Saturday, November 14, 2020

QUE DIÊM CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI TÙ BINH TRONG RỪNG


Đinh Hoa Lư và những mẫu chuyện thật trong đời
nhớ về Ái tử nơi vùng trung du những ngày sau 1975


Lửa reo vang lửa gào lòng ta nguồn sống 
Lửa Tự Do muôn năm vẫn reo rừng ơi ..
(NHẠC RỪNG KHUYA- Lam Phuong)

]

   Trại 4 trong hình có ngũ giác màu đỏ /bản đồ Bộ TTM VNCH
Đường MÀU ĐEN vẽ tay là Giới Tuyến HAI PHE sau Hiệp Định Paris 27/1/1973 Diểm tận cùng phía VNCH phía biển là Thôn Vĩnh Hoà Phường do trung đội của ĐHL trấn đóng. Cửa Việt lúc này thuộc phe CSVN 


   Trại TÙ CẢI TẠO SỐ 4 ÁI TỬ còn gọi là Trại Bốn  nằm gần Thôn Xuân Khê.  Tên thôn này nghe khá thơ mộng nhưng khó tìm ra trên bản đồ ngoại trừ một cái tên Thôn Ái Tử nó có trên bản đồ Bộ TTM VNCH. Từ Thôn Ái Tử ngó lên vài cây số là Thôn Xuân Khê. Con suối lớn lượn lờ chảy về Ái Tử. Suối không lớn nhưng đủ cung cấp nguồn sống cho 5 trại tù và mấy thôn nghèo trong đó có Xuân Khê ngó qua Trại 4 chúng tôi.Tên Xuân Khê tuy hay nhưng hình ảnh thực tế của nó chỉ là một vài căn nhà tranh mới lợp do dân vừa hồi cư sau bao ngày loạn lạc. Cái cầu 'ri' bắc qua con suối lớn, đó là một thế giới khác một trại tù cách biệt với dân , xây dựng trước lúc dân làng trở lại.


  Tiếng ót ét của chiếc cầu,  những tấm ri đào về từ Căn CỨ Ái Tử gần ngoài lộ 1, đó là kỷ niệm khó quên những lần đi rừng chặt gỗ .  Chúng tôi lên rừng thật sớm, khi ánh sao khuya còn lấp lánh trên trời. Chén cơm lưng lửng trong cái lon gô’ thân yêu’ trong bao cát mang xéo một bên nách. "Vũ khí" chúng tôi giờ là những chiếc rựa tự chế .  Chuyện đi rừng  là 'kinh nhật tụng', tôi xin miễn bàn sâu vì ai cũng rành 'sáu câu vọng cổ'. Tôi thuơng cho cái bao tử, khi nào cũng sôi , đòi hỏi có những thứ gì dằn vào cái khoảng trống không . Phần cơm kia tuy ít nhưng nó chỉ được ăn để mang gỗ về trại. Thế thì chuyện sinh tồn, đó là những gì bắt buộc chúng tôi phải kiếm cách "sinh tồn ". "Ngộ biến phải tùng quyền"! có nghĩa là 'cái đói ló cái khôn' chúng tôi luồn vào rừng sắn của trại trong bóng đêm, tìm cách "tranh thủ " ! nghĩa là chỉ cần nhổ hai , ba bụi sắn. Những đồi sắn bạt ngàn do bàn tay bao nhiêu người tù , bao công sức phá núi san rừng , đốt dọn , lượm đá , đắp vồng ! Chỉ vài bụi thôi, chẳng thấm tháp gì trong hàng muôn triệu cây sắn,  anh em chúng tôi có "cái " no để về lại trại.

  Chúng tôi luồn vào rừng sắn nhổ lên vài bụi đã đầy cái bao cát mang theo. Hồi này đi rừng còn làm khoán, có nghĩa chúng tôi đi cùng tổ không có ai dẫn , tự giác tối có gỗ về nhà là được. "Trời đất" vừa sụp đổ chẳng ai còn mộng chạy đâu. ‘Va lô’ là cái bao cát sắn trên vai, đương nhiên  đến rừng tôi sẽ là 'anh nuôi'- danh từ thời đó - cho mấy anh em .  Như vậy tôi sẽ không đi kiếm cây, mấy người khác trong tổ sẽ chặt bù cho tôi. Tôi tìm đường xuống bên khe nước nấu bao sắn này, sau khi có đủ cây xong, chúng tôi sẽ "liên hoan bồi dưỡng" trước khi vác gỗ về trại .
 
   Con đường lên rừng ‘Anh Tuấn’ thật xa! Thời gian này người dân làng nào khai hoang vùng rừng nào thì chúng tôi tạm đặt cho cái tên vậy để dễ nhớ.  Làng Anh Tuấn ở quận Triệu phong lên khai hoang trên này xa thật ! xa đến nỗi đứng đó chúng tôi có thể thấy được con đường đèo hướng xuống Ba Lòng tức là gần giáp với Hướng Hóa ở phía Bắc . Nhìn về huớng Tây rừng Trấm nay đã tang hoang rỗng tuếch sau hai năm vừa dân vừa tù khai phá. Gỗ cây về làm trại chúng tôi phải đi càng lúc càng xa hơn. Sau này ngay cả đi củi cho trại cũng xa như thế.

                                                                          những đồi sim chín mênh mông


 Vừa đi tôi vừa miên man nghĩ đến hình ảnh chiều vác gỗ về trại. Đó là những thời gian cuối cùng của một ngày lao động, khi ánh chiều tà còn lại những vạt nắng cô đơn trên những mảng đồi đầy sim chín. Những người tù binh sẽ "tự do  thoải mái" tận hưởng những trái sim 'chín mọng' , ngọt ngào. 

 Miệt rừng  dần dà gần lại trước mắt, nơi chúng tôi hi vọng còn nhiều cây gỗ thẳng.    Chúng tôi ngang qua các rẫy sắn của dân trung du thì trời sáng hẳn . Người dân  từ những làng xa xôi dưới miệt đồng bằng lên đây từng chấp nhận 'ăn sắn thay gạo' . Nhưng sự thật phủ phàng sau khi các rẫy sắn bị heo rừng phá nát, họ chỉ chia nhau được vài thúng sắn tươi sau khi trừ công điểm. Người dân quê dưới miệt đồng bằng sau bao tháng lên đây , bao bận đi đi- về về,  xa xăm,  tốn kém  "cơm đùm gạo bới " rốt cuộc  họ chẳng có chi ! nghèo lại hoàn nghèo - đói vẫn hoàn đói?

Chúng tôi băng qua vài hẽm núi mới vào được vào nơi rậm rạp hơn , ít dấu chân ngừơi để hi vọng có gỗ thẳng. Chia nhiệm vụ xong, tôi ở lại dưới khe lo chuyện nấu sắn. 

  Nhớ lại  hình ảnh ngày đó chắc ít ai còn nhớ cái thiếu thốn của tù.  Hình ảnh cái hộp quẹt nội hóa (hồi này chúng tôi hay gọi là bít- kê(briquet theo tiếng Pháp) làm tại Chợ Lớn nhưng quý hơn vàng! Còn chuyện cái ‘zippo’ thì đích thực là hình ảnh xa vời . Nhưng nếu ai còn có cái zippo (tức là hộp quẹt Mỹ) thì  đã bị "thu giữ" lâu rồi làm gì còn trong trại. Tôi kể chuyện này là chuyện của 'LỬA':  lửa là nguồn sống là mấu chốt cho 'cải thiện linh tinh' do chúng tôi thuơng cho cái bụng lép xẹp lâu ngày. Nếu có cái hộp quẹt nội hóa thô sơ đó thì cũng cần có dầu hỏa hay xăng và cuối cùng là ĐÁ LỬA?  Đá lửa  ôi thôi, hiếm quý! 

Giờ đây lửa là đòi hỏi trước tiên cho tôi khi lãnh nhiệm vụ nấu ăn dưới con khe. Trong tay tôi ngày đó còn khoảng ba cây diêm của hộp diêm THỐNG NHẤT- vuông vuông-  làm tại Hà Nội cùng mớ củi khô tôi chẻ nhỏ dưới cái khe ẩm ướt.

Những khúc sắn "trắng nỏn nà" trông hấp dẩn như "làn da người đẹp"nằm gọn trong cái nồi gang tôi bới theo cho tổ. Hồi này trại  chúng tôi có đúc song nồi lấy nguyên liệu từ xe M 113 bị cháy trong rừng. Trại  đem về nấu ra thành song, thau, nồi, vá (cán bộ người Bắc thì gọi là môi) phát về cho lán, khối, tổ. Ngang đây người viết xin nhắc lại một người có liên quan đến những cái nồi gang đúc này có tên là Viễn Khởi. Anh là người tổ trưởng đúc nồi cho Trại 4 Ái Tử. Anh Viễn Khởi còn sống chăng? do thời gian ngắn sau nghe đâu anh trốn được trại và không nghe gì thêm nữa về nhân vật này?


người tù "cải thiện" thức ăn cần nhất là lửa nấu những nơi kín đáo , muốn có lửa thì cần hộp quẹt hay diêm que Thống Nhất thời điểm này    

Tôi phải quẹt đến cái diêm cuối cùng tôi mới nhen được ngọn lửa. Trống ngực đập loạn xạ, tôi chẳng màng đến những con muỗi rừng đang vo ve hút máu tới tấp.  Mắt tôi căng ra, miệng đang dồn hết sức thổi phù phù...  Ngọn lửa bắt đầu leo lét cháy. Những làn khói yếu ớt từ từ tỏa lên bên hóc đá dưới con khe róc rách, ánh sáng mập mờ vì những tán cây rậm cùng sườn núi trên cao. Những đóm lửa đã bắt đầu nhen nhúm, bén nhau. Cơn mừng chưa hết...?!

Chợt một ngọn xoáy nhỏ, quái ác vụt qua ngọn lửa mới bốc lên một cách yếu ớt vụt tắt? Hoảng hồn, tôi run bắn người:

-Cũng do  quá tự tin nên mình  kiếm quá ít củi mồi khô?  

 -Trời ơi? mình phải làm răng đây?!!!

 Que diêm trong cái hộp diêm "Thống Nhất' là cái diêm cuối cùng tôi vừa quẹt xong. Nhảy qua bên bụi kia lấy ít mồi khô thì đốm lửa than còn lại này không có tôi sẽ tắt ngúm mất? Tôi thực sự hoảng loạn?! Ấn tượng thật khó quên, lo âu khó tả? mấy anh em trong rừng ra sẽ đói dường nào? Tưởng tượng bao  thất vọng của  những người bạn tù sau khi kéo gỗ ra do họ đinh ninh sẽ 'chần' một chầu sắn nấu no "phình bụng"?!

Bạn đọc sẽ nhớ lại phần cơm được trại cấp phát theo giờ ở đâu? tất cả đã ăn trước khi xách rựa vào rừng vì đinh ninh rằng đang có sắn do tôi lãnh nhiệm vụ nấu ngoài khe này:
  
     -Làm răng! làm răng đây hè?!

    Tôi run lẩy bẩy.

  Cuộc đời có nhiều lúc run rẩy do yếu bóng vía, do sợ chết hay vì mất của cải quý báu trong đời. Những lúc no đủ dư dật khó lòng tưởng lại nỗi xúc động của một người tù mất lửa đang đối diện với sự hành hạ của những miếng ăn bị mất trong lúc những chiếc bao tử trống không thèm khát nhiều ngày như thế nào. Một sự lo sợ run rẩy mà sau bao năm tôi vẫn còn nhớ, một cảm giác chua cay lẫn đau xót vì miếng sắn thơm ngát dẽo ngon sẽ được tạo thành DO CÓ LỬA chợt vụt mất vì một ngọn gió vô tình.  

    - Dưới khe một mình tôi không giữ gìn được ngọn lửa, cho lòng tin của anh em?

  Một tia sáng lóe ra trong đầu tôi !

   Miếng vải mỏng màu đà tôi vừa vá đắp vào hai bờ vai tôi là cứu tinh lúc này. Miếng vải này đã giúp tôi bớt đau khi trở vai với bó đòn tay, cây gỗ hay gánh củi nặng nề...

-XO...ẠC!

 Không cần suy tính , bao nhiêu sức lực của một ý nghĩ thoáng nhanh... Miếng vải là 'cứu tinh' thc sự rồi vì nó có pha sợi ni lon nên dễ bắt lửa vô cùng!

   -Cháy ! cháy! cháy lên nữa 'đi em' lửa đã lên rồi!

Tôi vui mừng reo lên - tôi muốn hét lên thật to cho hai bên vách núi cùng sẻ chia niềm vui của tôi  - niềm vui được lửa. Một khoảnh khắc, nhớ , cảm thông, hồn tôi chợt trôi nhanh về một thuở hồng hoang,  tổ tiên ta tìm ra ngọn lửa,  dựng xây nên bao mạch sống ấm no . Nhưng giây phút này, tôi -một mình - dưới con khe nửa tối, nửa sáng , như chốn ma quái nào?

   Giờ , nồi sắn thân yêu  như reo vui cùng tôi - nó  sôi sùng sục - chiếc nắp nhôm  đang đè lên mấy lớp lá rừng nhúc nhích theo...


    - Sắn, sắn, sắn chín rồi !

  Tôi cẩn thận  đổ ra trên lớp lá chuối rừng  những củ sắn vừa chín ,thơm phức. Đậy mớ đầu tiên này lại, tôi còn nấu thêm nồi nữa. Nồi thứ hai này chắn chắn anh em sẽ chia nhau dấu đem về trại. Tôi lấy một củ chín ra ăn, như tự thưởng công cho mình cho một công lao gì lớn lắm . Vừa nhai tôi vừa cất tiếng hú gọi anh em , xa xa có tiếng hú đáp lại, chắc họ đang  ra ?  

   Ngọn gió lạnh lùng quái ác  xuyên qua lòng khe,  'hắn' đang trở lại, như muốn 'trêu ' tôi. Khi vụt qua cái chổ trống trên vai áo tôi vừa xé mất , 'hắn' làm tôi thấy lành lạnh.  Bỗng dưng tôi vui hẳn lên, vội cất tiếng hú to gọi nhau thêm một lần nữa.

                                                    *****


Chúng tôi ra khỏi rừng thường trời đã xế bóng. Trời nắng đó là những ngày vui. Sẵn sàng vác gỗ lên vai chúng tôi hướng về đồng bằng, chân bước nhanh như nhớ thương về dưới đó.

Đoàn người vác gỗ nhấp nhô ẩn hiện qua mấy trảng đồi . Tháng Tám về, không gian buồn tênh chen trong màu tím hoa sim như cam phận hay cảm thông cho những người thua trận. Ánh tà dương từ từ khuất dần phía tây.  Trên những mãng đồi hoang vu từng có bóng tù đang len qua mấy đồi sim chín. Tuy là vị ngọt trái rừng nhưng sẽ là những kỷ niệm buồn da diết nó đang  trãi dài theo bước chân người  đi nhanh về trại./.


DHL
 edited7/9/13
10/9/2019




======================================================


Friday, November 13, 2020

HUY PHƯƠNG: CHÂN DUNG MỘT H.O




ĐINH TRỌNG PHÚC, H.25

* Bài và ảnh: HUY PHƯƠNG

- Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên trong vùng “kinh tế mới”.

Đinh Trọng Phúc sinh năm 1953, là con đầu trong một gia đình có năm anh em, tại quê mẹ thuộc làng Nại Cửu Quảng Trị, nhưng nguyên quán ở làng Truồi, nơi nổi tiếng có trái dâu ngọt, thuộc quận Phú Lộc Thừa Thiên. Thân phụ ông đã từng làm trưởng chi Công An qua những quận Ba Lòng, Cam Lộ, Hải Lăng.


 Thuở thiếu thời, Đinh Trọng Phúc theo học tại trường Nam Quảng Trị và Trung Học Nguyễn Hoàng từ năm 1965- 1972. Sau khi đậu tú tài phần II, Đinh Trọng Phúc bị động viên vào khóa 12/72B trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối năm 1973, ông được phân phối về Tiểu Khu Quảng Trị, giữ chức vụ Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 105 ĐPQ. Là một người trai trẻ, sau khi tốt nghiệp trung học, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng của màu hè đỏ lửa, về phục vụ tại quê hương, Đinh Trọng Phúc nghĩ là mình có thể đóng góp chiến công để giữ vững miền Nam theo gót các đàn anh, nhưng định mệnh quá khắt khe. Ngày 23 tháng 3 năm 1975, tiểu khu Quảng Trị được lệnh rút qua tuyến Mỹ Chánh. Tiểu Đoàn 105 ĐPQ án ngữ tại đây để bảo vệ an toàn cho các đơn vị Dù và Thủy Quân Lút Chiến rút về tuyến sau. Nhưng vào sáng hôm sau, quân Bắc Việt đã tràn qua phòng tuyến, Chuẩn úy Đinh Trọng Phúc cùng toàn đơn vị bị bắt làm tù binh tại chỗ. Đây là “tháng ba gãy súng” mà nhà văn TQLC Cao Xuân Huy đã mô tả trong cuốn sách của ông xuất bản tại hải ngoại.

Các tù binh VNCH bị lột giày và đi chân đất trong đêm đó ra tập trung tại Đông Hà. Mười lăm ngày sau đoàn tù binh bị buộc chuyển đi Ba Lòng, một khoảng đường xa gần 40 cây số. Ngày 21 tháng 5 sau khi Saigon thất thủ, Sư Đoàn 337 ( Đoàn 7) lập 5 trại tù tại Ái Tử để giam giữ gần 3,000 chiến hữu của chúng ta thuộc Khu 11 Chiến Thuật. Đầu năm 1977, Đinh Trọng Phúc có tên trong danh sách 1,000 tù binh mạnh khỏe tại Ái Tử mà Cộng Sản tuyển để đưa ra miền núi Thanh Hóa, phá rừng, làm thủy lợi cho địa phương này. Sau hai năm ở Thanh Hóa, năm 1979, ông được chuyển vào Bình Điền, một trại tù về phía Nam thành phố Huế.

                                    VÀO DỊP TẾT thợ chụp ảnh đi quanh thôn , nhà tôi mới dám chụp vài ba tấm đầu năm , nhò vậy mới có tấm hình kỷ niệm quý báu này 

Tháng 8-1980, Đinh Trọng Phúc ra tù và trở về nhà cha mẹ, vì trước đó vào mùa hè năm 1972 , gia đình ông đã vào di dân lập ấp tại Bình Tuy. Ở đây, chỉ có một nghề duy nhất dành cho người tù cải tạo trở về là đốt rừng làm rẫy, trồng bắp, trồng sắn, đi củi, làm than (anh hùng mạt vận lên rừng đốt than). Trong hoàn cảnh ấy, Đinh Trọng Phúc gặp lại một người bạn gái ngày xưa ngồi chung lớp, và hai người đi đến thành hôn năm 1983, gầy dựng một gia đình, sinh hạ được năm người con, nghèo khổ, vất vả và cho tới ngày bỏ quê hương lầm than ra đi.

ông đang trở lại trường học
  Ở vùng kinh tế mới, xa đô thị, Đinh Trọng Phúc trong nhiều năm không hay biết gì về chương trình tỵ nạn dành cho các cựu tù nhân chính trị, và một phần do sự bưng bít của chính quyền địa phương, mãi đến tháng 8 năm 1995, gia đình Đinh Trọng Phúc mới đến định cư tại San José, Hoa Kỳ theo danh sách H.25. Mang theo một đàn con nhỏ mà cháu lớn chỉ mới 11 tuổi, gia đình ông phải nhờ vào trợ cấp của chính phủ, cùng lúc Đinh Trọng Phúc xin vào làm trong một hãng điện tử. Năm 2003, Phúc nghĩ đến việc phải đi học trong thời gian còn hưởng trợ cấp, ông vào College được hai năm và muốn theo học ngành Social Science .
                                  con trai Graduated Master Degree truong dai hoc Stanford University 2011

Sau một thời gian khá dài đói khổ nơi vùng kinh tế mới, được dịnh cư tại Mỹ, năm 1995 vợ chồng Đinh Trọng Phúc với 5 đứa con được Hoa kỳ cưu mang qua đây, nay tất cả 5 đứa con đều học hành thành công, các cháu đã vào được các đại học Harvard, Stanford và UC Davis  . Phúc luôn mang ơn nước Mỹ và cộng đồng người VN tỵ nạn CS nhất là hội Đồng Huơng Quảng trị luôn khuyến khích và tặng phần thuởng khuyến học cho các cháu hàng năm.

  Phúc cũng không quên công lao của vợ đã hi sinh cho gia dinh gần 20 năm chịu khó làm nội trợ trong nhà chăm sóc miếng ăn giấc ngủ cùng sự học hành cho con cái. Riêng Phúc năm nay 61 tuổi nhưng vẫn quyết đi tìm công việc thích hợp với ngành học của mình.


 Ông thuộc lớp trẻ vào trận khi mới hai mươi tuổi, phục vụ cho đất nước chưa tới hai năm thì bị bắt làm tù binh, đã qua 5 năm tù khổ sai và 15 năm sống cuộc đời một người dân bị bỏ quên giữa vùng đất cằn cỗi. Gia đình Đinh Trọng Phúc được nước Mỹ cứu vớt, mang tới đây, trong một miền đất hứa để ông làm lại cuộc đời, nhìn thấy các con đang khôn lớn, sống no đủ, được học hành tử tế . Và riêng ông, ông đang trở lại trường học, sau khi đã trải qua những năm tháng chiến tranh, tù đày và những ngày cơ cực, vất vả; mùa thu 2013 ông tốt nghiệp cử nhân Khoa Học Xã Hội (Social Science) [1] tại Đại Học San Jose State California.

Chúng ta hy vọng gặp lại Đinh Trọng Phúc trong tương lai, một Đinh Trọng Phúc thành đạt, biết cống hiến, nhờ vào những ngày kinh nghiệm gian nan trong quá khứ.

2015-02-23 19:34 GMT-08:00 huyphuong le <huyphuong37@gmail.com>:

 nhà văn Huy Phương và Đinh trọng Phúc ngày ra mắt sách tại Khu Hội CTNCT San Jose 2014

[1]: Trong nguyên bản lúc đầu là "Chemical Engineering" có liên lạc với HP để sửa lại là "Social Science" nhưng tác giả HP bệnh nên sách không đính chính được

Monday, December 15, 2014

RỪNG VÀ ĐÓT

RỪNG ĐÓT NĂM XƯA


.[Gió Núi Mưa Rừng / Huyền Anh)


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe (HUYỀN ANH)


    LANG THANG đọc báo trên mạng chợt tôi chú ý về chuyện cây đót miền núi Việt Nam hiện nay đang được "nâng cấp " đến cái tên là "lộc rừng", khiến tôi nghĩ đến muôn triệu 'của trời cho ' từ rừng mà cây đót là một. Chuyện đáng ngạc nhiên vì ngày xưa người ta chưa kể "số vào đâu" chuyện cây đót hay nguồn lợi về đót. Thế mà thời nay đót cũng là "cơm gạo áo tiền" cho người miền núi và dĩ nhiên  là ...nghèo
!

  Cây đót mọc nhiều ở đâu? có thể là dọc theo dãy Trường Sơn miền Trung vùng khí hậu nóng ẩm hơn miền Bắc. Miền núi Quảng Trị, từ những rú càn La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Ái Tử đi lên chúng ta đã thấy nhiều đồi đót mọc chen với lau lách. Ba năm 1975-1977 ở "Trại 4 Ái Tử", trại tù phía lưng Chùa Sắc Tứ ngó lên. Chúng tôi từng toán đi kiếm đót về, phơi khô thân đập ra và đan thành từng tấm phên vuông, lót nằm.

Sau này tôi lại có thêm kỷ niệm về đót do những năm tại Bình Điền, chúng tôi từng đi hái đót mang về cho Trại hay cho cái "nợ trần gian"đó là  "lao động cải tạo ".

                      PHƠI ĐÓT
   Ôi! những rừng đót Bình Điền, nhất là dưới chân 
ngọn núi từng mệnh danh là "Bastogne" Tây Nam Huế đến mùa nhiều vô số kể. Ngày nay gọi là "lộc của trời" hái ra tiền bạc cho dân mình , thì ngày xưa chỉ có giá trị đối vời đời tù vài khúc sắn nấu , chia cho phần trưa sau khi hoàn thành nhiệm vụ bẻ đót cùng "cân" đót . Hình ảnh nồi quân dụng canh sắn cắt mỏng, nêm ruốc Thuận An loại "quỷ tha ma bắt" vỏ giòi nổi lềnh bềnh, nhưng cũng còn "chất lượng" hơn món "canh đại dương" trong trại.Tôi xin bỏ qua chuyện này để tiếp về câu chuyện của đót và rừng Bình Điền Tây Nam Huế.
căn cứ Bastogne một thời Mùa Hè đỏ Lửa, có ngờ đâu sau 1975 lại là những trại "tù cải tạo'


Những toán tù được "giao khoán" cân lượng, chia lại cá nhân mỗi người bao nhiêu ký đót. Bạn đọc có thể thắc mắc tù thì đi hái đót làm gì? Hồi này cũng là "lộc của trời" nhưng lộc này thì cho Trại về bán cho Huế đó thôi. Những năm 1979 và 1980 có thể người dân Huế có dùng những cái chổi đót được hái từ rừng Bình Điền cũng nên.

Đi bẻ cây đót thật vui vì chúng tôi có dịp "dạo chơi", chen lẫn trong rừng đót, được những giây phút thảnh thơi với hoa lá không có ai canh giữ theo mình. Đỉnh Bastogne không còn xa xôi nữa; nó, trước mắt chúng tôi và chẳng còn cao vì chúng tôi đang ở cạnh nó. Cách bẻ đót khá dễ dàng. Khi hoa đót bắt đầu bung, màu còn hơi xanh, là thời gian tù đi "thu hoạch ". 

Không dùng liềm, cũng chẳng phải bẻ 'ngang xương'. Một tay nắm phần lá ngang cái đốt chúng ta muốn bẻ, tay kia cầm bông đót bẻ về phía ngược chiều, thì bông đót tự DỨT RA, không còn dùng dằng, mất thì giờ nữa. Đi hái đót buổi đầu, "năng suất" còn thấp, qua buổi thứ hai thì quen tay, chúng tôi tăng dần lượng đót. 

Cây lách rừng "ranh ma", mọc xen trong rừng đót. Phần mép lá của cây lách sắc "hơn dao cạo", bao nhiêu lần đứt tay máu chảy ròng ròng; "đưa miệng mút" cầm máu, rồi cũng xong. 

Mùa đót vào tháng nào chúng tôi chẳng nhớ?mà chẳng cần nhớ làm gì! Nhưng đót không thể "rủng rỉnh" đợi mà trại phải làm gấp chỉ ít tuần trong mùa "ĐÓT RỘ" thôi.  Huế lúc này làm sao mua hết đót trên rừng? Huế sau năm 1975, chỉ còn vài con phố "hiu quạnh". Chủ nhân lớp ở tù, lớp "mất hút" phương xa. Những bà mẹ Huế mãi ngồi "chờ con";đứa ở tù, hay có đứa 'đi mãi' không về, nên để tường ố nhện nhăng.  

Phố Huế đìu hiu-  u buồn khi khách vắng teo. Chẳng ai màng quét dọn, thì làm sao đót từ rừng về thành phố bán chạy? Vài dãy phố mua bán cầm chừng, tiền bạc hiếm hoi, chuyện "lộc trời" chắc gì khấm khá?


Xưa, tôi có khi tay cầm chổi đót. Tôi còn nhớ hình dạng cái chổi, qua tay nguòi dân quê hay người thợ nào đó bó cho mà dùng. Giờ, tôi đứng đây giữa rừng đót Bastogne ngày xưa "gầm vang' đại pháo, 155, 175 ly? tất cả đã trả lại im lìm muôn thưở cho núi rừng Truờng Sơn. Lòng cảm thấy vui vui, tôi như  như một khám phá "bất ngờ và lý thú" nào đó...
 
Cứ trưa trưa mỗi người mỗi vác đót thật lớn đứng xếp hàng "đếm số" vào lại cổng trại. Cái sân trại giờ đây phơi đầy những hàng đót , chờ khô có xe chở về Huế. Chuyện bán đót là chuyện của cán bộ, đời tù chỉ mong đến giờ nghe kẻng để đi nhận phần ăn là xong. Củ sắn, thìa muối sống buổi sáng , phần "
canh đại dương" kèm theo sắn hay khoai ...thời hái đót ,năm ngày mới được thuởng thức một chén cơm từ khẩu phần 100 gam gạo; gạo là "thuốc bổ" phụ cho thời khoai sắn thay cơm.   Đó là những năm tháng khó quên, những kỷ niệm "rưng rưng " với đót, với  Trường Sơn - Huế,  
với những rừng đót lung lay theo gió. 

Ngày đó từng bó đót được đổi miếng ăn cho tù, là kỷ niệm, là dỉ vãng. Tôi nhớ đót như nhớ (hay thuơng) những mãng rừng no nắng trên vùng biên giới, quê huơng.

 Ý niệm hận thù, ghét bỏ, đã qua đi như ngọn gió rừng lao xao lướt qua thảm rừng đầy tràn hoa đót . Giờ đây đót vẫn còn ; nhưng là tiền, là gạo,  cho bao lớp tuổi thơ VN, đời sống bấp bênh, nghèo đói so với tuổi thơ thành thị. 

 Qua bao năm, chắc hẳn giờ đây hoa đót vẫn đu đưa, "ru đời" qua đi sau từng cơn gió núi. Đót Trường Sơn vẫn vươn qua bao tàn phá của những bàn tay tham lam mở đất; đót còn nuôi em, nuôi mẹ vùng cao. Xã hội còn nghèo, hay tình nguòi cùng sự công bằng xã hội "còn nghèo"?  Trường Sơn vẫn oằn lưng chịu bao nhát chém của lòng tham ; đất Cao nguyên vẫn lở lói cho 'tiền muôn bạc tỷ' của những kẻ ngất ngưởng quyền uy ! Người dân núi vẫn nghèo, tuổi thơ vùng cao vẫn đói ! Bó đót qua thác vượt ghềnh, vẫn chống chọi với cái chết để đổi lấy miếng cơm! những chiếc cầu "công lý" vẫn chưa nối bờ cho đám dân rách rưới xác xơ ? 

   Thôi, biến cố nào cũng qua, sướng khổ nào cũng hết;  xin lắng tâm tư về kỷ niệm , mong sóng lặng gió qua bình yên như nước hồ thu. Trong muôn vàn ký ức của những thế hệ , những lớp người đi trước , bao nguòi Việt Nam dù bắc hay nam, dù người linh VNCH hay bộ đội 'cụ Hồ", chắc hẳn có nhiều người mang nặng dấu ấn Trường Sơn, trong đó có hình ảnh những rừng đót hoa nở trắng phau lung linh dưới ánh nắng rừng. Tôi không ngờ hôm nay những hình ảnh và câu chuyện về đót cũng được nằm trong vùng kỷ niệm .

a


hiện nay người dân Huế hay đồng bằng Quảng Trị đang ồ ạt lên rừng kiếm đất , tương lai những rừng đót "lộc trời" chắc cũng không còn

 DHL edition 
17/6/2016

Wednesday, October 1, 2014

MÀN MƯA BIÊN GIỚI

                                 Mưa rừng

   Mưa rừng rơi mãi không thôi ! Mưa biên giới vẫn một màu xám ngắt kết màn che khuất bao chốt bạn . Trong căn hầm ẩm thấp đợi thời gian qua - ngày lại ngày vô nghĩa. Tiếng 'tịch tè' của chiếc máy truyền tin, đợi tiếng nói giữa người và người để biết rằng ta không cô độc . Những chiếc poncho im lìm , những căn hầm chìm ẩn.

   Chiều mưa biên giới là đây - giờ không còn là bài hát mà là sự thật. Qua tiếng tí tách mưa roi trên vành nón sắt, ta vẫn lắng nghe những tiếng động của rừng sâu , cố căng mắt nhìn xuyên qua màn mưa sâu thẳm. Sấm sét vọng vang qua bao rặng núi, nơi đây vẫn còn bao người trai lòng đang sâu lắng nhớ nhung.

   Mưa, không còn những đám mây lãng đãng trôi về miệt biển , một khỏang đồng bằng nhỏ bé dưới xa để những người lính trẻ đứng ngắm một khoảng trời bao la, và sau hết là ngồi ngóng tin nhà... 

  chóp Động Ông DO 1972

   

 Những người trai  ra đi  đâu hẹn ngày về ! Những gì trong bản nhạc, còn lắm  tình cảm chứa chan, tiền tuyến hậu phương cho ai "Thương màu áo gởi ra sa trường". Hôm nay,  ta chỉ biết kéo lại poncho trong màn mưa,  im lìm đứng nơi tuyến đầu biên giới . Lính thầm mong mưa tan mau, núi rừng sẽ đẹp hơn khi lưng trời có nhiều "sắc mây pha hồng" như là những niềm tin cùng hi vọng.


NIỆM KHÚC CHO ÔNG LÃO ĐƯA ĐÒ BÊN DÒNG SÔNG THẠCH

    Thời gian phôi pha, bao lớp người QT ra đi bỏ lại đằng sau khung trời kỷ niệm, dải đất quê hương cày lên sỏi đá, những ngày đông giá lạnh sương mờ giăng phủ từng khúc sông quê.
Duy ông lão lái đò vẫn mãi một đời gắn bó bên dòng hiu quạnh; lão vẫn đợi từng người khách sang sông. Ngày xưa lão cũng từng tiễn bao bóng chinh nhân, những người đi không hẹn ngày trở lại. Tự tình nào trong tấm lòng thuần phác của một ông lão đưa đò bên dòng sông Thạch ?

  Và sau cảnh biển dâu xao xác cho từng mảnh đời người dân xứ Quảng, có ai về lại bến đò xưa chợt nghiệm ra rằng bóng lão đưa đò không còn nữa!

    Bên sông sóng nước đìu hiu. Chỉ vẳng đưa tiếng con chim bói cá-- phải chăng là hồn lão đưa đò bên bờ tre u tịch.
Một nửa đời người, ta nhìn lại khúc sông xưa nay đã cạn dần. Rồi mai đây cũng có ai đó như cụ Tú Xương nghe trong gió thoảng mơ hồ tiếng ai gọi đò, tiếng con chim bói cá bên bờ lau xưa cùng sông nước cô liêu. Tất cả đều là hư ảnh,đã thuộc về dĩ vãng xa xăm.

Wednesday, June 25, 2014

bài ký ức cho ngày FATHER'S DAY




Hôm nay tôi lục lại giấy tờ chợt đọc đến 1 trang nhật ký đã vàng ố .
Ngày đó đứa con trai đầu lòng của tôi đúng ngày đầy tháng nhưng tôi còn phải lang thang đi bán bánh ram trên con đường thiên lý . Lòng tôi chợt chùng xuống nhớ về kỷ niệm đói khổ năm nào ....


 MỘT TRANG NHẬT KY
.................
30 .11. 1983
    ....Ngày mốt , ngày đầy tháng con mình. Những cố gằng góp nhặt cho ngày đó có những gì gọi là được .

Cực quá em nhỉ ? Có ai trong ngày sinh đẻ lại quá nghèo . Tương lai chỉ là một màn đen, không đoán ra được một mảy may gì cho lẽ sống .
Một túp lều tranh cho chúng mình và con cũng đã trở thành ảo vọng và thực tế chỉ là ao ước mà thôi .

Mai mốt con trai mình lớn sẽ có ai kể lại trong thời gian này về ba nó "anh bán bánh rong "  trên những đoạn đường , mệt mỏi, cát và những hố nước những buồn vui khi đắt khi ế và những khi rong ruổi, MỘT MÌNH.

Con trai của ba , tên của nó là DUY TRUNG nó phải có một ý nghĩa gì đó . Nhỏ hay lớn ý nghĩa đó cũng phải gói ghém phần nào tâm sự của ba đó con . Những ưu tư của ba và mạ lớn lắm đó con ơi ! nghĩa là LÀM SAO NUÔI CON KHÔN LỚN ?

Thời buổi khó khăn tìm chưa ra một mạch sống khả dĩ cho một gia đinh tầm thường thế mà đã trở thành một ước vọng , một khát khao ...

                        








ANH Bán Bánh Rong 
=======================================  

   Vùng tôi ở dân trồng nhiều cây sắn (người Nam gọi là mỳ) từ thứ nông phẩm này hai vợ chồng mới nghĩ ra một nghề mới nghề chiên bánh ‘thèo-lèo’ đi bỏ mối. Thế là dọc con đường gió bụi của tỉnh lộ 23: Tân thắng, Bình châu, Bông trang, Bà-tô, nông trường Hòa bình rồi tôi vượt sông La-ngà qua tận Xuân Sơn, Bình giã , Ngãi giao, không một quán nào vắng bóng những chiếc túi ny-lon đựng bánh thèo-lèo chiên, xanh xanh, đo đỏ, tất cả đều do bàn tay khéo léo của vợ tôi làm ra cả.

   trai đầu bên mái tranh xưa (QUÍ HỢI 1983)
   Một chuyến tôi đạp xe đi bán mất ít nhất là hai ngày. Lên Xuân Sơn, tôi ở lại nhà cậu tôi. Cậu tôi (Võ đình Cư) sau khi về địa phương, làm nghề thợ rèn .Tuy Cậu  vất vã, nhưng đắt khách lắm. ! Núi rừng Xuân Sơn đang bị ‘bạch hóa’, người dân "chạy theo khoai sắn" đang cần nhiều cuốc rựa  Cậu tôi làm không hết việc.

   Tôi sung sướng nhất là những khi bán hết hàng. Bán hết hàng - chuyện này làm tôi quên hết "cái khổ nạn" của đoạn đường về nhà gần 70 cây số ! Con đường đất đỏ trên chặng Bà Tô, Hòa Bình hay dưới tôi thì lún cát. Gặp mùa gió chướng phải ráng mà đạp chiếc xe thô kệch nặng nề, phía sau còn đèo một ‘
cần xé ’ to tướng như một cánh buồm cản ngọn gió ngoài Trung thổi vô. Tôi mim môi, nghiến răng, gò lưng cố sức đạp. Chiếc xe trước ngọn gió 'quái ác' cứ chầm chậm nhích từng mét một. Gió mạnh đến nỗi có khi chiếc xe "thồ thân yêu " tưởng chừng. ..ĐỨNG yên một chỗ !
   Mỗi chuyến đi bán " thèo lèo" chiên về lại nha`, cái áo công nhân xanh tôi bạc phếch, chai cứng do lớp mồ hôi MUỐI ướt đẩm theo mấy mươi cây số đường trường, ngược gió...

 Hết cảnh khom lưng đạp chiếc xe thồ rong ruổi trên con đường thiên lý tôi lại vào núi chặt hạ cây rừng. Tôi từ sáng tinh mơ đã vác búa vô rừng làm bạn với khe, suối, nghe tiếng con công kêu sáng hay lũ bìm bịp báo hiệu chiều về. Có đôi khi tôi tưởng như mình là anh chàng ‘Thạch Sanh bất đắc chí’ hay là ‘anh hùng mạt vận vào rừng đốt than’.
 Khi một cây to ngã gục tôi khoan khoái tự thưởng cho mình một điếu thuốc ‘rê’ to tướng. Vừa phì-phà điếu thuốc vừa ngắm mây trời bảng lảng. xa xa tôi còn thấy đỉnh ngọn núi Bể. Chếch về hướng Phan Thiết là Đỉnh Nhọn , núi Trà Cú. Nhìn về hướng khác tôi thấy rõ vịnh Hàm Tân, đảo Hòn Bà giống con rùa lớn đang bơi. Biển Thái Bình ngoài xa tít, chân trời kia là "thế giới khác" chắc sung sướng, no đủ hơn nơi tôi ở nhiều !
 Tôi thở dài cầm lại cây rựa tiếp tục chặt cây, trong lòng tự nhủ phải gắng thêm chút nữa rồi mau về nhà vì vợ và con thơ đang đợi. 



Ham Tan  1984

 ===============================================================
2014

FATHER'S DAY HOM NAY 15/6/2014 
do ba xa va cac con toi tu lam cho ngay Father's Day hom nay









Tuesday, December 31, 2013

Nghi lễ tịch điền được tái hiện



Khi lễ tắt, lễ nhạc nổi lên, “vua nhập thế” cày ba sá, theo sau là đoàn người gieo hạt giống.

        Lễ tịch điền đầu xuân Kỷ Sửu ở Đọi Tam, Duy Tiên, Hà Nam hôm qua thu hút hàng chục nghìn người tới dự.
    Một dàn trống 60 chiếc mở màn lễ hội Tịch điền với những phần biểu diễn hoành tráng, nhịp nhàng và điêu luyện. Đọi Tam, cái nôi của nghề làm trống có lẽ là địa phương duy nhất có được đội trống nữ đông đảo và chuyên nghiệp này.

 

Trang trọng và giàu tính dân gian

     Lễ Tịch điền năm 2009 với ý tưởng phục dựng lại một nghi thức có từ hơn nghìn năm trước diễn ra sáng nay tại làng Đọi Tam, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Nghi lễ tịch điền diễn ra dưới sự chứng kiến của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan và nhiều quan chức các bộ, ban ngành từ trung ương về dự.

    Không có vua ban dụ, chỉnh đốn các nghi lễ nhưng không khí trang trọng được đảm bảo bằng màn rước linh vị vua từ chùa Long Đọi Sơn ra vị trí làm lễ Tịch điền. Hình ảnh ông vua đội mũ Cửu Long, mặc Hoàng bào được tái hiện lại qua hình ảnh “vua nhập thế” bởi một vị bô lão tuổi đúng bát thập nhập khí linh vương, khoác áo long bào. Khi lễ tắt, lễ nhạc nổi lên, “vua nhập thế” cày ba sá, theo sau là đoàn người gieo hạt giống.

Theo nghi lễ xưa, sau khi vua cày, vương tôn cày tiếp 7 sá, sĩ phu cày 9 sá. Nay, sau nghi thức vua cày, hai đại diện tỉnh Hà Nam là chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh xuống ruộng cày 7 sá. Những xới cày thẳng mà ngọt được tiếp nối bởi 10 vị lão nông, tượng trưng cho nghi thức của các sĩ phu xưa. Kế đó, 20 lão nông cùng tham gia đánh thức đất đai bằng những sá cày.

    Tâm sự sau khi lễ tịch điền kết thúc, người đóng vai vua - cụ Đinh Trọng Tế, 80 tuổi, thôn Đọi Nhất, xã Đọi Sơn - cho biết không hề gặp khó khăn trong việc điều chỉnh trâu để cho ra đời những đường cày thẳng tắp do kinh nghiệm nông tang trong suốt quãng thời gian dài trước đó.


Ông Đinh Trọng Tế, 80 tuổi, thôn Đọi Nhất, xã Đọi Sơn trong vai “vua nhập thế”.
Ảnh: L.Thoa.
                                                                                VUA     
      Trên hai thửa “kim ngân điền” (ruộng vàng, ruộng bạc) trước đây, sau hơn 1.000 năm, nghi thức khuyến nông của vua Lê Đại Hành lại được phục dựng. Một nghi lễ mà theo Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan “cần được duy trì vì dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, nông nghiệp và nông dân nông thôn cũng vẫn là đối tượng quan trọng đầu tiên”.

    Với khoảng 800 diễn viên quần chúng tham gia trình diễn trong nghi lễ chính: tịch điền. Chủ trương tổ chức một lễ hội cho nhân dân của ban tổ chức đã thu hút hàng chục nghìn người tham dự. Bên cạnh nghi thức lễ tịch điền, nhiều cuộc thi dân gian như đấu vật, đánh đu, vẽ trâu,v.v… được tổ chức. Các màn biểu diễn văn hóa nghệ thuật dân gian như hát ca trù, hát chèo với sự tham gia của nhiều đoàn nghệ thuật các địa phương lân cận cũng diễn ra trong lễ hội. Lễ hội tịch điền kết thúc bằng lễ cầu an vào tối mùng 7, tại chùa Long Đọi Sơn, nơi thờ linh vị vua Lê Đại Hành với ước muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.


   Theo Việt sử lược, lễ hội tịch điền lần đầu tiên được tổ chức tại nước ta vào năm Thiên Phúc thứ 7 (987) do vua Lê Đại Hành cử hành tại khu vực xã Đọi Sơn, nay là xã Đọi Tam, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Nghi lễ này tiếp tục được duy trì ở các đời vua sau. Cũng theo sử sách, đến đời Lý, lễ tịch điền được cử hành long trọng hơn với việc coi đây là nghi lễ tế thần nông cầu cho mùa màng tươi tốt. Trong cả hai triều đại nhà Lê và nhà Lý đều đích thân do vua tự cầm cày, cày ruộng.


    Nhưng đến đời Trần, vua không thân hành ra làm lễ mà chỉ sai quan lại đắp đàn xã tắc mà cúng tế. Tới thời Hậu Lê, năm Hồng Các đời vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định đều tổ chức lễ tịch điền nhưng có thay đổi ít nhiều về nghi thức.


Trich bao online
xaluan.com

BẢO VỆ VÙNG TRỜI

 CÁC THẾ HỆ PHI CƠ TIÊM KÍCH CÓ NHIỆM VỤ TỐT TRONG NGHÊNH CHIẾN PHI CƠ ĐỊCH Trong một cuộc phỏng vấn dành cho giới nghiên cứu chuyên môn về ...