NHỚ VỀ NHỮNG MÙA SIM TÍM trung du Ái Tử 1975 Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai...(Dzũng Chinh/ thơ Hữu Loan/ Những Đồi Hoa Sim) **** Tình cờ thấy bạn hữu post hình những trái mốc mốc đố nhau trên mạng, tôi chợt nghĩ rằng chỉ có dân QT mới biết những trái cây hoang dại này thôi. Không biết ý nghĩ này có đúng không? Riêng tôi rất nhớ về hình ảnh những đồi càn vùng trung du Ái Tử. Ngày trước những ai có dịp đi lên nơi này thường hay gặp những đồi sim tím. Đến mùa, sắc hoa màu tím hoang dại tưởng chửng lan tận chân trời. Xen giữa rừng sim còn có một ít những khóm mốc mốc. Sim, mốc đó là những thứ chúng tôi khó lòng quên được ...
edit from TẢN MẠN VỀ MÀU TÍM HOA SIM
HOA SIM THẬT và trái chín
Tình cờ tôi đọc lại lời kể của thi sĩ Hữu Loan về câu chuyện tình xưa vừa lãng mạn và u buồntôi mới lần mò tìm hiểu cái màu tím hoa sim trên mạng.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ sau, bà Phạm Thị Nhu năm 2009.
thưa bạn đọc Thi sĩ Hữu Loan có một màu tím của thơ, của tình yêu trong quá khứ. Một bài thơ nếu tôi không lầm là bài thơtình mà dân ta cho là "hay nhất trong thế kỷhai mươi" một thời đại thơ mớilàm phong phú thêm cho kho tàng tiếng Việt. Chuyện tình Màu Tím Hoa Sim là một tình sử có thật, không chút gì hư cấu, nhân vật chính và phụ đang còn sống để chứng nhân cho đề mục này và chính vì chuyện có thậtđã làm tăng thêm giá trị chuyện tình "màu tím hoa sim. Nhờ tôi muốn nhắc về chuyện khác, đó là những thứ hoa sim trên mạng hiện hành cái nào là hoa sim đúng nghĩa đây?
Tôi dám tin rằng thứ hoa sim chính gốc thì những người tù cải tạo đã "ghi mãi trong lòng. Có hai loại sim -ăn được và không ăn được. Sim không ăn được, chúng tôi hay gọi là "SIM MUA". Cây sim mua cũng có trái, nhưng thô ráp, không chín ngọt như sim thường, chỉ được một điều: sắc hoa mua màu dịu dàng, e ấp , xen kẻ với những lùm sim hoa trái sum xuê dưới trời mây thênh thang, hoang dại.
Làm sao chúng tôi quên được những lúc vác cây về trại. Trung du Quảng trị trời đã ban cho những đồi sim chín bạt ngàn an ủi phần nào cho chúng tôi ngày đó. Nhắc lại quá khứ không phải nhắc lại chuyện hận thù, nhưng dấu ân khó quên những buổi chiều tà, lán trại đường về còn xa dưới mấy chân đồi tạm quên gánh nặng cây gỗ trên vai. Những đồi sim là thực tế trước mắt chúng tôi, những trái sim chín mợng- tháng Tám- căng tròn làm chúng tôi ngẩn ngơ lang thang mãi đến nỗi không thiết tha gì đến chuyện đi về?
---------------------------------------
năm 2006 Nhạc Sĩ Phạm Duy tới thăm nhà thơ Hữu Loan
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010 )
----------------------------------------------------------------- Ngày xưa nhà thơ Hữu Loan nhìn màu tím hoa sim mà quay quắt nhớ thương ngưòi vợ trẻ xấu số, còn chúng tôi lúc này đang len lỏi mãi trong mấy đồi sim mà cám ơn đất trời Quảng Trị đã ban cho chúng tôi chút gì an ủi còn lại.
trai mốc mốc
Tháng bảy sim- tháng tám mốc mốc- tiếp nối tháng chín tháng mười, trời thuơng ban thêm muồng. Những chùm muồng khi chín đã mất đi màu vàng sặc sở mà là một màu đen thẩm. Muồng chín cho vị ngọt của loại mứt chà là, xứ Nghìn Lẻ Một Đêm của những huyền thoại. Những liếp đồi hoang vu chạy xa tít, những con đường mang tình thương cho những ai sa cơ thất thế. Và cứ thế những con đường đi mãi, ngoằn ngoèo lên tận rừng xanh. Chiều về những đồi sim san sát nhau, lan xa tậncuối tầm mắt. Ôi thương sao màu tím hoa sim cùng vị ngọt trái lành, đã là "ngưòi yêu" của những người tù năm đó!
chim đa đa Chúng tôi len lỏi vào giữa đồi sim chín trong khi tai nghe tiếng con chim đa đa kêu trên gò mối xa xa nào đó hay tiếng con chim "bắt cô trói cột" mà chúng tôi ưa đổi thành: -Không còn cơ cuộc!? không còn cơ cuộc ... để ám chỉ cho thân phận mình hay chăng?
chim 'bắt cô trói cột' Trong khoảng trời thanh vắng với núi đồi trung du đầy tràn mùa sim. Đó là khoảng thời gian chúng tôi tự cho là tự do, thú vị nhất trong tháng ngày tuyệt vọng.
bạn Phạm Quý tại Thốt Nốt Long Xuyên và màu tím hoa MUA hình 2/12/2017 (Phạm Quý khoảng năm 1989 có thăm gia đình ĐHL một lần tại Xã Sơn Mỹ Hàm Tân nơi này bạn đó từng ở qua đó là vùng Động Đền của Lưu Dân Khẩn Hoang Lập Ấp 1973)
hoa và trái mua thật vậy; không phải viết để cho có viết. Có những lúc tôi nhớ lại hình ảnh ngày xưa những ngày tàn cuộc chiến...những đồi sim hoang dại vắng ngắt bỏ vác cây rừng bên con đường mòn về trại rồi len lỏi tìm cái 'ăn'. Ôi những trái sim chín vị ngọt ngào an ủi rất nhiều cho những tâm hồn đang buồn da diết ..thỉnh thoảng có những tiếng chim rừng kêu văng vẳng đó đây. Cánh đồi hoang về chiều buồn làm sao? một không gian hoang vắng chẳng có bóng người. Đâu đó trong những lùm cây rậm vài khẩu pháo phòng không của quân miền bắc bỏ hoang lại đây sau cuộc chiến vừa tàn những nòng pháo vu vơ chỉ lên trời? một khối sắt vô tri còn sót lại từ một cuộc chiến tàn khốc một thời gian gầm rú tiếng đạn réo bom rền ...dĩ vãng chiến trận lướt qua như khúc phim ngày nào đó những binh đoàn những người lính chiến những đoàn xe tăng và phi cơ gầm thét... Bốn mươi năm sau, tôi ngạc nhiên xen lẫn mừng mừng khi những sắc màu hoang dại đã được người đời trân trọng chưng vào những chậu hoa. Sắc tím màu sim MUA loài sim không ăn được nhưng sắc tím mặn mà của hoa mua được bạn bè vun trồng chăm sóc, nâng niu. Đổi thay cũng là chuyện thường tình cho nhân thế cũng như cho tạo vật. Một thời sống cùng thiên nhiên nay sắc tím hoa mua đã có một vị trí được ưu ái trong mắt giới yêu hoa.
Tháng ngày dần qua, mỗi lần nghe lại bài hát "Những Đồi Hoa Sim" tôi chạnh lòng thương về một miền trung du xa vời; đó là quê hương của những đồi hoa sim tím lan xa mãi tận chân trời, chứa chan kỷ niệm./.
tháng Tư 1975 cho đến 19 /5/1975 tù binh chúng tôi bị giam tại Thung Lũng Ba lòng Quảng Trị HỒI ÚC Đinh hoa Lư BA LÒNG 30 THÁNG 4 , 1975 -Đúng 11 giờ 30 tổng thống 'ngụy quyền' Sài Gòn Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ... tiếng the thé của xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội vang khắp các lán trại tù Ba lòng sáng nay làm tôi chợt lạnh người. Tôi thật sự choáng váng không dám tin vào sự thật. -Thế là hết! Cả một tháng Tư chúng tôi bị giam tại thung lũng này. Tôi vẫn hình dung một Sai Gòn đang chiến đấu trong đó, vẫn nghe những tin chiến sự mà những cán bộ VC trên 'khung' [1] ngày ngày khoe khoang sức tiến nhanh của quân đội họ. Có hai cán bộ chính trị viên hay kêu chúng tôi lên nhà chỉ huy, ở đây lúc này gọi là "khung'. Lý do, Ngọc và tôi tuy là hai trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất trong đám tù binh. Tôi quên mất tên người hai cán bộ CS. Hai chính trị viên nói giọng Bắc, hơi thâm trầm. Họ cần chúng tôi cung cấp những thông tin nào mà chúng tôi biết được về phía quân lực chúng tôi. Thời gian đã lâu tôi không còn nhớ họ hỏi chúng tôi những gì ? nhưng đại khái về cách thức bố trí mìn bẫy, quân số đơn vị , những gì tôi biết . Cứ mỗi lần lên 'khung' ông ta khoe với hai chúng tôi sức tiến quân phía họ. Quân miền bắc ngang tỉnh nào, trên cái bản đồ trong phòng, ông ta bôi đỏ tỉnh đó. Mới hai, ba hôm trước tôi còn nhớ ông ta bôi đỏ Bình Tuy, rồi Long Khánh... Hi vọng của tôi theo từng ngày 'teo' dần; khi tôi vẫn hi vọng miền nam còn lại phần nào đó trong kia...
-24/3/ 1975 Những ngày còn bị giam tại thôn An Lạc chân cầu Đông Hà cũng người chính trị viên này bắt Ngọc và tôi [2] thu vào băng nhựa kêu gọi anh em tại Thuận An 'buông súng' . Ông ta từng bôi những chữ " được đối xử tử tế theo TINH THẦN QUY ƯỚC GENEVA..." phải đổi lại "... theo SỰ KHOAN HỒNG CỦA CÁCH MẠNG'. Cuối tháng Ba, tôi con` hi vọng 'RANH GIỚI NGƯNG BẮN' sẽ là đèo Hải Vân? Rồi tin Huế mất 26/3, Đà nẵng mất 29 tháng 3 /1975... tất cả sự kiện này các tù binh đều được cho hay. Có thể họ cố tình lung lạc tinh thần chúng tôi. Một tháng Tư bị giam tại các lán thung lũng Ba lòng này. Những ngày đi cùi gạo . Những kho gạo do Thuợng Cộng [3] cầm súng Ak canh giữ . Những người bộ đội CS người Thuợng mặt mày lầm lì , khẩu AK đeo ngang trước bụng, ngón tay hờm vào cò súng . Mắt họ ngó lăm lăm vào chúng tôi, im lìm . Có thể họ không nói được tiếng Việt, tôi đoán vậy . Trước kia , tôi được biết những bộ đội Thượng Cộng rất trung thành không gì lung lạc họ . Giờ đây nghe mấy cán bộ dẫn chúng tôi đi nhận gạo khoe họ đúng là trung thành , từng giữ các kho gạo dự trữ này mấy năm nay tại thung lũng này một cách kiên trì không hao hụt gì . Gạo mốc meo mục nát , thay bao nhiều lần . Đây là gạo dự trữ nhiều năm để 'đánh miền Nam'. Theo thời gian nay cứt chuột quá nhiều, đen như những hạt đậu, giờ cho tù binh ăn. cán bộ CS ở đây có cho chúng tôi biết, những kho gạo này dự trù cho "chiến dịch HCM kéo DÀI ÍT LẮM LÀ 2 NĂM"! Đoàn tù binh đi cùi gạo, thung lũng Ba Lòng rộng lắm; sáng chúng tôi đi chiều mới về lại trại, mất non 1 ngày. Thung lũng này đã mất hết vết tích cho quá khứ tuổi thơ tôi có lên đây khi quận Ba Lòng của VNCH vẫn còn, Chi Công An của ba tôi vẫn còn thời gian khoảng 1959-60 gì đó. Giờ thì chẳng còn chi ngoài rừng rậm, những cái khe trôi ngoằn ngoèo trong thung lũng, bao dòng nước trong vắt, lạnh mát đôi chân.
3/ 1973 BÊN BỜ SÔNG THẠCH HÃN , TRAO TRẢ TÙ BINH ( hinh Phạm Thắng Vũ)--khi bị bắt làm tù binh vào ngày 23/3/1975, tôi vẫn tin có ngày trao trả như năm 1973 vì miền Nam sẽ còn phần nào đó, ranh giới ngưng bắn hai bên sẽ rút vào nơi nào đó ?
Tôi vẫn là người tù binh, vẫn những cảm nghĩ và hình dung ra ngày trao trả giống như ngày trao trả tại bờ sông Thạch Hãn vào năm 1973.
Có khi tôi lại tưởng tượng ra hình ảnh ba mẹ tôi trong nam sẽ lãnh '2 năm lương' cho những người lính mất tích hay bị bắt làm tù binh. Hi vọng theo niềm tin có một 'ranh giới mới' cho Hai Phe ở một nơi nào đó?
Đà nẵng mất! hi vọng tuyến ngưng bắn Hải Vân "tiêu ma". Có tin đồn hai phía sẽ ngưng bắn ở 'Phan Rang' rồi Phan Rang Bình Tuy mất? Hi vọng ngày trao trả lại 'teo' dần trong Ngọc và tôi.
*****
Trên cái loa phóng thanh dành cho học tập trong trại vẫn cái giọng the thé của người phát thanh viên nữ giọng Bắc: -Đúng 11 giờ 30 tổng thống Sài Gòn Dương văn Minh ... Rồi những bản nhạc 'như có Bác ..trong ngày vui đại thắng...' dồn dập phát lại... Cán bộ trong trại reo hò, các 'vệ binh' [4]reo hò. Những cái radio của cán bộ mở to 'hết volume'! Hôm nay trại không đi đâu hết. Tất cả chúng tôi được ở trong trại để liên tục nghe loan tin 'ĐAI THẮNG'. Tôi không nhớ tôi có khóc hay không? tôi chỉ nhớ mình tôi lạnh ngắt, cảm giác tê tái và buồn hụt hẫng quá sâu. Tuy đã là tù binh nhưng trong tôi một miền Nam 'vẫn còn', gia đình tôi trong kia -Bình Tuy- 'vẫn còn'. Giờ gia đình tôi trong nam ra sao? Trong kia vẫn mất tin tôi hơn môt tháng rồi. Nhà thằng Ngọc thì ở Huế, nó buồn trước tôi vì tin Huế mất ngày 26 tháng 3 hơn một tháng trước. Giờ đến phiên tôi, Sài Gòn đầu hàng xem như BÌnh Tuy đã "tiêu"? nhà tôi ra sao ? Ba mạ và các em tôi ra sao ? nhà tôi hơn một tháng nay chắc quay quắt vì tin tôi. - Thôi rồi tất cả sụp đổ! Hình ảnh ngày trao trả tù binh trong đó có Ngọc và tôi giống như tại bờ sông Thạch Hãn 2 năm trước nay tan thành tro bụi. Thực tế trước mắt tôi hôm đó là hình ảnh rộn ràng, âm thanh huyên náo của các cán bộ CS trên 'khung' như quay cuồng xoắn tít, tạo thành một 'ảo giác' nào đó làm tôi như lịm người hay chóng mặt rụng rời. Tôi như nằm mơ. Có tiếng mừng rỡ của một số thủy quân lục chiến. Do là lính, họ mừng vì họ sẽ được cho về nam như lời các cán bộ kia hứa hẹn trước do họ--'ít tội lỗi hơn cấp chỉ huy'.
Bốn mươi năm, lịch sử đã sang trang tôi chẳng cần thêm bớt. Những người lính kia dù là 'thứ dử' họ cũng phải về trước thôi. Sụp đổ rồi, thế là xong. Mảnh giấy trắng, cán bộ nguệch ngoạc vài chữ những người lính này sẽ ra đi. Còn bọn tôi sẽ ở lại. Những cán bộ chính trị viên sẽ lên lớp trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi: -SÀI GÒN ĐÃ ĐẦU HÀNG! Có nhiều điều hi vọng vẫn bám víu vào tâm trí người tù binh. Người tù vẫn tin vào 'trao trả, trao đổi'- một giá trị gì đó khi quân đội và một miền Nam vẫn còn. Chiến tranh, thắng bại lẽ thuờng; thua thì làm tù binh, chỉ mừng là còn sống còn có ngày 'trở về'. Tất cả đều tiêu tan và sụp đổ tan tành như một giấc mơ vào buổi sáng 30 tháng Tư ,1975 trong Thung Lũng Ba Lòng, đầu nguồn sông Thạch, quê huơng tôi.
DHL 27/4/2015
[1]: khung: nhà cán bộ coi tù binh ở [2]: chúng tôi tuy là 2 trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất bị dẩn qua sông Thạch hãn đầu tiên vào ngày 24/3/1975 sau khi tuyến Mỹ Chánh do Tiểu Khu QT án ngữ bị vỡ - tôi có kể lại trong hồi ký vừa qua " DHL- BỐN MƯƠI NĂM NGỒI NHỚ CHUYỆN XƯA" [3] Thuợng Cộng: thời VNCH tôi có đọc trên báo chí hay gọi những người người bản thuợng, sắc tộc nhưng theo CS . [4]: Tôi nhớ thời gian này những người lính bộ đội không cấp bậc thì họ gọi là 'vệ binh', có thể là bảo vệ . Sau này về trại tù Ái Tử danh xưng này vẫn nghe gọi
30 THÁNG TƯ ĐỌC LẠI LÁ THƯ NGƯỜI CHA GỬI CHO CON TRONG TÙ
HÀM TÂN 20/4/79 Phúc con Ba nhận được thư của con 2 hôm nay , vội trả lời con rõ, nghe con lên cân và cao 1m70 ba mẹ rất mừng khuyên con cố gắng bảo vệ sức khỏe và lao động thật tốt và tiến bộ ba mẹ mừng Nhưng cũng buồn vì quá xa xuôi không có sự bồi dưỡng cho con và thăm viếng khó khăn và xe cộ tiền bạc kẹt, nên định trước tết hoặc sau tết mẹ con ra thăm con , bây giờ lo chuẩn bị dành dụm tiền từng ngày một, khi nào ra sẽ biên thư cho con biết trước . Cách đây 2 tuần ba có gởi thư cho con và em Hòa không hiểu đã nhận được chưa Khi nào mạ ra sẽ đem theo các thứ đúng như trong thư con cần nhất là khoai luộc và ớt ruốc tươi v v Hiện mẹ con đang xắt khoai khô, mùa này lúa không ra gì chứ khoai thì tha hồ xắt không kịp vì không có ...
Đông Hà cuối 1975 Đó là thời gian sau ngày "Gãy Súng" nói đúng ra là sau ngày thua trận. Những gì còn lại cho những người lính miền nam những ai còn sống tại mặt trận trở thành tù binh và sau này là những người tù cải tạo. Trại mới lập xong trên những triền đồi trung du của miền Ái Tử thì đã gần xong năm 1975. Có một ngày chúng tôi có mặt trong một toán tù được trại dẫn đi Chợ Đông Hà. Lý do dễ hiểu nhất do trại Bốn chúng tôi mới lập nên tăng gia rau xanh chưa có.
tờ bạc 10$ lớn nhất hồi 1975 tại Đông Hà Ôi sung sướng làm sao và hiếm hoi làm sao khi có dịp 'sổ lồng' được 'cán bộ' dẫn đi về đồng bằng được 'ra phố' dù có đi bộ từ trại ra Đông Hà. Đoạn đường này không còn là chuyện gian nan cho chúng tôi nữa do chúng tôi lội suối lên rừng đốn gỗ hàng ngày mấy chục cây số về lập trại đã quen. Tôi đã thấy lại Đông Hà. Sau cuộc chiến chợ này tự khắc đông lên. Người dân khắp nơi tập trung về mua bán. Bộ đội từ Lào từ Đường Chín về. Người thị xã QT mất thành phố nay về đây làm đất sống mới. Từ Đà Nẵng con buôn 'vơ vét' bao thứ hàng hoá còn sót lại ẩm mốc ế ẩm trước đây đem ra bán tại chợ này. Tất cả đều được ngưới bên kia sau bao năm từ trong rừng sâu núi thẩm của Lào của Miền Bắc chiếu cố giành nhau mua. Cuốn album có hình đàn bà 'mắt nhắm mắt mở' khi nhìn nghiêng nay mấy ông cán binh xem là chuyện 'nhiệm mầu'? Những cái kiếng mát trước đây chúng tôi chê là 'thầy bói' không ai đụng đến nay đều 'quý như vàng' . Huống hồ chi là chuyện những chiếc đồng hồ Orient, Citizen ' hai cửa sổ...không người lái'. Những xấp bạc 10 $ đỏ lòm loại bạc Bắc lớn nhất thời đó được họ cất bao năm nay và tung hết mua bán ở chợ Đông Hà cái chợ vừa bừng lên khi khói súng vừa tàn. Vừa được cán bộ cho đi mua 'rau muống' tôi có dịp gặp nói đúng hơn là THẤY những con người phường phố cũ năm xưa. Lò mỳ Vạn Hoa không còn nay lại đi bán mỳ lẻ. Những mệ những o bán thịt tại chợ QT nay cũng trở lại nghề cũ ở đây. Cái tiệm Đường Ký ngày xưa ba tôi hay dẫn tôi vào ăn mỳ xào mềm hay hoành thánh tôi thì thích bánh bao nay là cái quán nhỏ lèo tèo bên đường?
Còn nhiều cái để kể nữa ...có bạn tù đi theo chỉ cho tôi người đàn bà còn mặc chiếc áo dài tha thướt trong thời buổi này: -Vợ Trung Tá Phạm Văn Đính đó Bà này đi theo với chiếc xe bán tải toyota chở đầy lốp xe đạp từ Đà nẵng ra...Trung tá Đính vào lúc này lại là Trung Tá 'Quân Giải Phóng' Ngày tôi còn ở trại Một tại Ái Tử, có ông ta vừa đi 'thăm anh em tù binh' tại Trại này. Tôi nghe bàn tán ông mang "quân hàm" trung tá bộ đội. Tôi nhớ trại Một do trại này là trại anh em chúng tôi vừa đốn cây xây dựng khi từ Ba Lòng chuyển trại về Ái Tử vào ngày 21 tháng 5 1975... ngày đó các ông bộ đội nói với nhau: -Thằng Đính về thăm đấy? Dù ông Đính có mang "quân hàm trung tá" dù ông có chỉ dẫn đánh úp Cửa Việt đêm rạng 27/1/1973 họ vẫn coi là kẻ khác vậy thôi. .. Mấy mươi năm sau, giờ tra cứu trên online những cái gì ngày đó nay là sự thật. ***** Nhưng câu chuyện tôi kể là chuyện của những người phố phường Thị Xã nay tất cả không còn gì? Sau khi được cán bộ cho vào cửa hàng tập thể mua một người một 'xuất cơm' 1$ ăn xong rồi sẽ gánh rau về trại. Phải nhắc chuyện 1$ /1 xuất cơm gồm gì? -Một tô cơm trắng -1 con cá kho -1 bát canh nhỏ Đời tù gặp bữa ăn vậy là sướng 'hơn tiên', dù là tiền của chúng tôi. Vấn đề là cán bộ 'du di' là quá thoải mái. Lại nữa, ăn cơm xong còn được qua quốc doanh kem lạnh gần đó mua cho được cây kem lớn. Tôi gặp Dượng Khánh. Dượng là anh rễ ông Vị (Mỳ Vạn Hoa), đang một tay đu theo chiếc xe hàng vô lại QT. Không ngờ gặp tôi, Ông chỉ biết lắc đầu "không còn gì nữa sụp hết rồi!" Cái tháp canh cao ngất của Đông Hà vẫn còn, nó giờ sau lưng chúng tôi. Bên phải con đường ra QL 1 cái quán "Đường Ký" dãy hàng lụp xụp dưới vệ đường xa dần... Sau cảnh 'vật đổi sao dời' được ra phố, được về đồng bằng chúng tôi cảm thấy may mắn và thoải mái làm sao? Sự tự do dù chỉ nửa ngày nhưng đây là thời gian làm chúng tôi nhớ mãi. Chúng tôi nhớ Đông Hà nhớ một thành phố lính mới một năm thôi giờ đà thay chủ.
Cái chòi canh Đông Hà giờ sau lưng chúng tôi nó xa dần. Dọc đường về những đoàn xe molotova từ trong nam ra, chở đầy hàng trùm kín mít. Chúng nối đuôi nhau chạy ra hướng Bắc. Chúng tôi chẳng cần biết làm gì chỉ lo đi mau về lại trại. Riêng tôi vừa gánh vừa nghĩ về những người vừa gặp...những con người phố cũ mới đó mới đây mà ngỡ nằm mơ?
Ngày 24/11/1977 đoàn tù chúng tôi giã từ Ba Ra Đô Lương (đào sông) và ra
Công Trình Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân T Thanh Hóa (san rừng). Những cánh rừng lim bạt ngàn gỗ cứng như thép tù phải đốn dọn đốt cho hết.
Nó là cảnh hồ thơ mộng cho hôm nay nhưng 40 năm trước biết bao nhiêu mồ hôi tù
đã đổ xuống. Có người nằm lại dưới lòng hồ này do đói khát như Đại úy Lực (ăn
cóc) Chuẫn úy Bin (thắt cổ tự vẫn)..Những ngày lao động khổ sai (do quá đói tôi phải
nói là khổ sai khi ăn đói lại chặt lim quá cứng?) mấy cán bộ VC nói rằng chúng
tôi phải chặt rừng sát gốc, cho nước dâng cao ...mai mốt đây CÁ SẼ ĐẺ TRỨNG
TRÊN ...CÂY ý nghĩa này đúng do hiện nay người dân vùng quanh Hồ Sông Mực bắt
những con cá quá to như hình dưới.. Nhờ Google cho tôi tìm lại nơi đây, cám ơn Internet ĐHL
NÚI LỞ ĐÁ ĐÈ; NHỮNG OAN HỒN VẤT VƯỞNG VÀ CÂU CHUYỆN THẬT SAU 40 NĂM ...
thanh niên xung phong ngày xưa có thể chúng tôi đã gặp họ cùng đào sông ở Cống Hiệp Hòa. Lúc này họ là những thanh niên nam nữ còn trẻ tuổi hăng say công tác. Hôm nay họ là lớp người về chiều ngồi nhớ về công trình Ba Ra Đô Lương và thảm nạn sụp đổ tại Cống Hiệp Hòa lúc đoàn tù chúng tôi vừa mới giã từ để ra công trình Lòng Hồ Sông Mực Thanh Hóa
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI BA RA ĐÔ LƯƠNG / NGHỆ TĨNH 1977-1978 https://thanhnien.vn/…/daian-cong-hiep-hoa-va-chuyen-98-ngu… Ngày 24/11 / 1977 sau non 1 tháng vét con sông này chúng tôi từ giã Cống này
tiếp tục ra Lòng HỒ Sông Mực Thanh Hóa . Sau đó có nghe tin cống này sập chôn
vùi cả trăm thanh niên xứ Nghệ thật tội cho họ chưa vợ chưa con tuổi đời quá
trẻ ...hôm nay tại đây xứ Mỹ: qua Google tôi sưu tra lại va tìm ra câu chuyện
tội nghiệp đó là có thật
ờ cổ động thi công Ty Thông Tin NGhệ
Tĩnh tôi còn cất làm kỷ niệm cho đến nay [giấy này do Trần Vấn khối trưởng khối
4 trại 4 mang về và tôi xin mới có ]
Đợt cao điểm nạo vét cống Ba RA Đô Lương có mặt mấy trăm người tù từ Ái Tử ra .
chúng tôi ra bằng xe lửa dành riêng cho tù. Xuống ga Diễn Châu Nghệ An đi bộ
lên khoảng 50 cây số đến huyện Đô Lương miền núi phía Tây
dọc đường dân hợp tác xã đang làm lúa đổ xô ra coi chúng tôi dang đi trên đường
ruộng : họ xì xầm " ngụy cũng to con đẹp trai nhỉ "
trên đường di chuyển tôi chứng kiến nhũng cái quán nhỏ bên lề ruộng ,vài nhánh
chuối đu đưa , cái ống thuốc lào , dụng cụ người dân gánh nước bằng đất nung
tuyệt nhiên không có kim loại
những bà già còn bận quần 1 ống gọi là xịnh như thời cha ông chúng ta thời xưa
cổ . Người ta quét lá gom lại làm chất đốt , rõ nghèo.
Nạo vét lòng sông đất đá :
, thi công trong 3 tuần cho xong số lượng đã ghi trong mấy chục ngàn khối đất
đá , chúng tôi làm theo lối dây chuyền , gánh đủ loại.
Tối về nằm trên nền đất ẩm lót lá và ni long , đĩa bò vô hút máu có đứa la lên
không ngủ được
Có các căng tinh bán đồ ăn nhất là cam Xã Đoài rất rẻ , nhưng tù làm gì có tiền
?! có ngờ đâu khi đoàn Tù chúng tôi ra Công Trường sông Mực Thanh Hóa (24/11/1977
từ giã) thì qua đầu năm sau 1978 công Hiệp Hòa (có mũi tên trong hình dươi) bị
sập chôn vùi 98 thanh niên Nghệ Tĩnh tội nghiệp cho họ, còn quá trẻ độc thân
phần nhiều. TÔi nhớ bao kỷ niệm đổi xà phòng lấy bánh bao tại đó. Tù không cần
xà phòng thanh niên xung phong có bánh bao phần ăn sáng họ đổi cho chúng tôi
lấy xà phòng. Rồi cam Xã Đoài bán căng tinh 1 đồng một ký nhưng tôi không bao
giờ có tiền mua Nhìn Cống Hiệp Hòa sau 40 năm sụp đổ rêu phong bao oan hồn chưa
siêu thoát tội làm sao?
theo báo Thanh niên
Tôi đến cống Hiệp Hòa sau 40 năm thảm họa xảy ra và khó để hình dung nơi
này từng xảy ra vụ tai nạn lao động kinh hoàng như vậy. Năm 1997, cống
được xây dựng lại, phần cống ngầm nay đã chảy lộ thiên và hệ thống ngăn
nước có chức năng điều tiết nước, bảo vệ đường hầm xuyên núi dài hơn 500
m cách đó 2 km về phía hạ du. Bên con đường gần nơi xảy ra thảm họa là
một cái am thờ nhỏ, nằm nép mình ở mé đồi. (Trích)
-----------------------------
Cống Hiệp Hòa là con hầm dẩn nước
qua núi giống hầm tàu: có thể đây là cái cổng chận nước bên ngoài thôi. Như thế
có thể sườn núi miệng cống Hiệp Hòa sụp xuống chôn vùi nạn nhân
Thanh niên xung phong trẻ tuổi năm 1977 ngày đó giờ
là đây