NHỚ VỀ NHỮNG MÙA SIM TÍM trung du Ái Tử 1975 Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai...(Dzũng Chinh/ thơ Hữu Loan/ Những Đồi Hoa Sim) **** Tình cờ thấy bạn hữu post hình những trái mốc mốc đố nhau trên mạng, tôi chợt nghĩ rằng chỉ có dân QT mới biết những trái cây hoang dại này thôi. Không biết ý nghĩ này có đúng không? Riêng tôi rất nhớ về hình ảnh những đồi càn vùng trung du Ái Tử. Ngày trước những ai có dịp đi lên nơi này thường hay gặp những đồi sim tím. Đến mùa, sắc hoa màu tím hoang dại tưởng chửng lan tận chân trời. Xen giữa rừng sim còn có một ít những khóm mốc mốc. Sim, mốc đó là những thứ chúng tôi khó lòng quên được ...
edit from TẢN MẠN VỀ MÀU TÍM HOA SIM
HOA SIM THẬT và trái chín
Tình cờ tôi đọc lại lời kể của thi sĩ Hữu Loan về câu chuyện tình xưa vừa lãng mạn và u buồntôi mới lần mò tìm hiểu cái màu tím hoa sim trên mạng.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ sau, bà Phạm Thị Nhu năm 2009.
thưa bạn đọc Thi sĩ Hữu Loan có một màu tím của thơ, của tình yêu trong quá khứ. Một bài thơ nếu tôi không lầm là bài thơtình mà dân ta cho là "hay nhất trong thế kỷhai mươi" một thời đại thơ mớilàm phong phú thêm cho kho tàng tiếng Việt. Chuyện tình Màu Tím Hoa Sim là một tình sử có thật, không chút gì hư cấu, nhân vật chính và phụ đang còn sống để chứng nhân cho đề mục này và chính vì chuyện có thậtđã làm tăng thêm giá trị chuyện tình "màu tím hoa sim. Nhờ tôi muốn nhắc về chuyện khác, đó là những thứ hoa sim trên mạng hiện hành cái nào là hoa sim đúng nghĩa đây?
Tôi dám tin rằng thứ hoa sim chính gốc thì những người tù cải tạo đã "ghi mãi trong lòng. Có hai loại sim -ăn được và không ăn được. Sim không ăn được, chúng tôi hay gọi là "SIM MUA". Cây sim mua cũng có trái, nhưng thô ráp, không chín ngọt như sim thường, chỉ được một điều: sắc hoa mua màu dịu dàng, e ấp , xen kẻ với những lùm sim hoa trái sum xuê dưới trời mây thênh thang, hoang dại.
Làm sao chúng tôi quên được những lúc vác cây về trại. Trung du Quảng trị trời đã ban cho những đồi sim chín bạt ngàn an ủi phần nào cho chúng tôi ngày đó. Nhắc lại quá khứ không phải nhắc lại chuyện hận thù, nhưng dấu ân khó quên những buổi chiều tà, lán trại đường về còn xa dưới mấy chân đồi tạm quên gánh nặng cây gỗ trên vai. Những đồi sim là thực tế trước mắt chúng tôi, những trái sim chín mợng- tháng Tám- căng tròn làm chúng tôi ngẩn ngơ lang thang mãi đến nỗi không thiết tha gì đến chuyện đi về?
---------------------------------------
năm 2006 Nhạc Sĩ Phạm Duy tới thăm nhà thơ Hữu Loan
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010 )
----------------------------------------------------------------- Ngày xưa nhà thơ Hữu Loan nhìn màu tím hoa sim mà quay quắt nhớ thương ngưòi vợ trẻ xấu số, còn chúng tôi lúc này đang len lỏi mãi trong mấy đồi sim mà cám ơn đất trời Quảng Trị đã ban cho chúng tôi chút gì an ủi còn lại.
trai mốc mốc
Tháng bảy sim- tháng tám mốc mốc- tiếp nối tháng chín tháng mười, trời thuơng ban thêm muồng. Những chùm muồng khi chín đã mất đi màu vàng sặc sở mà là một màu đen thẩm. Muồng chín cho vị ngọt của loại mứt chà là, xứ Nghìn Lẻ Một Đêm của những huyền thoại. Những liếp đồi hoang vu chạy xa tít, những con đường mang tình thương cho những ai sa cơ thất thế. Và cứ thế những con đường đi mãi, ngoằn ngoèo lên tận rừng xanh. Chiều về những đồi sim san sát nhau, lan xa tậncuối tầm mắt. Ôi thương sao màu tím hoa sim cùng vị ngọt trái lành, đã là "ngưòi yêu" của những người tù năm đó!
chim đa đa Chúng tôi len lỏi vào giữa đồi sim chín trong khi tai nghe tiếng con chim đa đa kêu trên gò mối xa xa nào đó hay tiếng con chim "bắt cô trói cột" mà chúng tôi ưa đổi thành: -Không còn cơ cuộc!? không còn cơ cuộc ... để ám chỉ cho thân phận mình hay chăng?
chim 'bắt cô trói cột' Trong khoảng trời thanh vắng với núi đồi trung du đầy tràn mùa sim. Đó là khoảng thời gian chúng tôi tự cho là tự do, thú vị nhất trong tháng ngày tuyệt vọng.
bạn Phạm Quý tại Thốt Nốt Long Xuyên và màu tím hoa MUA hình 2/12/2017 (Phạm Quý khoảng năm 1989 có thăm gia đình ĐHL một lần tại Xã Sơn Mỹ Hàm Tân nơi này bạn đó từng ở qua đó là vùng Động Đền của Lưu Dân Khẩn Hoang Lập Ấp 1973)
hoa và trái mua thật vậy; không phải viết để cho có viết. Có những lúc tôi nhớ lại hình ảnh ngày xưa những ngày tàn cuộc chiến...những đồi sim hoang dại vắng ngắt bỏ vác cây rừng bên con đường mòn về trại rồi len lỏi tìm cái 'ăn'. Ôi những trái sim chín vị ngọt ngào an ủi rất nhiều cho những tâm hồn đang buồn da diết ..thỉnh thoảng có những tiếng chim rừng kêu văng vẳng đó đây. Cánh đồi hoang về chiều buồn làm sao? một không gian hoang vắng chẳng có bóng người. Đâu đó trong những lùm cây rậm vài khẩu pháo phòng không của quân miền bắc bỏ hoang lại đây sau cuộc chiến vừa tàn những nòng pháo vu vơ chỉ lên trời? một khối sắt vô tri còn sót lại từ một cuộc chiến tàn khốc một thời gian gầm rú tiếng đạn réo bom rền ...dĩ vãng chiến trận lướt qua như khúc phim ngày nào đó những binh đoàn những người lính chiến những đoàn xe tăng và phi cơ gầm thét... Bốn mươi năm sau, tôi ngạc nhiên xen lẫn mừng mừng khi những sắc màu hoang dại đã được người đời trân trọng chưng vào những chậu hoa. Sắc tím màu sim MUA loài sim không ăn được nhưng sắc tím mặn mà của hoa mua được bạn bè vun trồng chăm sóc, nâng niu. Đổi thay cũng là chuyện thường tình cho nhân thế cũng như cho tạo vật. Một thời sống cùng thiên nhiên nay sắc tím hoa mua đã có một vị trí được ưu ái trong mắt giới yêu hoa.
Tháng ngày dần qua, mỗi lần nghe lại bài hát "Những Đồi Hoa Sim" tôi chạnh lòng thương về một miền trung du xa vời; đó là quê hương của những đồi hoa sim tím lan xa mãi tận chân trời, chứa chan kỷ niệm./.
Khi tôi về, nhìn dân tôi ngỡ ngàng Khi tôi về, nhìn quê hương điêu tàn Nhìn tuổi thơ nghèo nàn, nuôi đời trong dối gian! (Con Đường Tôi về / Lê Tín Hương)
***
Chiếc xe Bình Điền thả chúng tôi xuống gần Ga Huế thì trời chưa chiều lắm. Mấy anh em hối hả chia tay, xong tìm cách nhanh nhất về nhà.
Tôi ngơ ngác ngó quanh. Mấy năm xa vắng cố đô giờ tôi nhìn lại, Huế có vẻ gì xác xơ và xa lạ! Cũng như các bạn khác từ rừng xanh về lại chốn thị thành, mới biết quê hưong chỉ vài năm mà tiều tụy đến não nề! Ga Huế im lìm trong cơn nắng tháng Tám. Cửa cái bể, cái vá. Quanh nơi tôi đứng, vài ba cái quán đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo,năm ba nải chuối đu đưa.
Tiếng mời đi xe của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại: - Đi xe khôn eng...? ! -chú... chú ...đi xe cháu nì chú?! Tôi nhìn quanh toàn là xe đạp. Những chiếc xe méo mó, sét rỉ, không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người Huế giờ lại "sáng tạo" ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Họ phải tận dụng hết sức lực ‘cơ bắp’ của mình kiếm đồng tiền, bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải ‘bấm bụng’ giành miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng. Ngày xưa người ta cũng đi “xe ôm, xe thồ” nhưng tệ lắm là chiếc honda, nhấn ga là chạy “vù vù”, thế mà đã than khổ rồi? Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Tôi ái ngại nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi. Những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo, giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai. Tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi:
-Về Tây lộc mấy rứa? -Chú cho 3 đồng à chú.
Nhìn dáng của tôi, em đó cũng chẳng ‘nói thách’ làm gì, chúng tôi là ... cải tạo mà. Xa Tây Lộc không biết mấy năm rồi. Tôi vẫn nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi, hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây, đặt tên là chợ Tây Lộc, kế đường Trần quốc Toản.
Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương. Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét “rêu phong, rệu rả”. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi hơi lấn người tới trước như muốn mình được ‘nhẹ hơn’. Hỏi chuyện, tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra ngừoi khách. Có khi cả ngày em mới được một ‘cuốc’ xe chỉ đủ mua ba lon gạo.
Xe đã vô cửa Thượng Tứ. Nó cứ rập rành qua mấy đoạn có ổ gà, ổ vịt. Tôi lại rướn người lên cho nhẹ bớt khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ sau, tôi thấy áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.
Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mõi này lại kéo dài trong cái não nùng , buồn tủi, đợi mong.
***
NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH
Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ ‘bạc bắc’ tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp xe vội vàng của em, lưng hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng cảm cho một thiếu niên người Huế, tuổi mới lớn lại gặp gian nan quá sớm. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì. Kiếm khách thêm thì trời đã chiều. Ai đi đâu lúc này? thời buổi ngoài đường người đi bộ “đông hơn xe đạp”.
"Ba lon gạo là cùng!” Tôi nghĩ thầm.
Thời đó “củi quế gạo châu”- vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Vào cuối năm 1975 thời gian tôi đang ở tù tại Trại Ái Tử, mang một đồng “bạc bác” lén về được Chợ Hôm -cái chợ chiều 'chồm hổm' nhà quê gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi mua được đúng "một lon" khoai khô. Tiền thời này, cao nhất là tờ bạc mười đồng màu đỏ trong khi gạo là 'thuốc bổ -sâm nhung '?
Tôi thở dài quay bước tìm nhà mẹ đích tôi (1). Trước kia mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát chợ Tây Lộc, nay đã bị Nhà Nước đuổi hết. Trong chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng"!
Con đường nhỏ về phía phi trường Tây Lộc cũ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi quá mừng và bất ngờ nhưng không quên buông những câu nguyền rũa ai đã giam tôi quá lâu:
-quân chi ác ôn ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới 5-6 năm dữ rứa?!
Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này. Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm. Sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè. Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc. Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền?
Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32$ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' [2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi, sự thật ngoài trại tù lại khác. Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu, cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và “tiêu chuẩn hoá” nên tất cả đều chỉ có sẵn tại 'chợ đen" mà thôi. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ, vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc.
VỀ LẠI QUẢNG TRỊ
Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường quốc lộ gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí. Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng. Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là BA.
Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về 'định cư' gần ngã tư Quang Trung -Hồ đắc Hanh. Vùng này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả, dù xe đò bị vào 'hợp tác xã xe khách ' từ lâu.
Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa thời Thầy Thích Chánh Trực trụ trì. Tôi và Bốn là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu (Cửa Hậu là một cửa của Thành Cổ: Tiền-Hậu-Tả-Hữu). Tội nghiệp, cái xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất. Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai, nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa, biết ai giúp đòi lại? Bà con thôn xóm ngày xưa sống dọc theo con đường Lê văn Duyệt, tản mác tứ phuơng. Kẻ ở trong nam, người tận khu thị tứ Đông Hà. Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng xem như 'xoá sổ', bà con xóm Cửa Hậu, đường Lê v Duyệt - Duy Tân thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư' ra lại vùng này hay về làng.
Chuyện hồi cư lần một, nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1973. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ". Đợt hồi cư thứ hai (1975) là cuộc “đổi đời” sâu đậm nhất: ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên, vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh hay Hải Trí.
Cho đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm tác về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'.
Sau khi ăn uống no nê, gặp gỡ chú thím Ba- ba mẹ Bốn- hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà; Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu thị tứ mới của Đông Hà sau "giải phóng' để tìm bà con xóm Cửa Hậu.
tờ bạc lớn nhất là 10$ vào thập niên 1980
Nào hai gia đình dì của Bốn: dì Nậy, dì Giỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã. Nhà Trần Tài (em út của cac anh Tước , Xê -Tước- Tiết, và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi về ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình; xưa, trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi.
Đông Hà 1975-1980 không thay đổi nhiều
Đến đây, tôi nhớ hình ảnh anh Quang thời học sinh anh Q cũng rất thuơng tôi. Các dì các o ngang lứa mẹ tôi đều thuơng tôi. Ngày 17 tháng 3, 1975 khi rút quân về anh Q. là tiểu đoàn trưởng T Đ 122 TKQT, tôi. chỉ gặp anh lần đó là lần cuối. Thời Cửa Hậu lứa anh Quan anh Truơng Đá, anh Liệu, anh Tùng, anh Thuận (Cai Hy) đều thuơng tôi. Cái tên "Sù Sựa" là do anh Đá đặt cho tôi để “chọc” cho vui. Bốn cứ gọi tôi là "Sù Sựa", bạn ấy gọi riết đến quên cả tên "cúng cơm ' của tôi. Biệt danh này, do Bốn năng gọi mới lan nhanh khắp xóm.
Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà, ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt'. Tôi rất nôn về nam. Gia đình trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ. Tình cảm mẹ tôi tại Tây Lộc, từ bạn bè, bà con lối xóm giúp tôi gầnba trăm đồng bạc bắc cho tôilàm lộ phí vào nam. Số tiến này lúc này không phải là ít. Nó chứng minh điều tôi nói, bà con lối xóm, bạn bè thuơng tôi như tôi vừa viết chẳng hề sai.
Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký, một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố QT. Lọt đuợc vào lòng chiếc xe 'gió', lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời”. (1): ba tôi hai vợ , mẹ ruột tôi là bà hai, còn ở trong nam [2]: năm này còn ăn tiền xu còn gọi là hào: một đồng bạc ăn 10 ‘hào’
Thập niên 1980 dân mình sợ nhất là chuyện đi xa. Huống gì tôi, khi cầm cái giấy ra trại trong tay, nó không thể là cái giấy thông hành loại ưu tiên cho tôi về với gia đình một cách thuận lợi.
Chuyện cái vé tàu
Vé tàu đây là vé tàu hoả, hay xe lửa. Ai gọi sao cũng được miễn là đưa được cái 'thân hình' vào trong toa chiếc tàu chợ là một điều may mắn. Năm này nghe đã có tàu THỐNG NHẤT rồi nhưng đây không phải là hình ảnh người dân mong đợi , huống gì tôi là người tù được tha về.
Từ Tây Lộc tôi tìm cách lên ga Huế nằm chờ trong đêm. "Những tư tưởng lớn gặp nhau" tại đây. Trong cái phòng rộng không ghế, chẳng bàn người dân Huế đã lố nhố ngồi đây từ lâu. Họ còn nhanh hơn tôi, đến đây giờ đang dựa lưng vào vách nhà ga để đợi trời sáng. Những người dân lam lũ tay ai cũng không rời những cái bị lác, nhưng cái bao bột mỳ cũ đựng đồ bên trong. Qua ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn điện tròn tôi hướng về ba cái ô cửa bán vé đang đóng im ỉm vì sáng tới 'cán bộ' mới bán vé tàu.
Tôi cố gắng tìm một chỗ, ngồi bệt xuống cái nền xi măng dơ bẩn, dựa lưng suy nghĩ miên man. Tôi nhớ về hình ảnh mấy ngày qua, y như giấc mộng ... Những cái rẫy sắn bạt ngàn, những rừng mây nước đầy gai của Bình Điền phía Tây nam Huế, tiếng trại đọc tên người được tha về, những bước chân người về vội vã không dám ngó lui cái trại tù quá nhiều ấn tượng... tôi không thể chợp mắt chút nào, lòng nôn nao tưởng tượng đến hình ảnh gia đình tôi ba mẹ, các em, dì cậu bà con trong đó sẽ mừng thế nào khi bước chân tôi về đến ngõ.
Tôi lại nhớ về hình ảnh mẹ đích tôi em Hoà... còn lại sinh nhai ở Tây Lộc, anh Nghĩa, con đầu ba tôi giờ phiêu bạt ra sao? Tiếng mừng rỡ của những người bạn chí thiết của tôi tại xóm Cửa Hậu một thành phố mất rồi. Sự giúp đỡ chí tình của Bốn và bà con bạn bè ngoài Hải Trí, ngoài Đông Hà, ôi ! một tình thuơng, ngập tràn ân nghĩa.
Đêm còn dài. Tôi không dám bắt chuyện với ai. Cái rụt rè của người mới ra tù, giờ tôi nhớ lại. Có lẽ họ xem tôi như 'anh du kích' nào trên rừng mới về do tôi không bận áo quần sọc tù mà bận cái áo ka ki lính màu ô liu đã bạc màu . Cái mũ cối bằng rơm vàng mà trại phát, thêm cái ba lô VNCH cũ mà tôi từng dùng bao năm nay. Thỉnh thoảng tôi nắn lại kiểm soát cuộn tiền xem còn không? Tôi chia số tiền ra hai nơi; một nửa để mua vé, một nửa phòng thủ khi cần thiết.
GIÂY PHÚT BON CHEN
Độ ba giờ sáng thiên hạ đã tới chật cứng cả phòng đợi. Tôi bắt đầu cảm thấy ngột ngạt, sự lo lắng của tôi tăng cao dần. Làm sao mà có vé bán đủ cho ngần ấy người ? Làm sao tôi có vé đây ? Hình ảnh khi trời rạng sáng sẽ ra sao trước ba cái ô nho nhỏ bán vé kia?
Năm giờ sáng trời đã hơi ràng rạng. Những khuôn mặt bồn chồn, tiếng ồn ào bắt đầu huyên náo. Một đám đông không phải đang sắp hàng thứ tự mà một đám đông bắt đầu dồn nén lẫn nhau. Từ ông già, trung niên cho đến mấy anh thanh niên đều chuẩn bị. Tôi tưởng tượng tất cả 'cơ bắp' của họ đã 'sẵn sàng'!
Riêng tôi tới sớm nên không cách cửa sổ bán vé bao nhiêu. Trong tâm tôi, nửa do dự nửa lo sợ, không sẵn sàng 'tung hết' sức lục ra đối phó với tình hình xem chừng gay cấn đến nơi. Mới ra tù, cái gì tôi cũng lo, cũng sợ. Tôi chưa hết cái cảm giác bị ràng buộc, canh chừng như ở trong trại. Mọi người, mọi thứ đều hơn tôi một bậc nên không dám dằng co hết sức với họ ...
Chợt tiếng tu huýt của người bảo vệ rít lên!?
Cửa bán vé mở rồi!
Tôi không kịp thấy người bán vé là nam hay nữ trong đó vì có một sức mạnh như 'triều dâng thác lũ' cứ đẩy tôi lui dần, lui dần ... Lúc này sao tôi yếu quá? Hết sức bình sinh tôi cố lấn tới nhưng rất ít kết quả nào?
Tiếng la hét, chửi rủa loạn xạ vang lên như muốn nổ tung cái phòng đợi vé. Hết kiểm soát thật rồi?! Sự mất kiểm soát đến quá nhanh ngoài trí tưởng tượng của tôi? Nhưng thật ra có ai kiểm soát trong cái phòng này đâu? Giờ chỉ còn là sức mạnh và la hét cuồng nộ thôi; ngoại trừ tôi, do quá rụt rè không dám kéo ai, mạnh tay hay 'dữ dằn' với ai...
Tiếng còi lúc nảy giờ vang lên từng hồi liên tục, tiếng la ơi ói từ phía trước linh cảm có gì xảy ra? Có chuyện gì bất thường trước đó?
-Xê ra! xê ra !
Người bảo vệ vừa thổi còi vừa đạp lên vai người dân bươn về trước, tiếp đến hai ba người nữa. Anh ta phải đi trên "đống người" vì không còn cách nào chen lấn nỗi. Mặt anh đỏ gay, hơi thở hồng hộc, cái băng đỏ bảo vệ bên tay áo phải xập sình gần rời ra. Không ai chống lại anh. Bảo vệ vừa kéo vừa la hét, họ đạp trên đầu đám đông thật sự; tuy vậy chẳng thấy ai lùi lại sau.
- Chuyện chi? chuyện chi rứa!?
Câu trả lời rõ ràng cho tôi là hình ảnh ba người bảo vệ kéo lê thân mình anh thanh niên đầu tóc rũ rượi ra ngoài. Thì ra anh ta bị ngất. Tôi chứng kiến một sự thật trước mắt: một thanh niên phải xỉu khi giành vé tàu.
- Hết vé! hết vé rồi!
Tôi nghe tim mình như ngưng đập, trời đất muốn sụp đổ!
- Hết vé ? làm răng đây?
Cả đám đông khựng lại:
- Răng mà hết vé? mới bán mà?
- Tiêu chuẩn... ưu tiên... vừa phải thôi chớ?!
Người ta càu nhàu, người ta chửi rủa. Tôi không còn nghe gì khi trong tôi đang 'chết lịm' !
....
Thất vọng !
Thời gian này tôi vào phòng bưu điện đánh giây thép [1] vào Hàm Tân cho gia đình tôi biết khó mua vé tàu.
- Răng eng không tới Công An ga xin phương tiện ?
Một bác không mua được vé như tôi, sau khi nghe hoàn cảnh tôi mới được tha về nên mách cho tôi vậy...
Phòng công an Ga Huế nằm ở cuối dãy nhà này. Thú thật, vì nóng lòng bởi phương tiện nên tôi mới 'bấm bụng' đẩy cửa bước vào thôi.
Tôi không còn nhớ mấy ông công an Ga Huế bận đồ thường hay đồ cảnh phục nữa. Tôi đưa giấy ra trại ra và trình bày. Hình ảnh tôi nhớ sâu đậm nhất là cái lắc đầu lạnh lùng và ánh mắt lừ đừ như vô hồn từ chối lời thỉnh cầu của tôi về chuyện vé tàu vào nam. Họ trả lời tôi, họ chỉ lo an ninh còn vé tàu thì họ không có thẩm quyền .
Thế là hết, tôi thất vọng đi ra.
Tôi đi lên, đi xuống, gặp ai tôi hỏi đó...
Chợt ánh mắt tôi bắt gặp một đám người đang lố nhố trước mắt, tôi bước nhanh tới đó. Một thanh niên và một đứa bé đang đứng trấn một lỗ hổng vừa người chun qua tại bờ tường chia cách sân tàu tới và phía ngoài đường.
Người thanh niên và đứa thiếu niên đều có giọng nói Hà Tĩnh Nghệ An gì đó:
- Bác đưa ba đồng thì qua lộ ni! chờ tàu tới mấy bác cứ lên và sau đó cứ ghi vé phạt, ba đồng ba đồng thôi...
Tôi nghe thế mừng như sắp ‘chết đuối vớ được phao’ vậy. Thú thật giờ này mà hai người kia nói năm hay mười đồng tôi cũng phải đưa thôi. Một điều lạ, tại sao có cái lỗ này? mấy ông bảo vệ sao không biết ? Vào thời điểm đó tôi không có thì giờ để thắc mắc, chỉ đưa ngay ba đồng cho anh thanh niên giọng Nghệ An kia. Thấy lâu, anh ta vội đẩy tôi lên cao bảo tôi nhảy qua tường, dành lỗ đó cho mấy người còn lại chui qua...
Nhảy xuống xong, vội móc ngay cái ba lô lên vai, một thoáng nhìn anh thanh niên ra vẻ biết ơn, tội vội vàng chạy càng nhanh càng tốt do sợ an ninh bắt lại?! Cái sợ của tôi 'nhân đôi' do rằng tôi là một 'thằng phạm' [2] mới được tha về...
Đinh Hoa Lư
(Trích ‘Ký ức Ra Trại’ của tác giả)
[1] Ngày xưa đánh điện tín (telegraphing) người trung hay nói là đi 'đánh giây thép'
[2] Ngoài kia hay gọi người tù nguòi bị án là phạm (phạm nhân)