Saturday, November 14, 2020

THÁI ĐÀO NGƯỜI BẠN TÙ THƯƠNG BINH



Trại 4 Ái Tử một ngày 1975


   Đào ngồi chuốt lại những sợi lạt trong khi chờ tiếng kẻng báo lãnh nước sôi dưới khối 'anh nuôi '. Vừa vuốt lạt, hắn vừa để tâm trí hồi tưởng lại bao hình ảnh lướt qua trong đầu...  y như giấc mộng...
Cặp  'lon omega', chưa kip uống rượu lên một "mai vàng" thì 
cái chân đã "giã từ vũ khí" rời xa thân thể để lại hắn cái nạng gỗ bất lực, trơ cứng!


Chưa yên, về lại địa phương hắn vẫn bị đưa lên đây.

Không cuốc được, Trại Bốn cho Đào  "chức vệ sinh viên", cái tên lạ hoắc. Thật vậy, từ lúc Đào cất tiếng khóc oa oa chào đời đến nay hắn mới nghe!

-À, mà rứa cũng nhàn.

Có lúc Đào tự an ủi.

Ngày qua ngày, công việc trong trại của Đào là ngồi chờ nhận nước sôi nhà bếp. 'Tù anh nuôi' khoảng chín giờ sáng sẽ gánh lên bỏ trước cửa cho Đào. 

Đào sẽ chia nước sôi vào mấy cái lon gô hay mấy cái bình tông (bi đông ) anh em đi làm ngoài  gửi lại. Chia xong nước, Đào cẩn thận bỏ vào đầu chỗ ngủ từng người. Hai dãy sạp lát bằng những tấm ri đào từ căn cứ Ái Tử về đây, xem chừng là những "thiên đường an dưỡng" cho mấy thằng tù. Một ngày cuốc đất cật lực sau mấY cái rẫy sắn trải dài theo mấy rặng đồi nhấp nhô dưới tầm mắt Đào.

  Những sợi lạt chẻ ra từ mấy lóng cây giang, giờ láng bóng , mảnh, dẻo dai theo đường rựa mà Đào lia lịa vuốt . Những cái rá, rỗ, nho nhỏ dùng chia phần sắn - khoai, coi bộ Đào làm càng lúc càng đẹp.

  Bao hình ảnh thoáng qua... những ngày mới ra đơn vị, vội vàng, những giờ phép chưa bao giờ được huởng. Mới ra trường vai áo chưa sờn. Cặp lon 'quai chảo"  vàng chóe chưa kịp đen sỉn đi trong màn sương của ngọn Bạch Mã nhìn qua Động Truồi, hắn đã bị "loại khỏi vòng" chiến?

- Lẹ quá!

Hắn tưởng nằm mơ?

Ái Tử nhìn về Quảng Trị, thành phố bên kia con sông Thạch Hãn khuất hình dưới mấy rặng tre ven bờ Trà Liên. Giờ sao hắn thấy xa lắm? Tù trên này nhưng trong tâm tư hắn lại tưởng đang lạc lên thế giới đâu đâu khuất hẳn cõi trần?

Tiếng kẻng báo đi nhận nước sôi đưa hắn về thực tại.  Hắn chống nạng ra trước cửa lán nhận phần nước sôi do nhà bếp gánh lên chia cho khối hắn.

  Con suối chảy qua năm trại cuốn theo bao chất thải... phần nước sôi của từng anh em, chiều về sẽ là nguồn sống cho từng bạn tù. Hắn biết nên quí trọng đến từng 'năp bi đông" nước chia đều cho từng người.
   Mấy thằng bạn đi làm ngoài được xem vậy mà vui hơn, có thể nói là hạnh phúc hơn hắn.  Khi từng toán người ra khỏi hàng rào trại, hắn thuờng một mình lang thang phia trong. Ngoài cái chứcv "vệ sinh viên" chán nản kia, hắn chẳng biết làm gì hơn ...vót lạt, đan rổ, rá giải buồn. Ngoài kia, bên rặng đồi hay trên mấy dãy núi xa những bạn tù có thì giờ tìm gỗ, chặt củi, cuốc đất dưới khoảng trời bao la, có nhiều gió nắng, những đồi sim tím bạt ngàn tha hồ 'hái lượm'...


***


 Hôm nay chỉ còn mình Đào trong trại. Anh em lớp đi rừng, lớp đi cuốc đất vừa khai phá ở mấy triền đồi cạnh cái thôn, lúc trước trong bản đồ có cái tên là "Ái Tử Phường". Trại giờ vắng hoe chỉ còn Đào ngồi trước cửa ra vào của cái lán tranh. Cận kề bên người 'vệ sinh viên' bất đắc dĩ là cái nạng gỗ, cái rựa què, cái rá đang đan dở dang.

Đôi lúc hắn thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Cũng có lúc hắn lại cảm thấy an phận lẫn chút thanh nhàn. Nhưng ngoài lớp hàng rào kia, những đứa bạn tù đang lao động dưới bầu trời nắng gió lại có một cái gì 'tự do' hơn hắn. Đó là cái giá trị của những người còn đầy đủ tay chân và dỉ nhiên là hơn hắn.

Cuối cùng hắn thuơng hại cho thân hắn, vẫn mãi buồn hơn những thằng bạn tù khác, dù mang chung một số phận giống nhau.



***


THÁI ĐÀO VỀ LẠI VỚI THƠ

Thơ của Thái Đào có lối dùng chữ, và dụng ý rất riêng .Thái Đào không theo quy luật nào trong thơ, Thái Đào chỉ dụng ý. 

Khi chúng ta đọc chậm rãi để hiểu sâu hơn thì sẽ nghiệm ra một tâm tư tiềm ẩn trong thơ của Thái Đào?

Khó ai biết được?

Mời quý bạn vào thăm bài thơ  ĐỪNG VỘI ĐI ĐÂU của Thái Đào trên trang NH 6572


DHL update 26/7/2018

nguồn: vannghe quangtri


Có những nỗi buồn mưng mầm trái độc
Tôi mang chiều đi suốt tịch liêu
Vãng bóng hồn xưa, ơi thời trẻ dại
Em nhạt nhòa về
Sương ảnh cơn mưa.

Mưa ướt tóc nhau
đường về xa ngái.
Mưa nặng lòng kẻ đợi người trông
Đừng vội đi đâu
Chớ vội qua cầu
Tiệc phù sinh em vừa nâng chén.

Ngày quăng quật cơn đau khát vọng
Tay run dài ôm không chặt tương lai
bóng ngã đồi đông
bóng xế tây đoài
Tôi tìm em ... phố phường lạc nẻo.

Tôi tìm em
Mắt sâu tối thẩm
Bài ca từ hát vọng mai sau
đã thảm thiết trong ngày đọng bóng
con chim lạc bầy
nhớ bạn kêu thương.

Đừng vội đi đâu
chớ vội theo ai
những nụ hồng có nhiều gai độc
cào xước tim nhau
cào nát đời nhau.

Mưa ướt mắt em
một trời hoang dại
một trời bơ vơ lạnh lối đường về
Tiệc phù sinh dẫu đau phát khóc
Đừng vội đi đâu
Chớ vội về trời ...

Dẫu quăng quật xẻ bờ tóc rối
Em hãy còn mở hội trần gian.



THÁI ĐÀO
TX Quảng Trị

edition by ĐHL 8/5/2020 USA

HÀ LA THÔN NGÀY THÁNG ĐÓ


Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
....(lyrics -Song Ve Dau)

========================================================

Ngày cuối năm lướt qua trang mạng vannghequangtri.com, tôi đọc bài thơ của tác giả Đinh Thu chạnh lòng tôi nhớ kỷ niệm Hà La năm nào.

C
ửa Việt ơi! Cửa Việt

Bao năm trời đi xa


Đêm giật mình thức giấc


Nghe con sóng vỡ oà



Cửa Việt sóng và gió


Nửa đời ta mang theo


Lật úp ngàn nỗi nhớ


Em hồn nhiên trong veo



Cửa Việt cát và nắng


Chiều chênh vênh hàng dương


Đêm nồm lên mát rượi


Thổi nghiêng miền nhớ thương



Cửa Việt sáng và chiều


Cõi riêng em và tôi


Ngoảnh lại miền kí ức


Khúc dạo đầu êm trôi



Cửa Việt ngày và đêm


Biển rì ầm vỗ sóng


Thương mùa sang biển động


Lạc nhau một kiếp người


Cửa Việt em và tôi


Cùng mối tình thơ dại


Nửa đời chưa chạm phải


Vết thương lòng cưu mang


Đình Thu - CỬA VIỆT EMTÔi



Cám ơn bài thơ của tác giả, làm DHL chạnh nhớ cái thôn đìu hiu vắng bóng dân về ; ngày tháng cũ khi cảnh biển dâu chưa cơn lặng sóng. 


 Mới buổi can qua, chúng tôi đám tù từ Ái Tử về trú cách biệt tại một ngã ba sông sắp chảy ra Cửa Việt. Thời gian này khoảng cuối năm 1975 hay hè 1976 chúng tôi làm muối ở đây. Muối làm theo phương pháp mới nên lấy được trong ngày . Phương pháp này khác xa với cách làm muối tại Phan thiết xưa.
Làm muối cách mới này ra sao?


-1: LÀM MẶT BẰNG: những thửa ruộng muối thật bằng, chúng tôi đi nong đất bằng những cái thuỗng dài , cát gánh từ sông Hà La vào (cách 2 cây số) rãi đều trên mặt bằng .Tù được giao khoán số cát phải gánh từ bờ sông Hà La vào , ai gánh đủ số lượng mới được về trại nghỉ.


-2 TĂNG ĐỘ MẶN NƯỚC BIỂN
Nước biển từ Cửa Việt theo các con lạch đào vào ruộng. Sau khi ngấm qua lớp mặt bằng này độ mặn sẽ tăng lên cao . Giữa những đám ruộng là những đường thẳng chúng tôi múc nước từ các ô nước đã tăng độ mặn bỏ vào các cái vại đúc để dọc theo những đường băng này. các ô phơi cạnh các vại này sẽ nhận một lớp nước muối đậm này. 

3-PHƠI NỨOC BIỂN VÀ CÓ MUỐI CUỐI NGÀY 
Rất nhiều các ô phơi dọc theo các đường băng. Trời nắng đến chiều chúng tôi cào lại là có một lớp muối mỏng. Vô số các ô phơi như thế cộng lại cuối ngày đã có muối đem gom lại. 

Muối tù làm được trại bán lấy tiền gọi là 'cải tạo lao động' . Những cái áo bạc phếch mồ hôi muối của anh em tù, những bữa ăn không no là những gì đáng nhớ. 


NHỮNG KHÚC SẮN ĐƯỢM TÌNH THUƠNG CỦA DÂN MỚI HỒI CƯ 


Chúng tôi được dịp khơi lại một đoạn sông của thôn Hà la bị cạn vào một hai dịp cuối tuần. Khúc sông hẹp này đựoc mấy đội tù làm ruộng muối vào làm giúp. Đây là những ngày thứ Bảy chúng tôi vui nhất vì được gặp lại dân , những người từ trong Nam mới hồi cư lại vùng này. Tiếng là gặp lại dân nhưng chúng tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. 


Có một giờ giải lao nào đó, các đội đoàn trong thôn có nhiệm vụ gánh sắn nấu ra 'bồi dưỡng' cho đám tù chúng tôi đang công tác XHCN cho họ. Những khúc sắn nhỏ bằng đầu ngón chân, vừa mới vươn lên từ nền đất cát trắng gần biển. Những thùng nước chè xanh anh dân trong thôn gánh ra trong hai thùng sắt vuông rỉ sét . Ôi một buổi 'giải lao' chúng tôi những người tù nhớ mãi. 


Những khúc sắn 'nhỏ ốm tong teo' sao thơm và dẻo 'đến thế'! tù, đói, cái gì mà chẳng ngon. Uống thêm mấy lon gô nước chè , từ tay người trong làng nấu cho , chúng tôi rất lâu mới thuởng thức lại nó 'thấm thía' làm sao!


Anh đội trưởng sản xuất trong thôn, nghe đâu cũng hạ sĩ VNCH vừa đem nước và sắn cho chúng tôi, liếc trái liếc phải, nói nhanh với chúng tôi:

...ăn , ăn đi cho no nghe mấy eng ...

 
Chúng tôi nhớ anh đến thế.


Bốn mươi năm qua rồi nhớ về Hà La Thôn những tiếng sóng lao xao vỗ vào bờ sông cạnh doi đất nơi một lán trại tù năm riêng rẻ. 


Một ruộng muối mênh mông chắc giờ không còn dấu vết. Hà La thôn , khúc sông nào đó- có bàn tay những người tù khơi rộng, một ngày cuối năm 1975 . Hà La thôn, nơi có những khúc sắn "nghĩa tình" và bát nước chè 'ân cần' thuơng cho thân phận sa cơ thua cuộc, là chút gì an ủi cho bao người chiến bại.

Hà La ơi ! thôn xưa cày lên dòng nước mặn


Bạc áo vai người kỉu kịt hạt muối thấm mồ hôi

Thôn xóm quạnh hiu dòng sông chờ người khơi mạch sống


Cơm áo chưa về ngày tháng đó xa xăm


Sóng sánh miếng nước chè xanh anh tôi chia đôi khúc sắn


Mặn nồng ơn nghĩa- dòng sông vắng làm nhân chứng tình dân.



Kỷ niệm ruộng muối và đào sông thủy lợi thôn Hà La Cửa Việt 1976.
hình Lục Giác Đỏ; Ruộng Muối Hà La 1975 (hay 1976)

Đinh Hoa Lu



QUE DIÊM CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI TÙ BINH TRONG RỪNG


Đinh Hoa Lư và những mẫu chuyện thật trong đời
nhớ về Ái tử nơi vùng trung du những ngày sau 1975


Lửa reo vang lửa gào lòng ta nguồn sống 
Lửa Tự Do muôn năm vẫn reo rừng ơi ..
(NHẠC RỪNG KHUYA- Lam Phuong)

]

   Trại 4 trong hình có ngũ giác màu đỏ /bản đồ Bộ TTM VNCH
Đường MÀU ĐEN vẽ tay là Giới Tuyến HAI PHE sau Hiệp Định Paris 27/1/1973 Diểm tận cùng phía VNCH phía biển là Thôn Vĩnh Hoà Phường do trung đội của ĐHL trấn đóng. Cửa Việt lúc này thuộc phe CSVN 


   Trại TÙ CẢI TẠO SỐ 4 ÁI TỬ còn gọi là Trại Bốn  nằm gần Thôn Xuân Khê.  Tên thôn này nghe khá thơ mộng nhưng khó tìm ra trên bản đồ ngoại trừ một cái tên Thôn Ái Tử nó có trên bản đồ Bộ TTM VNCH. Từ Thôn Ái Tử ngó lên vài cây số là Thôn Xuân Khê. Con suối lớn lượn lờ chảy về Ái Tử. Suối không lớn nhưng đủ cung cấp nguồn sống cho 5 trại tù và mấy thôn nghèo trong đó có Xuân Khê ngó qua Trại 4 chúng tôi.Tên Xuân Khê tuy hay nhưng hình ảnh thực tế của nó chỉ là một vài căn nhà tranh mới lợp do dân vừa hồi cư sau bao ngày loạn lạc. Cái cầu 'ri' bắc qua con suối lớn, đó là một thế giới khác một trại tù cách biệt với dân , xây dựng trước lúc dân làng trở lại.


  Tiếng ót ét của chiếc cầu,  những tấm ri đào về từ Căn CỨ Ái Tử gần ngoài lộ 1, đó là kỷ niệm khó quên những lần đi rừng chặt gỗ .  Chúng tôi lên rừng thật sớm, khi ánh sao khuya còn lấp lánh trên trời. Chén cơm lưng lửng trong cái lon gô’ thân yêu’ trong bao cát mang xéo một bên nách. "Vũ khí" chúng tôi giờ là những chiếc rựa tự chế .  Chuyện đi rừng  là 'kinh nhật tụng', tôi xin miễn bàn sâu vì ai cũng rành 'sáu câu vọng cổ'. Tôi thuơng cho cái bao tử, khi nào cũng sôi , đòi hỏi có những thứ gì dằn vào cái khoảng trống không . Phần cơm kia tuy ít nhưng nó chỉ được ăn để mang gỗ về trại. Thế thì chuyện sinh tồn, đó là những gì bắt buộc chúng tôi phải kiếm cách "sinh tồn ". "Ngộ biến phải tùng quyền"! có nghĩa là 'cái đói ló cái khôn' chúng tôi luồn vào rừng sắn của trại trong bóng đêm, tìm cách "tranh thủ " ! nghĩa là chỉ cần nhổ hai , ba bụi sắn. Những đồi sắn bạt ngàn do bàn tay bao nhiêu người tù , bao công sức phá núi san rừng , đốt dọn , lượm đá , đắp vồng ! Chỉ vài bụi thôi, chẳng thấm tháp gì trong hàng muôn triệu cây sắn,  anh em chúng tôi có "cái " no để về lại trại.

  Chúng tôi luồn vào rừng sắn nhổ lên vài bụi đã đầy cái bao cát mang theo. Hồi này đi rừng còn làm khoán, có nghĩa chúng tôi đi cùng tổ không có ai dẫn , tự giác tối có gỗ về nhà là được. "Trời đất" vừa sụp đổ chẳng ai còn mộng chạy đâu. ‘Va lô’ là cái bao cát sắn trên vai, đương nhiên  đến rừng tôi sẽ là 'anh nuôi'- danh từ thời đó - cho mấy anh em .  Như vậy tôi sẽ không đi kiếm cây, mấy người khác trong tổ sẽ chặt bù cho tôi. Tôi tìm đường xuống bên khe nước nấu bao sắn này, sau khi có đủ cây xong, chúng tôi sẽ "liên hoan bồi dưỡng" trước khi vác gỗ về trại .
 
   Con đường lên rừng ‘Anh Tuấn’ thật xa! Thời gian này người dân làng nào khai hoang vùng rừng nào thì chúng tôi tạm đặt cho cái tên vậy để dễ nhớ.  Làng Anh Tuấn ở quận Triệu phong lên khai hoang trên này xa thật ! xa đến nỗi đứng đó chúng tôi có thể thấy được con đường đèo hướng xuống Ba Lòng tức là gần giáp với Hướng Hóa ở phía Bắc . Nhìn về huớng Tây rừng Trấm nay đã tang hoang rỗng tuếch sau hai năm vừa dân vừa tù khai phá. Gỗ cây về làm trại chúng tôi phải đi càng lúc càng xa hơn. Sau này ngay cả đi củi cho trại cũng xa như thế.

                                                                          những đồi sim chín mênh mông


 Vừa đi tôi vừa miên man nghĩ đến hình ảnh chiều vác gỗ về trại. Đó là những thời gian cuối cùng của một ngày lao động, khi ánh chiều tà còn lại những vạt nắng cô đơn trên những mảng đồi đầy sim chín. Những người tù binh sẽ "tự do  thoải mái" tận hưởng những trái sim 'chín mọng' , ngọt ngào. 

 Miệt rừng  dần dà gần lại trước mắt, nơi chúng tôi hi vọng còn nhiều cây gỗ thẳng.    Chúng tôi ngang qua các rẫy sắn của dân trung du thì trời sáng hẳn . Người dân  từ những làng xa xôi dưới miệt đồng bằng lên đây từng chấp nhận 'ăn sắn thay gạo' . Nhưng sự thật phủ phàng sau khi các rẫy sắn bị heo rừng phá nát, họ chỉ chia nhau được vài thúng sắn tươi sau khi trừ công điểm. Người dân quê dưới miệt đồng bằng sau bao tháng lên đây , bao bận đi đi- về về,  xa xăm,  tốn kém  "cơm đùm gạo bới " rốt cuộc  họ chẳng có chi ! nghèo lại hoàn nghèo - đói vẫn hoàn đói?

Chúng tôi băng qua vài hẽm núi mới vào được vào nơi rậm rạp hơn , ít dấu chân ngừơi để hi vọng có gỗ thẳng. Chia nhiệm vụ xong, tôi ở lại dưới khe lo chuyện nấu sắn. 

  Nhớ lại  hình ảnh ngày đó chắc ít ai còn nhớ cái thiếu thốn của tù.  Hình ảnh cái hộp quẹt nội hóa (hồi này chúng tôi hay gọi là bít- kê(briquet theo tiếng Pháp) làm tại Chợ Lớn nhưng quý hơn vàng! Còn chuyện cái ‘zippo’ thì đích thực là hình ảnh xa vời . Nhưng nếu ai còn có cái zippo (tức là hộp quẹt Mỹ) thì  đã bị "thu giữ" lâu rồi làm gì còn trong trại. Tôi kể chuyện này là chuyện của 'LỬA':  lửa là nguồn sống là mấu chốt cho 'cải thiện linh tinh' do chúng tôi thuơng cho cái bụng lép xẹp lâu ngày. Nếu có cái hộp quẹt nội hóa thô sơ đó thì cũng cần có dầu hỏa hay xăng và cuối cùng là ĐÁ LỬA?  Đá lửa  ôi thôi, hiếm quý! 

Giờ đây lửa là đòi hỏi trước tiên cho tôi khi lãnh nhiệm vụ nấu ăn dưới con khe. Trong tay tôi ngày đó còn khoảng ba cây diêm của hộp diêm THỐNG NHẤT- vuông vuông-  làm tại Hà Nội cùng mớ củi khô tôi chẻ nhỏ dưới cái khe ẩm ướt.

Những khúc sắn "trắng nỏn nà" trông hấp dẩn như "làn da người đẹp"nằm gọn trong cái nồi gang tôi bới theo cho tổ. Hồi này trại  chúng tôi có đúc song nồi lấy nguyên liệu từ xe M 113 bị cháy trong rừng. Trại  đem về nấu ra thành song, thau, nồi, vá (cán bộ người Bắc thì gọi là môi) phát về cho lán, khối, tổ. Ngang đây người viết xin nhắc lại một người có liên quan đến những cái nồi gang đúc này có tên là Viễn Khởi. Anh là người tổ trưởng đúc nồi cho Trại 4 Ái Tử. Anh Viễn Khởi còn sống chăng? do thời gian ngắn sau nghe đâu anh trốn được trại và không nghe gì thêm nữa về nhân vật này?


người tù "cải thiện" thức ăn cần nhất là lửa nấu những nơi kín đáo , muốn có lửa thì cần hộp quẹt hay diêm que Thống Nhất thời điểm này    

Tôi phải quẹt đến cái diêm cuối cùng tôi mới nhen được ngọn lửa. Trống ngực đập loạn xạ, tôi chẳng màng đến những con muỗi rừng đang vo ve hút máu tới tấp.  Mắt tôi căng ra, miệng đang dồn hết sức thổi phù phù...  Ngọn lửa bắt đầu leo lét cháy. Những làn khói yếu ớt từ từ tỏa lên bên hóc đá dưới con khe róc rách, ánh sáng mập mờ vì những tán cây rậm cùng sườn núi trên cao. Những đóm lửa đã bắt đầu nhen nhúm, bén nhau. Cơn mừng chưa hết...?!

Chợt một ngọn xoáy nhỏ, quái ác vụt qua ngọn lửa mới bốc lên một cách yếu ớt vụt tắt? Hoảng hồn, tôi run bắn người:

-Cũng do  quá tự tin nên mình  kiếm quá ít củi mồi khô?  

 -Trời ơi? mình phải làm răng đây?!!!

 Que diêm trong cái hộp diêm "Thống Nhất' là cái diêm cuối cùng tôi vừa quẹt xong. Nhảy qua bên bụi kia lấy ít mồi khô thì đốm lửa than còn lại này không có tôi sẽ tắt ngúm mất? Tôi thực sự hoảng loạn?! Ấn tượng thật khó quên, lo âu khó tả? mấy anh em trong rừng ra sẽ đói dường nào? Tưởng tượng bao  thất vọng của  những người bạn tù sau khi kéo gỗ ra do họ đinh ninh sẽ 'chần' một chầu sắn nấu no "phình bụng"?!

Bạn đọc sẽ nhớ lại phần cơm được trại cấp phát theo giờ ở đâu? tất cả đã ăn trước khi xách rựa vào rừng vì đinh ninh rằng đang có sắn do tôi lãnh nhiệm vụ nấu ngoài khe này:
  
     -Làm răng! làm răng đây hè?!

    Tôi run lẩy bẩy.

  Cuộc đời có nhiều lúc run rẩy do yếu bóng vía, do sợ chết hay vì mất của cải quý báu trong đời. Những lúc no đủ dư dật khó lòng tưởng lại nỗi xúc động của một người tù mất lửa đang đối diện với sự hành hạ của những miếng ăn bị mất trong lúc những chiếc bao tử trống không thèm khát nhiều ngày như thế nào. Một sự lo sợ run rẩy mà sau bao năm tôi vẫn còn nhớ, một cảm giác chua cay lẫn đau xót vì miếng sắn thơm ngát dẽo ngon sẽ được tạo thành DO CÓ LỬA chợt vụt mất vì một ngọn gió vô tình.  

    - Dưới khe một mình tôi không giữ gìn được ngọn lửa, cho lòng tin của anh em?

  Một tia sáng lóe ra trong đầu tôi !

   Miếng vải mỏng màu đà tôi vừa vá đắp vào hai bờ vai tôi là cứu tinh lúc này. Miếng vải này đã giúp tôi bớt đau khi trở vai với bó đòn tay, cây gỗ hay gánh củi nặng nề...

-XO...ẠC!

 Không cần suy tính , bao nhiêu sức lực của một ý nghĩ thoáng nhanh... Miếng vải là 'cứu tinh' thc sự rồi vì nó có pha sợi ni lon nên dễ bắt lửa vô cùng!

   -Cháy ! cháy! cháy lên nữa 'đi em' lửa đã lên rồi!

Tôi vui mừng reo lên - tôi muốn hét lên thật to cho hai bên vách núi cùng sẻ chia niềm vui của tôi  - niềm vui được lửa. Một khoảnh khắc, nhớ , cảm thông, hồn tôi chợt trôi nhanh về một thuở hồng hoang,  tổ tiên ta tìm ra ngọn lửa,  dựng xây nên bao mạch sống ấm no . Nhưng giây phút này, tôi -một mình - dưới con khe nửa tối, nửa sáng , như chốn ma quái nào?

   Giờ , nồi sắn thân yêu  như reo vui cùng tôi - nó  sôi sùng sục - chiếc nắp nhôm  đang đè lên mấy lớp lá rừng nhúc nhích theo...


    - Sắn, sắn, sắn chín rồi !

  Tôi cẩn thận  đổ ra trên lớp lá chuối rừng  những củ sắn vừa chín ,thơm phức. Đậy mớ đầu tiên này lại, tôi còn nấu thêm nồi nữa. Nồi thứ hai này chắn chắn anh em sẽ chia nhau dấu đem về trại. Tôi lấy một củ chín ra ăn, như tự thưởng công cho mình cho một công lao gì lớn lắm . Vừa nhai tôi vừa cất tiếng hú gọi anh em , xa xa có tiếng hú đáp lại, chắc họ đang  ra ?  

   Ngọn gió lạnh lùng quái ác  xuyên qua lòng khe,  'hắn' đang trở lại, như muốn 'trêu ' tôi. Khi vụt qua cái chổ trống trên vai áo tôi vừa xé mất , 'hắn' làm tôi thấy lành lạnh.  Bỗng dưng tôi vui hẳn lên, vội cất tiếng hú to gọi nhau thêm một lần nữa.

                                                    *****


Chúng tôi ra khỏi rừng thường trời đã xế bóng. Trời nắng đó là những ngày vui. Sẵn sàng vác gỗ lên vai chúng tôi hướng về đồng bằng, chân bước nhanh như nhớ thương về dưới đó.

Đoàn người vác gỗ nhấp nhô ẩn hiện qua mấy trảng đồi . Tháng Tám về, không gian buồn tênh chen trong màu tím hoa sim như cam phận hay cảm thông cho những người thua trận. Ánh tà dương từ từ khuất dần phía tây.  Trên những mãng đồi hoang vu từng có bóng tù đang len qua mấy đồi sim chín. Tuy là vị ngọt trái rừng nhưng sẽ là những kỷ niệm buồn da diết nó đang  trãi dài theo bước chân người  đi nhanh về trại./.


DHL
 edited7/9/13
10/9/2019




======================================================


Friday, November 13, 2020

HUY PHƯƠNG: CHÂN DUNG MỘT H.O




ĐINH TRỌNG PHÚC, H.25

* Bài và ảnh: HUY PHƯƠNG

- Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên trong vùng “kinh tế mới”.

Đinh Trọng Phúc sinh năm 1953, là con đầu trong một gia đình có năm anh em, tại quê mẹ thuộc làng Nại Cửu Quảng Trị, nhưng nguyên quán ở làng Truồi, nơi nổi tiếng có trái dâu ngọt, thuộc quận Phú Lộc Thừa Thiên. Thân phụ ông đã từng làm trưởng chi Công An qua những quận Ba Lòng, Cam Lộ, Hải Lăng.


 Thuở thiếu thời, Đinh Trọng Phúc theo học tại trường Nam Quảng Trị và Trung Học Nguyễn Hoàng từ năm 1965- 1972. Sau khi đậu tú tài phần II, Đinh Trọng Phúc bị động viên vào khóa 12/72B trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối năm 1973, ông được phân phối về Tiểu Khu Quảng Trị, giữ chức vụ Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 105 ĐPQ. Là một người trai trẻ, sau khi tốt nghiệp trung học, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng của màu hè đỏ lửa, về phục vụ tại quê hương, Đinh Trọng Phúc nghĩ là mình có thể đóng góp chiến công để giữ vững miền Nam theo gót các đàn anh, nhưng định mệnh quá khắt khe. Ngày 23 tháng 3 năm 1975, tiểu khu Quảng Trị được lệnh rút qua tuyến Mỹ Chánh. Tiểu Đoàn 105 ĐPQ án ngữ tại đây để bảo vệ an toàn cho các đơn vị Dù và Thủy Quân Lút Chiến rút về tuyến sau. Nhưng vào sáng hôm sau, quân Bắc Việt đã tràn qua phòng tuyến, Chuẩn úy Đinh Trọng Phúc cùng toàn đơn vị bị bắt làm tù binh tại chỗ. Đây là “tháng ba gãy súng” mà nhà văn TQLC Cao Xuân Huy đã mô tả trong cuốn sách của ông xuất bản tại hải ngoại.

Các tù binh VNCH bị lột giày và đi chân đất trong đêm đó ra tập trung tại Đông Hà. Mười lăm ngày sau đoàn tù binh bị buộc chuyển đi Ba Lòng, một khoảng đường xa gần 40 cây số. Ngày 21 tháng 5 sau khi Saigon thất thủ, Sư Đoàn 337 ( Đoàn 7) lập 5 trại tù tại Ái Tử để giam giữ gần 3,000 chiến hữu của chúng ta thuộc Khu 11 Chiến Thuật. Đầu năm 1977, Đinh Trọng Phúc có tên trong danh sách 1,000 tù binh mạnh khỏe tại Ái Tử mà Cộng Sản tuyển để đưa ra miền núi Thanh Hóa, phá rừng, làm thủy lợi cho địa phương này. Sau hai năm ở Thanh Hóa, năm 1979, ông được chuyển vào Bình Điền, một trại tù về phía Nam thành phố Huế.

                                    VÀO DỊP TẾT thợ chụp ảnh đi quanh thôn , nhà tôi mới dám chụp vài ba tấm đầu năm , nhò vậy mới có tấm hình kỷ niệm quý báu này 

Tháng 8-1980, Đinh Trọng Phúc ra tù và trở về nhà cha mẹ, vì trước đó vào mùa hè năm 1972 , gia đình ông đã vào di dân lập ấp tại Bình Tuy. Ở đây, chỉ có một nghề duy nhất dành cho người tù cải tạo trở về là đốt rừng làm rẫy, trồng bắp, trồng sắn, đi củi, làm than (anh hùng mạt vận lên rừng đốt than). Trong hoàn cảnh ấy, Đinh Trọng Phúc gặp lại một người bạn gái ngày xưa ngồi chung lớp, và hai người đi đến thành hôn năm 1983, gầy dựng một gia đình, sinh hạ được năm người con, nghèo khổ, vất vả và cho tới ngày bỏ quê hương lầm than ra đi.

ông đang trở lại trường học
  Ở vùng kinh tế mới, xa đô thị, Đinh Trọng Phúc trong nhiều năm không hay biết gì về chương trình tỵ nạn dành cho các cựu tù nhân chính trị, và một phần do sự bưng bít của chính quyền địa phương, mãi đến tháng 8 năm 1995, gia đình Đinh Trọng Phúc mới đến định cư tại San José, Hoa Kỳ theo danh sách H.25. Mang theo một đàn con nhỏ mà cháu lớn chỉ mới 11 tuổi, gia đình ông phải nhờ vào trợ cấp của chính phủ, cùng lúc Đinh Trọng Phúc xin vào làm trong một hãng điện tử. Năm 2003, Phúc nghĩ đến việc phải đi học trong thời gian còn hưởng trợ cấp, ông vào College được hai năm và muốn theo học ngành Social Science .
                                  con trai Graduated Master Degree truong dai hoc Stanford University 2011

Sau một thời gian khá dài đói khổ nơi vùng kinh tế mới, được dịnh cư tại Mỹ, năm 1995 vợ chồng Đinh Trọng Phúc với 5 đứa con được Hoa kỳ cưu mang qua đây, nay tất cả 5 đứa con đều học hành thành công, các cháu đã vào được các đại học Harvard, Stanford và UC Davis  . Phúc luôn mang ơn nước Mỹ và cộng đồng người VN tỵ nạn CS nhất là hội Đồng Huơng Quảng trị luôn khuyến khích và tặng phần thuởng khuyến học cho các cháu hàng năm.

  Phúc cũng không quên công lao của vợ đã hi sinh cho gia dinh gần 20 năm chịu khó làm nội trợ trong nhà chăm sóc miếng ăn giấc ngủ cùng sự học hành cho con cái. Riêng Phúc năm nay 61 tuổi nhưng vẫn quyết đi tìm công việc thích hợp với ngành học của mình.


 Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên giữa vùng đất cằn cỗi. Gia đình Đinh Trọng Phúc được nước Mỹ cứu vớt, mang tới đây, trong một miền đất hứa để ông làm lại cuộc đời, nhìn thấy các con đang khôn lớn, sống no đủ, được học hành tử tế . Và riêng ông, ông đang trở lại trường học, sau khi đã trải qua những năm tháng chiến tranh, tù đày và những ngày cơ cực, vất vả; mùa thu 2013 ông tốt nghiệp cử nhân Khoa Học Xã Hội (Social Science) [1] tại Đại Học San Jose State California.

Chúng ta hy vọng gặp lại Đinh Trọng Phúc trong tương lai, một Đinh Trọng Phúc thành đạt, biết cống hiến, nhờ vào những ngày kinh nghiệm gian nan trong quá khứ.

2015-02-23 19:34 GMT-08:00 huyphuong le <huyphuong37@gmail.com>:

 nhà văn Huy Phương và Đinh trọng Phúc ngày ra mắt sách tại Khu Hội CTNCT San Jose 2014

[1]: Trong nguyên bản lúc đầu là "Chemical Engineering" có liên lạc với HP để sửa lại là "Social Science" nhưng tác giả HP bệnh nên sách không đính chính được

Monday, December 15, 2014

RỪNG VÀ ĐÓT

RỪNG ĐÓT NĂM XƯA


.[Gió Núi Mưa Rừng / Huyền Anh)


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe (HUYỀN ANH)


    LANG THANG đọc báo trên mạng chợt tôi chú ý về chuyện cây đót miền núi Việt Nam hiện nay đang được "nâng cấp " đến cái tên là "lộc rừng", khiến tôi nghĩ đến muôn triệu 'của trời cho ' từ rừng mà cây đót là một. Chuyện đáng ngạc nhiên vì ngày xưa người ta chưa kể "số vào đâu" chuyện cây đót hay nguồn lợi về đót. Thế mà thời nay đót cũng là "cơm gạo áo tiền" cho người miền núi và dĩ nhiên  là ...nghèo
!

  Cây đót mọc nhiều ở đâu? có thể là dọc theo dãy Trường Sơn miền Trung vùng khí hậu nóng ẩm hơn miền Bắc. Miền núi Quảng Trị, từ những rú càn La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Ái Tử đi lên chúng ta đã thấy nhiều đồi đót mọc chen với lau lách. Ba năm 1975-1977 ở "Trại 4 Ái Tử", trại tù phía lưng Chùa Sắc Tứ ngó lên. Chúng tôi từng toán đi kiếm đót về, phơi khô thân đập ra và đan thành từng tấm phên vuông, lót nằm.

Sau này tôi lại có thêm kỷ niệm về đót do những năm tại Bình Điền, chúng tôi từng đi hái đót mang về cho Trại hay cho cái "nợ trần gian"đó là  "lao động cải tạo ".

                      PHƠI ĐÓT
   Ôi! những rừng đót Bình Điền, nhất là dưới chân 
ngọn núi từng mệnh danh là "Bastogne" Tây Nam Huế đến mùa nhiều vô số kể. Ngày nay gọi là "lộc của trời" hái ra tiền bạc cho dân mình , thì ngày xưa chỉ có giá trị đối vời đời tù vài khúc sắn nấu , chia cho phần trưa sau khi hoàn thành nhiệm vụ bẻ đót cùng "cân" đót . Hình ảnh nồi quân dụng canh sắn cắt mỏng, nêm ruốc Thuận An loại "quỷ tha ma bắt" vỏ giòi nổi lềnh bềnh, nhưng cũng còn "chất lượng" hơn món "canh đại dương" trong trại.Tôi xin bỏ qua chuyện này để tiếp về câu chuyện của đót và rừng Bình Điền Tây Nam Huế.
căn cứ Bastogne một thời Mùa Hè đỏ Lửa, có ngờ đâu sau 1975 lại là những trại "tù cải tạo'


Những toán tù được "giao khoán" cân lượng, chia lại cá nhân mỗi người bao nhiêu ký đót. Bạn đọc có thể thắc mắc tù thì đi hái đót làm gì? Hồi này cũng là "lộc của trời" nhưng lộc này thì cho Trại về bán cho Huế đó thôi. Những năm 1979 và 1980 có thể người dân Huế có dùng những cái chổi đót được hái từ rừng Bình Điền cũng nên.

Đi bẻ cây đót thật vui vì chúng tôi có dịp "dạo chơi", chen lẫn trong rừng đót, được những giây phút thảnh thơi với hoa lá không có ai canh giữ theo mình. Đỉnh Bastogne không còn xa xôi nữa; nó, trước mắt chúng tôi và chẳng còn cao vì chúng tôi đang ở cạnh nó. Cách bẻ đót khá dễ dàng. Khi hoa đót bắt đầu bung, màu còn hơi xanh, là thời gian tù đi "thu hoạch ". 

Không dùng liềm, cũng chẳng phải bẻ 'ngang xương'. Một tay nắm phần lá ngang cái đốt chúng ta muốn bẻ, tay kia cầm bông đót bẻ về phía ngược chiều, thì bông đót tự DỨT RA, không còn dùng dằng, mất thì giờ nữa. Đi hái đót buổi đầu, "năng suất" còn thấp, qua buổi thứ hai thì quen tay, chúng tôi tăng dần lượng đót. 

Cây lách rừng "ranh ma", mọc xen trong rừng đót. Phần mép lá của cây lách sắc "hơn dao cạo", bao nhiêu lần đứt tay máu chảy ròng ròng; "đưa miệng mút" cầm máu, rồi cũng xong. 

Mùa đót vào tháng nào chúng tôi chẳng nhớ?mà chẳng cần nhớ làm gì! Nhưng đót không thể "rủng rỉnh" đợi mà trại phải làm gấp chỉ ít tuần trong mùa "ĐÓT RỘ" thôi.  Huế lúc này làm sao mua hết đót trên rừng? Huế sau năm 1975, chỉ còn vài con phố "hiu quạnh". Chủ nhân lớp ở tù, lớp "mất hút" phương xa. Những bà mẹ Huế mãi ngồi "chờ con";đứa ở tù, hay có đứa 'đi mãi' không về, nên để tường ố nhện nhăng.  

Phố Huế đìu hiu-  u buồn khi khách vắng teo. Chẳng ai màng quét dọn, thì làm sao đót từ rừng về thành phố bán chạy? Vài dãy phố mua bán cầm chừng, tiền bạc hiếm hoi, chuyện "lộc trời" chắc gì khấm khá?


Xưa, tôi có khi tay cầm chổi đót. Tôi còn nhớ hình dạng cái chổi, qua tay nguòi dân quê hay người thợ nào đó bó cho mà dùng. Giờ, tôi đứng đây giữa rừng đót Bastogne ngày xưa "gầm vang' đại pháo, 155, 175 ly? tất cả đã trả lại im lìm muôn thưở cho núi rừng Truờng Sơn. Lòng cảm thấy vui vui, tôi như  như một khám phá "bất ngờ và lý thú" nào đó...
 
Cứ trưa trưa mỗi người mỗi vác đót thật lớn đứng xếp hàng "đếm số" vào lại cổng trại. Cái sân trại giờ đây phơi đầy những hàng đót , chờ khô có xe chở về Huế. Chuyện bán đót là chuyện của cán bộ, đời tù chỉ mong đến giờ nghe kẻng để đi nhận phần ăn là xong. Củ sắn, thìa muối sống buổi sáng , phần "
canh đại dương" kèm theo sắn hay khoai ...thời hái đót ,năm ngày mới được thuởng thức một chén cơm từ khẩu phần 100 gam gạo; gạo là "thuốc bổ" phụ cho thời khoai sắn thay cơm.   Đó là những năm tháng khó quên, những kỷ niệm "rưng rưng " với đót, với  Trường Sơn - Huế,  
với những rừng đót lung lay theo gió. 

Ngày đó từng bó đót được đổi miếng ăn cho tù, là kỷ niệm, là dỉ vãng. Tôi nhớ đót như nhớ (hay thuơng) những mãng rừng no nắng trên vùng biên giới, quê huơng.

 Ý niệm hận thù, ghét bỏ, đã qua đi như ngọn gió rừng lao xao lướt qua thảm rừng đầy tràn hoa đót . Giờ đây đót vẫn còn ; nhưng là tiền, là gạo,  cho bao lớp tuổi thơ VN, đời sống bấp bênh, nghèo đói so với tuổi thơ thành thị. 

 Qua bao năm, chắc hẳn giờ đây hoa đót vẫn đu đưa, "ru đời" qua đi sau từng cơn gió núi. Đót Trường Sơn vẫn vươn qua bao tàn phá của những bàn tay tham lam mở đất; đót còn nuôi em, nuôi mẹ vùng cao. Xã hội còn nghèo, hay tình nguòi cùng sự công bằng xã hội "còn nghèo"?  Trường Sơn vẫn oằn lưng chịu bao nhát chém của lòng tham ; đất Cao nguyên vẫn lở lói cho 'tiền muôn bạc tỷ' của những kẻ ngất ngưởng quyền uy ! Người dân núi vẫn nghèo, tuổi thơ vùng cao vẫn đói ! Bó đót qua thác vượt ghềnh, vẫn chống chọi với cái chết để đổi lấy miếng cơm! những chiếc cầu "công lý" vẫn chưa nối bờ cho đám dân rách rưới xác xơ ? 

   Thôi, biến cố nào cũng qua, sướng khổ nào cũng hết;  xin lắng tâm tư về kỷ niệm , mong sóng lặng gió qua bình yên như nước hồ thu. Trong muôn vàn ký ức của những thế hệ , những lớp người đi trước , bao nguòi Việt Nam dù bắc hay nam, dù người linh VNCH hay bộ đội 'cụ Hồ", chắc hẳn có nhiều người mang nặng dấu ấn Trường Sơn, trong đó có hình ảnh những rừng đót hoa nở trắng phau lung linh dưới ánh nắng rừng. Tôi không ngờ hôm nay những hình ảnh và câu chuyện về đót cũng được nằm trong vùng kỷ niệm .

a


hiện nay người dân Huế hay đồng bằng Quảng Trị đang ồ ạt lên rừng kiếm đất , tương lai những rừng đót "lộc trời" chắc cũng không còn

 DHL edition 
17/6/2016

Wednesday, October 1, 2014

MÀN MƯA BIÊN GIỚI

                                 Mưa rừng

   Mưa rừng rơi mãi không thôi ! Mưa biên giới vẫn một màu xám ngắt kết màn che khuất bao chốt bạn . Trong căn hầm ẩm thấp đợi thời gian qua - ngày lại ngày vô nghĩa. Tiếng 'tịch tè' của chiếc máy truyền tin, đợi tiếng nói giữa người và người để biết rằng ta không cô độc . Những chiếc poncho im lìm , những căn hầm chìm ẩn.

   Chiều mưa biên giới là đây - giờ không còn là bài hát mà là sự thật. Qua tiếng tí tách mưa roi trên vành nón sắt, ta vẫn lắng nghe những tiếng động của rừng sâu , cố căng mắt nhìn xuyên qua màn mưa sâu thẳm. Sấm sét vọng vang qua bao rặng núi, nơi đây vẫn còn bao người trai lòng đang sâu lắng nhớ nhung.

   Mưa, không còn những đám mây lãng đãng trôi về miệt biển , một khỏang đồng bằng nhỏ bé dưới xa để những người lính trẻ đứng ngắm một khoảng trời bao la, và sau hết là ngồi ngóng tin nhà... 

  chóp Động Ông DO 1972

   

 Những người trai  ra đi  đâu hẹn ngày về ! Những gì trong bản nhạc, còn lắm  tình cảm chứa chan, tiền tuyến hậu phương cho ai "Thương màu áo gởi ra sa trường". Hôm nay,  ta chỉ biết kéo lại poncho trong màn mưa,  im lìm đứng nơi tuyến đầu biên giới . Lính thầm mong mưa tan mau, núi rừng sẽ đẹp hơn khi lưng trời có nhiều "sắc mây pha hồng" như là những niềm tin cùng hi vọng.


NIỆM KHÚC CHO ÔNG LÃO ĐƯA ĐÒ BÊN DÒNG SÔNG THẠCH

    Thời gian phôi pha, bao lớp người QT ra đi bỏ lại đằng sau khung trời kỷ niệm, dải đất quê hương cày lên sỏi đá, những ngày đông giá lạnh sương mờ giăng phủ từng khúc sông quê.
Duy ông lão lái đò vẫn mãi một đời gắn bó bên dòng hiu quạnh; lão vẫn đợi từng người khách sang sông. Ngày xưa lão cũng từng tiễn bao bóng chinh nhân, những người đi không hẹn ngày trở lại. Tự tình nào trong tấm lòng thuần phác của một ông lão đưa đò bên dòng sông Thạch ?

  Và sau cảnh biển dâu xao xác cho từng mảnh đời người dân xứ Quảng, có ai về lại bến đò xưa chợt nghiệm ra rằng bóng lão đưa đò không còn nữa!

    Bên sông sóng nước đìu hiu. Chỉ vẳng đưa tiếng con chim bói cá-- phải chăng là hồn lão đưa đò bên bờ tre u tịch.
Một nửa đời người, ta nhìn lại khúc sông xưa nay đã cạn dần. Rồi mai đây cũng có ai đó như cụ Tú Xương nghe trong gió thoảng mơ hồ tiếng ai gọi đò, tiếng con chim bói cá bên bờ lau xưa cùng sông nước cô liêu. Tất cả đều là hư ảnh,đã thuộc về dĩ vãng xa xăm.

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...