Saturday, November 14, 2020

TÔI ĐÃ GẶP NHỮNG NGƯỜI PHỐ CŨ TẠI CHỢ ĐÔNG HÀ



Đông Hà cuối 1975

Đó là thời gian sau ngày "Gãy Súng" nói đúng ra là sau ngày thua trận. Những gì còn lại cho những người lính miền nam những ai còn sống tại mặt trận trở thành tù binh và sau này là những người tù cải tạo. Trại mới lập xong trên những triền đồi trung du của miền Ái Tử thì đã gần xong năm 1975. 

Có một ngày chúng tôi có mặt trong  một toán tù được trại dẫn đi Chợ Đông Hà. Lý do dễ hiểu nhất do trại Bốn chúng tôi mới lập nên tăng gia rau xanh chưa có.

  tờ bạc 10$ lớn nhất hồi 1975 tại Đông Hà 

Ôi sung sướng làm sao và hiếm hoi làm sao khi có dịp 'sổ lồng' được 'cán bộ' dẫn đi về đồng bằng được 'ra phố' dù có đi bộ từ trại ra Đông Hà. Đoạn đường này không còn là chuyện gian nan cho chúng tôi nữa do chúng tôi lội suối lên rừng đốn gỗ hàng ngày mấy chục cây số về lập trại đã quen.

Tôi đã thấy lại Đông Hà. Sau cuộc chiến chợ này tự khắc đông lên. Người dân khắp nơi tập trung về mua bán. Bộ đội từ Lào từ Đường Chín về. Người thị xã QT mất thành phố nay về đây làm đất sống mới. Từ Đà Nẵng con buôn 'vơ vét' bao thứ hàng hoá còn sót lại ẩm mốc ế ẩm trước đây đem ra bán tại chợ này. Tất cả đều được ngưới bên kia sau bao năm từ trong rừng sâu núi thẩm của Lào của Miền Bắc chiếu cố giành nhau mua. Cuốn album có hình đàn bà 'mắt nhắm mắt mở' khi nhìn nghiêng nay mấy ông cán binh xem là chuyện 'nhiệm mầu'? Những cái kiếng mát trước đây chúng tôi chê là 'thầy bói' không ai đụng đến nay đều 'quý như vàng' . Huống hồ chi là chuyện những chiếc đồng hồ Orient, Citizen ' hai cửa sổ...không người lái'. Những xấp bạc 10 $ đỏ lòm loại bạc Bắc lớn nhất thời đó được họ cất bao năm nay và tung hết mua bán ở chợ Đông Hà cái chợ vừa bừng lên khi khói súng vừa tàn.

Vừa được cán bộ cho đi mua 'rau muống' tôi có dịp gặp nói đúng hơn là THẤY những con người phường phố cũ năm xưa. Lò mỳ Vạn Hoa không còn nay lại đi bán mỳ lẻ. Những mệ những o bán thịt tại chợ QT nay cũng trở lại nghề cũ ở đây. Cái tiệm Đường Ký ngày xưa ba tôi hay dẫn tôi vào ăn mỳ xào mềm  hay hoành thánh tôi thì thích bánh bao nay là cái quán nhỏ lèo tèo bên đường?


tài liệu online hình trung tá Đính sau khi đầu hàng sau này ĐHL sưu tầm ra 
http://trian.vn/tin-tuc/chien-truong-xua-3571/tran-danh-vang-lung-cua-doan-bong-lau-bat-song-vua-chien-truong-329511

Còn nhiều cái để kể nữa ...có bạn tù đi theo chỉ cho tôi người đàn bà còn mặc chiếc áo dài tha thướt trong thời buổi này:
-Vợ Trung Tá Phạm Văn Đính đó
Bà này đi theo với chiếc xe bán tải toyota chở đầy lốp xe đạp từ Đà nẵng ra...Trung tá Đính vào lúc này lại là Trung Tá 'Quân Giải Phóng' Ngày tôi còn ở trại Một tại Ái Tử, có ông ta vừa đi 'thăm anh em tù binh' tại Trại này. Tôi nghe bàn tán ông mang "quân hàm" trung tá bộ đội. Tôi nhớ trại Một do trại này là trại anh em chúng tôi vừa đốn cây xây dựng khi từ Ba Lòng chuyển trại về Ái Tử vào ngày 21 tháng 5 1975... ngày đó các ông bộ đội nói với nhau:
-Thằng Đính về thăm đấy?
Dù ông Đính có mang "quân hàm trung tá" dù ông có chỉ dẫn đánh úp Cửa Việt đêm rạng 27/1/1973 họ vẫn coi là kẻ khác vậy thôi. ..

Mấy mươi năm sau, giờ tra cứu trên online những cái gì ngày đó nay là sự thật.

*****
Nhưng câu chuyện tôi kể là chuyện của những người phố phường Thị Xã nay tất cả không còn gì? 
Sau khi được cán bộ cho vào cửa hàng tập thể mua một người một 'xuất cơm' 1$ ăn xong rồi sẽ gánh rau về trại. Phải nhắc chuyện 1$ /1 xuất cơm gồm gì? 
-Một tô cơm trắng
-1 con cá kho
-1 bát canh nhỏ 
Đời tù gặp bữa ăn vậy là sướng 'hơn tiên', dù là tiền của chúng tôi. Vấn đề là cán bộ 'du di' là quá thoải mái. Lại nữa, ăn cơm xong còn được qua quốc doanh kem lạnh gần đó mua cho được cây kem lớn.

Tôi gặp Dượng Khánh. Dượng là anh rễ ông Vị (Mỳ Vạn Hoa), đang một tay đu theo chiếc xe hàng vô lại QT. Không ngờ gặp tôi,  Ông  chỉ biết lắc đầu "không còn gì nữa sụp hết rồi!"

Cái tháp canh cao ngất của Đông Hà vẫn còn, nó giờ sau lưng chúng tôi. Bên phải con đường ra QL 1 cái quán "Đường Ký" dãy hàng lụp xụp dưới vệ đường xa dần...

Sau cảnh 'vật đổi sao dời' được ra phố, được về đồng bằng chúng tôi cảm thấy may mắn và thoải mái làm sao?  Sự tự do dù chỉ nửa ngày nhưng đây là thời gian làm chúng tôi nhớ mãi. Chúng tôi nhớ Đông Hà nhớ một thành phố lính mới một năm thôi giờ đà thay chủ. 



Cái chòi canh Đông Hà giờ sau lưng chúng tôi nó xa dần. Dọc đường về những đoàn xe molotova từ trong nam ra, chở đầy hàng trùm kín mít. Chúng nối đuôi nhau chạy ra hướng Bắc. Chúng tôi chẳng cần biết làm gì chỉ lo đi mau về lại trại. 

Riêng tôi vừa gánh vừa nghĩ về những người vừa gặp...những con người phố cũ mới đó mới đây mà ngỡ nằm mơ?

BÓNG TÙ BINH NĂM XƯA BÊN LÒNG HỒ SÔNG MỰC THANH HÓA

                                           HỒ SÔNG MỰC HÔM NAY

                                       CỐNG HỒ THỦY LỢI SÔNG MỰC HÔM NAY




CHUYỆN NGÀY XƯA 1977


Ngày 24/11/1977 đoàn tù chúng tôi giã từ Ba Ra Đô Lương (đào sông) và ra Công Trình Lòng Hồ Sông Mực huyện Như Xuân T Thanh Hóa (san rừng).
Những cánh rừng lim bạt ngàn gỗ cứng như thép tù phải đốn dọn đốt cho hết. Nó là cảnh hồ thơ mộng cho hôm nay nhưng 40 năm trước biết bao nhiêu mồ hôi tù đã đổ xuống. Có người nằm lại dưới lòng hồ này do đói khát như Đại úy Lực (ăn cóc) Chuẫn úy Bin (thắt cổ tự vẫn).. Những ngày lao động khổ sai (do quá đói tôi phải nói là khổ sai khi ăn đói lại chặt lim quá cứng?) mấy cán bộ VC nói rằng chúng tôi phải chặt rừng sát gốc, cho nước dâng cao ...mai mốt đây CÁ SẼ ĐẺ TRỨNG TRÊN ...CÂY ý nghĩa này đúng do hiện nay người dân vùng quanh Hồ Sông Mực bắt những con cá quá to như hình dưới..
Nhờ Google cho tôi tìm lại nơi đây, cám ơn Internet
ĐHL


------------------------------------------------------
NÚI LỞ ĐÁ ĐÈ; NHỮNG OAN HỒN VẤT VƯỞNG VÀ CÂU CHUYỆN THẬT SAU 40 NĂM ...


thanh niên xung phong ngày xưa có thể chúng tôi đã gặp họ cùng đào sông ở Cống Hiệp Hòa. Lúc này họ là những thanh niên nam nữ còn trẻ tuổi hăng say công tác. Hôm nay họ là lớp người về chiều ngồi nhớ về công trình Ba Ra Đô Lương và thảm nạn sụp đổ tại Cống Hiệp Hòa lúc đoàn tù chúng tôi vừa mới giã từ để ra công trình Lòng Hồ Sông Mực Thanh Hóa 

CÔNG TRÌNH THỦY LỢI BA RA ĐÔ LƯƠNG / NGHỆ TĨNH 1977-1978

https://thanhnien.vn/…/daian-cong-hiep-hoa-va-chuyen-98-ngu…
Ngày 24/11 / 1977 sau non 1 tháng vét con sông này chúng tôi từ giã Cống này tiếp tục ra Lòng HỒ Sông Mực Thanh Hóa . Sau đó có nghe tin cống này sập chôn vùi cả trăm thanh niên xứ Nghệ thật tội cho họ chưa vợ chưa con tuổi đời quá trẻ ...hôm nay tại đây xứ Mỹ: qua Google tôi sưu tra lại va tìm ra câu chuyện tội nghiệp đó là có thật
ờ cổ động thi công Ty Thông Tin NGhệ Tĩnh tôi còn cất làm kỷ niệm cho đến nay [giấy này do Trần Vấn khối trưởng khối 4 trại 4 mang về và tôi xin mới có ]

Đợt cao điểm nạo vét cống Ba RA Đô Lương có mặt mấy trăm người tù từ Ái Tử ra .
chúng tôi ra bằng xe lửa dành riêng cho tù. Xuống ga Diễn Châu Nghệ An đi bộ lên khoảng 50 cây số đến huyện Đô Lương miền núi phía Tây
dọc đường dân hợp tác xã đang làm lúa đổ xô ra coi chúng tôi dang đi trên đường ruộng : họ xì xầm " ngụy cũng to con đẹp trai nhỉ "
trên đường di chuyển tôi chứng kiến nhũng cái quán nhỏ bên lề ruộng ,vài nhánh chuối đu đưa , cái ống thuốc lào , dụng cụ người dân gánh nước bằng đất nung tuyệt nhiên không có kim loại
những bà già còn bận quần 1 ống gọi là xịnh như thời cha ông chúng ta thời xưa cổ . Người ta quét lá gom lại làm chất đốt , rõ nghèo.

Nạo vét lòng sông đất đá :
, thi công trong 3 tuần cho xong số lượng đã ghi trong mấy chục ngàn khối đất đá , chúng tôi làm theo lối dây chuyền , gánh đủ loại.
Tối về nằm trên nền đất ẩm lót lá và ni long , đĩa bò vô hút máu có đứa la lên không ngủ được
Có các căng tinh bán đồ ăn nhất là cam Xã Đoài rất rẻ , nhưng tù làm gì có tiền ?! có ngờ đâu khi đoàn Tù chúng tôi ra Công Trường sông Mực Thanh Hóa (24/11/1977 từ giã) thì qua đầu năm sau 1978 công Hiệp Hòa (có mũi tên trong hình dươi) bị sập chôn vùi 98 thanh niên Nghệ Tĩnh tội nghiệp cho họ, còn quá trẻ độc thân phần nhiều. TÔi nhớ bao kỷ niệm đổi xà phòng lấy bánh bao tại đó. Tù không cần xà phòng thanh niên xung phong có bánh bao phần ăn sáng họ đổi cho chúng tôi lấy xà phòng. Rồi cam Xã Đoài bán căng tinh 1 đồng một ký nhưng tôi không bao giờ có tiền mua Nhìn Cống Hiệp Hòa sau 40 năm sụp đổ rêu phong bao oan hồn chưa siêu thoát tội làm sao?

theo báo Thanh niên
 Tôi đến cống Hiệp Hòa sau 40 năm thảm họa xảy ra và khó để hình dung nơi này từng xảy ra vụ tai nạn lao động kinh hoàng như vậy. Năm 1997, cống được xây dựng lại, phần cống ngầm nay đã chảy lộ thiên và hệ thống ngăn nước có chức năng điều tiết nước, bảo vệ đường hầm xuyên núi dài hơn 500 m cách đó 2 km về phía hạ du. Bên con đường gần nơi xảy ra thảm họa là một cái am thờ nhỏ, nằm nép mình ở mé đồi. (Trích)
-----------------------------

Cống Hiệp Hòa là con hầm dẩn nước qua núi giống hầm tàu: có thể đây là cái cổng chận nước bên ngoài thôi. Như thế có thể sườn núi miệng cống Hiệp Hòa sụp xuống chôn vùi nạn nhân

Thanh niên xung phong trẻ tuổi năm 1977 ngày đó giờ là đây

Edit by DHL 24/9/2019
CHUYỆN 40 NĂM QUA

 

ĐƯỜNG RỪNG VÀ CÂY MÂY

Sầu thương năm tháng khó phôi phai.
Nhớ ai còn thương nhớ thương ai hoài...

Đường Chiều Sơn Cước

Tác giả: Minh Kỳ & Lê Dinh


Chào bạn đọc

Mây đây không phải là những đám mây trời bồng bềnh trôi trên bầu trời xanh lơ trong một ngày nắng đẹp đâu thưa quý bạn. Mây đây là những bụi mây rừng đầy gai nhọn trong rừng sâu núi thẳm.


Tôi nhớ một thời có dịp làm quen với những bụi mây đầy gai nhọn. Thật ra đó là lúc tôi là người bạn "bất đắc chí" do hàng ngày lên rừng rút mây đẽo gỗ vác về trại.

Chuyện non nửa thế kỷ rồi, thời gian qua nhanh vùn vụt thế mà hình ảnh những vòi mây đầy móc nhọn như còn. 'vẩn vơ' hay 'lắc lư' trong trí nhớ tôi.

Có khi tôi tách bạn tù vào một đám rừng "một mình một rựa" âm thầm rút mây. Tôi lội bì bõm dọc theo mấy khe nước. Dưới những tàng lá rậm rạp,  ánh sáng ban ngày trở nên mờ ảo. Mây nước mọc nhiều hai bên khe nước. Những bụi mây rậm rịt, vòi cao vươn lên tới sườn núi.  Chuyện tước mây cũng phải có 'kỹ thuật', nếu không có bạn tù chỉ vẽ thì khó lòng tách được- hàng hàng lớp lớp- gai nhọn bao quanh thân chúng.


Nào! Giờ tôi dùng cái rựa đã mài sắc và chọn những nhành mây dài nhất.  Tôi vừa nhún, vừa lắc uốn thân mây từ dưới lên trên. Lớp vỏ mây cùng gai sẽ từ từ lóc ra. Nhún- uốn- lắc nhành mây là cách thức tước võ mây chứ không róc vỏ như róc cây mía được. Nhành mây dài, không lấy phần đọt do nó non không tốt. Thế là được một cây mây. Tiếp tục lũi theo khe như vậy bạn sẽ làm sao cho được một VÁC bó lại, ra khỏi rừng là trời hơi xế. 

Tôi ngao ngán những vòi mây đu đưa trên cao? chúng có nhiều cái móc hình móng mèo thỉnh thoảng chúng móc cái mũ vải của tù rút lên trên không lắc lư như "trêu ghẹo" ? Vừa mệt vừa đói muốn ra khỏi rừng cho nhanh, trời sắp tối nhưng tôi phải vứt cây gỗ trên vai xuống hì hục lấy lại cái mũ vải 'thân thương'; rồi lại vác gỗ lên vai bươn bả ra khòi rừng



Mây nước dùng làm gì? Nó dùng để cột rui mèn đòn tay. Mây nước có cái tên này do chịu đựng được trời mưa gió nên để làm nhà thôi chứ không làm đồ mỹ nghệ được. Ngoại trừ một chuyện đó là làm GHẾ MÂY. Xưa nay người ta đan ghế mây ngồi êm chịu mưa gió , thiết kế tại quán cà phê hay đồ mỹ nghệ khá thích hợp.

Tôi kể lại chuyện rừng ngày đó. Nếu ra khỏi rừng còn thì giờ người tù cải tạo sẽ đi kiếm một vài thứ mây khác đó là MÂY PHUN, MÂY ĐẮNG , MÂY TẮT ...

Những thứ mây này mọc tại sườn núi, có nghĩa là không nằm dưới khe. Nhưng lùm mây phun mây đắng, lóc ra trắng nõn nà , thân nhỏ dài lê thê. Tôi sẽ cuộn lại một bó riêng đem về trại cho bạn bè đan đát. Thân mây phun mây đắng chúng tôi chẻ ra xong vuốt mỏng, đẹp đan thành giỏ (làn tiếng Bắc) đựng đồ đạc, mũ mây đội trên đầu cho nó 'hoách'. Những ông tù khéo tay còn đan thành những thứ 'độc đáo' hơn bảo đảm thành phố không thế nào có đặng?


những thứ mũ giỏ mây này đã xuất hiện trong tù từ lâu. Thú thật những người tù gốc là trung đội trưởng nghĩa quân (Huế Thừa Thiên) có bàn tay khéo léo nhất. Có thể họ xuất thân từ nông thôn giỏi về đan lát họ làm những thứ này trong thời gian rãnh trong TRẠI . Người viết khó học được nghề này chỉ nhìn thôi?
Viết miên man trong trại còn nhiều nghề thủ công mỹ nghệ (phát sinh) nữa bạn đọc nên hình dung cái rá nhỏ kia làm gì? để CHIA PHẦN SẮN KHOAI cho bữa ăn trong tù thôi. Những người nào nhớ nhà thì giữ lấy chờ gặp người nhà thăm nuôi gữi về làm quà 

Nhưng những thứ mây này, còn vài thứ nữa người viết có thể quên, chỉ nằm trong nhà không thể chịu mưa gió như 'anh chàng' mây nước được đâu?

Còn một thứ mây nữa đó là mây tắt (hay tắc) những danh từ chỉ nghe chứ tôi chưa hề đọc thành 'chữ' trong tù. Mây tắc thân nhỏ hơn chiếc đũa, dài lê thê có thể mấy mươi mét xuyên vắt vẻo bụi  này sang bụi khác lưng chừng núi. Thân mây tắt không gai lá cũng không mấy gai, không e dè khi rút nó. Mây tắt vể trại chúng tôi chẻ ra vuốt mềm mại dùng 'nứt' vành cho những dụng cụ nhà quê như trẹt, mũng, rá ,,,

Làm xong các vật dụng thúng mủng rá nói trên phải có cái vành ,mà có vành thì chúng ta liên tưởng đến cặp vành ép miệng trẹt, rá vừa đan xong. Và muốn ép hai vành tre đó vào sát nhau  thì phải có sợi mây tắt mềm mại dài lòng thòng 'nứt' nó  lại 

Ngang đây nếu người viết không viết tới những bụi cây giang là loại tre rừng là một thiếu sót lớn. Những đốt giang này có thể dài tới cả mét. Thời này rừng Quảng Trị nhiều vô số giang rừng. Thân nó không như lồ ô mà khác tre. Những bụi giang rậm rạp nằm vắt vẻo bò ngang dọc trong rừng. Những đốt giang chúng tôi chặt ra bó lại thành hai bó và gánh về trại. 
Lạt giang là thứ quán quân để lợp tranh, xây nhà kèo cột. Nhưng lạt giang chúng tôi dùng nó đan rỗ rá thì thuộc loại 'quán quân".

Vùng thôn quê khi lợp nhà cần những sợi lạt nhưng  làm sao có giang rừng? Tất cả đều dùng từ những đốt tre 'cái'. Nhưng tre không thể nào có những đốt dài bằng đốt giang rừng được. Vì có mắt ở giửa nên lạt tre thường bị gảy còn lạt giang thì không.

Rừng Ái Tử QT có nhiều mây, tiếp tục vào đến Bình Điền tây nam Huế chúng tôi lại một lần nữa lại gặp những rừng mây nhiều vô số. Người ta hay nhắc câu “Nước khe Điên cọp Bình Điền,” toàn vùng này nằm trong rừng mây nên rất độc, uống nhằm nước này hay lên cơn sốt rét. Những năm đầu 1980 những cánh rừng mây nước ỏ đây đã bị những trại tù cải tạo san bằng đốt dọn để trồng lên những rẫy sắn bạt ngàn.

Chuyện đường rừng, chuyện  ngày xưa nhớ gì kể đó. Những hình ảnh đó nó tái hiện trong khoảng trời xa xưa khi rừng thiêng còn rậm rạp thâm u. Đã nửa thế kỷ qua rồi, khi con người càng lúc càng đông thì rừng rú năm xưa trong đó có những đồi mây  làm gì còn tồn tại?

Khi mây trời vẫn mãi mãi tồn tại tự do và thênh thang, thì dưới đất những đám 'MÂY RỪNG' chắc đã không còn? 

==============================







Đổ xô hái trái mây rừng xuất sang Trung Quốc


Nửa tháng trở lại đây, nhiều người dân tại các xã Quảng Trực (Tuy Đức), Đắk Som (Đắk Glong), một số xã tại huyện Krông Nô tỉnh Đắk Nông bỏ việc vườn rẫy đi tìm trái mây rừng bán.
Ngày 20/3, dọc quốc lộ 28 từ thị xã Gia Nghĩa (Đắk Nông) đến huyện Di Linh ( Lâm Đồng) nhiều thương lái ngồi ven đường, trước các cửa rừng để đón mua của người dân đi rừng hái trái mây rừng về. ..
====================================================== 
Rừng mây không còn do người mình tham tiền hái trái mây đào luôn cả rễ bán cho "thương lái Trung Quốc"? Chuyện thời  nay là vậy, số phận cây mây cũng không thoát bàn tay phù thuỷ của bọn giặc Bắc Phương?

Chút nhớ rừng xưa, những đám rừng gai góc với rừng mây. Những lộc trời từng giúp ích thế nhân chắc gì còn được ưu ái hay cần thiết với cái thời tân tiến bây giờ?

DHL 26/3/2018 
update 7/8/2018
Nhớ Rừng Quảng Trị -Bình Điền tây nam Huế 1975

NGƯỜI TÙ BINH THĂM CHÙA SẮC TỨ



Ngày 21/5/1975 đoàn tù binh VNCH chúng tôi từ Ba Lòng được đưa ngược về lại Ái Tử để thành lập ĐOÀN CẢI TẠO CÓ TÊN LÀ ĐOÀN 74. (Trại 1 rồi tiếp tục các trại khác)
Nhờ được phân công đi lấy kẽm gai tại ngoài căn cứ Ái Tử người viết mới có dịp ghé vào Chùa Sắc Tứ thăm lại các Thầy và mấy chú ra sao? 
Cũng đoàn tù thấp thoáng bới móc ngoài căn cứ Ái Tử cũ này nên người ta thấy tôi và có ai đó nhắn tin vào gia đình ba mẹ tôi đang ở Mỹ Tho tin là tôi 'CÒN SỐNG"! Thế là ở Mỹ Tho 'DẸP BÀN THỜ ' ĐHL xuống? không còn thờ nữa.( Trước đó vài tháng thì nghe ai trong đơn vị tôi chạy vào thấu trong nam và đoan quyết  tin tôi bị chết ở  Lương Mai Phong Điền ngày 23/3/1975 nên ba mẹ tôi đều đặt tôi lên bàn thờ tại Mỹ Tho)

Vào chùa lúc này rất hoang tàn do mới sau tháng 4/1975 tôi mới có dịp gặp lại thầy Thích Ân Cần và cả Thầy TỈnh giáo Hội là THích Chánh Trực đang cùng trụ trì tại Tổ Đình này.
Các chú xưa không còn gặp, chỉ có các chú nhỏ tuổi hơn có thể từ mấy làng mới vào tu sau 4/1975 

ĐHL
===================================== 

                    tượng phật  Bà và hồ sen mặt trước chùa 1967-68 cho đến 1972 thì sụp đổ nay có xây lại mới giống y xưa


NHỚ VỀ CHÙA SẮC TỨ
HỒI KÝ

CHÙA SẮC TỨ CUỐI NĂM 1975: 

Những ngày tàn cuộc chiến, hoàn cảnh đẩy đưa tôi về lại thăm chùa Sắc Tứ. Một ngày khoảng cuối năm 1975 khi tôi được phân công đi lấy kẽm gai về xây dựng trại 4 cải tạo bên thôn Xuân khê, một trái ở về hướng núi  cách chùa khoảng vài ba cây số.

Quang cảnh đìu hiu của chùa những ngày dân chạy tứ tán chưa về làm lòng tôi se lại. Mái tượng Quán Thế Âm đổ nát và hồ sen xơ xác trước chùa hoà lẫn trong không gian vắng lặng làm tôi thêm cảm gíac bơ vơ như đang ở chốn không người. 

   Mặt tiền của chùa đang xây cũng đổ nát theo bom đạn. Sau hậu liêu của chùa cũng còn vững làm chỗ tá túc cho những người ở lại. Tượng Phật chánh điện cũng không còn, đang tạm thay bằng tượng PHẬT đứng bằng đồng nho nhỏ. Hồi trước 1972 xây chưa xong thì biến cố 72 phải chạy để lại chùa hứng chịu cảnh pháo kích bom bay đạn lạc . Cho đến hôm nay cảnh thầy trò trở về sau 1975 như hôm nay trong cảnh đổ nát vẫn lai hoàn đổ nát mà thôi. Đạo hữu tứ tán mỗi người một nơi. Thành phố QT bên kia bờ sông, một nơi từng cúng dường cho chùa nay chỉ còn là đống gạch vụn không người. Mà người xưa của thành phố thân yêu của Chùa ngày đó chắc tản mác khắp bốn phuơng trời như bầy chim tan bầy vỡ tổ đó thôi.

   Tôi cất tiếng tìm Thầy. Một lúc sau mới có tiếng người vài ba o bên thôn Ái tử qua làm công quả nói thầy "đang lao động", còn mấy chú thì cũng đi lao động ngoài xa.

Tôi vòng ra sau chùa thì gặp được thấy Chánh Trực đang lui hui làm cỏ sắn. Thầy chống cuốc nghỉ mệt. Tôi thấy rõ những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán thầy. Bộ áo lam của thầy bạc màu theo mồ hôi muối và cơn nắng ở đây. Hai thầy trò đứng bên vồng sắn, thầy vừa chống cuốc vừa nói chuyện với tôi. Tôi còn nhớ trong câu chuyện, thầy có phân biệt một đoạn về duy linh là gì? chỉ ngần ấy thôi thầy không nói gì 'sâu xa' thêm.

Chợt thầy Thích Chánh Trực nhắc đến mệ ngoại tôi:

"O Bếp mô rồi con." 
"Dạ, mệ con vô đi di dân vô Bình Tuy với gia đình rồi thầy nờ." 

  Thầy mừng vì ngoại tôi vẫn còn. Mệ ngoại tôi tức là bà Bếp Thỏn người làng Hạnh Hoa làm dâu làng Nại Cữu, là bà vải tu ở chùa này đã lâu. Bên Chùa tỉnh Hội có bà Hai (tôi nhớ bà nói giọng QUẢNG ) nấu nướng cho Thầy. Bên ni thì có ngoại tôi. Cả hai bà đều nấu chay rất khéo và ngon. Quý thầy ai cũng khen, đi mô cũng nhắc. Mệ tôi vắng chùa là chùa nhớ. Các thầy các điệu các chú đều nhớ.

Chiến tranh tao loạn tứ tán mỗi người một nơi. Hai mái liêu tả hữu hai bên chùa là những hình ảnh và kỷ niệm cho tôi, nhiều lắm với những lần từ bên thành phố QT qua đây. Những ngày hè nghỉ học tôi hay qua thăm ngoại tôi bên chùa này. Những đám tang của người thân trong gia đình ngoại tôi cũng được chùa cho táng ở đây . Những lần lái honda qua đây chở mệ tôi về nhà 'có việc' hay cả những lúc qua viếng rảnh rang qua thăm chùa thăm mệ hay thắp nhang cho mộ phần người thân.

Thầy hỏi hoàn cảnh của tôi lúc này và đưa tôi vô trong liêu nói ăn cơm với thầy. Một lúc sau thầy Cần cũng đi làm về cùng mấy chú mới tu còn nhỏ tuổi tôi không biết được. Ngang tuổi tôi có mấy chú Tăng chú Đăng lưu lạc phương nào tôi cũng không còn biết.(Sau này ra tù tôi nghe tin chú Đăng bị chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng còn chú Tăng thì mất tích đâu không còn ai biết)



các chú đệ tử thầy Thích Ân Cần thời ngoại tôi tu tại chùa ,1967-
các chú này là sư đệ của các chú Tăng - Đăng...phần nhiều người làng Trà Trì và Trà Lộc (Hải Lăng QT)

Khoảng thời gian 1967- 1968  căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa, có vài quân nhân Hoa Kỳ hay qua thăm cảnh chùa và chụp hình ảnh này. Những quân nhân này sau này về lại Mỹ và họ đưa lên mạng Internet hình ảnh Chiến Tranh VN trong đó có hình này .


Thầy Ân Cần trước tiên là hỏi tin về ngoại tôi. Mệ tôi hoàn cảnh xa chùa từ 1972 làm chùa nhớ chùa thương. Ngoài kia bên góc phải chùa, cái giếng nước hình vuông nho nhỏ còn đó. Bụi tre la ngà xơ xác đìu hiu phất phơ theo cơn gió và cơn nắng ban trưa. Tôi mường tượng hình ảnh ngoại tôi tháng ngày trước lom khom ra giếng rửa rau để vô nấu cơm cho thầy. Hồ sen năm đó loáng thoáng mấy cánh sen hồng, mấy con cá rô phi lượn lờ cùng bức tượng Quan Âm mới khánh thành. Thòi này căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa. Trước chùa là phi trường Ái Tử của Quân Đội Mỹ , thỉnh thoảng có vài người lính Mỹ vào thăm chùa , thăm tượng Quan Âm xong vào chùa chiêm bái tượng phật trong chánh điện. Người Mỹ có khi còn giúp đỡ chùa một mớ ván ép cho chùa chi dụng. Cảnh chùa yên tĩnh cũng là nơi cho một số người Mỹ vào đây tĩnh dưỡng tâm hồn sau những lúc căng thẳng vì chiến tranh bên ngoài. Ngang đây người viết còn nhớ lại một dịp may là nhờ Việt Nam Quốc Tự không đồng ý cho quân đội Mỹ san bằng Chùa với giá đền bù Một Triệu đô La vì lý do an ninh cho căn cứ to lớn này. Cũng nhờ uy linh của các thiền sư trụ trì còn gia độ xui khiến cho vậy, nếu Việt Nam Quốc Tự tại Sài GÒn thời đó đồng ý thì xem như di tích quý báu của Sắc Tự Tịnh Quang Tự đến nay đâu còn ?

Giờ thì...mới đó mới đây chỉ còn là những đổi thay cùng thiếu vắng.

 Một chút chi hai thầy bảo tôi ăn cơm với hai thầy để về lại trại. Từ chối cũng không đành, tôi phải nán lại ít lâu nữa. Om cơm nho nhỏ khoảng 2 lon gạo vài củ khoai tím ruột hấp lên trên. Tôi chỉ giành khoai ăn để nhường cơm lại cho 2 thầy. Thiệt tình đối với tôi vào lúc này ăn mấy củ khoai tím ruột trồng đất cát của chùa là ngon lắm rồi. Tôi không quên được hình ảnh 3 Thầy trò cứ nhường qua nhường lại. Chén nước tương giờ này cũng loãng, miếng rau luộc cũng không đậm đà; giá như còn ngoại tôi ở lại với chùa, tôi nghĩ thầm trong bụng. ..Ngoại xa quê, mái liêu chùa trở nên trống vắng, cảnh chùa buồn làm lòng tôi thấy buồn hơn. Tôi làm sao quên đươc "chú Hợi" con heo đen chùa nuôi để lấy nguồn phân bón. Cái nanh của "chú Hợi" già tuổi quá cho đến lúc cả hai dài và cong vuốt lên. Tôi còn nhớ, ngoại tôi khoe rằng " chú Hợi cũng được Thầy cho quy y rồi". 

============== 
PHỤ GHI VỀ LỄ GIỖ 29 NĂM HÒA THƯỢNG THÍCH CHÁNH TRỰC VIÊN TỊCH TẠI TỔ ĐÌNH KIM TIÊN VÀ CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ 4 THÁNG 3 GIÁP THÌN (12-4-2-24)


Hòa thượng Thích Chánh Trực lúc ngài làm Chánh Đại diện Phật GHPGVNTN tỉnh Quảng Trị

Sáng nay, 12-4 (4-3-Giáp Thìn), Lễ tưởng niệm 29 năm ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích 

Chánh Trực viên tịch đã được trang nghiêm tổ chức tại tổ đình Kim Tiên (Huế) và chùa Phật

 Học Quảng Trị với sự tham dự của chư tôn đức Tăng Ni cùng đông đảo Phật tử. Tại tổ đình Kim Tiên (P.Trường An, TP.Huế), hiện diện dâng hương tưởng niệm có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thanh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh; Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa, Thành viên Hội đồng Chứng minh; chư tôn đức giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; Hòa thượng Thích Khế Chơn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng chư Tăng Ni các tổ đình, tự viện ở cố đô Huế đã đến đảnh lễ tưởng niệm, tri ân.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực thế danh Hoàng Văn Trung, pháp danh Tâm Trung, pháp tự Chánh Trực, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43. Ngài sinh năm Tân Mùi (1931) tại làng Trà Trì, X.Hải Xuân, H.Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Sinh thời, ngài từng đảm nhiệm các chức vụ: Phó Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên (1963), Chánh Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Trị (1968), Thành viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (1980), Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN (1981), Phó Trưởng ban Trị sự tỉnh Bình Trị Thiên (1982), Trưởng ban Trị sự sáng lập GHPGVN tỉnh Quảng Trị (1989).


Bảo tháp Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực trong khuôn viên tổ đình Kim Tiên (Huế)


TẠI CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ 






HẾT PHỤ GHI
============================================ 

TIẾP THEO...

...Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng ba thầy trò trở nên tương đắc. Hai thầy cũng cho biết bên hợp tác xã cũng bán cho chùa mỗi tháng mỗi thầy 8 ký gạo "tối thiết".Ba thầy trò vừa ăn vừa kể lại chuyện mấy năm trước khi Thành Phố vẫn còn .. .Kể về cái chợ Quảng trị ngày xưa, chùa hay qua lại bán vài ba thứ do chùa trồng trọt  như đậu mè khoai sắn chẳng có gì quý để mua vài ba món cần dùng. Ngày đó khách thập phương bên Tỉnh năng qua lại chùa viếng cảnh và lễ phật.Ai lễ xong đều ra hóng mát ngoài hồ sen và chụp ảnh dưới chân tượng đài Quán Thế Âm. Đạo Hữu bên Tỉnh tôi nhớ có thương gia Nguyễn Xuyến năng cúng dường giúp đỡ cho Chùa nhiều lắm. Mệ Xuyến cũng rất mến bà ngoại tôi. Ai vô chùa cũng hay hỏi thăm O Bếp mô rồi...Hôm nay cũng vậy thầy Chánh Trực hay Thầy Ân Cần đầu tiên khi gặp tôi là hỏi thăm "O Bếp mô rồi?"

Nếu không có chuyện 1972 và 1975 thì giờ này thầy Chánh Trực còn trụ trì bên chùa Tỉnh Hội Quảng Tri chứ đâu ngồi đây ? Hoàn cảnh đổi thay đố ai biết được. Thầy Chánh Trực trước là đệ tử tại chùa Kim Tiên và sau này mệ ngoại tôi cũng được thọ giới đốt nhang lãnh Y Bát tại mùa kiết hạ tại chùa Kim Tiên nên thấy Chánh Trực mới năng hỏi o Bếp . Thầy Ân Cần thì không lạ gì ngoại tôi là bà vải ngày tháng bếp núc bên hữu liêu của chùa . Giờ (1975) mệ  tôi ở tận trong nam tình hình ra sao ba thầy trò làm sao biết được    Ba thầy trò vương vấn chưa được bao lâu thì tôi phải giã từ để về lại trại. Từ đó tôi biền biệt ra Bắc vô Nam tôi không còn có dịp về lại chùa nữa.

                                       *****
========================================
trich:
https://giacngo.vn/lichsu/2017/04/01/775283/



Sáng ngày 22 tháng 04 năm 2015 nhằm ngày 04 tháng 03 năm Ất Mùi tại Tổ đình Kim Tiên, phường Trường An, thành phố Huế; chư Tăng bổn tự đã trang nghiêm tổ chức Lễ Húy nhật cố Hòa thượng Thích Chánh Trực (1931 - 1995).

theo http://www.phatgiaohue.vn/Print.aspx?TinTucID=3547  =====================================

    Không ngờ năm 1991 tôi từ Bình Tuy ra đến Đông Hà vì bôn ba theo chuyện giấy tờ. Trên chuyến xe vô nam tôi lại có cơ duyên vô lại thăm chùa. Tôi không còn gặp được thầy Chánh Trực nữa. Thầy Thích Ân Cần đang đau. Thầy chống gậy dẫn tôi ra hậu liêu chỉ vào cái tháp của thầy Thích Nhật Lệ thầy bảo tôi:

" con coi ngó rứa mà Thầy Nhật Lệ lại đi trước Ôn tề" 

Thầy Nhật Lệ viên tịch trong nam. Lúc mệ ngoại tôi mất ở xuân sơn Bà Rịa năm 1984 thầy Nhật Lệ từ chùa Hải Quang Sài Gòn có về chủ lễ cho ngoại tôi tại đó.

Thầy lại chỉ vào bảo tháp xây sẵn cho thầy, "mai mốt Ôn viên tịch cũng đưa vào trong ni". Tuổi đời chồng chất, thầy trụ trì tại đây lúc tôi còn bé con năng qua lại chùa.

Hồi đó mỗi lần qua chùa thăm ngoại, thăm chùa, nên ai cũng nhớ mặt tôi. Tôi nhớ thầy còn khỏe mạnh. Thời gian phôi pha, vật đổi sao dời. Dáng thầy run run chống gậy chỉ vào bảo tháp sinh phần của thầy, tôi thấy dòng thời gian sao trôi chóng vếnh quá thôi. thoắt đó thoắt đây kẻ ở người đi. Thầy cũng sắp đi, bình thản trước cảnh tử sinh trong cõi ta bà. Trong nam ngoại tôi cũng không còn nữa. Tôi mường tượng hương hồn ngoại tôi cũng theo gió xuôi trung về lại với chùa vì ngoại tôi tu đây cũng hơn mười mấy năm rồi.

Ngàn cây ngọn cỏ cũng còn xao xuyến. Thầy ở lại con phải vô nam bước chân viễn khách của con phải còn đi xa hơn nữa.

Mấy hôm đó thầy Ân Cần hình như bệnh nhiều. Thầy gượng gạo ngồi ăn cơm với tôi cũng cơm hẫm nước tương chẳng chút đậm đà. Tôi ái ngại nghĩ bụng làm sao thầy nuốt cho vô trong cơn bệnh hoạn này. Bữa cơm thầy buông đũa sớm vì thầy phải về nghỉ mệt.
Câu nói của Thầy như một lời trăn trối với tôi trước khi tôi từ biệt thầy ra lộ đón xe vô lại phương Nam:

"Thầy nhờ con nhắn nhủ đạo hữu phương xa,nhất là ai có gửi mộ phần người thân tại chùa, đi làm ăn mô năng nhớ về chùa nghe con?"

Thầy còn gửi cho tôi bức ảnh của thầy nhờ gữi cho dì Võ thị Liễu  tôi. Dì tôi hồi còn buôn bán ở chợ Tỉnh Quảng trị rất thương về chùa.

Vào nam rồi ít lâu sau thì tôi nghe tin thầy Thích Ân Cần viên tịch.
Thời gian tuy phôi pha, hình bóng những người xưa cùng nhau về miền quá khứ tuy vậy tôi viết ra đây những dòng ký ức chân thật từ đáy lòng.

Nhất là lời hứa với người xưa, tôi không thể nào để "gió thoảng mây bay" rằng "những ai đi xa dù ở phương nào nên nhớ về chùa nghe con."

Đó là tình thương của thầy để lại cho Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang Tự cho những ai đang tu hành tại đó trước khi thầy về với Phật.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

ĐHL ngày cuối năm 2010




LAST EDITION BY ĐHL 23/6/2020 SAN JOSE USA

                                            Đài Quan THế Âm hôm nay



                                 hiện nay hổ sen và chùa đã xây lại theo y mô hình xưa 

ĐOÀN TÙ BINH QUA ĐÈO BA LÒNG



ký ức tù binh by ĐHL
(bài chưa edit)
Đèo Ba Lòng
15/4/1975

Sau khi ngủ qua đêm trong một đơn vị lán trại bộ đội bỏ trống tại Cùa, đoàn tù binh chúng tôi được dẫn bộ theo một sơn lộ đi về hướng Ba Lòng. Con đường đất đỏ quanh co, hai bên còn loang lổ hố bom, đi xuyên qua mấy trãng đồi tranh xanh ngắt. Đi từ sáng tinh mơ khoảng gần trưa thì đến Đèo Ba Lòng.
Theo lời cán bộ dẫn tù cho biết: độ dài của đèo Ba Lòng phải tới bảy tám cây số. Đường đèo thì leo dốc, do vậy thỉnh thoảng chúng tôi được nghỉ giải lao. Họ là bộ đội nên áp dụng “luật quân hành”có nghĩa đi  bộ một giờ được nghỉ giải lao mười lăm phút. Ngang lưng chừng đèo, chúng tôi được dừng nghỉ sức theo quy định. 

Được nghỉ, tôi để nguyên cái ba lô dựa vào vách núi.  Vài ngọn đót, mấy vòi mây nước từ trên cao buông vu vơ trước mắt tôi. Tôi lại nghe xa xa tiếng ve núi bắt đầu 'ca vang' đón hè. Trời tháng Tư khí hậu Quảng Trị bắt đầu nóng. Cái áo ka ki của tôi giờ đã thấm ướt mồ hôi. Gần ba tuần , tù binh bị giam tại trường Lai Phước chưa có gì cả? Ai có gì bận đó; đa số còn bận áo lính, chân mang đủ thứ dép. Có điều đặc biệt không ai được mang giày lính?

Có mấy ông cán bộ, có lẽ cấp úy, họ có bình thủy nước trà mang theo uống dọc đường. Tôi chưa quên một kinh nghiệm do những người này chỉ cho tù binh rằng khi lên dốc nên mang ba lô ngược trước ngực, sức nặng sẽ kéo giúp đi lên khỏe hơn. Trái lại lúc xuống  đèo, thì đưa ba lô  trở lại phía lưng- nó sẽ kéo người lui sau, khỏi chúi. Thật là thứ kinh nghiệm đi rừng lạ lùng, lần đầu tiên trong đời chúng tôi nghe được.

 Quy định là mười lăm phút, nhưng thời gian nghỉ khá lâu. Mấy người bộ đội này cho biết lên tới đỉnh đèo đổ xuống bên kia là Ba Lòng. Sắp tới rồi hay sao? Như thế là đoàn tù này sẽ tới Ba Lòng, cái đích của chuyến đi này. Tôi tiếp tục dựa lưng vào vách núi ngắm cái hẽm núi trước mắt mình. Vài bóng mây nhàn nhạt  đang la đà dưới đó. Những làn mây mỏng không che hết màu xanh của lá cây. Tiếng ve thỉnh thoảng ngưng kêu, trả lại sự im lặng cho núi rừng.

cây bông chuối này bán nhiều tại Mỹ 

Mới hôm qua,  lần đầu tiên chúng tôi ăn củ cây bông chuối (trước tôi gọi là chuối tây), ngày xưa người mình hay trồng làm cảnh. Họ cho  tù binh nhổ lên, nấu ăn tối. Té ra chuối tây phần củ của nó khi nấu chín ăn chẳng khác gì củ hoành tinh. Họ bảo đó là cây "cứu đói". Bộ đội ăn rồi trồng lại ngay để bộ đội tới sau có "cái ăn". Đất Cùa quả thật tốt. Những bụi cây bông chuối cao ngang đầu người, rậm rịt, chúng che mất các cái lán nho nhỏ. Một đơn vị bộ đội nào đó từng ở đây giờ họ đi đâu, chỉ còn lại những túp lều vách đất, trống không?

Bao nhiêu hình ảnh xáo trộn trong đầu...thế mà ba tuần rồi tính từ lúc đại đội chúng tôi tan hàng tại Mỹ Chánh. Mười bảy người được dẫn bộ ra múi cầu Đông Hà trú một tuần tại thôn An Lạc. Thời gian này chúng tôi nghe tin Thuận An náo loạn? Tiếp đó Đà Nẵng ...Sau đó họ dẫn chúng tôi lên tại một trường học Lai Phước đóng tạm tại đây. Tù binh trong Huế ra càng lúc càng đông.  Ngày ngày ra tắm giặt bên con sông. Sau hai tuần, đoàn tù có lệnh di chuyển. Chúng tôi được dẫn bộ theo đường số Chín lên đến Cam Lộ thì rẽ qua hướng Cùa. Tối qua và trưa nay ngồi nghỉ tại đây.

Từ độ cao này tôi định hướng nhìn về hướng dưới kia- Đông Hà hay Quảng Trị một đường ngang bằng phẳng. Hướng nam trong kia xa hơn. Giờ thì Huế và Đà Nẵng mất rồi. Hai tuần tại Lai Phước tù từ trong đó ra càng lúc càng đông: nhiều thứ lính: từ áo ô liu cho đến rằn ri. Giờ trong nam ra sao? Bình Tuy ra sao? Người ta đồn ranh giới hai bên có thể là Phan Rang? Tôi mong sao được như thế. Nếu được thế Bình Tuy, bà con tôi bà con QT còn thuộc VNCH còn lại...hình ảnh ngày cuối cùng tôi bị bắt. Ruộng Ưu Điềm mới cấy, làng Siêu Quần- cái làng có đàn muỗi vo ve đến 'chóng mặt'. Về ngược lại Trạch Phổ gần Ưu Điềm bên này sông Ô Lâu nơi nào đồng bào cũng chạy sạch? Chuyến xe tiếp tế cuối cùng và tin chợ Đông Ba cháy đó là những tin tức sau cùng trong đời quân ngũ. Cho đến ngày 23 tháng 3- cái ngày tôi và mười mấy người trong đại đội trở thành tù binh bên sông Mỹ Chánh.  Đám ruộng làng Trạch Phổ, Ưu Điềm thuộc Xã Phong Bình có tên trên tấm bản đồ mà người trung đội trưởng như tôi luôn nhét trong ngực. Tấm bản đồ cùng quả lựu đạn mini nhỏ xíu- quà kỷ niệm của cậu tôi cho ngày ra phép cuối năm 1974 tôi ghé tạt qua Sơn Chà,một đơn vị Lôi Hổ- tất cả đều vứt lại tại cánh ruộng mới cấy đó...

***
Dòng suy nghĩ của tôi dừng lại khi toán ‘quân’ nói đúng hơn là toán tù được lệnh tiếp tục di hành. Có mấy người kia kiếm đâu ra thanh cây lụi làm que chống để lên đèo, riêng tôi thì không. Tôi và Ngọc do là hai sĩ quan trung đội nên cùng có nhau trên chuyến đi Ba Lòng này. Có một số khác đều từ Huế ra: Bãi Thuận An, Phú Bài, Trung đoàn 54...chúng tôi chưa biết nhau.

Hơn hai tiếng đồng hồ, toán tù đã lên đến đỉnh và tiếp tục đổ đèo. Tầm nhìn bên kia bắt đầu mở rộng trước mắt chúng tôi. Một phong cảnh hoàn toàn khác lạ. Bắt đầu xuống đèo...dưới kia thấp thoáng ánh nước một dòng sông. Thạch Hãn và Thung Lũng Ba Lòng đó rồi chăng?!

   Thung Lũng Ba Lòng hôm nay

Khoảng 1960, tôi có theo ba tôi lên Ba Lòng. Nhưng lúc đó ba tôi đi đò ngược dòng Thạch Hãn để lên. Quận và Chi CA Ba Lòng đóng trên này.  Tôi mới bảy tám tuổi nên trí nhớ rất mù mờ. Dù ai có giải thích hay nói một tên khác, tôi đã từng tới vùng đất dưới kia từ thưở bé thơ. Đó là một ngày có con đò chèo từ thành phố thân yêu đi ngược Thạch Hãn, tận một thung lũng dưới chân đèo này. Một nơi có làng mạc có dân cư hiền hòa cùng những đồng bắp tốt tươi. Riêng tôi, tất cả hình ảnh nằm trong kỷ niệm như thôi thúc chân tôi bước nhanh hơn để xuống đèo xem tận mắt giờ cái vùng đất thưở đó nay ra sao?

Chúng tôi cố bước theo nhau- những bước chân đi như không định hướng. Sự sụp đổ lan nhanh không ai ngờ mà chẳng ai chống lại được? Tôi vừa đi vừa thả hồn về hình ảnh ngày còn nhỏ dại: Rà Vịnh- Ba Lòng- Bến Đá Nổi những cái tên có thể người bên kia chiến tuyến chưa ai từng nghe? Đối tôi vẫn giữ mãi trong lòng những cái tên đó. Một ngày xưa có tiếng chèo của người trạo phu khua nước trong đêm, có thằng bé theo cha ngược dòng Thạch Giang lên tận một "Thung Lũng Thần Tiên"./.

Đinh Hoa Lư tháng Tư 2020

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...