mặt báo hay mấy câu chuyện ở quán cà phê cũng như ngoài chợ. Có một điều đặc biệt, Đen là "rể" trên giấy tờ thôi nên Đen  không bao giờ được "léng phéng" với con gái ông. Chuyện bàn soạn hai bên là chuyện giữa cha mẹ mà thôi.  


Người viết có một chút biết về Đen do hắn có học lớp ba do vợ người viết đi dạy ở vùng này. Nó cao nhất lớp; chuyện này không ai ngạc nhiên do nó là con lai; hơn nữa lại đi học trễ. Bởi cao nhất lớp nên lúc nào cũng ngồi sau cùng để khỏi che mắt bạn bè. Tội cho hắn, do tai nó điếc nhiều vợ tôi kêu lên bảng phải nhìn thẳng vào nó ra dấu, nó mới hiểu.

Trời bù cho, Đen viết chữ rất đẹp ai cũng khen. Mạ nó một thời chịu khổ, kỳ thị, khi đẻ ra nó; nhất là sau khi "thời thế đổi dời"(1975), nói sao hết truân chuyên đắng cay của một người đàn bà có con lai Mỹ?


Trời cũng bù lại cho mạ thằng Đen này. Sau đó Đen làm rẫy giỏi và học hành cũng "bò" lên được lớp năm trường cấp I. Hình ảnh cái trường rách nát tả tơi, một thằng con lai da lại đen nổi bật trong đám học trò nghèo. Ai cũng nghèo, không rừng thì rẫy. Nói chung người trong làng, ai cũng thân phận giống nhau, chẳng thấy "phân biệt kỳ thị" gì nó cả. 


Dù sao, Thằng Đen này tốt số hơn Thằng Đen trong phần đầu truyện. Sau này nghe đâu qua Mỹ, Đen cũng đàng hoàng "giữ lời", trả lại đời độc thân cho người vợ con nhà giàu đó và đường ai nấy đi.


Mạ Đen sau này nghe đâu có về thăm lại xã xưa Sơn Mỹ một lần duy nhất.  Mạ hắn không quên chuyện quà cáp biếu bà con quanh xóm, không sót một ai. Người viết còn biết, người mẹ này còn biếu cho Xã một cái T.V. thật to. Từ đó, không ai còn nghe tin Đen nữa. Bà con bên "vợ" nó cũng chẳng biết gì tăm hơi thằng Đen nơi quê huơng của cha hắn- một đất nước quá mênh mông xa lạ. May mắn thay, sau này tác giả bài này được tin Đen khá thành công, an phận nơi quê hương mới.

                                        ***
Chuyện hai Thằng Đen, hai cuộc đời nơi vùng đất cao khô cằn sỏi đá, là những mẫu chuyện buồn của những đứa trẻ lai bất hạnh, lạc loài. Chuyện chiến tranh tuy dài lê thê, nhưng ít ai kết vào Thiên Bi Hùng Sử Chiến Tranh của đất nước chúng ta vài mẫu chuyện nho nhỏ- chuyện buồn của những đứa trẻ lai mang hai dòng máu Mỹ - Việt sau ngày tàn cuộc chiến ./.

Đinh hoa Lư  EDITION

2/7/2022

ghi chú: tên của các nhân vật đã được thay đổi 

NHỮNG BUỔI CHIỀU XƯA

 


Có những lần đi bộ, ngắm ánh chiều dần buông trên triền núi phía xa, tôi chạnh nhớ về những buổi chiều vàng trên quê hương xa thẳm.
Đối với tôi, hai tiếng quê hương giờ trở nên trừu tượng. Quê hương có thể là những ngày thơ dại nơi chôn nhau cắt rốn; cũng có thể là đất mới phương nam, lưu dân Quảng Trị đã chọn sau ngày ly tán. Trong tôi, quê hương còn là hình ảnh những buổi chiều vàng khi ánh nắng thoi thóp của một ngày tàn còn vương đọng trên những mãng đồi sim. Chiều tàn như thôi thúc người tù mau chân vác cây về trại khi trời kịp tối...
Có rất nhiều những buổi chiều vàng trong dĩ vãng. Chúng lưu dấu cho nhiều hoài niệm khác nhau. Thời gian cuồn cuộn trôi nhanh, xô đẩy dòng đời vào nhiều lối rẽ.
***
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều, một thời con nít, tuổi bé thơ hồn nhiên vui thú đó là những ngày rong chơi đá dế, thả diều.
Trời trở nồm vài ngọn gió từ mạn biển thổi lên, khi ánh nắng Nam Lào bớt gay gắt là lúc những cánh diều bọn tôi tha hồ bay bổng trên cánh đồng còn trơ gốc rạ.



Từ Cửa Lao Xá, Thành Cổ theo con Đường Ngự ra cánh đồng Hạnh Hoa là nơi bọn trẻ trong xóm chúng tôi làm nơi thả diều thi tài cao thấp. Cánh đồng giáp giới con đường Lê Văn Duyệt, ba tháng mùa hè trống không nhìn thẳng về bờ tre Xóm Tiêu, An Tiêm hay Ba Bến Trí Bưu còn rõ nét. Ruộng này chờ cày đất, đập bằng vồ, sau đó chờ nước từ sông Vĩnh Định lên cho vụ lúa. Nhưng bấy giờ cánh đồng là lãnh thổ của trẻ con chúng tôi làm bãi thả diều.
Ngày xưa chỉ ngần ấy thú chơi, nhưng lứa chúng tôi sao thương yêu nó đến thế? Những cọng tre chuốt mỏng, công phu mềm mại. Những đồng bạc nhịn ăn hàng, tôi mua cho được giấy bóng màu hồng hay xanh cùng cuộn dây gai, lọ hồ, lên tận Chợ Tỉnh mới có. Con diều dán bằng giấy vở, hồ bằng cơm nguội thì thuộc loại thô sơ hay "hết thời" không ai chơi? Những con diều màu mè, bay cao hơn, chắc chắn, có dây gai. Chúng đã tiến hay khá hơn nhiều, là niềm kiêu hãnh cho ai làm chủ nó, trong đó có tôi.
***
DIỀU NGƯỜI LỚN
Tôi không thể nào quên được thứ diều của người lớn, nếu không muốn nói của các cậu tôi. Diều người lớn cũng được thả trên cánh đồng này. Cánh đồng rộng lớn từ xóm Tiêu trải dài tận Hạnh Hoa. Con diều người lớn phải có đồng rộng để làm bãi phóng nó lên. Diều còn mang trên lưng tới ba ống sáo, bay cao 'tận mây'. Thật quá thích, mỗi lần tai tôi nghe được tiếng sáo diều. Tiếng kêu o o như từ trên mây vọng xuống,
Tiếng sáo diều sẽ kêu suốt buổi những khi trời no gió. Ngắm con diều người lớn làm, lòng tôi ước ao thán phục. Cuộn dây gai to lớn đã tuôn ra hết cỡ, sợi dây cong cong cao lên tận con diều đang căng gió phất phơ. Chỉ có các cậu tôi mới cẩm nỗi con diều này. Con nít chúng tôi chỉ có chạy theo, không đứa nào được cầm. Nếu có muốn , chẳng ai cho?
Diều đã lên cao bình yên, thỉnh thoảng lại chao chạnh qua lại theo hướng gió. Yên tâm, cậu tôi kéo diều về nhà. Buộc một đầu dây vào cột hiên, mặc cho con diều đu đưa mãi trên cao với tiếng sáo văng vẳng vọng xuống. Có con diều này, các cậu tôi xem chừng hãnh diện. Có khi các cậu để vậy suốt đêm. Nếu muốn ngưng chơi, con diều sẽ từ từ bị thu ngắn dây lại. Sợi dây ngắn dần, con diều mỗi lúc một to. Tôi cảm thấy chút nào hồi hộp khi Diều trở xuống. Diều đã về nhà, sau một buổi chiều bay bỗng trên đám mây cao. Đối với tôi, nó y như trở về 'từ chốn thần tiên' vậy.
***


Theo lưu dân Quảng Trị xa lìa quê cũ. Từ Mùa Hè đó ra đi, người Quảng Trị trong đó có tôi vĩnh viễn chia tay những buổi chiều vàng quê hương. Người đi không bao giờ còn có cơ hội thấy ánh tà dương được từ từ chìm hẳn dưới rặng Trường Sơn để lại những vệt sáng vàng vọt mờ dần trên nền trời phía tây.
Rồi một miền nam mưa nắng hai mùa. Người quê tôi sẽ dần dà yêu thương quê hương thứ hai này.
Miền nam trở thành hai tiếng thân yêu không biết lúc nào? Quê hưong mới chở che cho người dân mất đất. Nơi đây lại có những buổi chiều vàng. Người làm ruộng về nhà, để lại phía sau rơi rớt vài vạt nắng cuối ngày trên đồng lúa vừa cắt. Người tiều phu nhanh chân vác rìu ra khỏi rẫy. Rừng còn buông lơi bao làn khói xám, nhẹ bay trên cánh rẫy cuối ngày. Lũ mục đồng vội lùa bò về làng, trả lại cảnh rừng tối thẩm phía sau. Buôn bán tảo tần đường xa, có anh thương nhân đang gò lưng đạp nhanh xe mong sớm về nhà khi ánh chiều dần dà tắt hẳn trên dặm đường gió bụi...
***
Thời gian mãi trôi với bao buổi chiều vàng như thế. Bao kỷ niệm, bao mảnh đời cùng sánh vai nhau lùi lại phía sau. Có lúc nào ta dừng chân nhìn lại phía sau để đếm được cuộc đời đã qua mấy buổi chiều vàng? Từng vạt nắng 'thi ân' lên ngàn cây nội cỏ trước khi bóng tối phủ trở về rồi lại có ánh dương rực rỡ của bình minh.
Riêng trong tôi vẫn thương mãi những buổi chiều vàng ngày xưa khi nhiều cánh diều bè bạn bay cao. Tuổi nhỏ mãi rong chơi cho đến khi có tiếng mạ gọi con vang vang trong xóm. Trên cao tiếng sáo của con diều cậu tôi vẫn mãi ngân nga ./.


Friday, June 17, 2022

QUE DIÊM CUỐI

 

QUE DIÊM CUỐI CÙNG TRONG RỪNG SÂU


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe...

(Gió Núi Mưa Rừng - Huỳnh Anh)

 *


 Thôn Xuân Khê, tên nghe khá thơ mộng nhưng có thể ít người Quảng Trị biết đến nó. Hơn nữa, theo trí nhớ của người viết, địa danh này chưa hề được ghi chú trên bản đồ ngoại trừ Thôn Ái Tử đã có từ lâu trên bản đồ Bộ TTM/ VNCH. 

con suối lớn chảy từ núi uốn khúc chảy qua Xuân Khê và các trại tù và sẽ về vùng Ái Tử, trong bản đồ nằm giữa hai con sông Vĩnh Phước và sông Ái Tử 


Từ Thôn Ái Tử, lên hướng núi khoảng vài cây số,  thì đến Thôn Xuân Khê. Vùng này, có một con suối lớn uốn khúc chảy về đến vùng Ái Tử. Suối không lớn nhưng đủ cung cấp nguồn sống cho bốn trại tù cùng mấy thôn nghèo heo hút sống cạnh giòng nước.  Người dân mới về lại sau 1975, nên thôn Xuân Khê ngày đó chỉ có vài mái tranh nghèo, đìu hiu ngó qua trại tù chúng tôi tức là Trại 4 Ái Tử. 

Năm mươi năm rồi, người viết vẫn nhớ về Xuân Khê nằm khuất sau những mảng đồi sim tím. Tháng tám về, những đồi sim có trái chín đầy. Bóng tù thấp thoáng trong mấy lùm sim. Những ngày đi rừng lấy gỗ.

*

 Chúng tôi nhớ làm sao, hình ảnh chiếc cầu ghép bằng nhiều tấm 'ri' sắt của Mỹ do chúng tôi tạo dựng, bắc qua con suối lớn. Hình ảnh ngày xưa, quả là một thế giới khác, một trại tù cách biệt với dân. Một chiếc cầu sắt được bắc qua con suối trước  lúc dân làng trở lại.

 Tôi không quên tiếng cót -két của chiếc cầu, những lần đi rừng đốn gỗ.  Như mọi bữa, chúng tôi lên đường thật sớm,  nhiều đóm sao khuya còn lấp lánh trên trời. Chén cơm lưng lửng trong cái lon gô. Cái lon gô giờ lại nằm lọt trong cái bao cát, tôi mang xéo một bên nách. "Vũ khí" chúng tôi giờ là rựa, rìu cũng từ trại rèn ra xong phát cho từng người. Chúng tôi đã quen thuộc với chuyện đi rừng. Ai cũng rành chẳng khác chi "sáu câu vọng cổ" của nghệ sĩ cải lương ngày cũ. Chúng tôi lại thương cho mấy cái bao tử, lúc nào cũng đòi hỏi có thứ gì 'dằn' vào cái khoảng trống không.  Phần cơm đi rừng đã ít, lại chỉ được ăn để có sức mang gỗ về trại. Thế thì phải "linh động"  cho vấn đề sinh tồn. "Ngộ biến phải tùng quyền"- có nghĩa là trong 'cái đói ló cái khôn'.  Chúng tôi luồn vào rừng sắn của trại trong đêm, tìm bụi nào cao, nhiều củ...có nghĩa chỉ cần nhổ trộm hai, ba bụi sắn thôi là đủ. Những đồi sắn bạt ngàn, cả mấy trăm bàn tay người tù, khai hoang vỡ đất. Hai năm nay, bao công phá núi san rừng, đốt dọn, lượm đá, đắp vồng...Chỉ vài bụi thôi, chẳng thấm tháp gì trong hàng muôn triệu cây sắn, anh em chúng tôi có "cái no" để về lại trại.

  Tôi nhổ lên hai ba gốc sắn đã đầy cái bao cát mang theo.Thời gian đó đi rừng còn "giao khoán", có nghĩa chúng tôi đi cùng tổ không có bộ đội CS dẫn đi, miễn sao tối có gỗ về trại là được. "Trời đất" vừa sụp đổ chẳng ai còn mộng chạy đâu. 


*


 Đến rừng, riêng tôi được giao nhiệm vụ nấu sắn cho mấy người kia vào rừng kiếm gỗ. Tôi tìm đường xuống cái khe để có nước nấu bao sắn.  Kiếm cây xong, chúng tôi sẽ ăn sắn chín thật no bụng trước khi vác cây ra về.


*

   Con đường lên Rừng "Anh Tuấn" khá xa, khoảng hơn mười cây số. Thời gian đó, người dân làng nào khai hoang vùng rừng nào thì chúng tôi tạm đặt cho cái tên làng đó cho dễ nhớ. Làng (thôn) Anh Tuấn ở quận Triệu phong lên khai hoang trên này. Chúng tôi đặt khu rừng mới này là "rừng Anh Tuấn".  Đứng từ rừng "Anh Tuấn", chúng tôi có thể thấy được con đường đèo Ba Lòng tức là gần giáp với Hướng Hóa, phía bắc. Nhìn về huớng tây, rừng Trấm nay đã tan hoang sau hai năm vừa dân vừa tù khai phá. Gỗ cây về làm trại chúng tôi phải đi càng lúc càng xa hơn. Sau này ngay cả đi củi cho trại cũng xa. Trấm đang xây dựng đập-Đập Trấm- những mảng đất khai hoang  đứng xa vẫn thấy hình dạng loang lổ.

 Vừa đi tôi vừa miên man nghĩ đến hình ảnh buổi chiều vác gỗ về trại. Đó là những thời gian cuối cùng của một ngày lao động, khi ánh chiều tà còn lại những vạt nắng cô đơn trên những mảng đồi đầy sim chín. Chúng tôi sẽ  được "thoải mái" tận hưởng những trái sim chín mọng, ngọt ngào.
  Rừng dần dà gần lại trước mắt. Rừng càng xa, càng hi vọng còn nhiều cây thẳng.   Chúng tôi ngang qua các rẫy sắn của người dân đi thì trời sáng hẳn. Người dân từ những làng xa xôi dưới miệt đồng bằng phải lên đây. Họ từng chấp nhận ăn sắn thay gạo. Nhưng thật phủ phàng, các rẫy sắn hay bị heo rừng phá nát. Phần còn lại chia nhau mỗi người chỉ được vài thúng sắn tươi. Nhiều bận đi đi- về về;  xa xăm,  tốn kém,  "cơm đùm gạo bới", rốt cuộc bà con chẳng có chi,  nghèo lại hoàn nghèo - đói vẫn hoàn đói.

*

Chúng tôi băng qua vài hẻm núi mới vào được khu rừng rậm rạp, ít dấu chân người, mới hi vọng còn nhiều cây thẳng. Chia nhiệm vụ xong, chỉ còn tôi ở lại dưới khe lo chuyện nấu. 

   Hình ảnh cái hộp quẹt nội hóa- chúng tôi hay gọi là "bít- kê" (briquet) làm tại Chợ Lớn nhưng trong tù đã thành thứ hiếm. Nếu ai còn có cái zippo (tức là hộp quẹt Mỹ) thì  đã bị cán bộ CS thu giữ lâu rồi. Người viết lại lan man chuyện này cũng từ câu chuyện của "LỬA". Cũng đúng, do lửa là nguồn sống cho chúng ta, cho tù. Trong tù lửa là phương tiện đầu tiên cho ai muốn "cải thiện linh tinh"- để giúp no cái bụng.

Nhưng nếu ai đó còn cái hộp quẹt dù nội hóa, thô sơ cũng phải cần có dầu hỏa hay xăng và một thứ rất quan trọng đó là ĐÁ LỬA. Ôi chuyện kiếm cho ra đá lửa trong tù quả thật quá hiếm và quá quý.


hộp diêm thống nhất


Thời gian một mình dưới con khe đó, tôi phải có LỬA. Đó là điều tôi cần có, khi nhận nhiệm vụ nấu sắn. Tôi đã thủ sẵn trong người hộp diêm THỐNG NHẤT- vuông vuông- trong đó còn đúng 3 que diêm. Mớ củi khô tôi lo chẻ nhỏ,  một ít lá bổi làm mồi lửa.
Những khúc sắn trắng "nỏn nà" trông hấp dẫn chẳng khác chi "làn da người đẹp" giờ nằm gọn trong cái nồi gang do tổ chúng tôi mang theo. Hồi đó, trại  chúng tôi có đúc song nồi gang. Nguyên liệu để đúc có từ mấy chiếc thiết vận xa M113 bị cháy trong rừng. Tù được lệnh lên rừng cưa về. Trại sẽ nấu ra thành song, nồi, thau, vá  (cán bộ CS người bắc gọi là môi). Đúc xong, trại phát về cho từng lán, khối, tổ. Ngang đây, người viết xin nhắc về  một người có liên quan đến những cái nồi gang đúc này. Anh đó có tên là Viễn Khởi người Huế. Anh là người tổ trưởng đúc nồi cho Trại Bốn chúng tôi. Sau này anh Viễn Khởi còn sống hay chết chúng tôi chẳng biết. Một thời gian ngắn  sau khi đúc song nồi, anh biệt tích luôn. Chẳng ai còn biết gì thêm về nhân vật này.

Người tù "cải thiện" thức ăn cần nhất là lửa nấu những nơi kín đáo, muốn có lửa thì cần hộp quẹt hay diêm que Thống Nhất.


    
Tôi phải quẹt đến cái diêm cuối cùng tôi mới nhen được ngọn lửa. Trống ngực đập loạn xạ, tôi chẳng màng đến những con muỗi rừng đang vo ve hút máu tới tấp.  Mắt tôi căng ra, miệng đang dồn hết sức thổi phù phù...  Ngọn lửa bắt đầu leo lét cháy. Những làn khói yếu ớt từ từ tỏa lên bên hóc đá dưới con khe róc rách, ánh sáng mập mờ vì những tán cây rậm cùng sườn núi trên cao. Những đóm lửa đã bắt đầu bén lửa. Tôi chưa kịp mừng...
Chợt một ngọn gió xoáy nhỏ, thật ác, không biết từ đâu vụt qua. Ngọn lửa vừa bén, yếu ớt bốc lên chợt lịm tắt. Tôi hoảng hốt, run bắn người.

-Ôi cũng do mình kiếm quá ít củi khô...
 -Trời ơi! mình phải làm răng đây?

 Que diêm trong cái hộp diêm đó là que cuối cùng tôi vừa quẹt xong. Nếu tôi nhảy qua bên bụi kia lấy ít mồi khô thì chút lửa than còn lại đó sẽ tắt hết. Làm răng, làm răng... tôi thực sự hoảng hốt. Ấn tượng cuống quít đó thật khó quên. Mấy anh đó,  trong rừng ra sẽ đói dường nào. Tưởng tượng bao thất vọng của cả toán. Vác cây ra, ai cũng đinh ninh sẽ có một nồi sắn chín, ăn no đến "phình bụng"...

Bạn đọc còn nhớ các phần cơm bới theo giờ ở đâu? Cả toán đã ăn hết trước khi xách rựa vào rừng. Ai cũng đinh ninh sẽ có sắn nấu do tôi lãnh nhiệm vụ nấu ở khe này:
     -Làm răng! làm răng đây hè?!

Người tôi thật sự run lẩy bẩy do quá lo cùng hối hận.
  Cuộc đời có nhiều lúc chúng ta run rẩy do yếu bóng vía sợ ma quỷ hay do sợ chết, mất của cải quý báu nào đó. Những lúc no đủ, dư dật khó ai đồng cảm với nỗi xúc động của một người tù "mất lửa" đang đối diện với lương tâm do việc làm không tròn. Tôi sẽ hối hận tột cùng khi chứng kiến nỗi buồn lòng, thất vọng do sự hành hạ của những miếng ăn bị mất. Những cái bụng trống không, thèm khát nhiều ngày như thế nào. Một lo sợ, run rẩy sau bao năm tôi vẫn còn nhớ. Thứ cảm giác chua cay, đau xót do miếng sắn thơm ngát dẻo ngon sẽ chín nhờ LỬA; nhưng vụt mất đi do một ngọn gió vô tình.
  
    - Dưới khe một mình tôi không giữ gìn được ngọn lửa, cho lòng tin của anh em?
  Một tia sáng lóe ra trong tích tắc...
   Miếng vải mỏng màu đà tôi vừa vá đắp vào hai bờ vai áo là cứu tinh ngay tích tắc đó. 
-XO...ẠC!
 Không cần suy tính, bao nhiêu sức lực của một ý nghĩ thoáng nhanh... Miếng vải là 'cứu tinh' thật rồi- nó có pha sợi ni lon nên bắt lửa rất nhanh.

Tôi vui mừng reo lên:
   -Cháy ! cháy! cháy lên nữa 'đi em' lửa đã lên rồi!

Tôi muốn hét lên thật to cho hai bên vách núi cùng  chia sẻ với tôi niềm vui được LỬA. Một khoảnh khắc, nhớ, cảm thông. Hồn tôi trôi nhanh về một thuở hồng hoang nào đó - tổ tiên ta tìm ra ngọn lửa. Lửa bao ngàn năm tạo nên bao mạch sống ấm no. Nhưng giây phút đó, chỉ một mình tôi dưới con khe mập mờ ánh sáng của chốn rừng sâu.


   Giờ nồi sắn đang sôi sùng sục như "reo vui" cùng chủ. Cái nắp nhôm đậy trên mấy lớp lá rừng đang rung lên từng chập...

- Sắn, sắn, sắn chín rồi, các anh ơi!

 Một niềm vui không hẹn mà gặp trong những ngày tháng buồn rầu, đói khát, vô vọng và chẳng có gì là vui... 

Tôi cẩn thận đổ nồi sắn chín đầu ra, trên lớp lá chuối rừng. Những củ sắn vừa chín, nứt nẻ, thơm phưng phức. Tôi vừa làm, vừa ăn thử một miếng sắn chín, vừa gật gù như tự thưởng công. Đậy mớ sắn đó lại, tôi còn nấu thêm một nồi nữa. Nồi thứ hai này nếu ăn không hết, cả toán sẽ chia nhau, giấu đem về trại. Bỏ thêm vài que củi, tôi lấy thêm một củ sắn ra ăn như tự 'liên hoan" hay ăn mừng cho tôi khi vừa thoát một tai nạn "hết diêm -không lửa". Vừa nhai tôi vừa cất tiếng hú gọi mọi người. Xa xa có tiếng hú đáp lại- họ đang ra.
   Ngọn gió lạnh lùng quái ác kia lại trở lại. Nó đang xuyên qua lòng khe.  "Thằng khốn nạn" đang trở lại. Nó như muốn trêu tôi hay muốn hại tôi lần nữa. Khi 'hắn' vụt qua cái khoảng trống trên bờ vai áo mà tôi vừa xé, làm tôi thấy lành lạnh.

 Không sao, tôi đã chiến thắng, sắn đã chín, đã sẵn sàng cho các anh đó ra ăn.

Bỗng dưng tôi hưng phấn hẳn lên, vội cất tiếng hú thật to gọi các anh trong toán thêm lần nữa.


*

                                     

                          đường về trại tù Ái Tử


Chúng tôi ra khỏi rừng thường trời đã xế bóng. Trời nắng đó là những ngày vui. Sẵn sàng vác gỗ lên vai, chúng tôi hướng về đồng bằng, chân bước nhanh như nhớ thương dưới đó.

Đoàn người vác gỗ nhấp nhô. Bóng họ ẩn hiện qua mấy trảng đồi. Tháng Tám về, không gian buồn tênh chen trong màu tím hoa sim như cam phận hay cảm thông cho những người thua trận. Ánh tà dương từ từ khuất dần phía tây.  

Trong rừng sâu núi thẳm của gió núi mưa rừng, một ngày xưa có những bóng tù len lỏi đi tìm cây gỗ thẳng. Một ngày xưa, khi bóng chiều bảng lảng xuống nhanh bên mấy trảng đồi có mùa sim chín mọng, vị ngọt của trái rừng nhưng cũng là những kỷ niệm buồn da diết đắng cay từng  trải dài theo bước chân người tù đi nhanh./.

ĐHL ký ức tù binh 

last edition  by ĐHL 

17/6/2022


BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...