Saturday, November 14, 2020

NGƯỜI TÙ BINH THĂM CHÙA SẮC TỨ



Ngày 21/5/1975 đoàn tù binh VNCH chúng tôi từ Ba Lòng được đưa ngược về lại Ái Tử để thành lập ĐOÀN CẢI TẠO CÓ TÊN LÀ ĐOÀN 74. (Trại 1 rồi tiếp tục các trại khác)
Nhờ được phân công đi lấy kẽm gai tại ngoài căn cứ Ái Tử người viết mới có dịp ghé vào Chùa Sắc Tứ thăm lại các Thầy và mấy chú ra sao? 
Cũng đoàn tù thấp thoáng bới móc ngoài căn cứ Ái Tử cũ này nên người ta thấy tôi và có ai đó nhắn tin vào gia đình ba mẹ tôi đang ở Mỹ Tho tin là tôi 'CÒN SỐNG"! Thế là ở Mỹ Tho 'DẸP BÀN THỜ ' ĐHL xuống? không còn thờ nữa.( Trước đó vài tháng thì nghe ai trong đơn vị tôi chạy vào thấu trong nam và đoan quyết  tin tôi bị chết ở  Lương Mai Phong Điền ngày 23/3/1975 nên ba mẹ tôi đều đặt tôi lên bàn thờ tại Mỹ Tho)

Vào chùa lúc này rất hoang tàn do mới sau tháng 4/1975 tôi mới có dịp gặp lại thầy Thích Ân Cần và cả Thầy TỈnh giáo Hội là THích Chánh Trực đang cùng trụ trì tại Tổ Đình này.
Các chú xưa không còn gặp, chỉ có các chú nhỏ tuổi hơn có thể từ mấy làng mới vào tu sau 4/1975 

ĐHL
===================================== 

                    tượng phật  Bà và hồ sen mặt trước chùa 1967-68 cho đến 1972 thì sụp đổ nay có xây lại mới giống y xưa


NHỚ VỀ CHÙA SẮC TỨ
HỒI KÝ

CHÙA SẮC TỨ CUỐI NĂM 1975: 

Những ngày tàn cuộc chiến, hoàn cảnh đẩy đưa tôi về lại thăm chùa Sắc Tứ. Một ngày khoảng cuối năm 1975 khi tôi được phân công đi lấy kẽm gai về xây dựng trại 4 cải tạo bên thôn Xuân khê, một trái ở về hướng núi  cách chùa khoảng vài ba cây số.

Quang cảnh đìu hiu của chùa những ngày dân chạy tứ tán chưa về làm lòng tôi se lại. Mái tượng Quán Thế Âm đổ nát và hồ sen xơ xác trước chùa hoà lẫn trong không gian vắng lặng làm tôi thêm cảm gíac bơ vơ như đang ở chốn không người. 

   Mặt tiền của chùa đang xây cũng đổ nát theo bom đạn. Sau hậu liêu của chùa cũng còn vững làm chỗ tá túc cho những người ở lại. Tượng Phật chánh điện cũng không còn, đang tạm thay bằng tượng PHẬT đứng bằng đồng nho nhỏ. Hồi trước 1972 xây chưa xong thì biến cố 72 phải chạy để lại chùa hứng chịu cảnh pháo kích bom bay đạn lạc . Cho đến hôm nay cảnh thầy trò trở về sau 1975 như hôm nay trong cảnh đổ nát vẫn lai hoàn đổ nát mà thôi. Đạo hữu tứ tán mỗi người một nơi. Thành phố QT bên kia bờ sông, một nơi từng cúng dường cho chùa nay chỉ còn là đống gạch vụn không người. Mà người xưa của thành phố thân yêu của Chùa ngày đó chắc tản mác khắp bốn phuơng trời như bầy chim tan bầy vỡ tổ đó thôi.

   Tôi cất tiếng tìm Thầy. Một lúc sau mới có tiếng người vài ba o bên thôn Ái tử qua làm công quả nói thầy "đang lao động", còn mấy chú thì cũng đi lao động ngoài xa.

Tôi vòng ra sau chùa thì gặp được thấy Chánh Trực đang lui hui làm cỏ sắn. Thầy chống cuốc nghỉ mệt. Tôi thấy rõ những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán thầy. Bộ áo lam của thầy bạc màu theo mồ hôi muối và cơn nắng ở đây. Hai thầy trò đứng bên vồng sắn, thầy vừa chống cuốc vừa nói chuyện với tôi. Tôi còn nhớ trong câu chuyện, thầy có phân biệt một đoạn về duy linh là gì? chỉ ngần ấy thôi thầy không nói gì 'sâu xa' thêm.

Chợt thầy Thích Chánh Trực nhắc đến mệ ngoại tôi:

"O Bếp mô rồi con." 
"Dạ, mệ con vô đi di dân vô Bình Tuy với gia đình rồi thầy nờ." 

  Thầy mừng vì ngoại tôi vẫn còn. Mệ ngoại tôi tức là bà Bếp Thỏn người làng Hạnh Hoa làm dâu làng Nại Cữu, là bà vải tu ở chùa này đã lâu. Bên Chùa tỉnh Hội có bà Hai (tôi nhớ bà nói giọng QUẢNG ) nấu nướng cho Thầy. Bên ni thì có ngoại tôi. Cả hai bà đều nấu chay rất khéo và ngon. Quý thầy ai cũng khen, đi mô cũng nhắc. Mệ tôi vắng chùa là chùa nhớ. Các thầy các điệu các chú đều nhớ.

Chiến tranh tao loạn tứ tán mỗi người một nơi. Hai mái liêu tả hữu hai bên chùa là những hình ảnh và kỷ niệm cho tôi, nhiều lắm với những lần từ bên thành phố QT qua đây. Những ngày hè nghỉ học tôi hay qua thăm ngoại tôi bên chùa này. Những đám tang của người thân trong gia đình ngoại tôi cũng được chùa cho táng ở đây . Những lần lái honda qua đây chở mệ tôi về nhà 'có việc' hay cả những lúc qua viếng rảnh rang qua thăm chùa thăm mệ hay thắp nhang cho mộ phần người thân.

Thầy hỏi hoàn cảnh của tôi lúc này và đưa tôi vô trong liêu nói ăn cơm với thầy. Một lúc sau thầy Cần cũng đi làm về cùng mấy chú mới tu còn nhỏ tuổi tôi không biết được. Ngang tuổi tôi có mấy chú Tăng chú Đăng lưu lạc phương nào tôi cũng không còn biết.(Sau này ra tù tôi nghe tin chú Đăng bị chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng còn chú Tăng thì mất tích đâu không còn ai biết)



các chú đệ tử thầy Thích Ân Cần thời ngoại tôi tu tại chùa ,1967-
các chú này là sư đệ của các chú Tăng - Đăng...phần nhiều người làng Trà Trì và Trà Lộc (Hải Lăng QT)

Khoảng thời gian 1967- 1968  căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa, có vài quân nhân Hoa Kỳ hay qua thăm cảnh chùa và chụp hình ảnh này. Những quân nhân này sau này về lại Mỹ và họ đưa lên mạng Internet hình ảnh Chiến Tranh VN trong đó có hình này .


Thầy Ân Cần trước tiên là hỏi tin về ngoại tôi. Mệ tôi hoàn cảnh xa chùa từ 1972 làm chùa nhớ chùa thương. Ngoài kia bên góc phải chùa, cái giếng nước hình vuông nho nhỏ còn đó. Bụi tre la ngà xơ xác đìu hiu phất phơ theo cơn gió và cơn nắng ban trưa. Tôi mường tượng hình ảnh ngoại tôi tháng ngày trước lom khom ra giếng rửa rau để vô nấu cơm cho thầy. Hồ sen năm đó loáng thoáng mấy cánh sen hồng, mấy con cá rô phi lượn lờ cùng bức tượng Quan Âm mới khánh thành. Thòi này căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa. Trước chùa là phi trường Ái Tử của Quân Đội Mỹ , thỉnh thoảng có vài người lính Mỹ vào thăm chùa , thăm tượng Quan Âm xong vào chùa chiêm bái tượng phật trong chánh điện. Người Mỹ có khi còn giúp đỡ chùa một mớ ván ép cho chùa chi dụng. Cảnh chùa yên tĩnh cũng là nơi cho một số người Mỹ vào đây tĩnh dưỡng tâm hồn sau những lúc căng thẳng vì chiến tranh bên ngoài. Ngang đây người viết còn nhớ lại một dịp may là nhờ Việt Nam Quốc Tự không đồng ý cho quân đội Mỹ san bằng Chùa với giá đền bù Một Triệu đô La vì lý do an ninh cho căn cứ to lớn này. Cũng nhờ uy linh của các thiền sư trụ trì còn gia độ xui khiến cho vậy, nếu Việt Nam Quốc Tự tại Sài GÒn thời đó đồng ý thì xem như di tích quý báu của Sắc Tự Tịnh Quang Tự đến nay đâu còn ?

Giờ thì...mới đó mới đây chỉ còn là những đổi thay cùng thiếu vắng.

 Một chút chi hai thầy bảo tôi ăn cơm với hai thầy để về lại trại. Từ chối cũng không đành, tôi phải nán lại ít lâu nữa. Om cơm nho nhỏ khoảng 2 lon gạo vài củ khoai tím ruột hấp lên trên. Tôi chỉ giành khoai ăn để nhường cơm lại cho 2 thầy. Thiệt tình đối với tôi vào lúc này ăn mấy củ khoai tím ruột trồng đất cát của chùa là ngon lắm rồi. Tôi không quên được hình ảnh 3 Thầy trò cứ nhường qua nhường lại. Chén nước tương giờ này cũng loãng, miếng rau luộc cũng không đậm đà; giá như còn ngoại tôi ở lại với chùa, tôi nghĩ thầm trong bụng. ..Ngoại xa quê, mái liêu chùa trở nên trống vắng, cảnh chùa buồn làm lòng tôi thấy buồn hơn. Tôi làm sao quên đươc "chú Hợi" con heo đen chùa nuôi để lấy nguồn phân bón. Cái nanh của "chú Hợi" già tuổi quá cho đến lúc cả hai dài và cong vuốt lên. Tôi còn nhớ, ngoại tôi khoe rằng " chú Hợi cũng được Thầy cho quy y rồi". 

============== 
PHỤ GHI VỀ LỄ GIỖ 29 NĂM HÒA THƯỢNG THÍCH CHÁNH TRỰC VIÊN TỊCH TẠI TỔ ĐÌNH KIM TIÊN VÀ CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ 4 THÁNG 3 GIÁP THÌN (12-4-2-24)


Hòa thượng Thích Chánh Trực lúc ngài làm Chánh Đại diện Phật GHPGVNTN tỉnh Quảng Trị

Sáng nay, 12-4 (4-3-Giáp Thìn), Lễ tưởng niệm 29 năm ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích 

Chánh Trực viên tịch đã được trang nghiêm tổ chức tại tổ đình Kim Tiên (Huế) và chùa Phật

 Học Quảng Trị với sự tham dự của chư tôn đức Tăng Ni cùng đông đảo Phật tử. Tại tổ đình Kim Tiên (P.Trường An, TP.Huế), hiện diện dâng hương tưởng niệm có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thanh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh; Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa, Thành viên Hội đồng Chứng minh; chư tôn đức giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; Hòa thượng Thích Khế Chơn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng chư Tăng Ni các tổ đình, tự viện ở cố đô Huế đã đến đảnh lễ tưởng niệm, tri ân.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực thế danh Hoàng Văn Trung, pháp danh Tâm Trung, pháp tự Chánh Trực, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43. Ngài sinh năm Tân Mùi (1931) tại làng Trà Trì, X.Hải Xuân, H.Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Sinh thời, ngài từng đảm nhiệm các chức vụ: Phó Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên (1963), Chánh Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Trị (1968), Thành viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (1980), Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN (1981), Phó Trưởng ban Trị sự tỉnh Bình Trị Thiên (1982), Trưởng ban Trị sự sáng lập GHPGVN tỉnh Quảng Trị (1989).


Bảo tháp Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực trong khuôn viên tổ đình Kim Tiên (Huế)


TẠI CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ 






HẾT PHỤ GHI
============================================ 

TIẾP THEO...

...Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng ba thầy trò trở nên tương đắc. Hai thầy cũng cho biết bên hợp tác xã cũng bán cho chùa mỗi tháng mỗi thầy 8 ký gạo "tối thiết".Ba thầy trò vừa ăn vừa kể lại chuyện mấy năm trước khi Thành Phố vẫn còn .. .Kể về cái chợ Quảng trị ngày xưa, chùa hay qua lại bán vài ba thứ do chùa trồng trọt  như đậu mè khoai sắn chẳng có gì quý để mua vài ba món cần dùng. Ngày đó khách thập phương bên Tỉnh năng qua lại chùa viếng cảnh và lễ phật.Ai lễ xong đều ra hóng mát ngoài hồ sen và chụp ảnh dưới chân tượng đài Quán Thế Âm. Đạo Hữu bên Tỉnh tôi nhớ có thương gia Nguyễn Xuyến năng cúng dường giúp đỡ cho Chùa nhiều lắm. Mệ Xuyến cũng rất mến bà ngoại tôi. Ai vô chùa cũng hay hỏi thăm O Bếp mô rồi...Hôm nay cũng vậy thầy Chánh Trực hay Thầy Ân Cần đầu tiên khi gặp tôi là hỏi thăm "O Bếp mô rồi?"

Nếu không có chuyện 1972 và 1975 thì giờ này thầy Chánh Trực còn trụ trì bên chùa Tỉnh Hội Quảng Tri chứ đâu ngồi đây ? Hoàn cảnh đổi thay đố ai biết được. Thầy Chánh Trực trước là đệ tử tại chùa Kim Tiên và sau này mệ ngoại tôi cũng được thọ giới đốt nhang lãnh Y Bát tại mùa kiết hạ tại chùa Kim Tiên nên thấy Chánh Trực mới năng hỏi o Bếp . Thầy Ân Cần thì không lạ gì ngoại tôi là bà vải ngày tháng bếp núc bên hữu liêu của chùa . Giờ (1975) mệ  tôi ở tận trong nam tình hình ra sao ba thầy trò làm sao biết được    Ba thầy trò vương vấn chưa được bao lâu thì tôi phải giã từ để về lại trại. Từ đó tôi biền biệt ra Bắc vô Nam tôi không còn có dịp về lại chùa nữa.

                                       *****
========================================
trich:
https://giacngo.vn/lichsu/2017/04/01/775283/



Sáng ngày 22 tháng 04 năm 2015 nhằm ngày 04 tháng 03 năm Ất Mùi tại Tổ đình Kim Tiên, phường Trường An, thành phố Huế; chư Tăng bổn tự đã trang nghiêm tổ chức Lễ Húy nhật cố Hòa thượng Thích Chánh Trực (1931 - 1995).

theo http://www.phatgiaohue.vn/Print.aspx?TinTucID=3547  =====================================

    Không ngờ năm 1991 tôi từ Bình Tuy ra đến Đông Hà vì bôn ba theo chuyện giấy tờ. Trên chuyến xe vô nam tôi lại có cơ duyên vô lại thăm chùa. Tôi không còn gặp được thầy Chánh Trực nữa. Thầy Thích Ân Cần đang đau. Thầy chống gậy dẫn tôi ra hậu liêu chỉ vào cái tháp của thầy Thích Nhật Lệ thầy bảo tôi:

" con coi ngó rứa mà Thầy Nhật Lệ lại đi trước Ôn tề" 

Thầy Nhật Lệ viên tịch trong nam. Lúc mệ ngoại tôi mất ở xuân sơn Bà Rịa năm 1984 thầy Nhật Lệ từ chùa Hải Quang Sài Gòn có về chủ lễ cho ngoại tôi tại đó.

Thầy lại chỉ vào bảo tháp xây sẵn cho thầy, "mai mốt Ôn viên tịch cũng đưa vào trong ni". Tuổi đời chồng chất, thầy trụ trì tại đây lúc tôi còn bé con năng qua lại chùa.

Hồi đó mỗi lần qua chùa thăm ngoại, thăm chùa, nên ai cũng nhớ mặt tôi. Tôi nhớ thầy còn khỏe mạnh. Thời gian phôi pha, vật đổi sao dời. Dáng thầy run run chống gậy chỉ vào bảo tháp sinh phần của thầy, tôi thấy dòng thời gian sao trôi chóng vếnh quá thôi. thoắt đó thoắt đây kẻ ở người đi. Thầy cũng sắp đi, bình thản trước cảnh tử sinh trong cõi ta bà. Trong nam ngoại tôi cũng không còn nữa. Tôi mường tượng hương hồn ngoại tôi cũng theo gió xuôi trung về lại với chùa vì ngoại tôi tu đây cũng hơn mười mấy năm rồi.

Ngàn cây ngọn cỏ cũng còn xao xuyến. Thầy ở lại con phải vô nam bước chân viễn khách của con phải còn đi xa hơn nữa.

Mấy hôm đó thầy Ân Cần hình như bệnh nhiều. Thầy gượng gạo ngồi ăn cơm với tôi cũng cơm hẫm nước tương chẳng chút đậm đà. Tôi ái ngại nghĩ bụng làm sao thầy nuốt cho vô trong cơn bệnh hoạn này. Bữa cơm thầy buông đũa sớm vì thầy phải về nghỉ mệt.
Câu nói của Thầy như một lời trăn trối với tôi trước khi tôi từ biệt thầy ra lộ đón xe vô lại phương Nam:

"Thầy nhờ con nhắn nhủ đạo hữu phương xa,nhất là ai có gửi mộ phần người thân tại chùa, đi làm ăn mô năng nhớ về chùa nghe con?"

Thầy còn gửi cho tôi bức ảnh của thầy nhờ gữi cho dì Võ thị Liễu  tôi. Dì tôi hồi còn buôn bán ở chợ Tỉnh Quảng trị rất thương về chùa.

Vào nam rồi ít lâu sau thì tôi nghe tin thầy Thích Ân Cần viên tịch.
Thời gian tuy phôi pha, hình bóng những người xưa cùng nhau về miền quá khứ tuy vậy tôi viết ra đây những dòng ký ức chân thật từ đáy lòng.

Nhất là lời hứa với người xưa, tôi không thể nào để "gió thoảng mây bay" rằng "những ai đi xa dù ở phương nào nên nhớ về chùa nghe con."

Đó là tình thương của thầy để lại cho Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang Tự cho những ai đang tu hành tại đó trước khi thầy về với Phật.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

ĐHL ngày cuối năm 2010




LAST EDITION BY ĐHL 23/6/2020 SAN JOSE USA

                                            Đài Quan THế Âm hôm nay



                                 hiện nay hổ sen và chùa đã xây lại theo y mô hình xưa 

ĐOÀN TÙ BINH QUA ĐÈO BA LÒNG



ký ức tù binh by ĐHL
(bài chưa edit)
Đèo Ba Lòng
15/4/1975

Sau khi ngủ qua đêm trong một đơn vị lán trại bộ đội bỏ trống tại Cùa, đoàn tù binh chúng tôi được dẫn bộ theo một sơn lộ đi về hướng Ba Lòng. Con đường đất đỏ quanh co, hai bên còn loang lổ hố bom, đi xuyên qua mấy trãng đồi tranh xanh ngắt. Đi từ sáng tinh mơ khoảng gần trưa thì đến Đèo Ba Lòng.
Theo lời cán bộ dẫn tù cho biết: độ dài của đèo Ba Lòng phải tới bảy tám cây số. Đường đèo thì leo dốc, do vậy thỉnh thoảng chúng tôi được nghỉ giải lao. Họ là bộ đội nên áp dụng “luật quân hành”có nghĩa đi  bộ một giờ được nghỉ giải lao mười lăm phút. Ngang lưng chừng đèo, chúng tôi được dừng nghỉ sức theo quy định. 

Được nghỉ, tôi để nguyên cái ba lô dựa vào vách núi.  Vài ngọn đót, mấy vòi mây nước từ trên cao buông vu vơ trước mắt tôi. Tôi lại nghe xa xa tiếng ve núi bắt đầu 'ca vang' đón hè. Trời tháng Tư khí hậu Quảng Trị bắt đầu nóng. Cái áo ka ki của tôi giờ đã thấm ướt mồ hôi. Gần ba tuần , tù binh bị giam tại trường Lai Phước chưa có gì cả? Ai có gì bận đó; đa số còn bận áo lính, chân mang đủ thứ dép. Có điều đặc biệt không ai được mang giày lính?

Có mấy ông cán bộ, có lẽ cấp úy, họ có bình thủy nước trà mang theo uống dọc đường. Tôi chưa quên một kinh nghiệm do những người này chỉ cho tù binh rằng khi lên dốc nên mang ba lô ngược trước ngực, sức nặng sẽ kéo giúp đi lên khỏe hơn. Trái lại lúc xuống  đèo, thì đưa ba lô  trở lại phía lưng- nó sẽ kéo người lui sau, khỏi chúi. Thật là thứ kinh nghiệm đi rừng lạ lùng, lần đầu tiên trong đời chúng tôi nghe được.

 Quy định là mười lăm phút, nhưng thời gian nghỉ khá lâu. Mấy người bộ đội này cho biết lên tới đỉnh đèo đổ xuống bên kia là Ba Lòng. Sắp tới rồi hay sao? Như thế là đoàn tù này sẽ tới Ba Lòng, cái đích của chuyến đi này. Tôi tiếp tục dựa lưng vào vách núi ngắm cái hẽm núi trước mắt mình. Vài bóng mây nhàn nhạt  đang la đà dưới đó. Những làn mây mỏng không che hết màu xanh của lá cây. Tiếng ve thỉnh thoảng ngưng kêu, trả lại sự im lặng cho núi rừng.

cây bông chuối này bán nhiều tại Mỹ 

Mới hôm qua,  lần đầu tiên chúng tôi ăn củ cây bông chuối (trước tôi gọi là chuối tây), ngày xưa người mình hay trồng làm cảnh. Họ cho  tù binh nhổ lên, nấu ăn tối. Té ra chuối tây phần củ của nó khi nấu chín ăn chẳng khác gì củ hoành tinh. Họ bảo đó là cây "cứu đói". Bộ đội ăn rồi trồng lại ngay để bộ đội tới sau có "cái ăn". Đất Cùa quả thật tốt. Những bụi cây bông chuối cao ngang đầu người, rậm rịt, chúng che mất các cái lán nho nhỏ. Một đơn vị bộ đội nào đó từng ở đây giờ họ đi đâu, chỉ còn lại những túp lều vách đất, trống không?

Bao nhiêu hình ảnh xáo trộn trong đầu...thế mà ba tuần rồi tính từ lúc đại đội chúng tôi tan hàng tại Mỹ Chánh. Mười bảy người được dẫn bộ ra múi cầu Đông Hà trú một tuần tại thôn An Lạc. Thời gian này chúng tôi nghe tin Thuận An náo loạn? Tiếp đó Đà Nẵng ...Sau đó họ dẫn chúng tôi lên tại một trường học Lai Phước đóng tạm tại đây. Tù binh trong Huế ra càng lúc càng đông.  Ngày ngày ra tắm giặt bên con sông. Sau hai tuần, đoàn tù có lệnh di chuyển. Chúng tôi được dẫn bộ theo đường số Chín lên đến Cam Lộ thì rẽ qua hướng Cùa. Tối qua và trưa nay ngồi nghỉ tại đây.

Từ độ cao này tôi định hướng nhìn về hướng dưới kia- Đông Hà hay Quảng Trị một đường ngang bằng phẳng. Hướng nam trong kia xa hơn. Giờ thì Huế và Đà Nẵng mất rồi. Hai tuần tại Lai Phước tù từ trong đó ra càng lúc càng đông: nhiều thứ lính: từ áo ô liu cho đến rằn ri. Giờ trong nam ra sao? Bình Tuy ra sao? Người ta đồn ranh giới hai bên có thể là Phan Rang? Tôi mong sao được như thế. Nếu được thế Bình Tuy, bà con tôi bà con QT còn thuộc VNCH còn lại...hình ảnh ngày cuối cùng tôi bị bắt. Ruộng Ưu Điềm mới cấy, làng Siêu Quần- cái làng có đàn muỗi vo ve đến 'chóng mặt'. Về ngược lại Trạch Phổ gần Ưu Điềm bên này sông Ô Lâu nơi nào đồng bào cũng chạy sạch? Chuyến xe tiếp tế cuối cùng và tin chợ Đông Ba cháy đó là những tin tức sau cùng trong đời quân ngũ. Cho đến ngày 23 tháng 3- cái ngày tôi và mười mấy người trong đại đội trở thành tù binh bên sông Mỹ Chánh.  Đám ruộng làng Trạch Phổ, Ưu Điềm thuộc Xã Phong Bình có tên trên tấm bản đồ mà người trung đội trưởng như tôi luôn nhét trong ngực. Tấm bản đồ cùng quả lựu đạn mini nhỏ xíu- quà kỷ niệm của cậu tôi cho ngày ra phép cuối năm 1974 tôi ghé tạt qua Sơn Chà,một đơn vị Lôi Hổ- tất cả đều vứt lại tại cánh ruộng mới cấy đó...

***
Dòng suy nghĩ của tôi dừng lại khi toán ‘quân’ nói đúng hơn là toán tù được lệnh tiếp tục di hành. Có mấy người kia kiếm đâu ra thanh cây lụi làm que chống để lên đèo, riêng tôi thì không. Tôi và Ngọc do là hai sĩ quan trung đội nên cùng có nhau trên chuyến đi Ba Lòng này. Có một số khác đều từ Huế ra: Bãi Thuận An, Phú Bài, Trung đoàn 54...chúng tôi chưa biết nhau.

Hơn hai tiếng đồng hồ, toán tù đã lên đến đỉnh và tiếp tục đổ đèo. Tầm nhìn bên kia bắt đầu mở rộng trước mắt chúng tôi. Một phong cảnh hoàn toàn khác lạ. Bắt đầu xuống đèo...dưới kia thấp thoáng ánh nước một dòng sông. Thạch Hãn và Thung Lũng Ba Lòng đó rồi chăng?!

   Thung Lũng Ba Lòng hôm nay

Khoảng 1960, tôi có theo ba tôi lên Ba Lòng. Nhưng lúc đó ba tôi đi đò ngược dòng Thạch Hãn để lên. Quận và Chi CA Ba Lòng đóng trên này.  Tôi mới bảy tám tuổi nên trí nhớ rất mù mờ. Dù ai có giải thích hay nói một tên khác, tôi đã từng tới vùng đất dưới kia từ thưở bé thơ. Đó là một ngày có con đò chèo từ thành phố thân yêu đi ngược Thạch Hãn, tận một thung lũng dưới chân đèo này. Một nơi có làng mạc có dân cư hiền hòa cùng những đồng bắp tốt tươi. Riêng tôi, tất cả hình ảnh nằm trong kỷ niệm như thôi thúc chân tôi bước nhanh hơn để xuống đèo xem tận mắt giờ cái vùng đất thưở đó nay ra sao?

Chúng tôi cố bước theo nhau- những bước chân đi như không định hướng. Sự sụp đổ lan nhanh không ai ngờ mà chẳng ai chống lại được? Tôi vừa đi vừa thả hồn về hình ảnh ngày còn nhỏ dại: Rà Vịnh- Ba Lòng- Bến Đá Nổi những cái tên có thể người bên kia chiến tuyến chưa ai từng nghe? Đối tôi vẫn giữ mãi trong lòng những cái tên đó. Một ngày xưa có tiếng chèo của người trạo phu khua nước trong đêm, có thằng bé theo cha ngược dòng Thạch Giang lên tận một "Thung Lũng Thần Tiên"./.

Đinh Hoa Lư tháng Tư 2020

ĐƯỜNG RỪNG VÀ NGƯỜI TÙ BINH



(riêng tặng các bạn tù Ái Tử Bình Điền)

Đồi cao dốc núi quá cheo leo.
Nhớ thương tràn dâng đến nơi thôn nghèo.  (Đường Chiều Sơn Cước .Minh kỳ Lê Dinh)


Tôi muốn viết về Chuyện” Đường Rừng chứ không có ý là “Truyện” Đường Rừng. Đó là những chuyện buồn vui “cười ra nước mắt” khi lội trong rừng kiếm gỗ hay tìm lối ra. 


Vào rừng khi có lối mòn thênh thang dễ đi thì lo gì chuyện lạc. Nhưng càng dễ đi thì càng khó kiếm gỗ. A mà gỗ phải thẳng đó nghe. Tôi sẽ kể cho bạn nghe cách tìm cây gỗ thẳng ra sao vào đoạn giữa. 


Giờ thì bạn cùng tôi phải tìm chỗ nào ít người đi để dễ có cây gỗ thẳng muốn tìm. Đó là những nơi rậm rạp nhất ít hay có dấu chân người. Vừa chặt những dây leo, bao cây nhỏ để có lối chun vô. Vâng nói là chun vô do sao? Chỉ do có công đâu mà phát cho rỗng dễ đi. Còn phải lo thì giờ về nữa chứ? Phải để ý chặt làm dấu làm sao mà biết lối ra? Có nghĩa bạn phải đừng hấp tấp chun vô mà quên làm dấu lúc ra về. Đó là sao vậy? Có thể tôi làm một số cây nhỏ chặt nghiêng làm sao một hướng nhất định để chỉ lối ra. 


Cũng là lối mòn tôi phát quang để vào nhưng có khi tôi vô ý không lo trước sẽ lạc vào  sâu hơn thay vì đi ra sau khi có gỗ.


Hừm! Gian nan chừng nào thì gỗ cây càng lắm chừng đó; do chưa có ai chặt. 


Kìa cây gỗ thẳng trước mắt! Mừng rơn,  tôi quên cả đói. Vâng cái bụng thằng tù bắt đầu ‘biểu tình’ nghe ồn ột đây rồi.
Xin lỗi bạn tôi dùng chữ hơi “Bắc kỳ” một tí vì cán bộ quản giáo chúng tôi phần nhiều ngoài bắc. 


Đừng vội mừng. Bươn bả ào tới dù gai mây dù dây leo vướng ngã tới nới té ra cây gỗ thẳng mà lại ‘cong’?! Do sao vậy? Một cây gỗ nếu nhìn một hướng có thể thấy thẳng nhưng đứng vị trí khác lại cong có thể nao nao cong thế là ‘hỏng” (lại giọng Bắc Kỳ)? Kinh nghiệm đường rừng: một cây gỗ thẳng “đạt chỉ tiêu” bạn phải đứng 3 vị trí; tất cả 3 vị trí đều thẳng đứng thì có thể xác nhận là cây gỗ thẳng. 


Thế là ta tha hồ 'phang'!

Cái rựa của tôi chặt liên hồi mặc dù bụng còn đói nhưng phải hạ cây nầy xuống mới được ăn. Tại sao tôi chưa dám ăn? xin thưa mấy bác (lại Bắc) do còn mười mấy cây số đường về trại nữa? Ăn sớm thì đói sớm! Câu trả lời ‘giản đơn’ vậy thôi.


Chưa hẳn thành quả này đã là vào tay ta!? Tôi phải biết "mở miệng- cắt gáy" khi hạ một cây rừng ngã xuống. Trời hỡi! Sao ác quá! 


Ôi  cây ‘rượng” mất rồi!

Gốc nó lìa rồi nhưng đọt hắn còn vướng trên cao? Mấy sợi dây rừng nó đeo cứng trên kia.  Phải kéo nó xuống không thể bỏ cuộc được.

Nhưng một mình sức yếu, tôi không thể nào kéo cây này xuống nỗi!

-Hò huầy , hò huầy !


Tôi tự hô to lấy thêm sức mà kéo? Giây phút này tôi  ao ước có bạn tù nào đó bên mình? Nhưng mỗi người tới rừng đều chia nhau đi tìm mỗi hướng. Cây thẳng càng lúc càng hiếm phải phân tán như thế. Chúng tôi đã hẹn cùng ra lại tại ‘bãi đáp’ này sau khi có cây.

Giờ làm sao đây? 


Thất vọng!

 -Thôi ta đi tìm cây khác. 

Tôi bụng bảo dạ thế.

Trời còn thương kẻ sa cơ thất thế. Có cây gỗ lấp ló đàng kia kìa...


Ôi cây gỗ THẲNG đứng cả 3 phía đều “chộ’ thẳng ro; nó 'dễ thương' làm sao! 


Cây thứ hai này giờ đã ngã, hắn nằm dài thườn thượt trước mắt tôi. Trời đã quá đứng bóng. Hít một điếu thuốc Rê đem theo như tự thưởng công cho mình và bóc vỏ cây. Cái rựa của tôi đi từng đường “tuyệt vời” lớp vỏ cây từng mãng theo làn rựa tách ra khỏi thân cây gỗ, giờ trắng hếu như làn da “mỹ nữ” không bằng. Tôi thưa với bạn rằng, bóc vỏ sẽ làm cây nhẹ đi nhiều. 


cây mây nước quái ác làm sao?

Đã xong xuôi, trời bắt đầu xế. Tôi giờ mới có "quyền đánh chén" cái phần  cơm trưa tức là cái gô đựng nửa cơm nửa sắn. Loáng một cái tôi đã ăn xong phần ăn đem theo. Cái túi bao cát và cái gô thân yêu chúng nó là người bạn 'chí cốt' chẳng hề rời lưng. Đúng thế, giờ đây chính nó là 'chất sống' giúp tôi có sức ra khỏi rừng và về lại trại.  


 Tìm cách đưa cây gổ lên vai xong tôi bươn mình lũi trong cái lối đi nhỏ hẹp vừa phát sơ lúc vào. 

Cẩn thận kẻo lạc. Tôi tự nhủ. Hai mắt căng tròn nhìn dấu những cây nhỏ tôi chặt lúc vào...


Ôi  mấy vòi mây nước hắn ác làm sao? Mấy cái móc như vuốt mèo muốn “hại thằng bán mỳ” thật tình?! Móc cây mây nhọn cong móc thứ gì là dính thứ đó. Giờ nó lại treo tòn ten cái mũ vải của tôi trên cao? Chúng như muốn trêu tức tôi, một người đang mệt lử? Thế là tôi đành phải bỏ cây xuống, níu lấy cho được cái mũ vải quý báu lại. Thêm một lần nữa tôi phải tốn sức xốc cây gỗ lên vai, mấy lớp vải vá trên vai phải tôi giờ lại tả tơi thêm nữa?

Sợ nhất là lạc khi ra. Tôi nhớ những lần lạc trong rừng bữa trước. Ôi mệt đứt hơi kèo mớ đòn tay xuống khe lên dốc té ra “lại về chỗ cũ”? 

Cẩn thận; lần này tôi phải cẩn thận. Tôi chẳng còn cái cảm giác sợ thú dử, sợ rắn rết hay bao thứ khác trong rừng. “Cùi đâu sợ lở” chỉ lo một điều đó là LẠC thôi!  các anh ngoài kia đang nóng lòng đợi tôi. 

“Bãi Đáp”  kia rồi!

 Một vùng sáng quang đãng làm sao, tươi đẹp làm sao! Mấy anh bạn thấy tôi đang  lóp ngóp mò ra nhoẻn miệng cười:

-Ê Mi Còn Thuốc Rê Khôn Rứa P. ?


Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng tôi nghe ấm lòng chi lạ do biết mình đã RA KHỎI RỪNG không còn lạc nữa ./.


ĐHL 9/9/2019

nhớ về Trại 4 Ái Tử Quảng Trị cuối 1975

THÁI ĐÀO NGƯỜI BẠN TÙ THƯƠNG BINH



Trại 4 Ái Tử một ngày 1975


   Đào ngồi chuốt lại những sợi lạt trong khi chờ tiếng kẻng báo lãnh nước sôi dưới khối 'anh nuôi '. Vừa vuốt lạt, hắn vừa để tâm trí hồi tưởng lại bao hình ảnh lướt qua trong đầu...  y như giấc mộng...
Cặp  'lon omega', chưa kip uống rượu lên một "mai vàng" thì 
cái chân đã "giã từ vũ khí" rời xa thân thể để lại hắn cái nạng gỗ bất lực, trơ cứng!


Chưa yên, về lại địa phương hắn vẫn bị đưa lên đây.

Không cuốc được, Trại Bốn cho Đào  "chức vệ sinh viên", cái tên lạ hoắc. Thật vậy, từ lúc Đào cất tiếng khóc oa oa chào đời đến nay hắn mới nghe!

-À, mà rứa cũng nhàn.

Có lúc Đào tự an ủi.

Ngày qua ngày, công việc trong trại của Đào là ngồi chờ nhận nước sôi nhà bếp. 'Tù anh nuôi' khoảng chín giờ sáng sẽ gánh lên bỏ trước cửa cho Đào. 

Đào sẽ chia nước sôi vào mấy cái lon gô hay mấy cái bình tông (bi đông ) anh em đi làm ngoài  gửi lại. Chia xong nước, Đào cẩn thận bỏ vào đầu chỗ ngủ từng người. Hai dãy sạp lát bằng những tấm ri đào từ căn cứ Ái Tử về đây, xem chừng là những "thiên đường an dưỡng" cho mấy thằng tù. Một ngày cuốc đất cật lực sau mấY cái rẫy sắn trải dài theo mấy rặng đồi nhấp nhô dưới tầm mắt Đào.

  Những sợi lạt chẻ ra từ mấy lóng cây giang, giờ láng bóng , mảnh, dẻo dai theo đường rựa mà Đào lia lịa vuốt . Những cái rá, rỗ, nho nhỏ dùng chia phần sắn - khoai, coi bộ Đào làm càng lúc càng đẹp.

  Bao hình ảnh thoáng qua... những ngày mới ra đơn vị, vội vàng, những giờ phép chưa bao giờ được huởng. Mới ra trường vai áo chưa sờn. Cặp lon 'quai chảo"  vàng chóe chưa kịp đen sỉn đi trong màn sương của ngọn Bạch Mã nhìn qua Động Truồi, hắn đã bị "loại khỏi vòng" chiến?

- Lẹ quá!

Hắn tưởng nằm mơ?

Ái Tử nhìn về Quảng Trị, thành phố bên kia con sông Thạch Hãn khuất hình dưới mấy rặng tre ven bờ Trà Liên. Giờ sao hắn thấy xa lắm? Tù trên này nhưng trong tâm tư hắn lại tưởng đang lạc lên thế giới đâu đâu khuất hẳn cõi trần?

Tiếng kẻng báo đi nhận nước sôi đưa hắn về thực tại.  Hắn chống nạng ra trước cửa lán nhận phần nước sôi do nhà bếp gánh lên chia cho khối hắn.

  Con suối chảy qua năm trại cuốn theo bao chất thải... phần nước sôi của từng anh em, chiều về sẽ là nguồn sống cho từng bạn tù. Hắn biết nên quí trọng đến từng 'năp bi đông" nước chia đều cho từng người.
   Mấy thằng bạn đi làm ngoài được xem vậy mà vui hơn, có thể nói là hạnh phúc hơn hắn.  Khi từng toán người ra khỏi hàng rào trại, hắn thuờng một mình lang thang phia trong. Ngoài cái chứcv "vệ sinh viên" chán nản kia, hắn chẳng biết làm gì hơn ...vót lạt, đan rổ, rá giải buồn. Ngoài kia, bên rặng đồi hay trên mấy dãy núi xa những bạn tù có thì giờ tìm gỗ, chặt củi, cuốc đất dưới khoảng trời bao la, có nhiều gió nắng, những đồi sim tím bạt ngàn tha hồ 'hái lượm'...


***


 Hôm nay chỉ còn mình Đào trong trại. Anh em lớp đi rừng, lớp đi cuốc đất vừa khai phá ở mấy triền đồi cạnh cái thôn, lúc trước trong bản đồ có cái tên là "Ái Tử Phường". Trại giờ vắng hoe chỉ còn Đào ngồi trước cửa ra vào của cái lán tranh. Cận kề bên người 'vệ sinh viên' bất đắc dĩ là cái nạng gỗ, cái rựa què, cái rá đang đan dở dang.

Đôi lúc hắn thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Cũng có lúc hắn lại cảm thấy an phận lẫn chút thanh nhàn. Nhưng ngoài lớp hàng rào kia, những đứa bạn tù đang lao động dưới bầu trời nắng gió lại có một cái gì 'tự do' hơn hắn. Đó là cái giá trị của những người còn đầy đủ tay chân và dỉ nhiên là hơn hắn.

Cuối cùng hắn thuơng hại cho thân hắn, vẫn mãi buồn hơn những thằng bạn tù khác, dù mang chung một số phận giống nhau.



***


THÁI ĐÀO VỀ LẠI VỚI THƠ

Thơ của Thái Đào có lối dùng chữ, và dụng ý rất riêng .Thái Đào không theo quy luật nào trong thơ, Thái Đào chỉ dụng ý. 

Khi chúng ta đọc chậm rãi để hiểu sâu hơn thì sẽ nghiệm ra một tâm tư tiềm ẩn trong thơ của Thái Đào?

Khó ai biết được?

Mời quý bạn vào thăm bài thơ  ĐỪNG VỘI ĐI ĐÂU của Thái Đào trên trang NH 6572


DHL update 26/7/2018

nguồn: vannghe quangtri


Có những nỗi buồn mưng mầm trái độc
Tôi mang chiều đi suốt tịch liêu
Vãng bóng hồn xưa, ơi thời trẻ dại
Em nhạt nhòa về
Sương ảnh cơn mưa.

Mưa ướt tóc nhau
đường về xa ngái.
Mưa nặng lòng kẻ đợi người trông
Đừng vội đi đâu
Chớ vội qua cầu
Tiệc phù sinh em vừa nâng chén.

Ngày quăng quật cơn đau khát vọng
Tay run dài ôm không chặt tương lai
bóng ngã đồi đông
bóng xế tây đoài
Tôi tìm em ... phố phường lạc nẻo.

Tôi tìm em
Mắt sâu tối thẩm
Bài ca từ hát vọng mai sau
đã thảm thiết trong ngày đọng bóng
con chim lạc bầy
nhớ bạn kêu thương.

Đừng vội đi đâu
chớ vội theo ai
những nụ hồng có nhiều gai độc
cào xước tim nhau
cào nát đời nhau.

Mưa ướt mắt em
một trời hoang dại
một trời bơ vơ lạnh lối đường về
Tiệc phù sinh dẫu đau phát khóc
Đừng vội đi đâu
Chớ vội về trời ...

Dẫu quăng quật xẻ bờ tóc rối
Em hãy còn mở hội trần gian.



THÁI ĐÀO
TX Quảng Trị

edition by ĐHL 8/5/2020 USA

HÀ LA THÔN NGÀY THÁNG ĐÓ


Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
....(lyrics -Song Ve Dau)

========================================================

Ngày cuối năm lướt qua trang mạng vannghequangtri.com, tôi đọc bài thơ của tác giả Đinh Thu chạnh lòng tôi nhớ kỷ niệm Hà La năm nào.

C
ửa Việt ơi! Cửa Việt

Bao năm trời đi xa


Đêm giật mình thức giấc


Nghe con sóng vỡ oà



Cửa Việt sóng và gió


Nửa đời ta mang theo


Lật úp ngàn nỗi nhớ


Em hồn nhiên trong veo



Cửa Việt cát và nắng


Chiều chênh vênh hàng dương


Đêm nồm lên mát rượi


Thổi nghiêng miền nhớ thương



Cửa Việt sáng và chiều


Cõi riêng em và tôi


Ngoảnh lại miền kí ức


Khúc dạo đầu êm trôi



Cửa Việt ngày và đêm


Biển rì ầm vỗ sóng


Thương mùa sang biển động


Lạc nhau một kiếp người


Cửa Việt em và tôi


Cùng mối tình thơ dại


Nửa đời chưa chạm phải


Vết thương lòng cưu mang


Đình Thu - CỬA VIỆT EMTÔi



Cám ơn bài thơ của tác giả, làm DHL chạnh nhớ cái thôn đìu hiu vắng bóng dân về ; ngày tháng cũ khi cảnh biển dâu chưa cơn lặng sóng. 


 Mới buổi can qua, chúng tôi đám tù từ Ái Tử về trú cách biệt tại một ngã ba sông sắp chảy ra Cửa Việt. Thời gian này khoảng cuối năm 1975 hay hè 1976 chúng tôi làm muối ở đây. Muối làm theo phương pháp mới nên lấy được trong ngày . Phương pháp này khác xa với cách làm muối tại Phan thiết xưa.
Làm muối cách mới này ra sao?


-1: LÀM MẶT BẰNG: những thửa ruộng muối thật bằng, chúng tôi đi nong đất bằng những cái thuỗng dài , cát gánh từ sông Hà La vào (cách 2 cây số) rãi đều trên mặt bằng .Tù được giao khoán số cát phải gánh từ bờ sông Hà La vào , ai gánh đủ số lượng mới được về trại nghỉ.


-2 TĂNG ĐỘ MẶN NƯỚC BIỂN
Nước biển từ Cửa Việt theo các con lạch đào vào ruộng. Sau khi ngấm qua lớp mặt bằng này độ mặn sẽ tăng lên cao . Giữa những đám ruộng là những đường thẳng chúng tôi múc nước từ các ô nước đã tăng độ mặn bỏ vào các cái vại đúc để dọc theo những đường băng này. các ô phơi cạnh các vại này sẽ nhận một lớp nước muối đậm này. 

3-PHƠI NỨOC BIỂN VÀ CÓ MUỐI CUỐI NGÀY 
Rất nhiều các ô phơi dọc theo các đường băng. Trời nắng đến chiều chúng tôi cào lại là có một lớp muối mỏng. Vô số các ô phơi như thế cộng lại cuối ngày đã có muối đem gom lại. 

Muối tù làm được trại bán lấy tiền gọi là 'cải tạo lao động' . Những cái áo bạc phếch mồ hôi muối của anh em tù, những bữa ăn không no là những gì đáng nhớ. 


NHỮNG KHÚC SẮN ĐƯỢM TÌNH THUƠNG CỦA DÂN MỚI HỒI CƯ 


Chúng tôi được dịp khơi lại một đoạn sông của thôn Hà la bị cạn vào một hai dịp cuối tuần. Khúc sông hẹp này đựoc mấy đội tù làm ruộng muối vào làm giúp. Đây là những ngày thứ Bảy chúng tôi vui nhất vì được gặp lại dân , những người từ trong Nam mới hồi cư lại vùng này. Tiếng là gặp lại dân nhưng chúng tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. 


Có một giờ giải lao nào đó, các đội đoàn trong thôn có nhiệm vụ gánh sắn nấu ra 'bồi dưỡng' cho đám tù chúng tôi đang công tác XHCN cho họ. Những khúc sắn nhỏ bằng đầu ngón chân, vừa mới vươn lên từ nền đất cát trắng gần biển. Những thùng nước chè xanh anh dân trong thôn gánh ra trong hai thùng sắt vuông rỉ sét . Ôi một buổi 'giải lao' chúng tôi những người tù nhớ mãi. 


Những khúc sắn 'nhỏ ốm tong teo' sao thơm và dẻo 'đến thế'! tù, đói, cái gì mà chẳng ngon. Uống thêm mấy lon gô nước chè , từ tay người trong làng nấu cho , chúng tôi rất lâu mới thuởng thức lại nó 'thấm thía' làm sao!


Anh đội trưởng sản xuất trong thôn, nghe đâu cũng hạ sĩ VNCH vừa đem nước và sắn cho chúng tôi, liếc trái liếc phải, nói nhanh với chúng tôi:

...ăn , ăn đi cho no nghe mấy eng ...

 
Chúng tôi nhớ anh đến thế.


Bốn mươi năm qua rồi nhớ về Hà La Thôn những tiếng sóng lao xao vỗ vào bờ sông cạnh doi đất nơi một lán trại tù năm riêng rẻ. 


Một ruộng muối mênh mông chắc giờ không còn dấu vết. Hà La thôn , khúc sông nào đó- có bàn tay những người tù khơi rộng, một ngày cuối năm 1975 . Hà La thôn, nơi có những khúc sắn "nghĩa tình" và bát nước chè 'ân cần' thuơng cho thân phận sa cơ thua cuộc, là chút gì an ủi cho bao người chiến bại.

Hà La ơi ! thôn xưa cày lên dòng nước mặn


Bạc áo vai người kỉu kịt hạt muối thấm mồ hôi

Thôn xóm quạnh hiu dòng sông chờ người khơi mạch sống


Cơm áo chưa về ngày tháng đó xa xăm


Sóng sánh miếng nước chè xanh anh tôi chia đôi khúc sắn


Mặn nồng ơn nghĩa- dòng sông vắng làm nhân chứng tình dân.



Kỷ niệm ruộng muối và đào sông thủy lợi thôn Hà La Cửa Việt 1976.
hình Lục Giác Đỏ; Ruộng Muối Hà La 1975 (hay 1976)

Đinh Hoa Lu



"TRẠM XÁ" TRONG TÙ

  KỶ NIỆM  "TRẠM XÁ" CỦA TÙ CẢI TẠO tại ÁI TỬ QT thân nhớ và biết ơn  BS Quân Y Hoàng thế Định Đinh hoa Lư  Đinh Hoa Lư có dịp hạn...