Saturday, November 14, 2020

RA TRẠI chương 7 : VỀ NHÀ (hết)

 

VỀ NHÀ - Đinh Hoa Lư


                  
                                 Tác giả Đinh Hoa Lư
      

        VỀ NHÀ

         (Phần cuối “Hồi Ký Ra Trại” của Đinh Hoa Lư)

Ngày trở về, anh bước lê
Trên quãng đường đê đến bên lũy tre
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về
                                          (Ngày Trở Về / Phạm Duy)


Chiếc xe chạy khá nhanh, nó kiếm thêm một số khách kha khá trên đường vào. Hành lang giữa xe chật cứng. Cũng may tôi ngồi cuối cùng chỉ chờ lơ xe kêu xuống Ngã Ba Bốn Sáu chặng Rừng Lá thôi nên chẳng di chuyển làm gì. Người ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao tìm khoảng trống để thở. Tôi cảm thấy thoải mái khi 'an phận' và nhờ lên xe trước. 


Phụ lái xe lấy 'ngon ơ' của tôi đúng một trăm đồng xong bỏ vào túi, tôi chẳng thắc mắc gì thêm. Chuyện tiền nong của anh ta với tài xế không liên quan gì tôi. Tôi lại âm thầm 'cám ơn' cái ghế 'súp' hiếm hoi do anh ta dành cho tôi lúc xe vừa rời Bến Nguyễn Hoàng.

Chiếc xe khách chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển rong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.

Tôi thích cảnh biển Ninh Chữ  do nó đẹp phải nói là quá đẹp đối với tôi. Như vậy là gần Phan Thiết - "quê hương nước mắm" rồi. Từ Phan thiết vào đến Bình Tuy không còn bao xa.


Qua khỏi cầu Phan Thiết, chiếc xe đang vào Thành Phố. Ngồi trong xe, tôi vẫn ngửi được mùi nước mắm từ mấy hãng nước mắm gần múi cầu. Những đống hũ nhỏ, sơn trắng la liệt dưới kia. Người ta vẫn còn làm nước mắm đựng trong hũ (còn gọi là trĩn) đất như xưa. Chiếc xe dài đang chạy xuyên qua Thành Phố. Phố Phan vắng vẻ, buồn hiu. Những cửa tiệm thưa thớt, vài chiếc xe honda 67 màu đen còn sót lại chạy vù qua mặt chúng tôi. Bạn cùng lớp với tôi, Nguyễn Cường Nam, ra trường sau tôi, hồi đó nghe tin Nam 'trấn nhậm' cây cầu nào ngoài Phan Rang? Giờ tôi không còn biết tin gì về Nam? Phan Rang xe đã qua rồi, đây là Phan Thiết; có thể Phan Rang, thị trấn nhỏ quá, nên tôi không để ý.

Rừng Lá !

Xe ngang Rừng Lá. Người ta đặt tên là Rừng Lá không biết do sao? Trước đây mỗi lần xe chạy ngang đây ai nấy cũng lo, cũng hồi hộp. Nỗi ám ảnh bị 'du kích' ra chận đường, một ‘rừng lá của mật khu’ của 'người bên kia'. Vào đây "rừng lá' tôi cũng thoát do gặp may không có 'du  kích' nào ra đón. Chuyến đi phép cuối năm 1974 cũng là chuyến đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời lính, tôi "bận đồ lính" tôi thoát được một mối nguy hiểm tại Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, Bình Định. Do tôi 'điếc không sợ súng' chứ người dân họ biết hết, nơi nào có du kích họ đều biết. Tôi lúc này đúng hai mươi mốt tuổi, trẻ măng, bận bộ đồ xanh ô liu, trên ve áo còn mang hai 'quai' chão đen sì, may liền vào cổ áo không gỡ ra được. Một anh trung niên, bận bộ vét trắng, mang kính cận ra dáng trí thức. Tôi nhớ anh nói giọng Quảng Nam cứ đi 'kè kè' bên tôi để che giúp bộ đồ lính mà tôi đang bận. Giờ mấy mươi năm qua, tôi chỉ có lời CÁM ƠN MUỘN MÀNG đến tấm lòng nhân hậu của người dân trên chuyến xe đò năm đó mà thôi. Năm đó trong nhà ai cũng mừng cho tôi 'thoát nạn'. Nhưng về lại đơn vị TKQT tức trả phép, ba mẹ tôi phải 'ráng sức' mua vé máy bay cho tôi ra lại Huế, chiếc DC- 4 bốn cánh quạt bay vù vù gần 3 tiếng mới tới Phú Bài. Đó là chuyện 1974 chuyến phép cuối cùng của tôi và cả những ai phục vụ trong QLVNCH cũng nên.

Và giờ đây là  'Rừng Lá' của năm 1980, của mừng vui, không lo sợ, không hồi hộp gì nữa! Cuộc chiến tranh hai mươi năm đã kết thúc rồi. Kẻ thắng người thua cũng đã xong rồi. Bao bàn thờ của người dân cũng đã thôi thắp thêm bát nhang mới. Nước mắt bên nào cũng đã cạn khô theo bao năm lửa khói sinh tử biệt ly. Bao mẹ già bao cô phụ mõi mắt chờ con chờ chồng ...
Hôm nay, tôi là một trong bao nhiêu người tù vừa được 'RA TRẠI' và sắp về đến nhà. Còn sống là còn trở lại...
 Dòng suy nghĩ của tôi đột ngột ngưng hẳn do anh chàng lơ xe báo cho tôi biết sắp đến Ngả Ba 46, họ sẽ cho tôi xuống đó.

Tới rồi! về nhà rồi ! một cảm giác hân hoan, hồi hộp khó tả trong lòng tôi.

NGẢ BA BỐN SÁU

Xe thả tôi xuống liền rồ máy chạy ngay. Tôi đứng bên đường nhìn theo chiếc xe dài, màu vàng nhạt khuất hẳn dưới con dốc xa xa.
Trời thật sự chiều. Con lộ chính đất nước giờ này thật vắng. Tôi băng qua đường. Ngã ba này giờ chỉ vài cái quán lèo tèo, vắng khách. Giờ này tôi không còn tìm ra một phuơng tiện nào để về La Gi cả.


Trong chuyến phép tôi vừa kể đoạn trên, tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về La Gi. Những chuyến xe lam đông khách từ ngã ba Bốn Sáu này đây. Hồi đó nhộn nhịp làm sao. Về La Gi một chặng đường 18 cây số. Hai bên đường đa số là người dân Quảng Trị theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp 1973.
Giờ tất cả đều vắng, ngả ba này không có ai ngoại trừ tấm bảng xi măng rất lớn đề dòng chữ:

RỪNG LÀ VÀNG... ĐỐT RỪNG NHƯ THỂ ĐỐT DA THỊT MÌNH
                                                                   (Lời TT Phạm văn Đồng)

Tấm bảng kia dĩ nhiên là mới lạ đối trước mắt tôi kèm theo sự vắng vẻ một 'NGÃ BA 46' ? Hình ảnh sáu năm trước, một thời xe lam, xe ôm rộn ràng lên về La Gi, trong đó có khá đông lưu dân QT.
Chuyện đi bộ theo con đường này về nhà là chuyện bình thường đối với tôi lúc đó. Những ngày trong Trại Ái Tử, những đoạn đường vác gỗ nặng từ rừng về trại cũng non hai muơi cây số; huống gì bây giờ, tôi bước thênh thang. vai 'nhẹ hều' cộng thêm niềm vui quá lớn.
Mặt trời chưa lặn hẵn. Tôi còn thấy được những xóm nhà hai bên con đường nhựa không rộng mà không quá hẹp. Vài đám ruộng cỏn con, xen vài luống mía. Những túp lều tranh còn vương khói, xen kẻ vài mái nhà tôn xi măng xam xám. Bên trái tôi một bóng núi nhòn nhọn. Rừng chiều dần dần đen sậm lại. Cảnh vật im lìm trong bóng hoàng hôn. Tôi cúi đầu bước nhanh trên con đường vắng ngắt không còn xe hay người đi. Hình như tôi muốn đuổi theo ánh sáng còn sót lại của một buổi chiều sắp hết.
Ngang cầu Suối Đó thì trời đã tối hẵn. Nhờ ánh trăng thượng tuần nên con đường không tối lắm. Con sông chảy qua cầu vào mùa này đã cạn nên tôi dễ dàng lội qua. Cái cầu đã sụp đổ. Ban ngày, có lẽ xe đò chạy vòng đường khác. Lội qua con sông cạn, leo lên lại con đường, tôi dựa lưng lên cái ba lô tạm nghỉ mệt trên con đường nhựa.

Động Đền trong kia, nơi bà con tôi ở rất đông. Ngày đó tôi thăm vùng này được hai ngày trước khi ra lại Quảng Trị. Sau 1975 nhà ba mẹ tôi từ Mỹ Tho mới về tập trung tại đây. Động Đền, nơi người Quảng Trị ở gần bên nhau. Rẫy rừng than củi, buôn bán nông phẩm là chính. Những cái quán cà phê tranh nho nhỏ, những cái chợ cũng nho nhỏ, những mái trường cho con em Quảng Trị và những chuyện gì nữa sinh ra từ vùng đất mới này, tôi không tường tận gì lắm. Sau năm 1972, gia đình tôi 'chạy' thẳng đến Mỹ Tho, chỉ về tập trung ở đây sau năm 1975; và đây cũng là lý do tôi khai địa chỉ trong giấy Ra Trại là vùng này.

      

Mặt trăng thượng tuần gần lặn, tôi vội vã bật dậy tiếp tục bước nhanh...
Ngã Tư Quân Cảnh đây rồi!
Tôi rẽ phải vào con đường đất, nó không còn trải nhựa nữa. Chỉ vài cây nữa là đến Động Đền. Nhưng nhà tôi ở xóm nào? tôi hoàn toàn mù tịt, trong địa chỉ là xã Tân Mỹ thôi.
Con đường đất lồi lõm, khó đi trong bóng đêm. Tôi cứ men theo vậy đi mãi. Ánh đêm và thôn xóm tối đen hai bên đường. Trời về khuya, tôi càng lúc càng bước nhanh; hình như tôi đang mò lên một con dốc [1]. Còn ánh đèn nào leo lét tôi đánh bạo bước vào hỏi nhà.
Một giọng nói Gio Linh của một chú trung niên trả lời:
- Ôi o Dỏ... thôn Cam Bình phải khôông? chú đi lui xuống ngay dưới dốc là đến ngay thôi ...
Hú vía! tôi mừng quá cám ơn chú kia lia lịa. Người khách trong đêm như tôi lại mới ra tù chắc là một chuyện cho gia đình kia bàn tán 'đỡ buồn ' -có thể họ mới đi làm rẫy về, chưa ngủ? Tôi quay bước trở lui, mò mẫm trụt xuống con dốc, con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.
Thật may! vẫn còn ánh đèn nào leo lét vừa thắp lên trong mái nhà tranh bên tay phải tôi. Tôi nhớ mang máng lúc qua đây, tôi không thấy có ánh đèn này, có thể họ vừa làm gì đó, mới thắp lên lại? Mừng rỡ, tôi gõ cửa...
Trong mái nhà tranh lụp xụp, ở căn giữa kê sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp, trên thắp một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng lù mù. Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, còn phảng phất đâu đây mùi thơm bún xáo do khách vừa ăn xong. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm 'ngủ' trong đêm. Thật lạ! không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người. Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi [2] người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn vàng vọt. Tôi vừa kịp nói xong, bác vội nói lớn lên giọng mừng rỡ với cái giọng bắc 'di cư' :
- Ôi ! cậu là Phúc con o Dỏ phải không? theo tôi, theo tôi, o Dỏ ở ngay sau này rồi.
Bà vội cầm cây đèn dầu, dẫn tôi đi ngay.
Con đường vào trong xóm tối om, nhưng chỉ một đoạn thôi. Một mái tranh lụp xụp, lờ mờ dưới nền trời khi ánh trăng thượng tuần vừa khuất.
Cầm cây đèn dầu môt bên tay, bác kêu lớn:
- O Dỏ  ơi, o Dỏ! thằng Phúc về rồi o Dỏ ơi!

                                                                                     Đinh Hoa Lư

TÙ BINH RA TRẠI 1

 

RA TRẠI By Đinh Hoa Lư


Bình Điền, Huế 12-6-1980

Làm sạch lại cái ba lô bạc phếch, tôi lật đật bỏ vào vài thứ phải mang theo hôm nay. Chỉ vài ba thứ gồm- bộ áo quần tù mới trại phát, tôi chưa bận lần nào, tất cả thư từ gia đình gữi , vài sợi dây dép lốp. Chừng ấy thôi tôi chẳng có gì để mang về. Tai như ù, miệng khản đặc, tôi lắp bắp nói với mấy anh bạn tù vừa được trại kêu tên ở lại.
-anh cũng có tên, anh Quyết! anh Chuân nữa anh cũng có tên nữa!
....
Làn sương mờ mịt trên đỉnh Bastogne ẩn hiện phía ngoài trại tù. Xung quanh còn dày đặc sương vào sáng sớm, giờ đi lao động. Trại gồm mười dãy nhà tranh song song. Những liếp nhà giữa hai lớp hàng rào cao bằng thép gai, phía trong còn đặt bùng nhùng 'concertina' của Mỹ. Cái chòi trước cổng cao nhất, trên đó có một công an áo vàng cầm sổ điểm danh. Từng đội tù lần lượt ra cổng ...
-những anh có tên sau đây ...đứng qua một bên
-Nguyễn văn A
-Trần văn B
-Ngô văn Chuân
-Nguyễn văn Quyết....
-Đinh trọng Phúc

...
Lỗ tai tôi như lùng bùng , tôi cố tin là mình nghe không lầm ?
-Có phải tên em khôn anh Quyết ?
-Đúng rồi, tên em đó mà, cả tên anh nữa!
Anh Quyết đội trưởng, mấy người khác và tôi nhanh chóng đứng qua một bên. Những khuôn mặt nét căng thẳng. những người được gọi tên cố làm ra vẻ 'nghiêm trang' nhưng nhưng thật ra ai cũng sướng 'muốn điên'. Bao lần rồi, mỗi lần cán bộ trực đứng trên cái cổng kia đọc tên là có một đợt trại cho tù về. Giờ tuy không nói ra nhưng ai cũng biết.
Các khối kia cũng vậy; mỗi khối có vài người bước ra khỏi hàng. Sáng nay không còn tiếng nói chuyện xì xào râm ran như mọi khi. Ngoại trù những người có tên đứng lại, còn tất cả lần lượt bước ra cổng tiếp tục đi làm. Những khối tù lần lượt bước xuống những bậc tầng cấp có chắn ngang bằng gỗ rừng, nét mặt đăm chiêu, tư lự:
-Ê nhớ để cái... lại cho tau nghe Q
-Ê mi bỏ cái ...cho tau nghe
...
Những người thiếu may mắn trong đợt này cố ngoái đầu dặn dò người về sáng nay những lời dặn dò như vậy, những thứ cần dùng. Chiều nay khi họ về thì chúng tôi, những người được gọi tên sáng nay, đã rời Trại rồi.
Cái kim may, khúc chỉ, cái lon gô, cái chén cơm, cái bi đông nước ...thậm chí cái bào sắn ra sợi ...mọi thứ đều là 'bảo bối' trong tù.
Tôi để lại cái mũ đi rừng, cái gô đen lại cho thằng Thu nằm cạnh. Hắn dặn tôi thật kỹ trước khi bước ra cổng. Đầu hắn cứ ngoái nhìn lại, ánh mắt khẩn cầu. Nhà Thu ở Huế, tôi thì ở tận Bình Tuy nên hắn chẳng ai cần dặn nhau trước gì, lý do nếu ai về trước thì chẳng có cơ hội ghé được nhà của ai. Những người ra tù hôm nay đa số gốc Huế. Mấy đứa bạn mà tôi có thể nhắn nhe được về cho gia đình như Côn như Huấn, thì ra tù trước tại Ái Tử, Quảng Trị, sớm hơn mấy năm.
Tôi bỏ vội cái gô và cái mũ vào cái ba lô của Thu phía trên sạp nằm. 'Chia gia tài' là giây phút này, tình bạn cũng thể hiện giây phút này. Kẻ về người ở, những cục đường, những lát khoai luộc, mấy thứ linh tinh tôi đều bỏ lại cho Thu. Tình cảm chân thành hay an ủi nhau ở phút này. Về và ở hay đồn đoán lao xao trong trại, không ai biết ai đi, ai ở, để nói chuyện, để nhắn trước. Cuộc chia tay không bao giờ được trại cho biết trước do 'an ninh ' hay này nọ ...
 Tầng cấp bước lên những căn nhà cán bộ trước trại sao hôm nay tôi bước nhẹ hều. Bước chân lâng lâng sung sướng, cảm giác hơn năm năm tôi mới có. Trong phòng cán bộ đi ra, tôi là người được trại cho số tiền “lớn nhất”- ba mươi hai đồng bạc- do gia đình tôi ở tận Bình Tuy cách xa đây hơn một ngàn cây số!
Tôi không nhớ có ngoái lại nhìn cái cổng, cái chòi gác cao của trại một lần cuối cùng hay không, ngoại trừ một hình ảnh tôi nhớ rõ, đó là anh 'tăng gia sản xuất' đứng tần ngần bên mấy luống rau xanh nhìn theo chúng tôi. Khỏi đoán, tôi biết anh đang nghĩ gì.
Thôi, xin giã từ mấy công việc lấy 'phân tù' trộn băm với lá rừng làm nguồn bón cây. Anh' tăng gia' kia còn mãi công việc 'chẳng đặng đừng'- hòa tưới phân người lên mấy luống cải xanh đang mọc nhanh 'phơi phới'. Cũng giống toán thợ rèn làm ra cuốc rựa, ba 'lạng' mỳ tươi 'bồi dưỡng ', đó là phần thuởng của Trại tặng thêm cho họ trong ngày.
Giờ toán chúng tôi cất bước ra về. Tự do thoải mái-khó diễn tả nỗi háo hức bên trong mỗi người, nhưng tất cả đều chung một ý nôn nóng về nhà thật mau.

MẤY ENG VỀ CHỊ CÓ ĐEN THÌ ĐỪNG CHÊ NGHE MẤY ENG!



Mấy trảng đồi đang phủ màu xanh của sắn Bình Điền. Bao công sức của người tù tạo dựng nay xin bỏ lại phía sau. Tước mắt chúng tôi hiện lên hình ảnh xóm làng kinh tế mới của dân mới lên vùng này. Người Huế lên đây không biết khi nào? Họ lên lập nghiệp hay sao? cảm giác chúng tôi thật lạ! Ngày đó đây là rừng, nơi của chiến tranh, mịt mùng khói súng, "Mặt Trận Tây Nam Huế" hàng ngày tin chiến sự in đậm trên mặt báo Chính Luận, Sóng Thần, hay nghe qua đài BBC, VOA,. Chỉ sáu năm thôi tất cả đều đổi thay, như một giấc mơ, thật sự là mơ ?
Những trảng đồi khai hoang bị đốt cháy nham nhở. Hai bên con đường đất đỏ vài cái quán tranh sơ sài. Phía sau lưng chúng tôi, trong xa kia là mấy trại tù. Những năm xa cách, không ngờ người dân cũng 'đổi đời' như chúng tôi cùng 'đáo sơn tầm thực'. Tù thì trồng sắn, dân cũng chẳng khác gì, tất cả đều lên đây, phá rừng trồng cây lương thực thay cho lúa gạo.

Chúng tôi không ai bảo ai đều sà vào cái quán cơm bình dân bên đường trong lúc chờ xe đò từ Huế lên.
O bán cơm đon đả mời chào:
-rứa là sướng quá rồi mấy eng ơi , dưới nhà chắc mừng lắm hỉ!

Mấy anh và tôi 'dạ dạ' luôn miệng, thật lòng cảm tạ lời chúc mừng của O. Lạ gì, thấy chúng tôi, người dân biết ngay tù mới được tha. Nhiều lần như vậy rồi. O nhìn những chiếc áo vằn vện, sọc ngang dọc ai mà chẳng đoán ra. Phải kể mấy cái ba lô nữa, đủ hình dạng, nhưng tất cả đều nhẹ hều. "Gia tài' của tù đều bỏ lại cho bạn. có gì quý đâu ngoại trừ “mang cái mạng” về với gia đình.

- mấy eng ăn cơm cá dưa kho hỉ?
-mấy đồng rứa o?

Tôi chỉ hỏi giá, còn chọn lựa thì không. Cơm là 'nhất trên đời" và cũng là thứ hàng 'độc nhất vô nhị' trong cái quán này.

-hai đồng eng nờ!
"Thế là miềng còn 29 đồng còn đón xe hàng về Huế nũa," tôi thầm nghĩ.

Gần sáu năm trời, hôm nay tôi mới ăn tô cơm 'ngon nhất' trên đời. Cơm trắng, O đơm khá đầy, cộng thêm hai con cá nục cùng mấy lát dưa huờng kho thấm thía làm sao! Vị giác của tôi lúc này đang 'liên hoan' trong tài kho nấu của O bán hàng người Huế.  Cái bao tử sẵn sàng tiếp nhận những gì từ miệng tôi sau khi 'thuởng thức' và đưa xuống. Tất cả đều thoải mái, không còn những lúc chần chừ lưỡng lự ...hình ảnh mới hôm qua- những củ khoai, khúc sắn phải chia đều trong trại. Củ sắn chia xong, ăn nhanh thì sợ hết! tôi để dành một ít về đêm, ăn dằn bụng trước khi đi ngủ.

Hầu như mọi người đều có lộ phí và ăn tô cơm cá dưa kho của o bán hàng. Những cái đầu gật gù, những lời nói chuyện râm ran, những hẹn hò gặp nhau sau ngày về với gia đình. Chúng tôi không quên nhau- Ái Tử -Thanh Hóa cho tận Bình Điền, biết bao kỷ niệm buồn vui.

O bán cơm bận áo Bà Ba trắng
 nhưng đã ố vàng do bụi đỏ Bình Điền và dãi dầu ngày tháng trên này.  Tuy nước da O sạm đi do nắng nóng đất khai hoang nhưng không che đi cái 'chất Huế' từ dưới thành phố lên đây. Dáng nhanh nhẹn, giọng mời ngọt ngào bao lâu nay O quen mua bán dưới Huế. Giờ lên đây, cũng bán mua, nhưng là hàng cơm và thức ăn bình dân hạp với dân nghèo, lam lủ với rẩy rừng, cuốc rựa.

-Mấy eng về chị có đen thì đừng có chê nghe mấy eng!

Câu nói ra bất ngờ của làm chúng tôi không ai bảo ai đều ngước lên nhìn O.
Có thể mấy năm trước O từng chứng kiến cảnh túng bấn của bao người vợ tù gian nan, tất tả ngược xuôi. Những người vợ, người mẹ hay con dâu này bán hết những cái gì bán được trong buổi 'giao thời'. Từ vòng vàng, nhẫn cưới kỷ niệm, cái máy hát, rồi tủ bàn và áo quần nào còn đẹp, tất cả lần lượt ‘ra đi’ do cái thiếu đói của bầy con, sau ngày ba chúng đi tù.
Trong nhóm, tôi là đứa em cấp bậc nhỏ nhất, lại độc thân. Tôi chưa thấm thía những cảm xúc bằng các anh, những người bao đêm quay quắt nhớ vợ thuơng con.
Những tô cơm hôm nay, O xúc đầy hơn, không tính toán. O mừng cho chúng tôi. O nói thật lòng. Năm tháng chịu đựng gian truân, thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, những người vợ tù đáng quý biết bao! Sao mà chê 'đen' được các chị ở nhà ? 'thân cò lặn lội' gần xa, bao dặm đường gian nan tìm ra hạt gạo nuôi con, phần lo bới xách cho chồng trên trại. Hình ảnh đoàn người thăm tù hằng hai tháng, những người đàn bà nay quần thô áo vải, theo bước đi vội vàng, hai cái túi xách đu đưa hai đầu đòn gánh.

Chiếc xe hàng từ Huế lên rồi. Từ xa đám bụi vàng bốc cao. Chúng tôi trả tiền cho o bán cơm vừa khen, vừa cám ơn o về đọi cơm sao ngon quá. Ánh mắt o long lanh, những niềm vui hôm nay cùng nhau chan hòa. Vội vàng ra khỏi cái cái quán tranh, chúng tôi chạy vội tới chiếc xe đang dừng tại cái bải đất trống dưới chân đồi. Vừa chạy, nhưng tai tôi tưởng chừng câu dặn dò của o bán cơm còn văng vẳng sau lưng:

Mấy eng về chị có đen thì đừng có chê nghe mấy eng

RA TRẠI chương 6 : NHA TRANG NGÀY VỀ

 


QUA LẠI NHA TRANG  
Trích Hồi Ký Ra Trại của Đinh Hoa Lư

Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại
Ầm ầm tiếng sóng xa đưa ...(Minh Kỳ)

 *****

                                         Bãi Tiên Nha Trang 
Tôi mất một ngày và một đêm trên chuyến tàu chợ vào Nha Trang. Nếu là tàu Thống Nhất, nó sẽ đi suốt vào tận Sài Gòn, nhưng đây là “tàu chợ’ nó ngang Nha Trang là hết. Tôi nghe cái tên “Tàu Thống Nhất” từ hồi còn ở trại Ái Tử. Những tờ báo Nhân Dân trên “căn tin” (tiếng này tôi không tự đặt ra mà trại gọi tên cho cái phòng đọc báo) hay cứ cho là 'thư viện tù' cho nó quan trọng một tí. Những tờ báo Nhân Dân đóng nẹp tre cẩn thận, móc trên vách đất của phòng đọc báo trong trại ngoài ra không có sự chọn lựa nào khác. Nhớ đến ‘căn tin’ đọc báo kia, nếu không lầm ngày đó có tập truyện mỏng có tựa là "Cây Đa Bến Cũ" của hàng binh Phạm văn Đính. Gần hai ngày, chiếc tàu không có 'dịp may' nào dừng lại chờ tàu Thống Nhất qua mặt nên tôi không hình dung tàu đó nó đẹp, sang, to lớn ra sao?

*****
 Khoảng sáu giờ sáng tàu sắp qua hầm đèo "Rù Rì'. Người ta cho biết, và tôi cũng biết khi tàu qua Ninh Hoà, đi vào thêm vài chục cây số nữa.



Tôi đã về nhưng chẳng còn ghé được Nha Trang!
Tính từ ngày ra trường, cuối tháng 11 năm 1973 đến nay tháng Tám 1980 ngót 7 năm xa Đống Đế, xa đèo Rù Rì và những bãi tập chiến thuật trong mấy tháng quân trường. Mau quá, hơn bảy năm qua biết bao biến đổi cho một miền nam và cuộc đời những thằng lính, những đứa tù binh?
 Bao người nằm xuống thì an phận rồi. Họ đã đền xong nợ nước, kể cả nợ đời hay nợ áo cơm.

Nhưng nhiều người còn lại phải chật vật, khốn khổ với hai chữ "ĐỔI ĐỜI”. Hoàn cảnh giờ đây chẳng khác gì những mớ rác hỗn độn, đủ màu sắc bị quăng vào và lắc đều trong cái thùng lớn, từng ngày từng giờ. Hình ảnh trước mắt tôi hai ngày nay, kể cả bản thân bị chao đảo, dồn ép trong những toa tàu chợ hôi hám, nóng nực.

Tàu đã vào khoảng tối cái hầm. Những ngày huấn luyện giai đoạn 2 tại Đống Đế đại đội khoá sinh tôi từng qua lại hầm này. Ngày đó chúng tôi đi sát vào thành hầm để giữ an toàn. Lúc chúng tôi qua hầm xong, tôi nhớ không có chiếc tàu nào tới. Hầm này không dài hơn hầm ở Hải vân, Đà Nẵng được. Tôi tưởng tưởng hướng trên đầu tôi, sườn núi Rù Rì- Đống Đế những buổi tập 'Trung Đội Phòng Thủ' hay "Trung Đội Di Tản Chiến Thuật' ... Những ngày tập sát Bãi Tiên, sóng biển bạc đầu, rì rào gió mát. Nào là Đỉnh "Thằng Cù Lần" tức là cái tượng lính sơn trắng trong tư thế “cầm súng thao diễn nghỉ". Nào đỉnh Hòn Khô phải chinh phục nó trước đêm gắn alpha cũng vào tháng Tám năm 1973.
Giờ tôi về đây, cũng vào tháng Tám trong thân thể gầy còm, áo quần tả tơi bạc phếch'? "chiến bại binh' trở về làm sao mà 'oanh liệt, oai hùng' cho được?


Tôi nhớ hai câu truyền miệng trong Quân Trường Đống Đế:
"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em ngồi xoả tóc đợi chờ ai?"

Tôi chẳng biết tác giả là ai? khoá đàn anh nào trong quân trường? Nhưng chúng tôi cứ truyền miệng cho nhau, dễ quá sao mà không thuộc.
Đêm về, từ "chambre" đại đội tôi ngó lên Hòn Khô, viền núi đen sẫm in hình lên nền trời sáng mờ.  Tôi tán thưởng, gật gù, “công nhận trông giống hình 'người con gái nằm xoã tóc' hết sức!”
"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ”, “thằng Cù Lần” trên đỉnh 100 m, trước Hòn Khô, ngay sau lưng tiểu đoàn khoá sinh mang số 13 của chúng tôi.


Những cuối tuần đi phép, chỉ đi 12 tiếng trong ngày. Chúng tôi từ Đống Đế có thể về 'bát' phố Nha Trang. Nhưng Nha Trang, một thành phố dành cho 'người yêu Hải Quân, Không Quân'. Đây là tôi viết thật cho ngày đó, bởi thế tôi chẳng về Nha Trang. Do “tự ti mặc cảm” làm tôi chỉ du ngoạn ngang Cầu Xóm Bống hay Tháp Bà rồi trở lui. Uổng công đánh giày xi ra, ủi áo quần phép.

                                  di hành qua Bãi Tiên

Ôi những kỷ niệm lính qua nhanh, những cảm xúc, những nỗi nhớ mang máng hay sâu đậm. Nhưng cuối cùng tất cả đều buồn, đều tủi, cho những đời lính "đứt gánh giữa đàng'.
Tàu chui ra hầm. Hòn Dung còn đó. Những ngày lính quân trường di hành qua đây, mấy xóm phong cùi, giờ còn không? Chúng tôi lúc đó vẫn mua thức ăn tại bãi tập gần núi Dung, người làng đó có thể ra đây bán thức ăn gói sẵn trong mấy cái gói nylon, chúng tôi chẳng e sợ gì cả.

BẾN XE NGUYỄN HOÀNG- NHA TRANG

Anh xe ôm rồ xe chở tôi tới bến xe Nguyễn Hoàng lúc giờ bán vé gần hết. Hình ảnh những chiếc xe dài liên tỉnh thời trước vẫn còn đó, cũ hơn. Những chữ Hợp Tác Xã Xe Đò ...giờ được thế vào những cái tên tư nhân ngày trước. Nha Trang ồn ào, náo nhiệt hơn Huế. Vẫn có những đứa trẻ bán mỳ và hàng rong đeo theo nài nỉ với chiếc xe sắp chạy.
Tôi chạy nhanh vào phòng vé ...người ta lắc đầu làm gì có vé giờ này ?
Một anh nói lớn với cụ già:
-Ra đầu đường đón mới có về Sài Gòn mau lên!
Tôi nghe vậy liền chạy theo họ.

Quả đúng! người ta rành chuyện này. Phải “linh động” tránh bến xe một đoạn khá xa. Mấy chiếc vừa rời bến sẽ tấp vào đón khách thêm, ngoài số khách tiêu chuẩn mà vé đã bán. Hợp tác xã xe khách là vậy.
 Sau này tôi mới hiểu có vậy mới sống còn, nghĩa là biết “linh động” với nhau. Người ta bán vé tiêu chuẩn chỉ ít thôi, theo giá "nhà nước" quy định thì làm xe 'sống' được?
Chiếc xe dài vàng nhạt sà vào:
-Dzô Sài gòn, Sài Gòn phải không- 
' Lơ' [1]xe một tay bám vào thành cửa, đầu nghiêng ra ngoài, hỏi lớn.
Tôi bám theo ba người đi Sài Gòn, khỏi cần hỏi khi nghe họ đi Sài Gòn. Xe đón 'gió' kiểu này không có thì giờ cho hai bên 'kỳ kèo' giá cả. Lơ xe vừa nói vừa kéo, vừa đẩy mấy người khách như 'tống' mạnh vào trong cho người tài xế rồ ga chạy mất như bị ma đuổi?
-Anh kia dzô đâu?
Thấy bộ dạng tôi, anh chàng 'lơ xe' có thể đoán là người 'ngoài kia' vào. Tôi quên mất là cái mũ cối bằng rơm ép, màu vàng của tôi đang dội trên đầu [2]
 nên làm họ lầm là người "ngoài bắc" vào? (sau này tôi tiếc hùi hụi sao không đưa giấy ra trại cho lơ xe? người trong này biết 'tù về' thì không ai ép giá cao bao giờ)
-100 đồng ‘dzô’ Bình Tuy?
Tôi không còn nhớ có ‘kỳ kèo’ trả giá với người lơ xe đó không? Tôi chỉ nhớ là đưa ngay 100 đồng cho anh ta; lại còn mừng do anh ta lôi ra cái ghế 'súp'(3) bằng gỗ nhỏ xíu, bảo tôi lui ngồi tít cuối xe.
Có được chuyến xe vô nam, có được cái ghế nhỏ khỏi phải đứng thế là tôi mừng rồi.  Tuy biết rằng 100 đồng lớn lắm, nhưng tôi còn đủ tiền. Cám ơn tình cảm từ mẹ đích tôi, từ bạn bè, bà con  ngoài Huế, Quảng Trị, Đông Hà, giờ tôi mới ngồi trên chuyền xe khởi hành từ Nha Trang này.
Tuy ngồi sau đuôi xe, lắc và nhồi nhiều nhất, nhưng tôi lúc đó thật thích thú khác xa với hai ngày trên chuyến tàu chợ vừa qua.


Chiếc xe qua ngã ba Diên Khánh bắt đầu quẹo trái
 vào hướng nam:
-Ba Mẹ ơi! cả nhà ơi! con gần đến nhà rồi!

Lòng tôi  sung sướng lâng lâng. Ước gì cả nhà tôi trong kia biết được giây phút này đây, tôi đang có mặt trong chuyến xe đò vào nam./.

ĐHL
Edit mùa Đại Dịch 23/4/2020 (San Jose -California)
=========================================
[*] đây là cái tên 'chọc tếu' với nhau trong quân trường , truyền miệng có tính hài hước trong đời lính quân trường. Thực ra là tượng lính chống súng trong tư thế thao diễn "Nghỉ", sau 1975 đã bị phá huỷ
[1] lơ xe: phụ giúp cho tài xế lái xe
[2]: sau này trong nhà tôi tiếc cho tôi sao không nói với họ là "tù về" nghe tù "cải tạo" về là họ bớt tiền cho liền
[3]: ghế 'súp'(supplementaire): tức là ghế phụ thêm ,dấu theo dành ghi thiếu ghế cho khách

========================================


RA TRẠI chương 5 : CHUYẾN TÀU XUÔI NAM

 


CHUYẾN TÀU XUÔI NAM

 

(trích hồi ký Ra Trại của Đinh Hoa Lư)

Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người vui hòa . (Nắng Đẹp Miền Nam )

****

Những toa tàu người đông như “nêm cối”. Tôi chạy tới rồi lại chạy lui, hốt hoảng cố làm sao để tìm một chỗ trống đu lên? Hú hồn! cuối cùng tôi cũng đeo lên được một toa gần cuối, nhét thân mình vào trong.
Tôi thở phào; thế là đã lọt vào chuyến tàu chợ từ ngoài kia vào. Một chuyến tàu chợ xuôi nam có một mình tôi, tự do, do đây là lúc tôi được cái “Lệnh Tha ” hai chữ có trong tấm giấy tùy thân quý báu độc nhất trong người.
Bên trong tuy có hai dãy ghế dài hai bên nhưng còn thấy được, giờ đây chỉ là một đống người bẹp dí với nhau. Hành khách lên sau dĩ nhiên là phải bị dồn ép với nhau ở giữa. Những cái đầu ngẫng lên mong cầu một khoảng không khí để khỏi chết ngạt. Toa tàu chật đến nỗi, người ngồi trên vai, thậm chí ngay cả 'trên đầu' người khác, khi một tay giữ túi đồ còn tay kia họ cố níu lên cái móc đu hay cái giá ngang đựng hành lý.

                         *****
Tàu bắt đầu chạy.

Còi tàu kêu lên, tiếng súp lê bên ngoài báo hiệu. Tàu lắc mình rùng rùng đầu chậm sau nhanh dần. Trong toa quá chật chội khó cho tôi nhìn ra được bên ngoài. Cảm giác bấy giờ của tôi ra sao? có thể nhiều lắm. Nỗi mừng về với gia đình qua bao năm nhung nhớ. Nhưng trong tôi vẫn nhiều cảm giác bâng khuâng nhớ mẹ đích và em gái tôi còn ở lại bên chợ Tây Lộc, bạn bè bà con ngoài Quảng Trị mới và Đông Hà mới. Một quê hương bỏ lại, những trại tù kế tục nhau...những buổi đi rừng, những thân gỗ lim cứng 'hơn thép' ngoài rừng Huyện Như Xuân, Thanh Hoá, mấy trãng rừng sim chín trung du Ái Tử, tiếp đến hình ảnh bao bụi mây nước rậm rịt đầy gai của rừng núi Bình Điền...tất cả lướt quá trong đầu tôi y như một giấc mộng dài.

Thế là tôi thực sự giã từ Huế, rời xa cái ga bán vé tàu quá nhiều xúc động. Mới hôm qua và rạng sáng nay thôi; những âm thanh chen lấn, la hét như còn tồn tại: tiếng chói tai nhọn hoắc như cứ réo mãi trong đầu tôi... từng lớp người bị xô dạt về sau...một mái tóc rũ rượi, cái đầu gục xuống của người thanh niên bị xỉu khi giành mua vé tàu.

Tàu hỏa ngày xưa phun khói đen sì giờ không còn. Những cái đầu máy diesel cũ kỹ thế vào cho những con tàu chợ. Tàu ngang Phú Luơng hay Phú Bài gì đó? tôi đoán vậy.Tay tôi mõi nhừ vì phải níu, cái lưng còn đeo cái ba lô may mà chẳng có gì. Tôi cố gắng để phải ngồi lên đầu một người đang ngồi bệt giữa sàn tàu.

Tuy toa đông người nhưng không ngăn được chuyện người di chuyển từ toa này sang toa khác.  Tiếng la phản ứng rồi lại tiếng xin xỏ, phân bua, rồi tiếng cằn nhằn của bà lão bị đạp lên chân, tiếng ho rũ rượi của anh thanh niên ngồi gần cửa sổ...
Thỉnh thoảng tôi thấy được vài đám ruộng, vài cột điện thoại trôi nhanh về sau. Con tàu thỉnh thoảng lắc mạnh, khi nghiêng bên này, rồi nghiêng bên kia làm tôi có phần hồi hộp.


Lần cuối cùng tôi đi tàu tức là năm 1977. Năm đó tôi từ Đô Luơng, Nghệ An và có lên tàu hỏa để ra Thanh Hoá. Công việc của mấy trăm người tù từ Ái Tử ra là tiếp tục chặt hạ san bằng một rừng lim làm nên Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân. Giờ là chuyến tàu xuôi nam, tràn đầy niềm vui, chuyến tàu cho tôi về với gia đình bên những người thuơng nhớ.


Hình như con Tàu đang đến ga Truồi. Ngày kia tôi từ Tây Lộc có về thăm lại Truồi. Làng nội tôi giờ chẳng còn ai. Chú tôi còn tù trên Bình Điền. Ông bà nội tôi đã mất. Anh em xao lạc, người còn ‘cải tạo’ kẻ đi kinh tế mới Nam Đông. Thím tôi, trong bữa ăn không quên món bột lọc quậy độn thêm trong mâm cơm. Chú tôi xa nhà đã năm năm chưa về. Trong làng không biết làm gì ăn. Con cháu lớp quá nhỏ, lớp thì đàn bà con gái? Ngày xưa còn có đồng luơng chú tôi chu cấp, giờ thì?
Ra khỏi trại, mới Huế, Truồi, Quảng Trị, người thân bạn bè, cảnh sinh hoạt của người dân mình. Tất cả cộng lại cho tôi cảm giác hụt hẫng, buồn vô hạn. Một xã hội trước mắt tôi như chới với sắp rơi tòm xuống một vực thẳm to lớn, đen ngòm. Sự chia xa của những người tôi không còn thấy mặt. Cảm giác bơ vơ lạ lùng, tôi như bị vứt vào một cõi hoang mộng vu vơ nào?

Giờ tôi không có khả năng nào để nhìn ra được khung cửa sổ để xem con tàu có thật qua cầu Truồi hay chưa?  Nếu ngồi xe thoải mái, khi qua cầu Truồi nhìn theo con nước chếch về dưới kia bên bờ sông lấp ló tàn phượng vĩ đỏ ối, sà cành soi bóng nước sông. Nơi đó là bến đò thôn Xuân Lai, gần nhà Nội.

Tôi đang lo lắng cho vấn đề vé phạt ra sao? giờ thì mấy người soát vé chắc gần tới. Họ đi toa này xuống toa khác không ai thoát được.

Lần đầu tiên trong đời tôi sắp gặp trường hợp vé phạt trên tàu. Phạt ra sao? vé phạt là gì? tôi thật tình chưa hề biết. Khi xưa còn nhỏ, tôi theo ba tôi vào ga Quảng Trị mua vé tàu đi Truồi hay đâu đó tôi không còn nhớ. Ngoại trừ tôi vẫn nhớ hình ảnh cái vé tàu nho nhỏ sẽ bị người soát vé lần lượt bấm 'cái lỗ' tròn trên đó. Hơn nữa, chuyến tàu tôi đang đi hiện giờ đang hoạt động trong một xã hội mà tôi có cảm giác ban sơ y như trong một “thế giới khác lạ” mà người chiến thắng 'lạ hoắc' đối với tôi.

Thỉnh thoảng tôi nghe có nghe tiếng còi tàu. Không còn là tiếng hú dài 'lê thê' từ cái đầu máy đen sì đốt bằng than, phun khói từng bụm đậm đặc lên trời ngày xưa. Tiếng còi tàu dầu kêu rất khác, nghe toang toác, rất ngắn rồi im.

Có tiếng người xao xác phía trước. Sự im lặng đột ngột của một toa người đang láo nháo, ồn ào là cả một sự khác thường? Tiếng người nói phía trước cách tôi không xa:

-Họ soát vé! họ soát vé !

“Cái gì phải đến sẽ đến” thôi. Thật tình tôi không nghĩ đến chuyện ‘phạt tiền’ mà lo vớ vẫn họ sẽ đuổi tôi xuống giữa đường hay chăng? Mấy người có vé thì mau hơn. Riêng những người không vé thì bị hạch hỏi đi đâu ?xuống đâu? tiếng trả lời ấp úng...

-Anh kia vé đâu?

Người soát vé khá già, cái mũ cối trên đầu ông ta đã đổi màu bạc phếch. Tôi đã trù liệu, liền đưa ngay cái giấy ra trại mang hai chữ lớn "LỆNH THA'  ngay cho ông ta và trình bày hoàn cảnh. Tôi thấy ông ta ngạc nhiên khi tôi kêu ông ta là "cán bộ'. Nhưng cái vẻ ngạc nhiên đó ông dấu đi rất nhanh.
-Sao anh không mua vé tàu, có Lệnh Tha này cũng ưu tiên cho anh mà ,cách mạng ta khi nào cũng khoan hồng và nhân đạo anh biết không?
Tôi tả lại chuyện chen nhau mua vé vào rạng sáng, và “kể lể ỉ ôi”với ông ta rằng cũng tới sớm lắm, trong loạt những người đầu tiên tới đợi tại ga. Nhưng không thể 'manh động' (một từ tôi mới biết từ trong trại) với bà con cô bác nên bị dạt lui sau. Tôi dấu chuyện anh thanh niên bị xỉu vì sợ rằng biết đâu ông ta cho tôi 'nói xấu Cách Mạng" cũng nên?
Giọng ông ta bất ngờ dịu lại”
-Tàu này tới ga cuối cùng là Nha Trang không đi đến Bình Tuy đâu nhé.
Tôi chỉ mong có thế, Nha Trang hay đâu cũng được miễn là càng vô nam được chặng nào hay chặng đó. Tôi lại càng mừng hơn khi ông ta lấy phạt chỉ 'năm chục' đồng . Số tiền khá lớn , nhưng tôi còn lại trên hai trăm làm sao không về nam được.

Người soát vé đi rồi, giọng nói Thanh Hoá của ông ta tôi nghe và đoán được do trong tù tôi từng có một cán bộ “quản giáo” người Thanh Hoá. Trong tôi tự nhiên dâng lên cảm giác yêu đời. Không khí hết ngột ngạt. Quanh tôi, giờ đây mọi thứ đều đáng yêu cùng gần gũi.


Con tàu tự nhiên chuyển động rùng rục, chậm, nặng nề. Thì ra giờ này nó đang men theo biển bắt đầu tới chân đèo Hải Vân. Thỉnh thoảng khung cửa sổ hơi hé ra. Tôi thấy rõ ràng đã tới xóm Lăng Cô, kỷ niệm tình yêu đầu tiên của ba mạ tôi lúc tôi chưa có hay bắt đầu có trên đời.Vẫn viền cát trắng muôn thưở đó.

Những ngọn sóng bạc đầu đánh vào chân núi Hải Vân. Tàu chạy hơi dốc, trước nó là những cái hầm tàu đen ngòm đang đợi.

Đinh Hoa Lư

update by ĐHL  mùa ĐẠI DỊCH  22/4/2020 at SAN JOSE USA

TRẠI TÙ THANH HÓA VÀ RỪNG HẠT DẺ MẤT MÙA

 


Một Mùa Giáng Sinh và Rừng Hạt Dẻ Mất Mùa

 

*****

Bà Xã tôi vừa đi chợ về và lay hoay cất các thứ vào tủ lạnh. Khi đang giúp vợ chợt tôi chận tay bà xã tôi lại:

-Khoan để anh chụp cái hình bao hạt dẻ ni đã!

Túi hạt dẻ, hạt no- căng -mẩy láng vỏ. Hôm nay giá lại rẻ chỉ $2.99 một pound. Tôi nghĩ rằng Mùa Giáng Sinh năm nay Cali hạt dẻ được mùa nên rẻ hơn so với giá cũ.

Chụp hình túi hạt dẻ này nhưng trong tâm tư tôi hiển hiện hình ảnh những ngày lầm lũi trong rừng Thanh Hóa kiếm ‘cái ăn’ từ ơn rừng mang lại. Những cây dẻ rừng của rừng Như Xuân Thanh Hóa chúng mọc chen với lim nứa. Giáng Sinh 1977 chúng tôi có mặt chặt hạ cây rừng ở đây để xây dựng Lòng Hồ Sông Mực đem nước cho Huyện Diễn Châu. Những kỷ niệm khó quên cho gần một ngàn người từ Ái Tử ra đây.
Khó quên làm sao những bó môn thục, măng nứa những tổ ong cây cam thảo rừng và quý nhất là hạt dẻ rừng như người viết vừa nói đoạn trên.

Rủi làm sao năm đó dẻ trong rừng này “Mất Mùa”?!
Lạ thế? Cây rừng sao gọi là “mất mùa”?

Người viết xin thưa với bạn đọc ‘mất mùa’ ở đây là hạt dẻ năm này chỉ toàn là cái vỏ trống không bên trong không có gì chỉ là cái lỗ ‘trống rỗng vô tích sự’ chẳng giúp gì cho cái bụng trống rỗng của chúng tôi lúc này ?

Từng đám keo rừng bu lại? Chúng cũng tức giận nôn nóng chẳng khác gì đàm tù chúng tôi. Lũ keo tha hồ sục sạo trên cao. Dẻ càng rớt nhiều xuống gốc cây từng đống. Chúng tôi dưới này tha hồ tung hoành bơi móc ...Chán nản nảo nề làm sao? vài ba trăm hột chỉ có một hột dẻ đặc ruột thôi; lúc này cái hột có ruột này thật quý ‘hơn vàng’.

Được cái hột dẻ có ruột xem như là “trúng số’’. Nướng nó lên trong đống lửa rừng, phần nhân bên trong vừa nổ tách ra trắng hếu thơm phưng phức ngon đến rợn người. Chính lúc này mới là lúc người tù được hạt thưởng thức thứ hương vị ngon thơm thật sự của hạt dẻ nướng. Nhớ làm sao thứ cảm giác ngon lành khó lòng diễn tả? Có thể tôi không cường điệu do phải lần mò trong đống hạt trống rỗng kia cả buổi mới có được hai ba cái hạt cỏn con. Không có sự so sánh chính xác nào nếu cái bụng của bạn chưa hề lép xẹp như những người chiến bại năm xưa? Bạn cũng có thể chưa tận hưởng được cái cảm giác nào gọi là 'NGON' nếu bụng bạn lúc nào cũng no tròn và quá đủ chất?

Những hàng lim ngả gục. Gỗ lim cứng như ‘thép nguội’ thế mà chúng tôi chặt sạch. Cả ngàn người tù tung hê sức lực non hai năm trời. Bao nhiêu sức lực thời son trẻ nằm lại trên đám rừng này?

Đói rét tủi nhục. Chết vì ăn nhằm gan cóc. Có người phải thắt cổ, cái xác tòn ten trong một đêm vắng lặng giữa rừng thiêng.
Rồi Tàu Cộng nó đánh. Tù được về Nam.

Và sau hết cái Lòng Hồ Sông Mực nên thơ kia thành hình như hình ảnh ngày nay ngoài những cái bản huyện Như xuân Thanh Hóa ngày xưa...hôm nay là làng xã ven hồ những nơi du lịch...

Còn ai nhớ lại hình ảnh buồn bã năm xưa? Những bóng tù lầm lũi xăm xoi tìm cái ăn. Trong ngày Giáng Sinh có vài hạt dẻ no tròn trong muôn ngàn hạt dẻ trống rỗng vô hồn như tâm trạng của những người thất trận năm xưa.

Cái lạ lùng và trái ngược bây giờ một tâm lí rất thật cho tôi khi nhìn túi hạt dẻ bây giờ tôi chẳng thèm muốn chẳng cần đụng đến nó: luộc hay nướng tôi bất cần thế mới lạ?

Tâm hồn tôi cứ lãng đãng trôi về một đám rừng xa xưa...Thanh Hóa ...những đống vỏ hạt dẻ trống rỗng vô dụng... tiếng đàn keo rúc réo tức giận trên cao ./.


ĐHL 25/12/2019
Nhớ Rừng Thanh Hóa Giáng Sinh 1977

ÔNG LÃO ĐƯA ĐÒ BÊN SUÔI XUÂN KHÊ

Tôi đã gặp một chiều trên bến nước 
Ông lái đò ngồi đợi khách sang sông ...
 (Ông Lái Đò / Hiếu Nghĩa) 

THÔN XUÂN KHÊ và NẠI CỬU PHƯỜNG 


Cuối năm 1975  trại tù của chúng tôi đã 'an vị' cách Làng Nại Cửu Phường khoảng vài cây số. Người viết xin giải thích một ít về làng Nại Cửu Phường. Làng này có tên trong bản đồ Bộ TTM/VNCH. Từ Ái Tử ngó lên hướng núi vài cây số đường chim bay là thấy nó.

MỘT DỊP MAY CHO TÔI KHI ĐI LẤY DÂY KẼM GAI TẠI PHI TRƯỜNG ÁI TỬ: GIA ĐÌNH BIẾT ĐƯỢC TIN TÔI CÒN SỐNG

Đi lấy kẽm gai khoảng sau ngày thành lập Trại 4 khoảng gần cuối năm 1975, không ngờ là một dịp may cho bản thân tôi. Nhờ được cho  đi lấy kẽm gai ngoài phi trường Ái Tử cũ nên tôi có đi vô thăm chùa Ái Tử. Thời gian này người dân QT có khá nhiều đi đào bới các hố rác quân đội Mỹ lấp để lấy đồ. Nhờ vậy có ai đó thấy tôi. Nhờ vậy nên họ báo tin cho gia đình tôi ở Mỹ Tho rằng 'tôi còn sống'. Nhờ vậy  "leo lên bàn thờ' được vài tháng thì tôi được 'truống xuống' khỏi phải 'thờ sống' nữa. Tại sao tôi được "thờ sống"? Sau 30/4/1975 có người nghe đồn tôi đã 'tử trận' tại Mỹ Chánh cùng sự tan hàng của đơn vị 105, một tiểu đoàn ĐPQ thuộc TKQT nên cậu tôi vừa chạy đến Mỹ Tho báo tin ngay với gia đình tôi tại Mỹ Tho như thế. Thế là nhà tôi lập 'bàn thờ' cho tôi cho đến khi nhận được tin tôi đang 'cải tạo' tại Ái Tử như đã nói trên.

  Vài tháng sau gia đình mạ tôi dời về vùng Bình Tuy Động Đền làm rẫy sinh sống. Cả nhà  tôi nghe tin tôi còn sống và 'cải tạo'  tại Ái Tử quá mừng vui. Mạ tôi liền tức tốc vay tiền bạc từ  Bình Tuy đi ra thăm tôi lần 1 nhưng KHÔNG CÓ GIẤY ĐI LẠI nên phải về lại. Chuyến thứ HAI tiếp tục ra với đứa em út tên là Đinh Trọng Trị ra tận thôn Xuân Khê gần Nại Cửu Phường (Nại Cửu Phưòng khác với Thôn Nại Cửu gần làng Bích La) thăm tôi tại Trại 4 và được Trại cho ở lại một đêm trước khi vào lại phương nam. Tội nghiệp, nhà tôi không có chi, chỉ đem được đường và khoai luộc. Đứa em út lúc này lên 8 tuổi nó cầm theo một củ KHOAI LANG vỏ đỏ lớn nhất khoảng non 2 ký ra khoe  với anh. Đêm hôm đó Ma và em Trực của tôi ở ngoài nhà THĂM NUÔI công tác được vào lán thăm tất cả anh em trong lán 4 này. Đứa em và mạ tôi đưa củ KHOAI LANG TO TƯỚNG này ra khoe sự lao động 'đổi đời' ở quê mới Bình Tuy, ai cũng tủm tỉm cười. ..

                                                ***
XUÂN LAI THÔN THIẾU NGƯỜI THÔN NỮ YÊU KIỀU 

Trại 4 đóng sát bên cái thôn có cái tên rất đẹp là Xuân Khê. Tên thì đẹp nhưng cái thôn này không có người thôn nữ yêu kiều nào để chúng tôi đứng bên ni trại 'ngó' qua cả. Thôn Xuân Khê có ông lão đưa đò rất tốt bụng. 

Những ngày mưa lớn, nước suối dâng lên quá mau không cách gì qua được. Toán tù chúng tôi đứng bên thôn Xuân Khê ngó qua trại nhưng không biết làm sao để vượt dòng suối nước đỏ ngầu đang chảy cuồn cuộn? 



Con suối này- đúng hơn là con sông nhỏ  khi nhìn lại trên bản đồ BTTM VNCH  nằm giữa 2 con sông Vĩnh Phước và Sông Ái Tử . Nó không có tên ?
Sông Ái Tử, bắt nguồn từ Vịnh (đèo Ba Lòng ) chảy về hướng Nhan Biều qua Cầu Ái Tử . TỪ Cầu Ga ra hướng Đông Hà khoảng 2 cây số là Cầu Ái Tử. Cầu này nhỏ chỉ vài chục mét, qua khỏi cầu là căn cứ của Mỹ , phía trái là Chùa Sắc Tứ 
Từ Chùa Sắc Tứ đi ra một cây nữa là qua cái cầu có có con sông này, cầu không tên. Qua cái cầu này là đến cầu Lai Phước 



Ông lão đưa đò, cái tên tôi đặt do Ông có có con đò nhỏ bằng tôn, qua chiến tranh còn sót lại để sinh nhai trên con suối này. Lão giúp đưa chúng tôi qua sông nhưng mỗi lần chỉ vài người. Ôi ông lão  'cạy' giữa dòng sao thật tài tình. Dòng chảy xiết, mà cách chèo của lão sao 'ngon ơ'. Hồi hộp, lo lắng nhưng chỉ nhờ vào lòng tốt của ông lão độc nhất ở đây, không qua thì không được.

Ông hồi cư về đây từ lúc trại chúng tôi mới thành lập. Ông không bao giờ nói gì hay liên lạc gì với chúng tôi. Chúng tôi cũng hiểu chuyện, cái tội 'liên hệ với dân' chỉ làm phiền ông thôi. 

Cái thôn tên Xuân Khê, chỉ lác đác vài nóc nhà hồi cư. Bên ni trại tù số 4, chúng tôi không bao giờ nghe tiếng chó sủa râm ran hay tiếng gà gáy liên hồi mỗi bình minh lên? Quái lạ, nhưng rồi cũng phải hiểu ra. Dân về từ bàn tay không, mọi sự gầy dựng lên từ con "số KHÔNG to tướng" thì làm chi có chó để nuôi?

Chúng tôi âm thầm cám ơn ông lão đưa đò tốt bụng, giỏi tay chèo nhưng  trầm lặng. Ông như một người "câm" ông không nhìn ai nói với người tù nào dù nửa lời? Có nhiều đêm về tôi nằm suy nghĩ có thể ông giúp tù do tấm lòng ông là "dân miền nam" hay ông giúp theo sự yêu cầu của TRẠI cũng có?

Mưa qua đi, dòng suối trở lại hiền hoà như mọi ngày. Ông có hai cô con gái, nhưng tôi xin thưa trước là hai người con gái này không có 'nhan sắc' nên hẩm hiu ế chồng bởi vậy mới 'còn lại' trong cái thôn heo hút tận miền sơn khê này. 

Cô chị tên "Trút" cô em trên "Vi". Trút là con vật xấu xí trong rừng, mình nhím, đầu chuột. Trong rừng khi bị chúng ta gặp chúng hay co mình lại như trái banh, Những cái vi cứng cáp của nó là lớp bảo vệ chắc chắn cho nó, Dù ai có đá nó 'lông lốc' như trái banh cũng không hề hấn gì cả. Trút là loại thuốc nam tốt của rừng cho người nên hiện  bị người săn lùng cạn hết, chắc là khó kiếm?con "trút' tôi xin thưa lại với bạn đọc là người Quảng Trị nói vậy. Hiện nay trên báo chí người ta nói là "trúc' tôi không biết  nó là "trút' hay "trúc' chữ nào đúng?

Bạn tù đi rừng nhất là ra rừng Như Xuân THanh Hoá có kể về con kỳ đà và con trút trong rừng. Thưở này hai loại thịt rừng này nhiều lắm

Trở lại hai chị em Trút và Vi mang thân phận cô đơn bên dòng suối buồn hiu. Nhưng hai cô chắc "đỡ buồn" nhiều từ lúc có tù về đây. Chúng tôi ngày ngày vác cuốc lên đồi, hay những những toán đi rừng 'rầm rộ' qua thôn chắc hai cô cũng thấy. 


 TRÚT và VI KHÔNG PHẢI YÊU KIỀU NHƯ THIẾU NỮ NÀY TÔI CHO NÀNG MÔT KIẾP HẨM HIU 


Trút và Vi không phải là những 'đoá hoa sơn cước' nên thật tội cho mấy người tù độc thân chưa vợ, vì hình ảnh của hai nàng khó mà 'bắt mắt' để vào giấc mơ những người tù trẻ như chúng tôi về đêm?
Nhưng cái ơn của ông lão đưa đò chúng tôi chưa có cơ hội đáp đền, những ngày mưa lũ ông cho chúng tôi về lại trại khỏi ướt lạnh và đói khi phải đứng chịu trận chờ cơn nước xuống. Kỷ niệm khó quên đó là các trại tù Ái Tử chỉ có con suối lớn này chảy qua. Ăn uống tắm giặt nước non đều từ con suối này. Có những lúc tù tắm ở suối này, đang trở về thời 'nguyên thuỷ' thì hai chị em Trút và Vi tỉnh bơ xuống giặt ở đây chẳng biết đi đâu? Lý do là dân về đây cũng sống nhờ con suối này mà thôi.

Hết những cơn nước lũ Thôn Xuân Khê có thêm một mớ đất phù sa dọc mép bờ suối quanh co. Có một cặp vợ chồng nghe đâu là nghĩa quân về lại làng trồng được mấy liếp cây kiệu tươi tốt nhờ vào lớp đất phù sa đó . Mùa đông tháng giá  kiệu hợp với khí hậu này. Đứng bên này trại tù trông qua tôi thấy rất rõ màu xanh của mấy liếp kiệu mọc men theo dãi đất phù sa hiếm hoi của con suối lượn lờ quanh cái thôn nghèo yên tĩnh

Hè vê, nước suối cạn dần, chỉ có vấn đề thiếu nước chứ không còn lo chuyện lũ nữa. Trại 4 chúng tôi có dịp đền ơn ngoài dự liệu và quá bất ngờ đối với chúng tôi. 

Một hôm trại cho chúng tôi ra Ái Tử kiếm những tấm ri sắt về càng nhiều càng tốt. Ri nhôm đắt tiền thì mất dạng lâu rồi. Loại ri nhôm nghe đâu được 'đưa hết ra Bắc nay chỉ còn những tầm ri sắt thôi. Phi trường căn cứ Ái Tử những tấm ri sắt lót làm phi trường thế cho bê tông nên mới nhiều như thế. 

Căn cứ Ái tử quá nhiều tấm ri sắt này . Chúng tôi nhớ những ngày đi nạy ri từ ngoài kia . Những mãng ri khổng lồ dính liền nhau,  cong queo  ngất ngưỡng  do sức nổ của bom đạn ngày trước . Chỉ bằng sức người chúng tôi thi nhau tháo ra, hai người một tấm gánh về trại. Ngày lại ngày không biết bao nhiêu là số lượng? chúng tôi đã tháo về xây dựng trại . Lớp lót nằm, lớp làm vách, lớp cung cấp cho thợ rèn làm cuốc rựa và tiếp đến là làm cầu cho dân làng.

Chúng tôi được làm 2 cái cầu qua sông. Cái cầu bằng ri, chân cầu cùng bằng những tầm ri nối với nhau. Những hàng dây kẽm gai néo vào cầu chắc chắc cho dân đi qua. Chúng tôi những lần về Đoàn 74 (Trung Đoàn coi tù binh)  gánh đồ qua cầu, bước chân rầm rập nào khoai nào sắn nặng nề cầu vẫn chịu nỗi.

 Mùa mưa to người dân phải qua bằng thuyền nan và dây kéo qua sông. Dỉ nhiên mùa lũ thì mọi việc đều đứng yên. Nay đã có hai chiếc cầu ri ngừoi Thôn Xuân Khê đỡ khổ nhiều.

Non 40 năm qua kể từ cái ngày "Dâu Biển  mấy trại tù  hay mấy chiếc cầu ri ọp ẹp đó chắc chắn đã mất dấu và chẳng ai còn nhớ chúng nữa làm gì?

Riêng trong lòng tôi mỗi lần nhớ về một thôn nhỏ đìu hiu bên trại tù mang tên Ái Tử tôi không bao giờ quên hình ảnh 

Một ông già trầm lặng nhưng hảo tâm, kiên nhẫn giúp từng toán tù qua trại trong cơn nước lũ- một ông già có hai người con gái với hai cái tên đặc biệt là "Trút và Vi"./.


DHL 26/92016

edition MÙA COVID MỸ  15/11/2020 BY ĐHL

"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...